Chính sách của thành phố hồ chí minh về đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư và những kết quả đạt được

Tài liệu Chính sách của thành phố hồ chí minh về đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư và những kết quả đạt được: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 88 CHÍNH SÁCH CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢM BẢO CƠ HỘI HỌC TẬP CHO TRẺ EM NHẬP CƯ VÀ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Ho Chi Minh City’s policy on ensuring learning opportunity for migrant children and the achievements PGS.TS. Ngô Minh Oanh(1), ThS. Hồ Sĩ Anh(2) (1),(2) Trường Đại học Sư phạm TP.HCM Tóm tắt Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục và đào tạo của đất nước. Với sự phát triển về kinh tế, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, nhà máy, xí nghiệp đã ra đời, thu hút số lượng lớn lao động nhập cư. Việc tăng dân số đã gia tăng áp lực lên các dịch vụ và an sinh xã hội của Thành phố, trong đó có giáo dục và đào tạo. Mặc dù đã có các chính sách, giải pháp tạo điều kiện cho tất cả trẻ em được tiếp...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách của thành phố hồ chí minh về đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư và những kết quả đạt được, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 88 CHÍNH SÁCH CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢM BẢO CƠ HỘI HỌC TẬP CHO TRẺ EM NHẬP CƯ VÀ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Ho Chi Minh City’s policy on ensuring learning opportunity for migrant children and the achievements PGS.TS. Ngô Minh Oanh(1), ThS. Hồ Sĩ Anh(2) (1),(2) Trường Đại học Sư phạm TP.HCM Tóm tắt Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục và đào tạo của đất nước. Với sự phát triển về kinh tế, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, nhà máy, xí nghiệp đã ra đời, thu hút số lượng lớn lao động nhập cư. Việc tăng dân số đã gia tăng áp lực lên các dịch vụ và an sinh xã hội của Thành phố, trong đó có giáo dục và đào tạo. Mặc dù đã có các chính sách, giải pháp tạo điều kiện cho tất cả trẻ em được tiếp cận giáo dục, đào tạo. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trẻ em nhập cư vẫn bị thiệt thòi. Để làm rõ thực trạng trên, bài viết tập trung nghiên cứu, phân tích chính sách hỗ trợ trẻ em trẻ nhập cư của Thành phố, thực trạng cơ hội học tập của trẻ nhập cư và những kết quả đạt được. Từ khóa: chính sách, cơ hội học tập, Thành phố Hồ Chí Minh, trẻ em nhập cư Abstract Ho Chi Minh City is the Vietnamese center of economy, culture, science, education and training. With rapid economic development, many industrial parks, export processing zones, factories and enterprises were born, attracting a large number of migrant workers. Population growth has increased pressure on the city's services and social security, including education and training. Although there are policies and solutions to create conditions for all children to access education and training, migrant children, due to many different causes, are still disadvantaged. To clarify the above situation, the article focuses on analyzing a number of policies to support children in general and migrant children in particular into Ho Chi Minh City, the reality of learning opportunities of migrant children and its achievements. Keywords: policy, learning opportunities, Ho Chi Minh City, migrant children 1. Đặt vấn đề Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục lớn của cả nước, được xếp loại đô thị loại đặc biệt của Việt Nam. Thành phố có 24 quận, huyện, trong đó 19 quận và 5 huyện, với 322 