Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 35
SĂN SÓC BỆNH NHÂN NGAY SAU PHẪU THUẬT GHÉP GAN 
Nguyễn Văn Chừng*, Trần Đỗ Anh Vũ**, Trần Thị Ngọc Phượng** 
Khi một bệnh nhân với nhiều bệnh kèm theo 
và rối loạn chức năng các cơ quan trải qua phẫu 
thuật ghép gan, đòi hỏi một sự kiểm soát săn sóc 
đặc biệt phù hợp để sự hồi phục mảnh ghép 
nhanh chóng và ngăn chặn những biến chứng 
toàn thân. 
Giai đoạn hậu phẫu sớm là khoảng thời gian 
quan trọng nhất khi sự theo dõi và duy trì chức 
năng tim phổi được thực hiện chặt chẽ, việc 
đánh giá thường xuyên tiến trình của mảnh 
ghép, phát hiện kịp thời những biến chứng 
không mong muốn và điều trị nhanh sự rối loạn 
chức năng của hệ thống cơ quan là bắt buộc. Săn 
sóc đặc biệt ở những bệnh nhân ghép gan chủ 
yếu là việc ổn định nhanh huyết động, điều 
chỉnh những rối loạn đông máu, ngưng thở máy 
sớm, bù dịch đúng, bảo vệ chức năng thận, 
chống thải ghép, và phòng ngừa nhiễm trùng. 
THEO DÕI VÀ ỔN ĐỊNH HUYẾT ĐỘNG 
HỌC HẬU PHẪU 
Ngoài việc trông cậy vào sự hồi phục của 
tế bào gan, duy trì chức năng mảnh ghép ở 
hậu phẫu cũng tùy thuộc vào sự tối ưu hóa 
huyết động. 
Sự giảm khối lượng tuần hoàn dưới lâm 
sàng, hay việc đổ đầy tim quá mức sẽ dẫn đến 
phù phổi và quá trình trao đổi khí trở nên xấu đi, 
có thể dẫn đến việc tưới máu mảnh ghép không 
đủ và làm tăng biến chứng ở hậu phẫu. Những 
bệnh nhân xơ gan có khuynh hướng giảm sức co 
bóp tâm thất trong đáp ứng với những stress về 
sinh lý hay những ảnh hưởng của thuốc. Thêm 
vào đó, toan chuyển hóa, hạ thân nhiệt, và rối 
loạn điện giải có thể làm giảm nhiều hơn chức 
năng tim và dẫn đến sự bất ổn về tuần hoàn. Rối 
loạn huyết động học cũng có thể do hậu quả của 
hội chứng tái tưới máu và/hoặc hạ calci máu từ 
việc truyền máu khối lượng lớn. Những nguyên 
nhân khác của việc tụt huyết áp hậu phẫu là do 
bệnh lý cơ tim giãn nở từ trước, bệnh mạch vành 
tiềm ẩn, và việc giảm thể tích tuần hoàn từ nhiều 
yếu tố, bao gồm chảy máu, mất vào khoang thứ 
ba và sự hình thành acistes liên tục. Việc điều 
chỉnh nhanh tình trạng giãn mạch hệ thống, có 
thể gây tăng hậu tải đột ngột cũng là một 
nguyên nhân khiến tim làm việc quá mức. Vì 
nguy cơ mất ổn định tuần hoàn và nhu cầu tối 
ưu hóa cung lượng tim và tưới máu cơ quan, nên 
phải theo dõi huyết động học chặt chẽ ngay từ 
đầu giai đoạn hậu phẫu. 
Thông tin về những chỉ số tiền tải và hậu tải 
của cả thất phải và trái, áp lực động mạch phổi, 
sức cản mạch máu phổi sẽ giúp kiểm soát những 
can thiệp, điều chỉnh thể tích, và cho thuốc vận 
mạch. Nên đặt một catheter động mạch phổi 
(PAC) giúp đánh giá phân suất tống máu của 
thất phải (RVEF%), và/ hay hệ thống PiCCO. Áp 
dụng hệ thống PiCCO cho phép đánh giá cung 
lượng tim liên tục, cùng với sự đánh giá chỉ số 
tiền tải (thể tích máu trong lồng ngực, ITBVI) và 
chỉ số “phù phổi” (nước ngoài mạch máu phổi, 
extravascular lung water- EVLWI). Sự thay đổi 
thể tích nhát bóp (SVV) và áp lực mạch (PPV) 
liên tục, được xem là thông số tốt nhất (thông số 
động học) trong dự đoán đáp ứng dịch ở những 
bệnh nhân được thông khí nhân tạo sau phẫu 
thuật. 
Tối ưu hóa huyết động học ngay sau ghép 
gan nhằm mục đích ngăn ngừa đổ đầy tim 
không đầy đủ, gây nên sự tưới máu mô không 
tốt và suy chức năng các cơ quan. Theo dõi liên 
tục những thông số động học của đáp ứng dịch 
và/ hay đánh giá khả năng đổ đầy cuối tâm 
trương của thất phải và phân suất tống máu của 
thất phải (RVEF%) rất hữu ích trong việc duy trì 
* Đại học Y Dược TPHCM ** Khoa phẫu thuật BV Bình Dân. 
Tác giả liên lạc: GS.Nguyễn Văn Chừng ĐT: 0906376049 Email: 
[email protected] 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 36
đầy đủ thể tích máu ở trung tâm. Tối ưu hóa 
cung lượng tim sẽ tránh được việc truyền dịch 
quá nhiều, do đó ngăn ngừa được sự sung huyết 
phổi và tăng áp lực không nhận biết ở tĩnh mạch 
gan và xoang. 
Ở những bệnh nhân được ghép gan tình 
trạng giãn mạch và rối loạn huyết động có thể 
kéo dài vài ngày hoặc vài tuần rồi mới về mức 
gần bình thường. Làm đầy vừa phải cùng việc 
sử dụng thuốc co mạch sẽ điều trị hiệu quả diễn 
tiến này trên lâm sàng. Nếu giảm khối lượng 
tuần hoàn cần được điều chỉnh, thì dung dịch 
keo chứng tỏ thành công là dung dịch albumin. 
