Quan niệm về chữ “trung” trong văn học nhà Nho Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX

Tài liệu Quan niệm về chữ “trung” trong văn học nhà Nho Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016 114 Quan niệm về chữ “trung” trong văn học nhà Nho Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX Notion of “faithfulness” in literature by Confucian scholars in Southern Vietnam during the late nineteenth century NCS N uy n N ọc Phú r n i học ồng Tháp Nguyen Ngoc Phu, Ph.D. student The University of Dong Thap Tóm tắt Văn học nhà nho Nam Bộ phát triển tron bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX - một iai đo n có sự chuyển biến lớn tron quan niệm về chữ “trung” ể hiểu hơn về quan niệm này, bài viết luận iải quan niệm về chữ “trung” tron quan hệ với lý t ởn trun quân, lý t ởn ái quốc và chữ “trung” - nhìn từ óc độ nhận thức, vận dụn nhữn iá trị tích cực đối với thực ti n Từ khóa: quan niệm, trung, văn học nhà nho, Nam Bộ. Abstract Southern-Vietnamese Confucian literature was developed in the late nineteenth century, during which the notion of “faithfulness” had chan ed si nifi...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 266 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan niệm về chữ “trung” trong văn học nhà Nho Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016 114 Quan niệm về chữ “trung” trong văn học nhà Nho Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX Notion of “faithfulness” in literature by Confucian scholars in Southern Vietnam during the late nineteenth century NCS N uy n N ọc Phú r n i học ồng Tháp Nguyen Ngoc Phu, Ph.D. student The University of Dong Thap Tóm tắt Văn học nhà nho Nam Bộ phát triển tron bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX - một iai đo n có sự chuyển biến lớn tron quan niệm về chữ “trung” ể hiểu hơn về quan niệm này, bài viết luận iải quan niệm về chữ “trung” tron quan hệ với lý t ởn trun quân, lý t ởn ái quốc và chữ “trung” - nhìn từ óc độ nhận thức, vận dụn nhữn iá trị tích cực đối với thực ti n Từ khóa: quan niệm, trung, văn học nhà nho, Nam Bộ. Abstract Southern-Vietnamese Confucian literature was developed in the late nineteenth century, during which the notion of “faithfulness” had chan ed si nificantly his article discusses the notion of “faithfulness” in comparison between the traditional Confucian virtues of bein “faithful to Kin , devoted to country” and the practical perception and application of “faithfulness” in the historical context of Southern Vietnam during the late nineteenth century. Keywords: notion, faithfulness, Confucian literature, Southern Vietnam. 1. Mở đầu “Trung” là khái niệm đ o đức, xuất hiện tron các tác phẩm kinh điển của Nho iáo và th n đ ợc dùn để chỉ lý t ởn trun quân th i phon kiến Chữ “trung” mặc dù đã đ ợc hình thành từ rất lâu nh n việc bàn luận về nó vẫn khôn hề man tính chất l c điệu, bởi lẽ, tron nhữn mối quan hệ iữa bề tôi với vua, bề tôi với nhân dân luôn nảy sinh nhữn mâu thuẫn Cho nên, chữ “trung” luôn vận hành cùn với sự thay đổi của xã hội Khi bàn về chữ “trung”, Nho iáo nhấn m nh đến n uyên tắc chính trị, là quy ph m luân lý trị quốc và xử thế của con n i Nói cách khác, chữ trun đ ợc hiểu là đ n lối, n uyên tắc đ o đức mà con n i phải có bổn phận iữ ìn, đó là nhân sinh quan, quan niệm sốn phải tuân theo Chữ trun thể hiện t t ởn chỉ đ o tron việc trị 115 quốc và phản ánh t t ởn của iai cấp phon kiến c m quyền Vì thế, văn học nhà nho là bộ phận cơ bản và quan trọn tron văn học Việt Nam th i trun đ i, bộ phận văn học này hiện c n đặt ra nhiều vấn đề c n tìm hiểu, n hiên cứu ây là iai đo n văn học mà Nam Bộ đã rơi vào vòng thuộc địa của thực dân Pháp, nhân dân ta phải chịu sự xâm lăn của ph ơn ây và sốn tron bi kịch của chế độ thực dân nửa phon kiến ron iai đo n này có biết bao anh hùng vì trun với n ớc đã xả thân để đấu tranh iữ n ớc, thể hiện thái độ c ơn quyết bất hợp tác đối với kẻ thù và hết l n vì đất n ớc quê h ơn Ở iai đo n tr ớc, nhân dân tập họp chun quanh chính quyền, t o nên bức t n thành chốn n o i xâm C n iai đo n này có sự chuyển biến lớn tron quan niệm về chữ trun của các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX ron đó có nhiều quan niệm, nhữn t t ởn phản ánh th i thế và quan niệm về chữ trun đ ợc đặt ra đối với các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX Quan niệm