phường, xã, thị trấn. Kinh tế Thành phố tăng trưởng cao, bình quân hơn 11%/năm. Tuy chỉ chiếm 0,6% về diện tích tự nhiên và 8,4 % dân số cả nước, nhưng Thành phố đóng góp 21,3% GDP cả nước, 29,38% tổng thu ngân sách; là hạt nhân Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam và trung tâm của vùng Nam Bộ, đóng góp Email: ngominhoanh@yahoo.com.vn NGÔ MINH OANH - HỒ SĨ ANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 89 30% trong tổng GDP của cả vùng. (Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh, 2018, tr. 23). Với việc ra đời các khu công nghiệp, khu chế xuất, kéo theo một số lượng lớn dân nhập cư đã làm nảy sinh các vấn đề như việc làm, giáo dục, nhà ở, y tế, dịch vụ, đặc biệt là cơ hội học tập và giáo dục của con em người lao động nhập cư. Kết quả điều tra dân số vào năm 2017 là 8.643.044 người, mật độ trung bình đến 4.126 người/km². Tuy nhiên, nếu tính cả những người cư trú không đăng ký hộ khẩu và tạm trú thì dân số thực tế của Thành phố Hồ Chí Minh trên 13 triệu người (Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh, 2018, tr. 47). Số liệu của Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy dân số giai đoạn 2011 – 2017, mỗi năm tăng gần 180.000 người, trong đó tăng cơ học do nhập cư gấp 1,5 lần tăng dân số tự nhiên. Dân số nhập cư bình quân tăng trên 100.000 người mỗi năm (Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh, 2018, tr. 47). Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 1.514.734 trẻ em độ tuổi 0-16, với 16.054 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, và 35.097 em (bao gồm 32.378 trẻ sống trong các hộ nghèo) đang có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, 25.030 trẻ sống trong các hộ cận nghèo và 350.000 trẻ sống trong các hộ nhập cư chỉ có đăng kí tạm trú năm 2017 (Unicef & UBND Thành phố Hồ Chí Minh, 2017, tr. 16). Dự báo dân số của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn tăng nhanh trong 2 thập kỉ tới, tạo áp lực lớn là phải điều chỉnh các dịch vụ xã hội thiết yếu để đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng, nhất là lĩnh vực giáo dục – đào tạo. Việc nghiên cứu thực trạng và chính sách đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư tại Thành phố Hồ Chí Minh nhằm đưa ra các chính sách, giải pháp là một nghiên cứu rất cần thiết. 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của bài báo là chính sách của Thành phố Hồ Chí Minh với việc đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư tại Thành phố. Khách thể nghiên cứu chủ yếu là trẻ em dưới 16 tuổi theo Luật trẻ em 2016, tương ứng với lứa tuổi từ học sinh trung học cơ sở trở xuống. Trong bài báo này chúng tôi tập trung nghiên cứu vào đối tượng học sinh ở hai cấp học là tiểu học và trung học cơ sở. Phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu Chúng tôi sử dụng các phương pháp khảo cứu tài liệu và phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, sau đó sử dụng phần mềm SPSS 23.0 và phần mềm MS.Excel để tổng hợp, thống kê và xử lý, phân tích số liệu khảo sát được. Chúng tôi đã thiết kế 7 bảng hỏi, với trên 30 chỉ tiêu cho mỗi bảng hỏi, khảo sát trên 844 học sinh tiểu học và trung học cơ sở, 769 phụ huynh học sinh, 226 giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp để có cái nhìn khách quan, toàn diện về những chính sách của Thành phố Hồ Chí Minh đối với việc đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư. 3. Chính sách và biện pháp của TP. Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư 3.1. Thực trạng việc đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư TP. Hồ Chí Minh Về giáo dục phổ thông, tính đến tháng 1/2018, Thành phố có 1.906 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên, với 1.470.599 học sinh và 69.848 giáo viên. Trong đó, Tiểu học có 482 trường; THCS có 264 trường và giáo dục thường xuyên có 29 trung tâm (Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh, 2018, tr.295, 297, SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 90 298). Tuy nhiên do tình trạng học sinh nhập cư tăng nhanh nên tình trạng quá tải trường lớp, cơ sở vật chất và giáo viên nên việc đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư còn nhiều bất cập. Đối với trẻ em ở trường Tiểu học, THCS, Trung tâm GDTX và các cơ sở dạy nghề, trong nhiều năm qua, Thành phố đã có nhiều chính sách và biện pháp để tạo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư, tuy nhiên bức tranh thực trạng về cơ hội học tập của trẻ em nhập cư được thể hiện như sau: Thứ nhất, ở những khu vực có nhiều lao động nhập cư, một số trường công đã bị quá tải và không có khả năng tiếp nhận hết trẻ em nhập cư. Nếu các trường tiểu học và THCS cố gắng thu nhận hết học sinh thì số học sinh bình quân trên một giáo viên và số học sinh trên một lớp lớn sẽ có ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học. Thứ hai, một bộ phận trẻ em nhập cư vào học ở các trung tâm giáo dục thường xuyên nhưng chất lượng giáo dục thường xuyên thường không cao do nhiều nguyên nhân khác nhau như cơ sở vật chất, thiếu giáo viên giỏi.v.v. Ngoài ra, chính sách miễn học phí vào các trường dạy nghề chỉ dành cho học sinh tốt nghiệp THCS có hộ khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh, mà không dành cho học sinh nhập cư nên chưa khuyến khích được trẻ em nhập cư vào học ở các trường nghề. Thứ ba, các lớp học tình thương do các tổ chức, cá nhân mở ra góp phần thu hút một bộ phận trẻ em vào học, tuy nhiên, hiện nay chưa có số liệu thống kê đầy đủ về số lượng và chất lượng các lớp học này, nhất là về chất lượng giáo dục. Đối với trẻ em ngoài nhà trường Trẻ em ngoài nhà trường (TENNT) là trẻ em chưa bao giờ đi học hoặc đã từng đi học nhưng bỏ học. Sở Giáo dục và Đào tạo lần đầu tiên tổng hợp dữ liệu về TENNT năm học 2014 – 2015. Tỉ lệ TENNT độ tuổi 5 tuổi và tiểu học của trẻ em trai và gái tương đương nhau, nhưng ở độ tuổi THCS gần 70% TENNT là gái. Điều này cho thấy sự khác biệt về giới, mà theo đó các bé trai gặp nhiều bất lợi hơn, cần phải có giải pháp tác động để các bé trai không bỏ học giữa chừng. Trẻ em nhập cư chiếm phần lớn trong tổng số TENNT ở độ tuổi 5 tuổi và tiểu học, tỷ lệ này lần lượt là 92% và 86,4%, điều này cho thấy trẻ em nhập cư ở hai độ tuổi này thiệt thòi hơn nhiều so với trẻ em có hộ khẩu. Bảng 1: Trẻ em ngoài nhà trường tại Thành phố Hồ Chí Minh năm học 2014 – 2015 5 tuổi Tiểu học THCS Số lượng % Số lượng % Số lượng % Tổng số 1.488 100 1.683 100 6.357 100 Trẻ em gái 698 46,9 842 50,0 2017 31,7 Trẻ dân tộc thiểu số 44 3,0 57 3,4 120 1,9 Trẻ khuyết tật 2 0,1 159 9,4 964 15,2 Trẻ nhập cư 1.369 92,0 1.454 86,4 2.685 42,0 Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh năm học 2014 - 2015 NGÔ MINH OANH - HỒ SĨ ANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 91 Tỉ lệ tốt nghiệp từng cấp học theo tình trạng cư trú của dân số, từ thực trạng mức độ tiếp cận giáo dục khác nhau của trẻ em các nhóm cư dân khác nhau cho thấy, có sự khác biệt về điều kiện được đi học của trẻ em có hộ khẩu và trẻ em nhập cư chưa có hộ khẩu. Mức độ khác biệt này đã ảnh hưởng đến tỉ lệ tốt nghiệp tiểu học, THCS và THPT của các nhóm cư dân khác nhau. Bảng 2 dưới đây cho thấy có sự khác nhau về tỉ lệ tốt nghiệp các cấp năm 2004 chia theo tình trạng cư