Thất bại trong việc tăng sức cản mạch máu hệ 
thống hay giảm mức cung cấp thuốc vận mạch 
cho thấy chức năng mảnh ghép đang xấu dần. 
Dopamine hay dobutamine nói chung được sử 
dụng để tăng chức năng co bóp cơ tim trong khi 
sự co mạch có thể đạt được với noradrenalin hay 
terlipressin liều thấp. 
Kiểm soát sự truyền dịch và chất điện giải 
Sự giảm thể tích tuần hoàn và mất một lượng 
máu đáng kể thường đòi hỏi phải truyền một 
khối lượng lớn dịch và những sản phẩm máu để 
duy trì cung lượng tim và tưới máu các cơ quan. 
Tuy nhiên, truyền một khối lượng lớn máu và 
dịch thì khó tránh khỏi những biến chứng ở giai 
đoạn hậu phẫu.Nghiên cứu đã chứng minh trên 
một số lượng khá lớn những bệnh nhân được 
ghép gan, một trong những yếu tố dự đoán quan 
trọng nhập lại ICU là số lượng sản phẩm máu 
truyền trong mổ. Lượng dịch thay thế quá nhiều 
có thể gây nên quá tải, giữ muối - nước, hội 
chứng rò rỉ mao mạch vào khoang thứ ba, và có 
thể làm tình trạng sung huyết và phù mảnh 
ghép trầm trọng thêm bởi hội chứng thiếu máu- 
tái tưới máu. Một khi huyết động học ở hậu 
phẫu ổn định, cần phải cải thiện sự hồi lưu dịch 
từ tuần hoàn ngoại biên và khoang thứ ba về 
tuần hoàn trung tâm. Cân bằng dịch âm phù hợp 
trong ngày đầu sau phẫu thuật làm giảm rõ ràng 
tỷ lệ biến chứng sớm ở phổi và có thể cải thiện 
sự cung cấp oxy đến mảnh ghép. 
Việc truyền máu hậu phẫu giữa các trung 
tâm có thể khác nhau, nhưng việc thay thế các 
thành phần của máu để đạt được nồng độ 
hemoglobin trong khoảng 8 đến 10 g/L, được 
chấp nhận trong phẫu thuật ghép gan. Duy trì 
hematocrit ở hậu phẫu trong khoảng 25 - 30% sẽ 
giúp bảo đảm phân phối oxy đầy đủ đến mảnh 
ghép mới. Sự mất cân bằng điện giải ở hậu phẫu 
liên quan đến tình trạng dinh dưỡng trước khi 
ghép, những sự kiện trong lúc mổ, những thay 
đổi dịch, và citrate trong túi máu. Những rối 
loạn chung bao gồm tăng/giảm kali máu, giảm 
calci máu, giảm phosphate máu, giảm natri máu, 
tăng/ giảm glucose máu và giảm magne máu. Sự 
chuyển hóa glucose bình thường là một dấu hiệu 
của chức năng mảnh ghép tốt.Giảm glucose máu 
có thể là một dấu hiệu xấu của quá trình hồi 
phục gan. Trái lại tăng glucose máu thì rất 
thường gặp, nó là kết quả của thuốc steroids, 
calcineurin inhibitors, stress phẫu thuật, và bệnh 
đái tháo đường. 
THÔNG KHÍ HỖ TRỢ Ở HẬU PHẪU VÀ 
VIỆC CAI MÁY THỞ 
Việc sử dụng những thuốc gây mê và những 
thuốc dãn cơ có thời gian tác dụng ngắn trong 
nhiều trường hợp cho phép sự hồi phục sớm về 
ý thức và trương lực thần kinh cơ, điều này rất 
cần thiết để ngưng hỗ trợ thông khí sớm.Ở một 
số bệnh nhân việc rút nội khí quản có thể thực 
hiện ngay vào cuối quá trình phẫu thuật, trong 
khi những bệnh nhân khác thì cần phải ổn định 
ở ICU trước khi ngưng thông khí hỗ trợ để bảo 
đảm rằng chức năng gan tốt. Nhiều kết quả lâm 
sàng cho thấy rằng việc duy trì sự trao đổi khí 
đầy đủ là không đổi khi rút nội khí quản sớm 
hay rất sớm (ngay trong phòng mổ hay trong 
vòng 3h sau mổ). Tỷ lệ đặt lại nội khí quản 
không tăng khi so sánh với những bệnh nhân 
được rút nội khí quản trễ hơn. 
Mandell và cộng sự đã chứng minh việc rút 
nội khí quản sớm và chuyển sớm người nhận 
gan khỏi ICU không gây những tác động tiêu 
cực trên kết quả lâu dài. Bên cạnh việc tăng nguy 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 37
cơ viêm phổi do thở máy, kéo dài thời gian 
thông khí nhân tạo có thể làm xấu hơn tình trạng 
ứ huyết ở gan ghép. Thông khí làm tăng áp lực 
trong lồng ngực có thể dẫn đến sự giảm hồi lưu 
tĩnh mạch từ tĩnh mạch chủ dưới và tĩnh mạch 
gan. Tuy nhiên trong những trường hợp bệnh 
não nặng trước mổ, giảm oxy máu đáng kể, béo 
phì, rối loạn huyết động học đáng kể, suy gan 
ghép tiên phát và phù phổi thì việc rút nội khí 
quản ngay sau mổ là không thích hợp và không 
được khuyến khích. Suy hô hấp ở hậu phẫu do 
rút nội khí quản sớm có thể làm tổn hại đến sự 
phân phối oxy đến gan mới được ghép. 