này có sự chuyển biến, thay đổi tr ớc khi thực dân Pháp xâm l ợc Do lợi ích của qu n chún nhân dân khôn đ ợc đảm bảo trọn vẹn, quan niệm trun mâu thuẫn với tình yêu đối với đất n ớc Nhữn nỗi niềm này đ ợc thể hiện qua sán tác thơ văn của các nhà nho Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX Phân tích, luận iải về sự chuyển biến tron quan niệm trun của văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX có ý n hĩa rất quan trọn , iúp cho chún ta hiểu sâu sắc hơn về quan niệm, t t ởn của các nhà nho Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX và thể hiện truyền thốn yêu n ớc quý báu của ôn cha ta t u t m u t ở t u u ron th i phon kiến t t ởn trun quân đ ợc đặc biệt coi trọn , khôn ít n i đặt hai chữ “trung quân” lên hàng đ u nh n một số nhà nho yêu n ớc nửa cuối thế kỷ XIX đ i hỏi phải coi trọn chữ “trung” nh n phải trun với n ớc, vì iúp vua chủ yếu để iúp n ớc, iúp dân Quan niệm này khôn bị rơi vào n n “ngu trung”, vì thế chỉ trun với vua khi vua biết thi hành nhân n hĩa, tức phải biết lo cho dân, cho n ớc Có thể nói, t t ởn trun quân tích cực của các nhà nho ắn với l n yêu n ớc th ơn dân nên tron thơ văn của họ thể hiện rõ ý thức, trách nhiệm của mình đối với đất n ớc, phải luôn ìn iữ “đạo trung”. Sán tác của các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX cũn chịu sự chi phối bởi quan niệm Khổn M nh, biểu hiện ra thành luân th n đ o lý nên đã vận dụn các khái niệm, ph m trù, nhữn chuẩn mực của Nho iáo nhằm đáp ứn yêu c u của th i đ i Cho nên, tron bối cảnh triều N uy n suy von thì nhữn chuẩn mực ấy n ày càn tỏ ra bất lực tron việc định h ớn hành vi con n i Vì vậy, quan niệm về chữ “trung” đ ợc hiểu và thực thi khác nhau, có n i kh kh iữ lấy “ngu trung”, có khi muốn thoát khỏi quan niệm trung quân và cũn có kẻ lợi dụn chữ “trung” để m u lợi riên hoặc biện minh cho sự hèn nhát của mình ron bối cảnh ấy, các nhà nho theo quan điểm chính thốn thì cố ắn phục h n l i nhữn iá trị đ o đức của Nho iáo và cụ thể hóa thêm một số ph m trù đ o đức theo cách riên của mình nhằm để củn cố chế độ độc quyền, kéo dài sự tồn t i của v ơn triều phon kiến ừ thực tế đó, có nhữn nhà nho thực hiện đ o trun một cách thụ độn nh n cũn có tr n hợp tiếp thu yếu tố nhân bản của quan niệm trun (quân minh, th n trun ) cùn với sự ảnh h ởn 116 tinh th n yêu n ớc nên các nhà nho Nam Bộ có nhữn b ớc tiến tron quan niệm “trung quân” và quyết định ia nhập vào phon trào khán Pháp B ớc tiến đó thể hiện từ quan niệm trun quân thu n túy của Nho iáo san quan niệm trun với đất n ớc, với nhân dân Phan hanh Giản là một con n i chính trực, nhân n hĩa - một cái tôi trữ tình iàu cảm xúc nên thơ văn của ôn phản ánh chân thực nhân cách, t t ởn của một nhà nho yêu n ớc chính thốn Sán tác của ôn thể hiện nỗi niềm mất n ớc, một bi kịch của vị đ i th n suốt đ i lận đận tron v n trói buộc của hai chữ “trung quân”. Ôn bị trói buộc bởi đ n lối “chủ hòa” của triều đình với tâm tr n đ y mâu thuẫn và bế tắc tron việc thực thi nhiệm vụ chính trị ở chốn quan tr n Ôn là vị quan thanh liêm, đ o đức, mọi sự n hĩ suy đều vì dân, vì n ớc: “Lo nỗi nước kia cơn phiến biến/ Thương bề dân nọ cuộc giao chinh” [5, tr 851] a thấy cuộc đ i Phan hanh Giản có nhiều điểm t ơn đồn với ăn Quốc Phiên ở Hồ Nam, run Quốc. Phan hanh Giản và ăn Quốc Phiên có t m vóc lớn, có ảnh h ởn t m quốc ia nh n bị đánh iá một cách n hiêm n ặt tron th i ian dài, nh n họ vẫn tồn t i tron l n n i dân mỗi n ớc vì sự chính trực, nhân n hĩa, hết l n vì n ớc, vì dân ron cuộc đ i làm quan, Phan hanh Giản cảm thấy thẹn vì ch a làm đ ợc ì cho quê h ơn , ôn ắn sức trau dồi, tu d ỡn đ o đức và luôn băn khoăn về ánh nặn nợ n ớc, ơn vua mà n hĩ đến sự báo đáp ron bài Trú trực, ôn bày tỏ: “Quốc ân hà tự sùng thâm báo/ Độc ỷ nguy lan tọa tịch dương” [5, tr 353] Ơn của vua khôn biết làm thế nào để đền đáp cho xứn đán , n ồi một mình tựa lan can d ới ánh chiều tà mà n ẫm n hĩ về mình: “Ngọc Quan mạn đạo lao đầu bút/ Bạch thủ trường kham báo quốc ân” (Dùng ngòi bút luận bàn đến việc ra biên ải/ u b c vẫn c n có thể báo đáp ơn n ớc) (Đăng Bảo Định đồn) L n yêu n ớc của Phan hanh Giản lúc nào cũn ắn với tình th ơn yêu dân n hèo nên ôn luôn n hĩ về nhân dân, quan tâm đến nỗi khổ của dân tr ớc thiên tai khắc n hiệt, ôn khôn n ủ đ ợc khi thấy nhân dân đói khổ Nỗi niềm của Phan hanh Giản n ày càn nặn thêm khi tuổi tác phải đối mặt với sự phức