trú. Bảng 2: Tỉ lệ tốt nghiệp từng cấp học năm 2004 chia theo tình trạng cư trú (%) Đối tượng Toàn thành phố Dân số KT1, KT2 Dân số KT3 Dân số KT4 11-14 tuổi đã tốt nghiệp tiểu học 89,75 91,12 85,10 77,80 15-18 tuổi đã tốt nghiệp THCS 66,17 69,27 57,20 52,05 19-24 tuổi đã tốt nghiệp THPT 37,44 36,10 31,59 41,83 Nguồn: Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh (2005). Chỉ số phát triển con người HDI thành phố Hồ Chí Minh 1999 – 2004. Hiện nay tỉ lệ tốt nghiệp tiểu học, THCS theo các độ tuổi đã cao hơn, cụ thể là Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi Mức độ 1, đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS. Tuy nhiên, tỉ lệ hoàn thành tiểu học nhóm cư dân có KT1 và KT2 cao hơn nhóm cư dân KT3 là 1,1 lần, tốt nghiệp THCS cao hơn 1, 2 lần. Điều đó cho thấy trẻ em nhập cư còn thiệt thòi hơn so với trẻ em có hộ khẩu tại thường trú. Thành phố cần có nhiều chính sách và biện pháp mạnh mẽ hơn nữa trong việc đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư. 3.2. Chính sách của Thành phố Hồ Chí Minh về đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư Trên cơ sở những chính sách của quốc tế, quốc gia và tình hình thực tế của địa phương, Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành các văn bản về chương trình hành động, các quyết định, các chính sách, biện pháp cụ thể để hỗ trợ và đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nói chung và trẻ em nhập cư. Cụ thể: - Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em của Thành phố: Năm 2013, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em của thành phố giai đoạn 2013 – 2020 tại Quyết định số 3213/QĐ-UBND ngày 18/6/2013 của UBND thành phố. Theo đó, Thành phố xác định các kế hoạch cụ thể cho trẻ em, nhất là đối với trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, trẻ em nhập cư. - Quyết định 953/QĐ-UBND ngày 7/3/2016 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh về ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 535/QĐ-TTg ngày 14/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Khuyến nghị của Ủy ban về Quyền trẻ em của Liên Hiệp quốc: Mục tiêu của Kế hoạch này xác định rõ trách nhiệm của các Sở, ngành, đoàn thể từ cấp Thành phố đến cấp phường, SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 92 xã, thị trấn trong thực hiện quyền trẻ em một cách đồng bộ, toàn diện và hiệu quả. Phạm vi thực hiện trên phạm vi toàn thành phố, trong đó ưu tiên địa bàn nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, địa bàn đông trẻ nhập cư, trẻ em lao động sớm. - Quyết định 1394/QĐ-UBND ngày 9/4/2018 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh về ban hành Kế hoạch huy động trẻ ra lớp và tuyển sinh vào các lớp đầu cấp từ năm học 2018 – 2019: Quyết định này đưa ra nguyên tắc đảm bảo đủ chỗ cho con em thành phố, đặc biệt là con em gia đình chính sách, gia đình nghèo, công nhân; phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục bậc trung học. Thực hiện tốt hướng nghiệp và phân luồng sau THCS; khuyến khích học sinh thi vào lớp 10 chọn nguyện vọng phù hợp khả năng, gần nơi cư trú thuận lợi cho việc học, giảm áp lực giao thông theo chủ trương của Thành phố. Các biện pháp đề ra là: Tuyển sinh vào lớp 1, huy động 100% trẻ 6 tuổi đang cư trú trên địa bàn quận, huyện vào học lớp 1 theo tuyến, thời gian tuyển từ 01/7 đến 31/7 hằng năm. Tuyển sinh vào lớp 6, học sinh trong độ tuổi đã hoàn thành chương trình tiểu học ở quận, huyện nào được vào học lớp 6 trên địa bàn đó. Ưu tiên học sinh thường trú trên địa bàn. Công tác tuyển sinh từ 15/6 và kết thúc vào 17/7 hằng năm. Tuyển sinh vào lớp 