Mặc dù đã thành công trên nhiều bệnh nhân, 
nhưng những tiêu chuẩn lựa chọn tối ưu và thời 
điểm cho việc rút nội khí quản sớm vẫn chưa 
được xác định tốt. Hơn nữa, có thể đây không 
phải là những kết quả chung từ những trung 
tâm, do sự khác nhau trong điều kiện lâm sàng 
trước mổ, kỹ năng phẫu thuật và nguồn nhân 
lực chăm sóc sau mổ. Khó khăn trong việc cai 
máy thở thường là do hậu quả của những biến 
chứng hô hấp ở hậu phẫu, truyền máu quá 
nhiều, tràn dịch màng phổi, viêm phổi và những 
tác dụng phụ của việc điều trị ức chế miễn dịch. 
Hội chứng suy hô hấp cấp (ARDS) là một 
trong những biến chứng quan trọng sau ghép 
gan.Những nguyên nhân chính của nó bao gồm 
hội chứng tái tưới máu nặng, mất máu nhiều, 
thời gian phẫu thuật kéo dài và nhiễm trùng sớm 
ở hậu phẫu.Cơ chế sinh lý bệnh học tổn thương 
phổi cấp (TRALI) liên quan đến truyền máu, một 
yếu tố nguyên nhân của ARDS, dường như liên 
quan đến kháng thể người cho phản ứng chống 
lại kháng nguyên bạch cầu (anti- HLA).Điều trị 
hổ trợ và thông khí nhân tạo bắt buộc trong 
những trường hợp suy hô hấp giúp kiểm soát, 
điều trị những biến chứng hô hấp, bao gồm cả 
ARDS. 
Những bệnh nhân được chỉ định thông khí 
không xâm lấn cho thấy có khuynh hướng ít bị 
viêm phổi do thở máy và giảm đáng kể tình 
trạng nhiễm trùng nặng hay shock nhiễm trùng. 
Nếu suy hô hấp ở hậu phẫu nặng đòi hỏi phải 
thở máy kéo dài, nên dùng chiến lược thông khí 
giảm thiểu sự tổn thương phổi và mảnh ghép. 
Nên cài đặt áp lực đường thở và chế độ 
PEEP thấp để cải thiện sự cung cấp oxy đồng 
thời không tổn hại đến lưu lượng gan. Ở người 
nhận gan bị ảnh hưởng bởi hội chứng suy hô 
hấp cấp nặng, thể tích khi lưu thông thấp 
(6ml/kg của cân nặng cơ thể lý tưởng), tần số hô 
hấp tương đối cao và cài đặt PEEP rất thuận lợi 
cho việc giữ phổi nở, tránh xẹp phổi và ngăn 
chặn stress lên những đơn vị phổi. Thông khí 
nhân tạo với chế độ PEEP cao đã được báo cáo là 
làm tổn hại lưu lượng gan. Nếu cài đặt PEEP quá 
cao (>10cm/H2O) có thể làm giảm sự tưới máu 
nội tạng và gan do tăng sự ứ đọng tĩnh mạch 
trong hệ thống cửa - chủ và giảm cung lượng 
tim. Thở tần số cao và tư thế nằm sấp được áp 
dụng với một vài kết quả tích cực nhưng vẫn 
chưa được nghiên cứu rộng rãi. 
ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG MẢNH GHÉP 
Sự hồi phục gan ghép tùy thuộc chủ yếu vào 
những điều kiện lâm sàng trước ghép, chất 
lượng của gan cho, tình trạng ổn định huyết 
động học trong mổ, lưu lượng máu đến các cơ 
quan đủ và ngăn ngừa sự ứ đọng tĩnh mạch 
trong mảnh ghép. Những yếu tố liên quan đến 
người cho (như gan nhiễm mỡ), dùng thuốc co 
mạch, thay đổi về huyết động học, các khía cạnh 
liên quan đến phẫu thuật với những biến chứng 
về đường mật và mạch máu có thể dẫn đến 
nhiều thay đổi của gan ghép.Theo dõi liên tục 
chức năng mảnh ghép ở hậu phẫu để nhận biết 
những thay đổi tinh tế, phát hiện sớm sự rối loạn 
chức năng mảnh ghép, cần phải kiểm soát 
nghiêm ngặt nhằm mục đích ngăn chặn sự thải 
ghép. Thật không may, sự theo dõi liên tục chức 
năng gan tại giường là không thể. Những xét 
nghiệm bao gồm men gan và bilirubin, theo dõi 
sự tổng hợp protein, chủ yếu là albumin và 
những yếu tố đông máu. Lượng transaminase 
của gan có thể tăng một cách đáng kể ở giai đoạn 
hậu phẫu nhưng sẽ giảm từ từ sau vài ngày. 
Mức men gan (ALT) cao có thể phản ánh sự hoại 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 38
tử tế bào gan rộng, hay gây ứ mật (như alkaline 
phosphatase, hay - glutamyl transferase). Sự 
tổng hợp protein gan dễ dàng được đánh giá 
bằng việc theo dõi yếu tố V (thời gian bán hủy là 
4h) và VII (thời gian bán hủy là 5h). 
PHÒNG NGỪA NHIỄM TRÙNG 
Nhiễm trùng vẫn còn là một vấn đề lớn sau 
ghép gan, vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử 
vong. Thời gian nằm viện kéo dài trước khi ghép 
và tình trạng tổn hại hệ miễn dịch dẫn đến 
người nhận lệ thuộc với sự đề kháng vi sinh vật. 
Do sự ức chế miễn dịch quá mạnh, nên giai đoạn 
hậu phẫu sớm tăng nguy cơ nhiễm trùng. 
Nguồn gây nhiễm có thể là: cơ quan của người 
cho và sản phẩm máu truyền; nhiễm trùng trước 
đây; nguồn nhiễm mới. 
Vết mổ nhiễm trùng, viêm phổi, viêm phúc 
mạc, viêm đường mật, nhiễm trùng đường niệu 
và những nhiễm trùng liên quan đến ống dẫn 
lưu, viêm đại tràng do vi khuẩn Clostridium 
difficile, và áp-xe gan thì tương tự như nhiễm 
trùng bệnh viện mắc phải được quan sát thấy ở 
những bệnh nhân phẫu thuật khác(4). 