t p của th i cuộc và khôn sao iải quyết đ ợc khiến ôn cảm thấy xót xa: “Lăm trả ơn vua đền nợ nước/ Đành cam gánh nặng ruổi đường xa/ Lên ghềnh, xuống thác thương con trẻ/ Vượt biển, trèo non cám phận già/ Cũng tưởng một lời an bốn cõi/ Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!” (Việc nước không thành) [7, tr.264]. Mấy ai hiểu đ ợc một nhà nho yêu n ớc đã khôn tiếc m n sốn của mình để bày tỏ sự tận trun v i triều đình? Cái chết của Phan hanh Giản là cái chết của l n quả cảm, khôn tham sốn sợ chết và khôn hề nhu nh ợc Nhà thơ yêu n ớc N uy n ình Chiểu đã đánh iá Phan hanh Giản rất cao: “Lịch sử tam triều độc khiết thân” (Một n i từn trải ba triều vua duy nhất c n tron s ch) [9, tr 39] Ôn mất đi nh n nhân dân Nam Bộ vẫn tôn th ôn , có nhữn đánh iá cao và xóa cho ôn tội oan “bán nước”. ron sán tác của N uy n hôn thể hiện cảnh đói khổ của nôn dân, ta th n ặp tron thơ ôn nỗi lo lắn về tình hình đất n ớc, nỗi quan tâm lo lắn đến cảnh khổ của n i dân vì chiến tranh Xuất phát từ lập tr n yêu dân thắm thiết và có cái nhìn đún đắn đối với qu n chún c n lao thôn qua nhữn án thơ đ y n ớc mắt nh n ở một số chỗ cũn tỏ ra ch a mất hết l n tin t ởn ở vua ron bài Trọng 117 đông tiểu tập thị Phạm Qúy Hữu Doanh điền sứ ( hán 11 nhân buổi họp mặt nhỏ viết đ a ôn Ph m Qúy Hữu Doanh điền sứ) ửi ôn Doanh điền sứ khi nhắc cơn bão tố h thành Phiên An do quân Pháp ây chiến, tác iả viết: “Các tu nỗ lực báo minh chủ” (Mọi n i đều phải cố ắn báo đáp minh chúa) [5, tr 110] Họa bài thơ Vân Lộc Nguyễn Tư Giản, ông có câu: “Kim tịch bất giác thần phi vũ/ Công kim hữu đạo tá minh chủ” (Bất iác đêm nay tinh th n bay múa, ôn hay ặp đ i hữu đ o ra iúp vua anh minh) [5, tr 159] Mặc dù đó là nhữn câu thơ th n đ ợc viết theo lối khuôn sáo, côn thức, nh n xét cho cùn tác iả vẫn tin nhà vua sán suốt, nếu đ ợc bề tôi hiền ra iúp thì việc trị n ớc sẽ v ợt khỏi cơn n uy Vì iữ đ o trun quân nên ôn luôn luôn tỏ ra vân lệnh vua, đan lúc chốn Pháp N uy n hôn r i miền ôn khói lửa san Vĩnh Lon nhận chức đốc học Văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX chịu sự ảnh h ởn của t t ởn “trung quân”, nh n chữ “trung” đã mất hết ý n hĩa, chữ “trung quân” mâu thuẫn với chữ “ái quốc” Vì vua đã khôn minh thì th n khó mà có thể iữ l n trun , nên có nhữn nhà nho chốn l i vua, nhân dân cũn chốn l i vua Nh n l i có một số tr n hợp, nhà nho cộn tác với Pháp để h ởn danh lợi mà bán rẻ l ơn tâm cho iặc, tiêu biểu nh ôn họ n : “Ở đời há dễ quên đời đặng/ Tính thiệt so hơn cũng gọi là” [4, tr 167] Về tr n hợp này thì nhân dân côn kích rất dữ dội vì một bề tôi trun khôn thể th hai vua, nên đứn tr ớc bài toán của lịch sử dân tộc thì có n i rút lui về thành lập đội quân chốn iặc, có khi ch y về ph n đất c n l i của triều đình để ẩn náu ch th i Vì vậy, tron hoàn cảnh đó có nhiều thơ văn yêu n ớc xuất hiện nhằm bày tỏ nỗi uất hận và kêu ọi cùn nhau hy sinh vì chính n hĩa ron thơ điếu Phan n , N uy n ình Chiểu bày tỏ l i lẽ cảm th ơn hết sức bi trán : “Làm người trung nghĩa đáng bia son/ Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn/ Cơm áo đền bồi ơn đất nước/ Râu mày giữ vẹn phận tôi con/ Tinh thần hai chữ phao sương tuyết/ Khí phách ngàn thu rỡ núi non” [2, tr.55]. N uy n Duy Cun là một nhà nho đất Quản N ãi, khi biết sắp bị xử tử vẫn khôn hề nao nún : “Ninh vi trung nghĩa quỷ/ Bất vi tàm phụ nhân” ( hà làm ma có hồn trun vía n hĩa/ Không làm n i đeo mặt n ựa đ u trâu) [2, tr.78]. inh th n bất khuất của Phan Văn t, Lê Cao Dõn khiến nhà vua (sau đã thỏa hiệp đ u hàn ) phải ca n ợi: “Tiếng trung nghĩa của Nam kỳ/ Không phải ngày nay mới có/ Xem tờ tấu thật đáng khen/ Khen đó, lại khóc đó!/ Lời thơ lặp lại dài dòng/ Chỉ sợ còn điều thiếu sót/ Thương thay hai đấng nam nhi!