10, học sinh tốt nghiệp THCS tại TP. Hồ Chí Minh trong độ tuổi đều được tham gia dự tuyển vào lớp 10 THPT công lập. Thành phố còn tuyển sinh các lớp tăng cường ngoại ngữ tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật,...và chương trình tích hợp tại các trường tiểu học, THCS và THPT. Như vậy, tất cả các học sinh đã học, tốt nghiệp ở cấp dưới trên địa bàn thành phố đều được dự tuyển vào lớp đầu cấp ở cấp học trên, không phân biệt có hộ khẩu hay không có hộ khẩu. Chỉ có tuyển sinh vào lớp 6 có quy định là ưu tiên những học sinh có hộ khẩu thường trú trên địa bàn. Tuy nhiên, học sinh diện tạm trú (KT2, KT3, KT4) vẫn được dự tuyển. Công tác tuyển sinh cũng kéo dài gần một tháng, giúp cho học sinh và phụ huynh có thời gian lựa chọn, cân nhắc trường cho con em học. Đây là một chính sách rất khoa học và nhân văn, không áp đặt hay gây áp lực cho phụ huynh nếu chỉ giới hạn thời gian tuyển sinh rất ngắn. 4. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện chính sách đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư của Thành phố Hồ Chí Minh 4.1. Những kết quả đạt được về cơ hội học tập Đối với Giáo dục phổ thông, nhìn chung, các cơ sở giáo dục phổ thông công lập đáp ứng nhu cầu đi học của người dân. Học sinh phổ thông thành phố Hồ Chí Minh tăng 3,3% trong giai đoạn 2011 – 2015 (chủ yếu ở cấp THCS (4,2%) và tiểu học (3,7%). Để đáp ứng sự gia tăng này, trường học và lớp học đã được xây dựng thêm và cho phép tăng sĩ số học sinh trên lớp. Kết quả là các cơ sở giáo dục công lập Thành phố đáp ứng 98% nhu cầu đi học tiểu học và 96% nhu cầu đi học THCS và 80% nhu cầu đi học THPT. Điều này có nghĩa là cơ hội nhập học cho học sinh nhập cư được mở rộng. Việc chuyển tiếp từ THCS lên THPT, có khoảng 80% học sinh tốt nghiệp THCS vào lớp 10 công lập thông qua kì thi tuyển sinh vào lớp 10. Con số này dự kiến sẽ giảm 3% từ nay đến năm 2020. Chính sách NGÔ MINH OANH - HỒ SĨ ANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 93 này nhằm khuyến khích học sinh xem xét các lựa chọn thay thế cho các trường THPT công lập sau tốt nghiệp THCS gồm các trường ngoài công lập, trung tâm giáo dục thường xuyên (GDTX) hoặc trường dạy nghề. Một điểm nổi bật trong năm 2018, đó là Hội đồng Nhân dân Thành phố đã thông qua nghị quyết về học phí đối với học sinh cấp THCS. Theo đó, học phí cấp này sẽ thu mức thấp nhất trong khung học phí mà Chính phủ quy định, đối với các quận là 60.000đ/tháng và các huyện là 30.000đ/tháng, việc thu học phí theo quy định mới áp dụng từ ngày 1/1/2919. Giáo dục thường xuyên và giáo dục phổ cập, toàn thành phố có 36 trung tâm GDTX, mỗi quận huyện có 1 trung tâm và 12 trung tâm GDTX thuộc quản lí của Thành phố; có 322 trung tâm học tập cộng đồng ở mỗi phường, xã, thị trấn. Các trung tâm này thực hiện nội dung giáo dục thường xuyên và tham gia phổ cập giáo dục, thu hút một số lượng lớn trẻ em nhập cư. Ngoài ra, trên địa bàn Thành phố còn có các “lớp học tình thương”, “lớp học phổ cập” do các tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện, tổ chức phi chính phủ,và các cá nhân mở và hỗ trợ nhằm tạo thêm cơ hội cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em nghèo thuộc các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, chủ yếu là gia đình nhập cư không có điều kiện cho con em đi học chính quy. Các lớp này đặt dưới sự quản lí chuyên môn của một trường phổ thông công lập và sự quản lí nhà nước của chính quyền địa phương. 