Viêm phổi sau ghép gan thường là do trực 
khuẩn gram âm, chủng loại Enterobacter, Serratia 
marcescens và Staphylococcus aureus nhạy cảm hay 
đối kháng với methicillin. Enterococci là những 
tác nhân gây bệnh thường gặp, và những nhiễm 
trùng do Enterococci đề kháng với vancomycin 
(VRE) đã trở thành một biến chứng rắc rối. 
Những yếu tố nguy cơ nhiễm trùng huyết do 
VRE bao gồm nối mật ruột RouxenY, chít hẹp 
đường mật, thời gian nằm ICU kéo dài, và 
nhiễm trùng CMV. Điều trị nhiễm trùng nói 
chung liên quan đến đặc tính của tác nhân gây 
nhiễm (như sự nuôi cấy và sự nhạy cảm với 
kháng sinh), nguồn lây nhiễm, và chế độ sử 
dụng kháng sinh dựa trên phác đồ điều trị 
kháng sinh của bệnh viện. Thuốc ức chế miễn 
dịch nên được giảm hay ngưng tạm thời. Kháng 
sinh dự phòng ở hậu phẫu đầu tiên cho vi khuẩn 
gram âm (Pseudomonas sp, Enterobacter sp. và 
Klebsiella sp) và vi khuẩn gram dương 
(Staphylococcus aureus). Nhiễm trùng do virus 
làm tăng bệnh suất và tử vong sau ghép gan. Sự 
tái hoạt của virus herpes 1 ở người (herpes 
simplex virus) là bệnh nhiễm virus phổ biến và 
đòi hỏi một chu kỳ điều trị với acyclovir (5-
10mg/kg mỗi 8 giờ) từ 10 - 14 ngày. Tình trạng 
CMV (dương tính hay âm tính) của người cho 
phải được ghi vào trong biểu đồ của người nhận, 
và những kháng thể CMV của người nhận phải 
được kiểm tra để xác định nhu cầu dự 
phòng.Bệnh nhân bị nhiễm CMV hệ thống được 
điều trị với ganciclovir. Thuốc này tác dụng hiệu 
quả nhất khi bắt đầu sớm của quá trình nhiễm 
CMV, và có thể hữu ích trong điều trị viêm ruột, 
viêm phổi, viêm gan do CMV. 
Nhiễm trùng do nấm thường phát sinh như 
hậu quả của việc suy giảm khả năng phòng vệ 
của ký chủ và sự phơi nhiễm với môi trường. 
Nguy cơ nhiễm nấm tăng cao khi thải ghép cấp 
được điều trị với liều cao corticosteroids hay 
những tác nhân kháng lympho bào. Những yếu 
tố dẫn đến sự nhiễm nấm bao gồm: rối loạn chức 
năng thận trước mổ, xơ gan giai đoạn cuối nặng, 
tái ghép, truyền máu khối lượng lớn trong mổ, 
thời gian nằm ICU kéo dài, nhiễm Human 
Herpes Virus-6, và đặt nội khí quản lại. Cả hai 
chủng Aspergillus và Candida đều có thể tìm thấy 
sau ghép gan. Nguyên tắc chung, nếu chủng 
Candida phát triển từ hai vị trí trở lên, ngay cả 
khi nếu nó không phát xuất từ máu (ví dụ: nước 
tiểu, vết thương), thì vẫn nên kiểm soát như một 
tình trạng nhiễm trùng toàn thân. Sự hiện diện 
của chủng Candida trong dịch màng bụng gợi ý 
một sự dò mật hay thủng ruột. 
Những bệnh nhiễm trùng nặng biến chứng 
của quá trình sau ghép gây ra sự hồi phục mảnh 
ghép kém, kéo dài thời gian nằm tại ICU, và là 
mối nguy cơ cao của suy đa cơ quan.Shock 
nhiễm trùng sớm sau ghép gan khó kiểm soát 
khi gần như nó không đáp ứng với điều trị. Điều 
trị hỗ trợ, như chích tĩnh mạch globulin miễn 
dịch (Pentaglobin) giàu IgM, đã được khuyên 
kết hợp với điều trị toàn diện nhằm cố gắng duy 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 39
trì những cơ quan suy yếu trong những trường 
hợp nhiễm trùng nặng. 
Việc sử dụng protein C hoạt hóa tái tổ hợp, 
một thuốc kháng viêm và kháng huyết khối, 
cũng được đề nghị để kiểm soát sự nhiễm trùng 
đe dọa tính mạng ở những bệnh nhân ghép gan. 
Đo procalcitonin có thể thêm một vài thông 
tin lâm sàng hữu ích trong nhiễm trùng tiềm ẩn. 
Zazula và cộng sự đã chứng minh rằng mức 
procalcitonin tăng thoáng qua trong vòng 24 giờ 
sau ghép gan và sau đó giảm nhanh nếu không 
có nhiễm trùng do vi khuẩn. Tuy nhiên, việc đo 
procalcitonin có thể dẫn đến những giải thích 
mâu thuẩn trong một số trường hợp như một số 
thuốc ức chế miễn dịch hay hỗ trợ có thể kích 
thích một cách đáng kể sự tổng hợp chất đánh 
dấu sinh học này. 
ĐIỀU TRỊ DINH DƯỠNG SAU GHÉP GAN 
Bệnh nhân mắc bệnh gan giai đoạn cuối 
thường có những bất thường về chuyển hóa 
carbohydrate, lipid và protein. Nồng độ của 
các amino acid nhân thơm (AAA: 
phenylalanine, tyrosine, tryptophan) cũng 
như methionine tăng, trong khi các amino acid 
chuỗi phân nhánh (BCAA: valine, leucine, 
isoleucine) giảm. Suy dinh dưỡng trước mổ 
kết hợp với sự tăng nguy cơ nhiễm trùng sau 
mổ, những biến chứng về hô hấp và thời gian 
nằm ICU kéo dài. Những yếu tố stress từ phẫu 
thuật, sự phóng thích những hormones dị hóa 
và sử dụng corticosteroid, làm tăng nhu cầu 
cung cấp dinh dưỡng sau ghép gan. 
