Tài liệu Phương pháp dạy kỹ năng đọc hiểu tiếng nước ngoài theo đường hướng giao tiếp và hành động - Phạm Thị Hồng Hà: 35KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đọc hiểu là một trong bốn kỹ năng hết sức quan 
trọng cần dạy và phát triển cho người học ngoại 
ngữ. Rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc hiểu là 
nhiệm vụ không thể thiếu được trong quá trình 
dạy học. Kỹ năng này giúp cho người học có khả 
năng không chỉ đọc hiểu những bài trong chương 
trình học mà còn có thể tự đọc các tài liệu khác, 
nhất là các tài liệu chuyên ngành. Trong khuôn 
khổ bài viết này, chúng tôi trình bày các giai đoạn 
dạy đọc hiểu một văn bản bằng tiếng nước ngoài 
và một số hoạt động được sử dụng trong từng 
giai đoạn theo hướng đổi mới dạy kỹ năng đọc 
hiểu văn bản bằng tiếng nước ngoài.
2. NỘI DUNG
2.1. Đọc hiểu và mục đích của kỹ năng đọc hiểu
Đọc hiểu có vai trò quan trọng trong việc dạy 
và học một ngôn ngữ. Theo quan điểm của các 
nhà nghiên cứu thì đó là khả năng nắm bắt được 
thông tin từ các văn bản một cách chính xác và 
hiệu quả. Có ba yếu tố ảnh hư...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 946 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp dạy kỹ năng đọc hiểu tiếng nước ngoài theo đường hướng giao tiếp và hành động - Phạm Thị Hồng Hà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
35KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đọc hiểu là một trong bốn kỹ năng hết sức quan 
trọng cần dạy và phát triển cho người học ngoại 
ngữ. Rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc hiểu là 
nhiệm vụ không thể thiếu được trong quá trình 
dạy học. Kỹ năng này giúp cho người học có khả 
năng không chỉ đọc hiểu những bài trong chương 
trình học mà còn có thể tự đọc các tài liệu khác, 
nhất là các tài liệu chuyên ngành. Trong khuôn 
khổ bài viết này, chúng tôi trình bày các giai đoạn 
dạy đọc hiểu một văn bản bằng tiếng nước ngoài 
và một số hoạt động được sử dụng trong từng 
giai đoạn theo hướng đổi mới dạy kỹ năng đọc 
hiểu văn bản bằng tiếng nước ngoài.
2. NỘI DUNG
2.1. Đọc hiểu và mục đích của kỹ năng đọc hiểu
Đọc hiểu có vai trò quan trọng trong việc dạy 
và học một ngôn ngữ. Theo quan điểm của các 
nhà nghiên cứu thì đó là khả năng nắm bắt được 
thông tin từ các văn bản một cách chính xác và 
hiệu quả. Có ba yếu tố ảnh hưởng đến quá trình 
PHƯƠNG PHÁP DẠY 
KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU 
TIẾNG NƯỚC NGOÀI THEO
ĐƯỜNG HƯỚNG GIAO TIẾP 
VÀ HÀNH ĐỘNG
PHẠM THỊ HỒNG HÀ
Học viện Khoa học Quân sự
TÓM TẮT
Đọc hiểu là một trong bốn kỹ năng không 
thể thiếu đối với người học ngoại ngữ. Mục 
tiêu của kỹ năng này là dần đưa người học 
nắm được nghĩa của văn bản, đọc và hiểu 
được các loại văn bản khác nhau. Việc dạy 
đọc hiểu nhằm mục đích cuối cùng là giúp 
người học đọc được những văn bản mà họ 
vốn không quen thuộc với một tốc độ hợp 
lý, một cách hiểu phù hợp. Bài báo giới 
thiệu và phân tích ba giai đoạn dạy đọc 
hiểu một văn bản bằng tiếng nước ngoài 
và một số hoạt động được sử dụng trong 
từng giai đoạn theo đường hướng giao 
tiếp và hành động.