/ Danh tiết ngàn năm duy trì” (Lê hực dịch) [2, tr.32] ứn tr ớc nhữn vấn đề của th i cuộc nên một số nhà nho n hiên về t t ởn yêu n ớc nh n họ vẫn ch a thể r i khỏi chữ “trung quân” C n N uy n ình Chiểu thì cũn đã bộc lộ quan điểm về vấn đề trun hiếu của mình: “Hai chữ cương thường dằn cả nước/ Một câu trung hiếu vững muôn nhà” [9, tr.280], “Còn đánh giặc mất cũng đánh giặc; sống thờ vua, thác cũng thờ vua” [10, tr.29], “Quan Phan thác trọn chữ trung thần” [10, tr.42]. ron sán tác N uy n Hữu Huân cũn thể hiện rõ tinh th n trun n hĩa: “Thiên phố hoàn nhân trung nghĩa hậu/ Phân phân Nam Bắc đảo huyền sầu” (Sau buổi n i trun về tựu n hĩa/ Bắc Nam d i đổi chúng dân s u) [11, tr 79], nh n cũn có khi l i đề cao N uy n Hữu Huân trên lập tr n 118 trun quân của nho iáo: “Tằng tương tam xích tuyết quân cừu” (Vun kiếm vì vua quyết trả thù) [11, tr 80] C n một số n i l i ca n ợi chữ trun của N uy n Hữu Huân từ ý thức “công dân”: “Bi tai quốc thế nguy huyền phát/ Tử nhĩ tam nhi sỉ khấu đầu” (Buồn thay, thế n ớc nh treo tóc/ Chết vậy! thân trai thẹn cúi đ u) [11, tr.80]. ừ đó, xét trên tinh th n yêu n ớc thì nhữn ý kiến đánh iá, nhận định về chữ trung tron mối quan hệ với lý t ởn trun quân của nho iáo c n man nhiều h n chế và c n có nhiều nhận định khác nhau Nhữn h n chế, khác biệt ấy thể hiện tính chất và đặc điểm vùn Nam Bộ tron bối cảnh thuộc địa nửa phon kiến N uy n Hữu Huân đã thể hiện ý thức trun quân của một nhà nho, mặc dù tinh th n và ý chí khôn đủ để chiến thắn nh n tinh th n dân tộc đã óp ph n nuôi d ỡn l n căm thù iặc của ôn : “Việc lớn không thành, báo chúa cũng đành liều một chết” [11, tr 64] Nhữn tâm sự này thể hiện một khát vọn cứu n ớc, tinh th n bất khuất, ý chí chiến đấu kiên c n của nhà nho tr ớc kẻ thù: “Ngọn cờ phá lỗ bao giờ thấy/ Thiên hạ người đều ngóng cổ trông” (Thuật hoài) [11, tr.102], “Bậc trung nghĩa, từ xưa mấy kẻ/ Muốn lập công mà dễ thành công” (Khúc hát hò khoan) [11, tr.96], “Vũ trụ còn xem tiết nghĩa lưu” (Điếu Trần Xuân Hòa) [11, tr.106], “Con hiếu tôi trung danh mãi rạng Lòng trung nửa điểm, tháng năm lưu” (Trung nghĩa vịnh - Khuyết danh) [11, tr.163-164]. ron thơ văn của N uy n ình Chiểu có nhắc đến vấn đề “trung hiếu”: “trung hiếu vững muôn nhà, trung hiếu làm đầu, lấy mình báo chúa, cám niềm thần tử hết lòng trung ái, tận trung, trọn chữ trung thần, kẻ ứa gan trung, đều tài bậc trung, chiết trung, đặng chữ hiếu trung, một đường hiếu trung, chuộng đường trung hiếu, tấm lòng trung, một câu trung hiếu bỏ đi không màng, chữ hạ chữ trung rõ ràng, mang chữ bất trung, thần tử dự phần hiếu trung,” Chữ “hiếu” của N uy n ình Chiểu ắn liền với chữ “trung”: “lấy trung hiếu làm đầu, đường trung hiếu, tận trung, trọn chữ trung, bậc trung,” Bậc trun này phải lo cho dân, th ơn dân nếu khôn thì N uy n ình Chiểu mãnh liệt phê phán: “ghét cay ghét đắng, trang dẹp loạn rày đâu vắng, trông tin nhạn, bặt tiếng hồng, biết ai thiên tử biết ai thần, chẳng nghe thiên tử chiếu, quyết đánh cả triều lẫn Tây,” Hồ Huân N hiệp với tinh th n yêu n ớc cao cả hiên n an , khoan thai rửa mặt, sửa khăn áo un dun đọc bốn câu thơ tr ớc i bị địch hành quyết: “Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi/ Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi” [1, tr 26] Vì trun hiếu mà chết oanh liệt đã làm cho quân địch hết sức kinh n c, đồn bào vô cùn xúc độn đối với chiến sĩ anh hùng. Trong Dương Từ - Hà Mậu, N uy n ình Chiểu đề cao quan niệm c ơn th n nhằm củn cố khối đ i đoàn kết dân tộc và cũn muốn nhắc nhở mọi n i tr ớc sau vẫn một l n với đất n ớc, khôn n hiên n ã, khôn ch y theo iặc, đồn th i cũn đề cao chữ trun : “Làm tôi mang chữ bất trung/ Đứng trong trời đất chẳng dung người nào” [9, tr.346]. N uy n ình Chiểu cho rằn bề tôi phải trun , chữ trun ở đây đ ợc đặt tron mối quan hệ với vua và vua đó phải biết lo cho nhân dân, lo cho đất n ớc ron lúc đất n ớc ch a lâm n uy thì ở truyện Lục Vân iên, N uy n ình Chiểu khôn phản đối chế độ quân chủ nói chun nh n khi mối quan hệ vua tôi mất hết ý n hĩa, khôn c n 119 iá trị nữa thì quan niệm về chữ trun của ôn có sự thay đổi và đ ợc biểu hiện qua bài văn tế khóc r ơn ịnh, bộc lộ rõ ràn quan điểm của mình đối với vua chúa bán n ớc: “Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền” [10, tr.35]. Quan niệm về chữ trun của N uy n ình Chiểu và N uy n Hữu Huân man một nội dun mới là sự trun thành tuyệt đối với ổ Quốc, ắn chặt với nhân dân, thể hiện nhất quán tron suy n hĩ và hành độn ron Hịch Trương Định, N uy n Hữu Huân kêu ọi tha thiết về bổn phận con dân đối với đất n ớc đan lâm n uy vì n n n o i xâm, khôn c n ồn ánh nào nặn hơn nhữn thứ thiên liên ấy: “Hai vai nặng trĩu, gánh chi bằng gánh cang thường/ Tấc dạ trung lương, gồng chi gồng xã tắc” Ôn đã khôn xem trọn quan niệm trun quân khi mà vua chúa đã đ u hàn tr ớc b ớc n oặt của lịch sử dân tộc, vận độn qu n chún quyết tâm khởi n hĩa đánh đuổi quân xâm l ợc thực dân Pháp và cũn luôn thể hiện sự trách móc, quy trách nhiệm đối với nhà vua: “Trong dò hàng giặc chưa xong giá/ Ngoài ngóng