Nhu cầu năng lượng chỉ tăng trung bình 
trong giai đoạn đầu của ghép gan không biến 
chứng. Vì lý do này, một số tác giả khuyên rằng 
lượng calo cho vào, được tính toán bằng cách 
dùng công thức cung cấp bởi phương trình của 
Harris - Benedict, nên cung cấp xấp xỉ 120%-
130% năng lượng cơ bản (BEE). Khi mất nitrogen 
tăng là hậu quả của sự tăng dị hóa protein, 
những bệnh nhân ghép gan trong thời kỳ ngay 
sau ghép nên nhận được 1,5 đến 2g protein/kg 
trọng lượng khô. 
Nguy cơ dai dẳng của bệnh não ở hậu phẫu 
không đòi hỏi giảm protein trong chế độ ăn, chỉ 
thay đổi thành phần của amino acid ưu tiên cho 
công thức giàu BCAA. Nuôi ăn qua ống thông 
dạ dày ở giai đoạn hậu phẫu sớm được ưa thích 
hơn dinh dưỡng đường tĩnh mạch, trừ khi bệnh 
nhân mất chức năng đường ruột-dạ dày hay đòi 
hỏi để ruột nghỉ ngơi hoàn toàn. Mặc dù tắc dạ 
dày và tắc ruột có thể xảy ra sau khi ghép, nhưng 
việc dinh dưỡng sớm bằng đường tiêu hóa 
thường dung nạp tốt. Thêm vào đó, kết quả cho 
thấy việc giảm tỷ lệ nhiễm trùng ở nhóm cho ăn 
bằng ống ít hơn nhóm chứng. 
Bệnh nhân nên được khuyến khích bắt đầu 
chế độ ăn bằng miệng ngay khi có thể mặc dù 
việc nuôi ăn bằng ống vẫn liên tục cho đến khi 
bệnh nhân có thể duy trì đủ nhu cầu dinh dưỡng 
của họ bằng đường miệng (ít nhất 80% nhu cầu 
dinh dưỡng bình thường). Sự rối loạn điện giải 
trong giai đoạn ngay sau ghép phải được theo 
dõi sát và điều chỉnh phù hợp. 
NHỮNG BIẾN CHỨNG SỚM SAU MỔ 
Mặc dù có những tiến bộ đáng kể trong phẫu 
thuật, nội khoa, nhưng ghép gan vẫn là một 
phẫu thuật phức tạp đi kèm với tỉ lệ tử vong 
đáng kể. Những biến chứng thường gặp trên cả 
mảnh ghép và các cơ quan xuất hiện do nhiều 
yếu tố và đôi khi không thể tránh được. 
Suy chức năng nguyên phát (Primary graft 
failure) 
Suy chức năng nguyên phát được đặc 
trưng bởi gan ghép mới không đủ khả năng 
trong việc duy trì cân bằng nội mô, chuyển 
hóa, và nguy cơ tử vong cao nếu không tái 
ghép khẩn cấp. Tỷ lệ suy chức năng nguyên 
phát trong khoảng 2-14%. Bên cạnh một loạt 
những tình trạng đưa đến như người cho lớn 
tuổi, huyết động không ổn định, thời gian 
thiếu máu kéo dài, tổn thương tái tưới máu 
nặng, các nguyên nhân chính xác chưa xác 
định được. Người bệnh biểu hiện các triệu 
chứng rối loạn chức năng gan ghép nặng bao 
gồm thay đổi tri giác đáng kể, hôn mê, rối loạn 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 40
đông máu nghiêm trọng, thiểu niệu, vàng da 
và hạ đường huyết. Men gan thường lớn hơn 
5000 U/L, yếu tố V < 10% và thời gian 
prothrombin < 20%. 
Điều trị bao gồm tránh cho Kali, truyền 
huyết tương tươi đông lạnh mỗi 4 - 6 giờ hoặc 
khi cần, và giữ pH dạ dày > 5. Truyền dung dịch 
đường 10% liên tục có thể cần thiết để kiểm soát 
hạ đường huyết. Các liệu pháp hỗ trợ dùng 
prostaglandin E1, Nacetylcysteine, 
plasmapheresis, và các dụng cụ hỗ trợ gan đã 
được mô tả, nhưng chưa xác định kết quả tích 
cực trên qui mô lớn. Nếu chức năng gan ghép 
không hồi phục trong vòng 24 - 36 giờ, việc tái 
ghép phải được xem xét để tránh tiến triển của 
suy đa cơ quan, trong đó tỷ lệ tử vong liên quan 
với tái ghép là rất cao. 
Hội chứng kích thước nhỏ (Small-for-size 
syndrome) 
Hội chứng kích thước nhỏ thường được mô 
tả ở những bệnh nhân nhận một phần gan từ 
người hiến sống. Biểu hiện lâm sàng bao gồm 
chức năng tổng hợp bị trì hoãn, sản xuất mật 
kém, tắc mật, và nhạy cảm với những biến 
chứng khác bao gồm nhiễm trùng. Người ta tin 
rằng tăng áp cửa và sung huyết ở mảnh ghép 
nhỏ là nguyên nhân của hội chứng này. Điều trị 
hỗ trợ và tránh các biến chứng nhiễm trùng là rất 
quan trọng cho sự hồi phục mảnh ghép và sống 
còn của bệnh nhân. 