4.2. Kết quả đạt được về chất lượng giáo dục Chất lượng giáo dục Thành phố đã có chuyển biến tích cực ở tất cả các bậc học và cấp học, nhưng chưa đồng đều giữa các đơn vị, địa bàn, các loại hình trường lớp. Báo cáo từ Ngành Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định một số điểm sau: - Giáo dục tiểu học: Năm học 2015 – 2016, 100% các phường, xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 1; 56/490 (11,4%) trường học đạt chuẩn quốc gia; tỉ lệ trường học dạy 2 buổi/ngày đạt 61,2%. - Giáo dục trung học: Trong năm học 2015-2016, 28/264 (10,6%) trường THCS và 3/190 (1,6%) trường THPT được công nhận đạt chuẩn quốc gia; Năm 2015, tỉ lệ tốt nghiệp THCS đạt 99,64% và tỉ lệ tốt nghiệp THPT đạt 97,51%. - Kiểm định chất lượng giáo dục được thực hiện thường xuyên, năm học 2014- 2015 đã có 95% các trường hoàn thành tự đánh giá, 25% số trường được đánh giá ngoài (mầm non: 16,6%, tiểu học: 24,6%, THCS: 36,3%, THPT: 20,9%). Các trường được đánh giá ngoài đều đạt tiêu chuẩn chất lượng. 5. Những tồn tại, hạn chế về chính sách đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư Mặc dù Thành phố Hồ Chí Minh, ngành Giáo dục – Đào tạo đã có nhiều nổ lực trong việc ban hành chính sách, đề ra các biện pháp đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư, nhưng khu vực giáo dục công lập vẫn chưa đáp ứng được tất cả nhu cầu nhập học của trẻ em nhập cư. Ở cấp tiểu học và THCS, nhiều trường học đã được xây dựng thêm và ngành giáo dục đã cho phép tăng sĩ số học sinh trên lớp, nhưng ở những khu vực có nhiều trẻ em nhập cư, một số trường tiểu học và THCS không có khả năng nhận hết tất cả học sinh. Số học sinh/giáo viên và số học SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 94 sinh/lớp cao đã ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục THCS được đánh giá thông qua kì thi tuyển sinh vào lớp 10 trung học phổ thông, một kỳ thi mang tính cạnh tranh cao cho thấy có sự không đồng đều về chất lượng giữa các quận, huyện, giữa các quận nội thành và ngoại thành, nơi có tỷ lệ học sinh nhập cư đông. Chất lượng giáo dục thường xuyên, nơi thu hút nhiều trẻ em nhập cư vẫn còn là mối quan ngại của các bậc cha mẹ. Chính sách miễn học phí vào các trường dạy nghề chỉ dành cho học sinh tốt nghiệp THCS có hộ khẩu thường trú, không dành cho trẻ nhập cư. “Lớp học tình thương” và “lớp học phổ cập” đã tạo cơ hội để những trẻ em thiệt thòi được đi học. Tuy nhiên, không có thống kê chính thức và cập nhật về các lớp học này, nhất là về chất lượng học tập và giáo dục. Một số lớp được mở ra nhưng chưa được chính quyền các cấp cho phép. Như vậy, có thể nói, số trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trên thực tế nhiều hơn số cơ quan chức năng Thành phố báo cáo. Thiếu trường lớp trong bối cảnh triển khai phổ cập giáo dục cho trẻ em 5-14 tuổi là một rào cản đối với việc đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục cho tất cả trẻ em, đặc biệt là trẻ em nhập cư. Ở những khu vực thiếu trường, lớp học, trẻ em nhập cư được xét vào trường công lập sau khi học sinh có hộ khẩu và KT3 đã được nhận. Nếu còn chỗ thì các em học sinh nhập cư mới được nhận, còn không thì phải đi học ở các trường xa nơi cư trú, các trung tâm GDTX hoặc các lớp phổ cập có chất lượng thấp. Mặc dù không phải phổ biến và trầm trọng nhưng vẫn còn tình trạng khác biệt về kinh tế, điều kiện học tập; đặc biệt là vẫn có một bộ phận học sinh ít được nhà trường và thầy cô quan tâm (1,4% số học sinh được hỏi), tình trạng phân biệt đối xử với học sinh nhập cư (0,4%), tình trạng bắt nạt hay các hình thức bạo lực học đường khác. Chí tình trạng này đã làm cho học một số học sinh sinh nhập cư nãn lòng khi đến trường, một số học sinh khác đã bỏ học. Thu nhập thấp ở những gia đình nhập cư là một trong những, nguyên nhân cản trở khả năng trẻ em nhập cư thành phố Hồ Chí Minh được đảm bảo quyền giáo dục và học tập. Sự gia tăng khoảng cách giàu – nghèo đã làm tăng sự bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục giữa học sinh nội thành và ngoại thành và giữa học sinh tại chỗ và học sinh nhập cư. Một số em gia đình thu nhập thấp không có nhiều cơ hội để được học ở các trường tư khi không vào được trường công, mặc dù các em được miễn học phí. 6. Kết luận Để thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo, Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều chính sách ưu tiên để đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nói chung và trẻ em nhập cư nói riêng, tuy nhiên trên thực tế trẻ em nghèo, trẻ nhập cư vẫn còn thiệt thòi so với các trẻ em khác về cơ hội học tập. Chính quyền các cấp Thành phố, các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, gia đình phải có những giải pháp đồng bộ, hiệu quả để đảm bảo tốt hơn nữa cơ hội học tập của trẻ em nhập cư. Trước hết, cần nhận thức đúng đắn về giá trị giáo dục đối với mỗi người, giúp họ phát triển cá nhân và sau đó là phát triển cộng đồng và xã hội, từ đó có những chính sách thiết thực, phù hợp, có tính pháp lí để đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư. Thứ hai, Chính quyền và NGÔ MINH OANH - HỒ SĨ ANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 95 nhà trường cũng cần có những hỗ trợ thiết thực về vật chất, tinh thần, tư vấn để trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em nghèo, trẻ em thiệt thòi và trẻ nhập cư được đi học. Thứ ba, là cần cải thiện công tác qui hoạch, phát triển cơ sở hạ tầng trường lớp để đảm bảo giáo dục toàn diện và bình đẳng giữa tất cả các nhóm trẻ em. Thứ tư, Thành phố cần tiến tới áp dụng chính sách miễn học phí đối với học sinh cấp THCS, thực hiện công bằng giữa học sinh trường tư thục và trường công lập thì việc đảm bảo cơ hội học tập cho trẻ em nhập cư mới thực sự có hiệu quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh. (2018). Niên giám Thống kê TP. Hồ Chí Minh năm 2017. Hà Nội: NXB Thống kê. Quốc hội. (2016). Luật Trẻ em 2016. Luật số 102/2016/QH13, thông qua ngày 05/4/2016, có hiệu lực vào 01/6/2017. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. UBND TP. Hồ Chí Minh. (2016). Quyết định số 935 của UBND TP. Hồ Chí Minh ngày 7/3/2016 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Quyết định số 535/QĐ-TTg ngày 14/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Khuyến nghị của Ủy ban về quyền trẻ em của Liên Hiệp quốc. Tp. Hồ Chí Minh: UBND. UBND TP. Hồ Chí Minh. (2013). Quyết định số 3213/QĐ-UBND ngày 18/6/2013 của UBND TP. Hồ Chí Minh phê duyệt Chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2013 – 2020. Tp. Hồ Chí Minh: UBND. UBND TP. Hồ Chí Minh. (2018). Quyết định 1394/QĐ-UBND ngày 9/4/2018 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh về ban hành Kế hoạch huy động trẻ ra lớp và tuyển sinh vào các lớp đầu cấp từ năm học 2018 – 2019. TP. Hồ Chí Minh: UBND Unicef & UBND TP. Hồ Chí Minh. (2017). Phân tích tình hình trẻ em thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, 2017. Tp. Hồ Chí Minh: UBND. Thành ủy TP. Hồ Chí Minh (2012). Tổng kết Nghị quyết 20-NQ/TW của Bộ Chính trị về Phương hướng nhiệm vụ phát triển TP. Hồ Chí Minh đến năm 2010. Website Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh, https://www.hcmcpv.org.vn/ Sở Giáo dục – Đào tạo TP. Hồ Chí Minh. (2105). Báo cáo Tổng kết năm học 2014 – 2015.Vebsite Ngày nhận bài: 12/02/2019 Biên tập xong: 15/3/2019 Duyệt đăng: 20/3/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf60_4006_2214965.pdf
Tài liệu liên quan