Từ khóa: giai đoạn dạy đọc hiểu, kỹ năng đọc 
hiểu, mục đích đọc hiểu, văn bản đọc
36 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
đọc là: văn bản, kiến thức nền tảng của người đọc 
và các ngữ cảnh liên quan để hiểu văn bản.
Swan (1975) cho rằng: “Người có khả năng đọc tốt 
là người có thể nắm được thông tin tối đa của văn 
bản với sự hiểu biết tối thiểu”. Trong khi đó Grellet 
(1981) chỉ ra rằng, “đọc hiểu hoặc hiểu một văn 
bản nghĩa là giải nén các thông tin cần thiết từ nó 
một cách có hiệu quả nhất”.
Theo Deschênes (1988, p.15), đọc hiểu được coi 
như một quá trình xử lý phức tạp các thông tin 
được chứa trong một văn bản. Đó không phải là 
quá trình thụ động giải mã mang tính ghi nhớ 
các chữ, các từ, các câu hay các âm mà là một 
hoạt động đa diện với mục đích xây dựng một 
biểu trưng ngữ nghĩa của cái được viết hay được 
nói1. Đọc hiểu là một quá trình tương tác giữa cái 
được đọc với toàn bộ kiến thức và kinh nghiệm 
của người học cần để mang đến cho một văn bản 
một nghĩa nào đó.
Mặc dù ý kiến của các nhà khoa học không đồng 
nhất nhưng tất cả họ đều cho rằng, đọc hiểu là 
quá trình trong đó người đọc có thể nhận ra các 
hình thức đồ họa của các văn bản và hiểu được 
hàm ý đằng sau những hình thức đó.
Mục đích đọc hiểu
Hiểu một văn bản viết liên quan đến việc hiểu 
ý định hay mục đích văn bản đó. Hiểu một văn 
bản viết bằng tiếng mẹ đẻ hay tiếng nước ngoài 
thông thường được phân thành ba cấp độ:
(1) Hiểu tổng quát hay hiểu ý chính của văn bản 
(nắm được lớp nghĩa hiển ngôn của văn bản).
(2) Hiểu chi tiết là hiểu được các ý chính của từng 
đoạn và của toàn bài đọc.
(3) Hiểu sâu là khám phá ra các nghĩa hàm ẩn của 
văn bản đòi hỏi đọc nhiều đoạn mới hiểu, thậm 
chí đọc cả bài mới có thể hiểu được.
Như vậy mục tiêu của kỹ năng đọc hiểu là dần 
đưa người đọc nắm được nghĩa của văn bản, đọc 
và hiểu được các loại văn bản khác nhau. Mục tiêu 
đầu tiên của kỹ năng này không phải là hiểu ngay 
lập tức một văn bản mà là dần dần học được kỹ 
thuật đọc sau một thời gian dài rèn luyện nhằm 
gây được hứng thú đọc sách báo bằng tiếng nước 
ngoài cho người học. Các bước đọc hiểu cần phải 
được rèn luyện thường xuyên, liên tục để người 
học có các chiến lược đọc hợp lý và từ đó hiểu 
được nội dung văn bản.
Người học cần phải hiểu được bài đọc muốn nói 
về ai, về cái gì, nắm bắt được thông tin, nhưng 
cũng cần nắm được trật tự, cách lập luận trong 
văn bản (quan hệ nhân quả, trật tự tuyến tính.), 
làm chủ được các quy tắc ngữ pháp cơ bản (hợp 
giống hợp số, các kiểu câu, các dạng thức của 
động từ), và cuối cùng hiểu được ẩn ý của tác 
giả với sự trợ giúp của một hành trang kiến thức 
ngôn ngữ, kiến thức văn hóa-xã hội vững vàng và 
phong phú của người học.