Thuyên tắc mạch máu 
Huyết khối động mạch gan (HAT) là biến 
chứng đe dọa mạng sống, ít phổ biến ở người 
lớn nhưng khá thường gặp ở trẻ em (1,5 đến 
25%), khi mảnh ghép có sự khác nhau về kích 
thước giữa động mạch người cho và mạch máu 
tại chỗ. Các nguyên nhân của HAT bao gồm lưu 
lượng động mạch kém, tăng kháng lực xoang 
mạch, hẹp chổ nối và tăng đông. HAT ở giai 
đoạn sớm dẫn tới thiếu máu-hoại tử mảnh ghép, 
tình trạng xấu đi đột ngột của huyết động, rối 
loạn đông máu nặng, và tăng đáng kể men gan. 
Siêu âm doppler là phương pháp đánh giá tình 
trạng thông động mạch gan và chụp động mạch 
được chỉ định khi mạch máu không thể nhìn rõ. 
Lấy huyết khối động mạch có thể được thực hiện 
bằng X quang can thiệp hoặc bằng phẫu thuật. 
Khi tái lưu thông mạch máu thất bại, tái ghép 
khẩn cấp là bắt buộc. 
Huyết khối tĩnh mạch cửa ít gặp hơn và chủ 
yếu xảy ra như là hậu quả của thuyên tắc tĩnh 
mạch cửa trước ghép hoặc các vấn đề về kỹ 
thuật ghép. Biểu hiện lâm sàng bao gồm báng 
bụng dai dẳng, tắc ruột và chảy máu. Siêu âm 
doppler, chụp mạch máu thông thường hoặc 
chụp mạch máu cộng hưởng từ giúp chẩn đoán. 
Lấy huyết khối bằng phẫu thuật hoặc X quang 
can thiệp là cần thiết để cứu mảnh ghép và tránh 
các biến chứng đe dọa mạng sống. Heparin hay 
warfarin phòng ngừa được chỉ định cho trẻ em 
có nguy cơ cao thuyên tắc. 
Các biến chứng về mật 
Những biến chứng về mật được mô tả như là 
“gót chân Achilles” của ghép gan. Dò mật là kết 
quả thường thấy của hoại tử tại chỗ nối phẫu 
thuật, lỗi kỹ thuật hoặc thiếu máu đường mật. 
Chúng rất thường gặp ở ghép gan từ người cho 
sống. Thiếu mật chảy ra qua dẫn lưu, tăng men 
gan và tăng bạch cầu là những biểu hiện của 
biến chứng về mật. Siêu âm và/hoặc CT-scan 
bụng có thể giúp chẩn đoán. Dò mật có thể tự 
khỏi hoặc có thể đòi hỏi điều trị. Cách điều trị 
bao gồm chụp tụy ngược dòng nội soi đặt stent 
đường mật, hoặc chụp đường mật xuyên gan 
qua da với dẫn lưu ngoài, hoặc cần phải phẫu 
thuật để sữa chữa. 
Tắc nghẽn mật có thể do thiếu máu, vấn đề 
về kỹ thuật, và kích thước ống nhỏ từ ghép một 
phần. Hẹp đường mật thường được điều trị 
bằng nội soi hoặc bơm bóng nong qua da, đặt 
stent hoặc phẫu thuật thăm dò lại. 
Sự thải ghép 
Thải ghép tối cấp (thải ghép mạch) xảy ra 
trong vòng vài phút đến vài giờ sau ghép. Sự thải 
ghép tối cấp rất hiếm trong ghép gan và được 
xác định bởi các kháng thể hình thành trước. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 41
Thải ghép cấp (thải ghép tế bào) thường xảy 
ra vào ngày 7-14 sau mổ nhưng có thể xuất hiện 
sớm hơn hoặc muộn hơn nhiều, chiếm khoảng 
70% các trường hợp ghép gan. Thải ghép cấp 
thường qua trung gian tế bào T và tổn thương 
đường mật và nội mô mạch máu của gan. Thải 
ghép kết hợp với suy chức năng mảnh ghép ảnh 
hưởng xấu lên sống còn của gan ghép. Triệu 
chứng lâm sàng của thải ghép cấp thường không 
điển hình gồm sốt, vàng da, đau bụng, và khám 
có thể thấy gan lách to. Bilirubin và 
transaminases luôn tăng và mật từ ống T có thể 
trở nên loãng và sáng màu hơn. Chẩn đoán được 
thực hiện qua sinh thiết gan. Điều trị tùy thuộc 
vào độ nặng của thải ghép. Thải ghép nhẹ có thể 
đáp ứng với tăng liều ức chế miễn dịch cơ bản, 
corticosteroids tĩnh mạch, sử dụng 
mycophenolate và/hoặc đổi tacrolimus nếu bệnh 
nhân đang dùng cyclosporine. Thải ghép nặng 
hơn nữa đòi hỏi bolus steroid lặp lại và/hoặc 
antilymphocyte globulin. Hiếm khi thải ghép 
cấp đòi hỏi ghép lại. 
Chảy máu sau phẫu thuật và rối loạn đông 
máu 
Chức năng gan ghép kém, cầm máu không 
tốt, cường lách, hạ calci máu và pha loãng máu 
có thể dẫn đến chảy máu cần truyền máu hoặc 
phẫu thuật lại. Chảy máu trong ổ bụng và vết 
mổ trong những giờ đầu tiên sau phẫu thuật 
cũng có thể là kết quả của phóng thích heparin 
từ cơ quan ghép cùng với tăng tiêu sợi huyết. 
Nguy cơ chảy máu tăng lên do giảm tiểu cầu, 
chủ yếu là do tiêu thụ tiểu cầu và sau tái tưới 
máu ghép, sự sản xuất kháng thể 
immunoglobulin M và immunoglobulin A kết 
hợp tiểu cầu. Các nguyên nhân gây giảm tiểu 
cầu khác bao gồm nhiễm virus, và điều trị bằng 
thuốc kháng virus. Giảm tiểu cầu thường ổn 
trong vòng hai tuần, nhưng trong một số trường 
hợp nó kéo dài lâu hơn do lách to dai dẳng. 