tin triều đã bặt tâm” [1, tr.173]. Khi thể hiện “sĩ khí Nam trung”, Bùi Hữu N hĩa luôn v ch mặt bọn quan trên h i dân, khôn đem l i lợi ích cho qu n chún nhân dân, họ xuất hiện với bộ mặt tiểu nhân, làm tay sai cho iặc, phản bội l i iốn n i: “Lá xanh tơ liễu nhành thưa thớt/ Bông bạc dường mai nhụy sượng sần Rường soi cột trổ chưa nên mặt/ Cao lớn làm chi bần hỡi bần!” (Cây bần) [1, tr.204]. C n N uy n hôn thì phê phán bọn xu nịnh, đê hèn đắc th i, đắc thế nh cỏ d i khôn trồn mà cứ mọc: “Cỏ loạn không giồng thềm mọc khắp/ Hoa rơi vừa quét, chái liền sa” (Gửi bạn) [1, tr.290]. t u t m u t ở á u c Nho iáo khôn c n iữ vai tr quan trọn nh tr ớc nữa thì vấn đề đặt ra cho các nhà nho lúc này là bề tôi có nhất thiết phải trun thành nữa khôn ? Khi đức vua đi n ợc l i quyền lợi của dân tộc, tron tr n hợp đó thì bề tôi phải làm sao đây? Một số nhà nho khôn r i bỏ triều đình, một số nhà nho đã đặt yêu n ớc lên trên vua, khôn tuân lệnh vua, khi vua khôn tận trun với n ớc thì bề tôi khôn bắt buộc phải trun với vua N uy n ình Chiểu một th i kỳ từn thất vọn rất nhiều ở vua và triều đình nhà N uy n: “Xe ngựa lao xao giữa cõi trần/ Biết ai thiên tử biết ai thần” [10, tr 149] Phan Văn rị ay ắt hơn, ôn đ i: “Trảm càn đức chi đầu, ẩm càn đức chi huyết, phanh càn đức chi thi, thực càn đức chi nhục” (Chém đầu càn đức, uống huyết càn đức, xẻ thây càn đức, ăn thịt càn đức) Khi ứn khẩu dọc đ n , ôn tỏ ra hết sức coi th n con rồn là biểu t ợn của nhà vua: “Đứng lại làm chi cho mất công, Vừa đi vừa đái vẽ nên rồng”. C n vua nh ồn Khánh thì văn học yêu n ớc th n tỏ thái độ phê phán ay ắt: “Hàm Nghi mới thực vua trung/ Còn như Đồng Khánh là ông vua xẳng” [6, tr.63]. ó là nỗi niềm, tấm l n trun của nhữn nhà nho yêu n ớc, hết l n vì nhân dân, vì nền độc lập tự do của dân tộc N uy n ình Chiểu thì đề cao r ơn ịnh dám chốn l i chiếu chỉ nhà vua: “Giúp đời dốc trọn trang nam tử; Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền; Theo bụng dân phải chịu tiếng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại” [10, tr.30-35]. Các nhà nho Nam Bộ đã trở thành nhữn tác iả có 120 t m vóc lớn với nhữn án thơ văn đ y nhiệt huyết thể hiện tấm l n trun với n ớc, với dân Các nhà nho th i kỳ này đã kế thừa truyền thốn oanh liệt n àn đ i của dân tộc, đã cùn nhân dân Nam Kỳ chiến đấu n oan c n để bảo vệ quê h ơn xứ sở, thể hiện l n yêu n ớc sâu sắc của mình Nhữn nhà nho trun th i kỳ đ u nh ặn Huy rứ, N uy n ình Chiểu cho đến các sĩ phu yêu n ớc, các nhà nho C n V ơn ất cả họ đều bộc lộ nỗi đau đớn xót xa tr ớc bi kịch mất n ớc ừ bi kịch đó, họ khôn thể làm khác n oài con đ n ở ẩn, đó là sự lựa chọn bất đắc dĩ của một số nhà nho cuối mùa của chế độ phon kiến Hơn bao i hết, quan niệm trun tron th i kỳ này đ ợc đặt ra rất quyết liệt và là chỗ dựa tinh th n lớn nhất cho các nhà nho yêu n ớc. Một nhà nho yêu n ớc đánh iặc để ìn iữ ian sơn, nếu khôn làm đ ợc thì phải chọn cái chết nh Phan hanh Giản, Hoàn Diệu để đền ơn vua hoặc rút về ở ẩn để ch th i Họ nhận thức rằn , khôn iúp đ ợc vua thì phải tìm cách lui về ở ẩn, không làm tai sai cho iặc, họ tìm nơi vắn vẻ làm b n với thiên nhiên, iải s u bằn chén r ợu âm tr n của họ là tâm tr n man đ y tính bi kịch của kẻ sĩ bất lực Có khi họ bị truy nã phải bỏ trốn, có khi họ chủ độn bỏ ch y cho khỏi man tiến nhục vì phải hàn ây, có khi họ khôn chịu ra làm việc cho triều đình nh Hồ Huân N hiệp viện lẽ c n mẹ ià, Phan Văn t ra Huế nhận một chức quan nh n khi đến kinh đô l i bỏ về Một số nhà nho chấp nhận hợp tác với chính quyền thực dân, một số thì phó mặc cho th i thế, một số thì tìm đ n tránh né để iữ khí tiết và một số thua keo n y y keo khác, họ cố chí để phục thù ất cả các nhà nho ấy đều có ít nhiều t t ởn bộc lộ qua thơ văn “Học Lạc, Nhiêu Tâm hay Trần Thới Hanh, Hồ Bửu Ngoạn cam phận làm dân vong quốc mà gửi hồn vào những vần châm biếm... Trần Hữu Thường, Nguyễn Văn Thới muốn khư khư một mực vì đạo nghĩa luân thường... Trần Kim Phụng, Sương Nguyệt Anh, Trần Ngọc Lầu, Tạ Quốc Bửu, Lê Lương Tri, Nguyễn Công Minh... với nhiều khuynh hướng khác nhau, tả tình, tả cảnh, nghĩ ngợi vẩn vơ, khóc than vô cớ...” [4, tr.320]. Có nhữn sĩ phu yêu n ớc chân chính th i kì này vừa làm thơ, làm văn, vừa trực tiếp lãnh đ o nhân dân chốn iặc ó là Phan Văn t, ỗ rình ho i, N uy n Hữu Huân, Hồ Huân N hiệp, r n hiện Chánh, Ph m Văn N hị, Có n i khôn có cơ hội hoặc điều kiện tham