Cần phải chú ý rằng, người học có thói quen cứ 
gặp một văn bản mới là ngay lập tức đọc lần 
lượt từng từ sau đó tra từ điển, không tìm hiểu 
mối quan hệ giữa văn bản và các yếu tố ngoài 
văn bản, điều này vừa mất thời gian vừa khiến 
cho việc hiểu nội dung không chính xác, đầy đủ; 
không phân biệt được ý chính, ý phụ; không có 
một cái nhìn toàn diện về văn bản. Mặt khác, vì 
sợ trả lời sai nên người học thường bám vào từng 
chữ một của bài khoá, thích trích dẫn hơn là diễn 
đạt lại theo ý hiểu của mình. 
Vì thế, việc dạy đọc hiểu ngày nay là phải hướng 
cho người học thay thế cách đọc thụ động bằng 
cách đọc tích cực, chủ động khám phá văn bản 
bằng cách huy động các kỹ thuật, các chiến lược 
đọc hiểu hiệu quả.
Rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, việc hiểu một 
văn bản là quá trình tương tác giữa độc giả và 
văn bản đó. Khi đọc một văn bản, người đọc phải 
sử dụng những kiến thức có trước để hiểu được 
nghĩa của văn bản. Như vậy kiến thức có trước 
của người đọc phần nào quyết định việc hiểu văn 
bản. Họ cũng có cùng quan điểm về những yếu tố 
quan trọng trong việc đọc hiểu đó là người đọc, 
văn bản và ngữ cảnh. 
Người đọc làm chủ quá trình đọc là người đọc 
linh hoạt trong việc áp dụng nhiều kỹ thuật đọc 
37KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
hiểu khác nhau tuỳ theo mục tiêu họ đã định ra 
và là người nhận thức được khi nào họ đã đạt 
được mục tiêu đề ra. Họ có thể đọc lướt để nắm 
được ý chung của văn bản, đọc chi tiết khi cần tìm 
ra những điểm đặc biệt cần chú ý hoặc đọc sâu để 
hiểu từng chi tiết, nhất là các chi tiết tinh tế.
Cần phải làm cho người học nhận thức được tầm 
quan trọng của cấu trúc văn bản, khuyến khích 
họ xử lý văn bản theo đơn vị ngữ nghĩa chứ 
không phải từng từ một. Theo Smith (1979) thì 
khi đọc chúng ta không chỉ nhận biết được văn 
phong của tác giả văn bản mà còn có thể hiểu 
được ý nghĩa của nó. 
Tốt nhất là cho người học được đọc để hiểu toàn 
bộ một văn bản hơn là chỉ đưa ra những trích 
đoạn. Chúng ta càng cung cấp nhiều dữ liệu về 
ngữ cảnh bao nhiêu thì người học càng dễ hiểu 
bài đọc bấy nhiêu và nắm bắt được văn phong 
của tác giả. Một bộ tài liệu tập hợp những bài đọc 
với độ khó tăng dần sẽ rất có ý nghĩa với người 
học với trình độ sơ cấp hoặc trung cấp. Để đọc 
được một cách hiệu quả, người học cần đọc nhiều 
và phải có hoặc tạo ra cho mình hứng thú đọc. Vì 
vậy, các bài đọc phải tạo ra sự quan tâm và họ có 
cái để nói về các bài đọc này.
Việc dạy đọc hiểu nhằm mục đích cuối cùng là 
giúp người học đọc những văn bản mà họ vốn 
không quen thuộc với một tốc độ hợp lý, một 
cách hiểu phù hợp dù đọc với bất kỳ mục đích gì.
2.2. Các giai đoạn dạy đọc hiểu
Đọc và hiểu được các văn bản bằng tiếng nước 
ngoài hoàn toàn không đơn giản vì có sự khác 
nhau khá lớn giữa hệ thống chữ viết, cấu tạo 
ngôn ngữ cũng như tư duy giữa các ngôn ngữ 
khác nhau.