Theo dõi “đàn hồi đồ cục máu” 
(thromboelastography: TEG) trở nên cần thiết 
trong các trường hợp chảy máu đáng kể và dai 
dẳng. TEG có thể hữu ích trong việc phân biệt 
giữa chảy máu thứ phát do cầm máu trong phẫu 
thuật không đầy đủ, rối loạn chức năng tiểu cầu 
và bất thường trong yếu tố đông máu. 
Thay thế của các sản phẩm máu thường là 
đủ để bù cho chảy máu sau phẫu thuật mức độ 
trung bình. 
Sử dụng yếu tố tái tổ hợp VIIa (rF VIIa), 
không dẫn đến đông máu toàn thân hoặc hủy 
fibrin, đã được chứng minh cải thiện hiện tượng 
đông máu và giảm nhu cầu truyền máu trong 
ghép gan. Hiệu quả và an toàn của rF VIIa trong 
cứu nguy khi chảy máu nghiêm trọng quanh 
phẫu thuật đã được báo cáo. Bệnh nhân được 
cho rF VIIa không làm tăng huyết khối tắc mạch 
so với nhóm đối chứng. 
Trong việc kiểm soát chảy máu sau phẫu 
thuật nguy cơ chảy máu phải được cân bằng với 
nguy cơ huyết khối động mạch gan hoặc tĩnh 
mạch cửa. Vì lý do này, truyền quá nhiều huyết 
tương tươi đông lạnh hoặc tiểu cầu nên tránh. 
Tiểu cầu có thể góp phần biến chứng huyết 
khối trong ngày đầu tiên sau khi ghép gan. Theo 
một số tác giả tiểu cầu truyền chỉ nên được thực 
hiện trong các trường hợp chảy máu kéo dài 
hoặc khi số lượng tiểu cầu < 20 × 109 / L. Ngược 
lại, các tác giả khác áp dụng một cách tiếp cận 
"tích cực" trong điều trị rối loạn đông máu sau 
phẫu thuật, và đề nghị duy trì INR giữa 1,5 và 2, 
số lượng tiểu cầu > 50 × 109 / L và fibrinogen > 
100 mg / dL. 
Biến chứng thần kinh 
Đánh giá cẩn thận về tình trạng tâm thần của 
bệnh nhân phải được thực hiện liên tục trong 
ICU, cũng như biến chứng thần kinh rất phổ 
biến sau khi ghép gan. Nghiên cứu loạt ca lâm 
sàng đã ghi nhận rối loạn thần kinh từ 8,3% đến 
47% của tất cả các bệnh nhân được ghép gan. 
Các biến chứng thường gặp nhất là bệnh não, 
xuất huyết não, và động kinh. Bệnh nhân có 
triệu chứng thần kinh trước khi cấy ghép có 
nguy cơ lớn hơn cho các rối loạn thần kinh sau 
phẫu thuật. Chức năng gan ghép kém có thể dẫn 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 42
đến sự tái phát của bệnh não. Nguyên nhân của 
bệnh não thường rất khó để xác định có thể liên 
quan nhiều yếu tố như xuất huyết dưới nhện, 
viêm màng não, nhồi máu, hoại tử tủy sống và 
nhiễm cytomegalovirus(1). 
Động kinh là biến chứng thần kinh phổ biến 
thứ hai ghi nhận ở những bệnh nhân được ghép 
gan. Động kinh có thể là một hậu quả của nhiều 
yếu tố bao gồm đột quỵ, rối loạn chuyển hóa , rối 
loạn điện giải, ngộ độc thuốc, tiền sử động kinh, 
nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương. 
Nhiễm trùng liên quan đến hệ thần kinh 
chiếm khoảng 10% của các rối loạn thần kinh sau 
mổ. Nhiễm trùng hoặc có thể xảy ra trong bối 
cảnh xuất huyết não hoặc hậu quả theo sau của 
biến chứng thần kinh. Streptococcus pneumoniae, 
Hemophilus influenzae , Candida và Aspergillus là 
những tác nhân gây bệnh thường liên quan đến 
các bệnh nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương. 
Thiếu oxi do thiếu máu xảy ra sớm trong quá 
trình hậu phẫu và thường do thay đổi thoáng 
qua của hạ huyết áp. Xuất huyết và nhồi máu có 
thể xảy ra trong vòng 1 tuần hoặc lên đến 1 
tháng sau khi ghép, và đôi khi được kết hợp với 
nhiễm khuẩn huyết và / hoặc nhiễm nấm. Thùy 
trán và thùy đỉnh của hệ thống thần kinh trung 
ương bị ảnh hưởng bởi xuất huyết. 
Rối loạn tâm thần là một biến chứng đáng sợ 
của bệnh nhân ghép gan. Nguyên nhân do nhiều 
yếu tố, nhưng thường là hậu quả của nằm ICU 
kéo dài, sử dụng steroid hoặc thuốc ức chế miễn 
dịch khác. 
Biểu hiện thần kinh liên quan thuốc ức chế 
miễn dịch có thể phát triển sau steroid liều cao 
và calcineurin inhibitors, làm giảm ngưỡng động 
kinh. Rối loạn thần kinh gây ra bởi điều trị ức 
chế miễn dịch bao gồm đau đầu, lẫn lộn / rối 
loạn tâm thần, loạn vận ngôn (speech apraxia), 
rung giật cơ, ảo thị, run, mê sảng, mù vỏ não, và 
hôn mê. 
Bệnh chất trắng não sau (posterior 
leukoencephalopathy) nghiêm trọng, hiếm và 
thường hồi phục, đặc trưng bởi mất myelin thùy 
chẩm và thùy đỉnh ngoài cầu não, có thể do 
thuốc calcineurin inhibitors(2). 
Sự tiêu hủy myelin cầu não trung tâm là một 
trong những biến chứng thần kinh nghiêm trọng 
nhất khi ghép gan, với tỷ lệ sau khi ghép khoảng 
1-3,5%. Nó đặc trưng bởi sự mất đối xứng của 
myelin ở nền cầu não, đôi lúc do điều chỉnh 
nhanh chóng của hạ natri máu kéo dài. 