ia đấu tranh trực tiếp, đã dùn n i bút của mình để ca n ợi cuộc khán chiến, đề cao n hĩa cử anh hùn của các lãnh tụ n hĩa quân, và qua đó mà khích lệ, cổ vũ nhân dân tích cực chốn iặc Có khi dùn bút pháp đã có ít nhiều nhân tố hiện thực để tố cáo sự thối nát của xã hội, sự n ột n t của chế độ ó là Ph m Văn N hị (1805 - 1880) với Nghĩa Trai thi văn tập, Miên hẩm (1819 - 1870) với Thương Sơn thi tập, N uy n ình Chiểu (1822 - 1888) với nhữn bài thơ chữ Hán, N uy n hôn (1827 - 1894) với Ngọa du sào thi văn tập, r n Bích San (1840 - 1877) với Mai Nham thi thảo, Hoàn Văn H e (1848 - 1885) với Hạc nhân tùng ngôn,... Tiêu biểu là nhà nho Phan hanh Giản (1796 - 1867) với Lương khê thi thảo đã thể hiện nhữn nỗi niềm trăn trở, lo lắn cho vận mệnh của dân tộc tr ớc âm m u xâm l ợc của bọn thực dân Pháp Với tấm l n vì dân, vì n ớc, ôn cũn luôn trăn trở và mon muốn chấn h n đất n ớc tr ớc sự xâm lăn của n o i ban Bởi thế, Phan 121 hanh Giản là một bậc trun th n với một tấm ơn về đ o đức, một phẩm chất cao đẹp, suốt cuộc đ i dốc hết sức lực xây dựn đất n ớc, mon đất n ớc thoát khỏi sự l c hậu uy nhiên, t t ởn này l i khôn đ ợc xem trọn làm ôn phải man nặn nhữn nỗi niềm tr ớc th i cuộc: “Từ ngày đi sứ Tây Kinh/ Thấy việc Âu Châu phải giật mình/ Kêu rủ đồng bào mau thức dậy/ Hết lời năn nỉ chẳng ai tin” [7, tr 178] Nỗi niềm u uất này đã đ ợc nhân dân thấu hiểu và mến mộ ôn , đến hàn trăm năm sau phẩm chất của Phan Thanh Giản vẫn đ ợc n i đ i sau xem trọn Khi 3 tỉnh miền ôn rơi vào tay iặc rồi tiếp đến 3 tỉnh miền ây, Phan hanh Giản càn u uất hơn khi phải thừa hành một đ n lối sai l m của triều đình phon kiến, mà n i đứn đ u chính là vua ự ức Với tấm l n yêu n ớc th ơn dân nh n đứn tr ớc th i cuộc ôn khôn thể làm trái với t t ởn trun quân của đ o nho, ôn nhận thấy mình có tội với dân với n ớc và đã kết li u đ i mình để bày tỏ nỗi l n với n i đ i sau Vì thế nỗi l n và phẩm chất của ôn càn đ ợc nêu cao, một con n i luôn có lẽ sốn , luôn nêu cao sự chính trực và nhân n hĩa. Các triều đ i phon kiến đã có nhữn đón óp to lớn tron việc củn cố, xây dựn nền độc lập dân tộc n ớc nhà và óp ph n quan trọn vào sự phát triển của đất n ớc Nh n lịch sử dân tộc đã có nhữn thay đổi khi triều đ i phon kiến nửa sau thế kỷ XIX khôn đảm bảo sự iữ vữn nền độc lập của quốc ia d ới đ n lối trị n ớc cũ ron hoàn cảnh ấy, khôn thể nào tìm thấy đ ợc ý chí quật c n , tinh th n tự hào dân tộc nh đã từn thấy tron thơ của Lý h n Kiệt, r n Quan Khải, Ph m N ũ Lão, tron Hịch tướng sĩ của r n Quốc uấn, tron Bạch Đằng giang phú của r ơn Hán Siêu và đặc biệt tron Bình Ngô đại cáo của N uy n rãi.. ến cả cái hơi nón của thơ ca dân gian yêu n ớc đ ơn th i, tiến dội của một Hịch đánh Pháp, một Hịch Lãnh Cồ chẳn h n ó là sự hào hùn của nhữn tâm hồn dũn cảm, sự l c quan tin t ởn vào nhữn bản lĩnh kiên c n khi đất n ớc chốn n o i xâm 4. Chữ trung - nhìn từ góc độ nhận thức, vận dụng những giá trị tích cực đối với thực tiễn N uyên lý đ o đức của Nho iáo là luân th n , luân là n ũ luân, là năm mối quan hệ: quân th n, phụ tử, phu phụ, môn đệ, bằn hữu ron năm quan hệ đó, hai mối quan hệ đ u là quan trọn nhất, đ ợc t ợn tr n bằn hai chữ “trung - hiếu” và đ ợc ọi là đ o quân th n (vua - cha mẹ) Vào đ i vua r n hái ôn, l n trun quân đã đ ợc quy định tron điều lệ nên th n dân phải thề: “Làm tôi hết trung, làm quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh giết chết” [3, tr.439]. “Điều đó cho thấy triều đình phong kiến đã đẩy ý nghĩa trung quân từ một cách hành xử trong hành đạo của người quân tử lên thành luật vua, phép nước, lấy hình phạt cao nhất để răn đe. Nó vừa làm tăng sự uy nghi của vua vừa làm cho đạo lý trung quân mang màu sắc thiêng liêng. Trung quân không còn đơn giản chỉ là một hành vi ứng xử với người trên mà còn là bổn phận cao nhất của một kẻ bề tôi với vị vua - Trung quân” [8, tr 43] Ở N uy n ình Chiểu cũn thể hiện rõ quan điểm: “Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh là câu trau mình” [9, tr 93] ừ triết lý đó, vua chúa phon kiến cổ vũ cho chữ hiếu cũn nhằm để cổ vũ cho chữ trun , hiếu với cha mẹ để trun với vua ron đ o làm tôi, Khổn ử đề cao 122 chữ trun , nhấn m nh đến l n biết ơn, sự phục tùn , tinh th n phục vụ của bề tôi đối với vua và quốc ia heo ôn , n i làm quan tr ớc hết phải là n i có đức, có thái độ ứn xử đún ở mọi lúc, mọi nơi M nh ử cũn đã phê phán nhữn kẻ làm quan mà khôn