Các điều kiện làm tăng nguy cơ rối loạn thần 
kinh sau phẫu thuật cũng bao gồm thay đổi 
hàng rào máu não từ trước, thay đổi chuyển hóa 
(ví dụ như tăng đường huyết và hạ cholesterol 
máu), rối loạn điện giải, thẩm thấu (hội chứng 
tăng áp lực thẩm thấu). 
Suy thận 
Tỷ lệ thực sự của suy thận sau khi ghép gan 
không rõ, do sự khác biệt trong các tiêu chí và 
phương pháp áp dụng để đánh giá chức năng 
thận; nó đã được báo cáo thay đổi từ 5-50% 
người nhận gan ghép cần điều trị thay thế thận. 
Tình trạng lâm sàng nghiêm trọng trước khi 
ghép, rối loạn huyết động học trong khi mổ, 
truyền máu khối lượng lớn, nhiễm trùng, phẫu 
thuật lại thường liên quan đến phát triển của 
suy thận cấp. 
Rối loạn chức năng thận sau phẫu thuật cũng 
có thể xảy ra trong trường hợp của hội chứng 
gan thận trước ghép, rối loạn chức năng ghép, sử 
dụng lâu dài thuốc vận mạch, và tổn thương 
thận do thuốc (cyclosporine, tacrolimus, 
amphotericin, aminoglycoside)(3). 
Theo dõi chính xác lượng nhập và xuất, 
tránh các loại thuốc độc là rất quan trọng trong 
giai đoạn sớm sau mổ. Thiểu niệu có thể là dấu 
hiệu cảnh báo sớm của rối loạn chức năng thận. 
Hầu hết tổn thương thận ở mức độ nhẹ. Ngược 
lại, rối loạn chức năng thận nặng cần được lọc 
máu có thể ảnh hưởng đến kết quả ghép ngay 
lập tức. Đánh giá liên tục tình trạng thể tích có 
thể ngăn chặn tình trạng thiếu dịch quá mức, co 
mạch thận và giảm tưới máu ống thận, và dùng 
số lượng lớn thuốc vận mạch. Các thuốc bảo vệ 
thận như dopamine , thuốc chẹn kênh canxi hoặc 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 43
prostaglandin không chứng minh được là có giá 
trị trong việc ngăn ngừa và điều trị suy thận sau 
phẫu thuật. 
Giảm liều thuốc ức chế calcineurin hoặc sử 
dụng trì hoãn đã được chứng tỏ là có ích trong 
việc bảo vệ thận lâu dài. Thuốc ức chế miễn dịch 
khác như sirolimus và everolimus, và / hoặc 
mycofenolate mofetil cần được xem xét ở những 
bệnh nhân nguy cơ, để thay thế hoặc hạn chế tối 
đa sử dụng thuốc ức chế calcineurin(5). 
Kháng nấm Amphotericin B không thể 
không có những hậu quả thận và các thuốc như 
voriconazole hoặc echinocandins nên được ưa 
chuộng hơn khi có chỉ định. 
Fenoldopam điều trị dự phòng đã được ghi 
nhận giảm nguy cơ suy thận cấp do cân bằng tác 
động gây co mạch của cyclosporin và duy trì 
giãn mạch thận quanh phẫu thuật. 
Khi rối loạn chức năng thận đủ nghiêm 
trọng để gây rối loạn chuyển hóa hoặc điện giải, 
lọc máu, hoặc tốt hơn là liệu pháp thay thế thận 
liên tục (CRRT) bắt buộc cho đến khi phục hồi 
chức năng thận tự nhiên. So với chạy thận, liệu 
pháp thay thế liên tục an toàn hơn trên bệnh 
nhân huyết động không ổn định. 
KẾT LUẬN 
Ghép gan đã trở thành một phương pháp 
điều trị được chấp nhận rộng rãi cho nhiều loại 
bệnh gan, như xơ gan do virus và rượu(4), bệnh 
gan ác tính, suy gan cấp, bất thường do chuyển 
hóa. Nhờ những cải tiến trong kỹ thuật phẫu 
thuật và gây mê hồi sức, những hiểu biết tiến bộ 
trong lãnh vực miễn dịch và những cải thiện 
trong việc kiểm soát những biến chứng, chăm 
sóc lúc nguy kịch nên những bệnh nhân được 
ghép gan đã sống lâu hơn. Tuy nhiên, vẫn còn 
nhiều những thách thức quan trọng như việc 
người hiến tạng, việc hồi phục của mảnh ghép 
cùng một số sự kiện bất lợi khác ở hậu phẫu có 
thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự thành công. 
Thông qua việc phòng chống, chẩn đoán và 
điều trị kịp thời các biến cố nguy hiểm, ghép gan 
có thể gặp ít biến chứng sau phẫu thuật, thời 
gian nằm tại ICU ngắn hơn, và một kết quả tổng 
thể tốt hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Feltracco P, et al (2011). Intensive care management of liver 
transplanted patients. World J Hepatol; 3(3): 61-71. 
2. Karvellas, et al (2013). Liver transplantation in the critically ill: 
a multicenter Canadian retrospective cohort study.Critical 
Care, 17: R28. 
3. Kim, et al (2007). Jr Am Coll Of Surg; Vol. 205, No.1, Jul 2007. 
4. Nguyễn Văn Chừng (2001). Gây mê hồi sức cho bệnh cao áp 
tĩnh mạch cửa. Trong Xơ Gan & Biến Chứng Xuất Huyết Tiêu 
Hóa.(Lê Quang Nghĩa). Nhà xuất bản Y học, chi nhánh TP. 
Hồ Chí Minh, trang 120 – 149. 
5. Razonable RR, et al (2011). Critical Care Issues in Patients 
After LiverTransplantation. Liver transplantation, 17: 511-527.