đún danh phận của mình: “Khi ra làm quan rồi, thì phải trung với vua, hết lòng hết sức thờ vua, nhưng cũng không vì vậy mà biến mình thành kẻ “ngu trung”. Người làm tôi trung còn là người biết can gián vua, khi vua làm điều trái đạo, không những thế, còn có thể phế truất ngôi vua, khi thấy vua là kẻ vô đạo” ừ đó, khái niệm “trung quân” xuất hiện Khi quyền lợi của vua thốn nhất với quyền lợi dân tộc thì quan niệm về trun đồn th i là trun với n ớc, mỗi bên đều phải có trách nhiệm với nhau: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (Nhà vua sai khiến bề tôi thì dùn l , bề tôi phụn sự nhà vua thì iữ đ o trun ) Khổn ử khôn chủ tr ơn “ngu trung”, khôn bắt buộc bề tôi phải phục tùn bề trên một cách vô điều kiện nh quan niệm về chữ trun của các nhà nho sau này Quan niệm về chữ trun khôn phải là trun một cách tuyệt đối, khi vua khôn ra vua thì th n dân khôn nhất thiết phải trun Khi đ i sốn nhân dân yên bình, ấm no thì bề tôi tuyệt đối phục tùn vua, trun thành với vua vô điều kiện Khi mà đ i sốn xã hội có nhiều biến đổi thì quan niệm về chữ trun ắn liền với l n yêu n ớc, ắn với lợi ích của dân tộc nên tron từn iai đo n lịch sử thì quan niệm này cũn có nhữn biến đổi phù hợp với l n yêu n ớc của nhân dân ta ron th i kỳ dựn n ớc, quan hệ vua tôi là quan hệ quân th n cùn chun lý t ởn yêu n ớc, chốn n o i xâm để bảo vệ nền độc lập cho dân tộc Cho nên đã có nhiều tấm ơn tiêu biểu thể hiện l n trun thành đối với vua nh : Dã ợn , Yết Kiêu đã lều chết để bảo vệ r n H n o, Lê Lai đã chết thay cho Lê Lợi Và sau này là nhữn anh hùn luôn trun với n ớc đ ợc hiện diện tron nhữn sán tác của các nhà nho, đặc biệt là iai đo n nửa cuối thế kỷ XIX Khi triều đ i phon kiến khôn c n đảm đ ơn đ ợc sứ mệnh iải phón dân tộc, tron nội bộ triều đình có nhữn kẻ n u trun , phản độn , bán n ớc (Lê Chiêu hốn c u cứu nhà hanh, N uy n Ánh c u cứu thực dân Pháp) thì nhân dân ta l i càn quyết tâm vùn dậy chốn l i chế độ phon kiến Bởi vì, tron t t ởn chủ đ o của các nhà nho là yêu n ớc, họ quan niệm vua đến rồi l i đi, triều đ i dựn lên rồi l i đổ, chỉ đất n ớc của nhân dân là c n mãi Do vậy, chữ “trung” đã đi vào nhận thức của con n i một cách tự nhiên và đã trở thành chuẩn iá trị của chế độ phon kiến Nhân dân ta đã tiếp nhận chữ trun ở một nhận thức mới, t bỏ đi nội dun cũ của Nho iáo là trun với vua và đ a vào đó nội dun mới là trun với n ớc Khi xác định nội dun chữ trun , nhân dân ta đã đặt nội dun ấy tron sự phù hợp với yêu c u, n uyện vọn của nhân dân, phù hợp với nhiệm vụ đấu tranh iải phón đất n ớc Lấy chữ “trung” làm nền tản để t o nên sức m nh iúp nhân dân ta v ợt qua mọi khó khăn, đánh thắn mọi kẻ thù xâm l ợc và xây dựn xã hội n ày càn tốt đẹp Giá trị cốt lõi của đ o đức truyền thốn dân tộc là l n trun thành đối với ổ Quốc, bởi tron th i phon kiến, việc trun với n ớc cũn là trun với vua, tuy nhiên trun với vua phải có điều kiện và điều kiện ấy phải là trun với đất n ớc t ởn đ o đức truyền thốn của dân tộc ta đặt n ớc cao hơn vua, vì ph m trù trun đ ợc xác lập trên cơ sở chủ n hĩa yêu n ớc 123 ắn bó chặt chẽ với l n th ơn dân, l n nhân ái của dân tộc N ày nay chún ta c n phải kế thừa nhữn tinh hoa t t ởn đ o đức truyền thốn của dân tộc, t o nên sức m nh tinh th n vĩ đ i cho nhân dân ta làm nên cuộc cách m n thán ám thành côn , đánh đuổi thực dân Pháp và Mỹ xâm l ợc để iành độc lập và thốn nhất đất n ớc Chún ta phải thực hiện đ o đức Cách m n trun với n ớc, hiếu với dân, xây dựn một xã hội n ày càn iàu đẹp Hiện nay, trun với n ớc là trung thành với lợi ích của quốc ia, với sự n hiệp xây dựn và bảo vệ ổ Quốc Quan niệm về chữ trun yêu c u phải có l n yêu n ớc th ơn n i, tự hào về truyền thốn vẻ van của dân tộc, đó là bổn phận, trách nhiệm đối với ổ Quốc Vì thế, con n i phải có ý thức n hị lực v ơn lên để v ợt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàn hy sinh vì ổ Quốc và đặc biệt tron quá trình xây dựn đất n ớc phải th n xuyên nân cao tinh th n của chữ trun ể hi nhớ côn lao chiến đấu chốn iặc iữ n ớc của các anh hùng, nhân dân đã xây dựn đền th t ởn niệm các nhân vật vì trun vì n hĩa Hiện nay tron dân ian c n l u truyền bài thơ ca n ợi nhữn con n i trun n hĩa: “Vì nước quên mình bởi chữ trung/ Thương dân chi sá chốn sình bùn/ Mấy năm Đồng Tháp danh vang dội/ Cọp rống ngoài truông, cáo hãi hùng/ Hai thước im lìm nơi thạch động/ Đồng bào tưởng nhớ đứng thờ chung/ Nỗi lòng nghĩ đến nhiều năm trước/ Hương lửa đều không cảnh lạnh lùng” (Khuyết danh). Với Nho iáo, chữ trun đ ợc đặt ra tron quan hệ với lý t ởn trun quân, lý t ởn ái quốc, chữ trun cũn đ ợc đặt ra với chính bản thân mình để tu thân và trở thành n i quân tử N oài ra, c n đặt ra tron quan hệ với n i khác, mỗi n i thực hiện đún việc, đún phận sự của mình làm cho xã hội ổn định và phát triển Nhữn quan niệm này của Nho iáo cho đến nay vẫn c n n uyên iá trị và có ý n hĩa xã hội thực sự của nó ron điều kiện hiện nay, khi mối quan hệ của con n i với con n i càn đ ợc mở rộn , khi xã hội đan có một số biểu hiện xuốn cấp về mặt lý t ởn , đ o đức thì t t ởn về trun , về n hĩa tron các mối quan hệ của Nho iáo l i càn có ý n hĩa quan trọn , óp ph n điều chỉnh hành vi của mỗi con n i để xây dựn xã hội n ày càn tốt đẹp hơn Dân tộc ta có một l n yêu n ớc nồn nàn, đó là một truyền thốn quý báu nên tron tình hình mới d ới sự ảnh h ởn của nhiều t t ởn nên việc iáo dục l n yêu n ớc tron điều kiện hội nhập là rất c n thiết ron bối cảnh đó, côn tác iáo dục thế hệ trẻ nhất là iáo dục l n yêu n ớc, l n tự hào dân tộc là vấn đề có ý n hĩa đặc biệt quan trọn đối với sự phát triển của đất n ớc Văn học nhà nho yêu n ớc Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX là một bộ phận quan trọn của văn học dân tộc, chiếm vị trí quan trọn tron ch ơn trình iáo dục phổ thôn , đặc biệt với nhữn tác phẩm văn học thể hiện l n yêu n ớc, chốn n o i xâm và thể hiện tính dân tộc sâu sắc 5 Kết uậ Khi thực dân Pháp tiến hành xâm l ợc thì nhữn t t ởn , quan niệm trun với dân, với n ớc ở các sĩ phu yêu n ớc đã từn b ớc đ ợc thể hiện, cho thấy nhữn biến chuyển lớn tron quan niệm trun của các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX Quan niệm trun đ ợc đặt ra và quan niệm này có sự chuyển biến, thay đổi khi lợi ích của qu n chún nhân dân khôn đ ợc đảm bảo trọn vẹn run với vua thì l i mâu 124 thuẫn với tình yêu đối với đất n ớc, quân đã khôn minh thì th n khó mà có thể iữ l n trun Nhữn nỗi niềm này đ ợc thể hiện qua nhữn sán tác thơ văn của các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX Bên c nh đó cũn có nhiều nhà nho n hiên về t t ởn yêu n ớc nh n họ cũn ch a thể quên hẳn chữ trun quân N oài một số n i chấp nhận hợp tác với chính quyền thực dân, có nhữn nhà nho khôn iúp đ ợc vua thì tìm cách lui về ở ẩn, chứ khôn chịu làm tai sai cho iặc Bên c nh đó, ta thấy một số nhà nho phó mặc cho th i thế, một số tìm đ n tránh né để iữ khí tiết và một số thua keo n y y keo khác để cố chí phục thù Dù yêu n ớc th ơn dân nh n đứn tr ớc th i cuộc các nhà nho khôn sao làm trái đ ợc với t t ởn trun quân của đ o nho Nỗi l n day dứt của họ đã đ ợc phản chiếu tron các án thơ văn, đến bây i vẫn c n làm lay độn tâm hồn n i đọc TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bảo ịnh Gian (1995), Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, iểu luận - In l n thứ 2 có bổ sun , Nxb Văn học 2. Bảo ịnh Gian , Ca Văn hỉnh (1977), Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, Nxb Văn học, Hà Nội 3. Cau Huy Giu dịch (1971), Đại Việt sử ký toàn thư, ập 2, Nxb Văn hóa hôn tin, Hà Nội 4. N uy n Văn H u (2012), Văn học miền Nam lục tỉnh - Văn học Hán Nôm thời kháng Pháp và thuộc Pháp, ập 3, NXB rẻ, P Hồ Chí Minh. 5. Phan hị Minh L , Ch ơn hâu (2005), Thơ văn Phan Thanh Giản, Nxb Hội Nhà văn 6. N uy n Lộc (1976), Lịch sử văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX ( ái bản có bổ sun và sửa chữa), Nxb i học và run học chuyên n hiệp, Hà Nội 7. N uy n Duy Oanh (1974), Chân dung Phan Thanh Giản, ủ sách Sử học, Nxb Bộ Văn hóa - Giáo dục và hanh niên (miền Nam) 8. N uy n hị Kim Ph ợn (2013), “Chữ run tron ca dao dân ca n i Việt”, p chí Khoa học Xã hội hành phố Hồ Chí Minh, (7), tr.43. 9. Ca Văn hỉnh, N uy n Sĩ Lâm, N uy n h ch Gian (1982), Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, ập 1, Nxb i học và run học chuyên n hiệp, Hà Nội 10. Ca Văn hỉnh, N uy n Sĩ Lâm, N uy n h ch Gian (1982), Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, ập 2, Nxb i học và run học chuyên n hiệp, Hà Nội 11. Pham hiều (chủ biên), Cao ự hanh, Lê Minh ức (1986), Nguyễn Hữu Huân nhà yêu nước kiên cường, nhà thơ bất khuất, Nxb hành phố Hồ Chí Minh Ngày nhận bài: 04/10/2016 Biên tập xong: 15/11/2016 Duyệt đăn : 20/11/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf177_886_2215228.pdf
Tài liệu liên quan