Hiện nay, phương pháp dạy đọc hiểu hay dạy 
người học tiếp cận một văn bản đọc thường gồm 
3 giai đoạn chủ yếu là: trước khi đọc, trong khi đọc, 
và sau khi đọc.
Các bước đọc hiểu mà ta tiến hành là các bước 
tiếp cận chung với tất cả các tài liệu viết. Chúng 
ta cần phải tự đặt mình vào tình huống học tập 
thông thường trên lớp bằng cách sử dụng kĩ 
năng đọc hiểu để làm cho người học đạt đến một 
mục tiêu mới.
Trước khi đọc
Trước khi đọc và chuẩn bị cho việc đọc là một 
bước không thể thiếu được để làm cho việc tiếp 
cận văn bản và giúp cho người đọc đưa ra các giả 
thiết chính xác hơn và dễ dàng hơn. Bước này là 
để chuẩn bị cho người học tiếp cận văn bản sắp 
đọc khi đã chắc chắn rằng mình có đủ kiến thức 
về chủ đề văn bản, kiến thức ngôn ngữ và kiến 
thức văn hoá-xã hội để hiểu một văn bản. Trong 
trường hợp họ chưa đủ kiến thức thì người dạy 
phải cung cấp cho họ, vì vậy phải giới thiệu cho 
họ những từ khoá và những đơn vị từ vựng cũng 
như các cấu trúc ngữ pháp. Chúng ta có thể làm 
việc đó bằng cách sử dụng định nghĩa, thông 
qua ngữ cảnh, dịch, cung cấp các từ hoặc ngữ có 
nghĩa tương đương với cái người học cần tìm.
Khi đã làm xong bước này, người học có văn bản 
trong tay, chúng ta có thể yêu cầu họ xem qua 
và nắm được một số yếu tố như hình minh họa, 
tiêu đề, đề mục, từ khoá - những yếu tố giúp họ 
đặt giả thiết về nội dung bao trùm của văn bản 
Chúng ta có thể yêu cầu người học sử dụng phiếu 
phân tích để định hướng việc đọc trong suốt quá 
trình trước khi đọc. Phiếu này thường có một số 
tiêu chí đặc biệt như loại hình văn bản (ví dụ như 
một bài báo, một bức thư, một bài văn lập luận, 
một bài văn miêu tả), cấp độ ngôn ngữ (ngôn 
ngữ trang trọng, ngôn ngữ thân mật, tiếng lóng)
Cụ thể hơn, khi dạy, ta phải cung cấp văn bản viết 
cho người học và cho họ làm việc theo các nhóm 
nhỏ để có thể so sánh được kết quả của họ; phải 
đặt cho họ những câu hỏi về đặc trưng của thể 
loại văn bản đó ngay trước khi đọc. Người học sẽ 
phải chú ý đến các thành phần khác ngoài nội 
dung văn bản để từ đó hiểu được văn bản một 
cách tổng quát.
Chúng ta có thể sử dụng những câu hỏi xung 
quanh văn bản như: Chủ đề văn bản là gì? Văn 
bản được trích ở đâu? Loại hình văn bản là gì? Cấu 
trúc của văn bản như thế nào? Trong văn bản có 
những từ khóa nào? Ý chính của văn bản là gì?...
38 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Việc chuẩn bị các hoạt động sẽ thay đổi tuỳ theo 
thể loại văn bản và trình độ của người học. Sau 
đây là một số hoạt động trước khi đọc thường 
được sử dụng:
- Khuyến khích người học đặt các giả thiết về văn 
bản dựa trên chỉ dẫn từ hình ảnh kèm theo, thể 
loại văn bản, cách trình bày, tiêu đề và đề mục. 
- Cung cấp hoặc nhắc lại những dữ liệu về ngữ 
cảnh, ví dụ: “các bạn biết gì về?”, “Các bạn có 
nhớ được gì ?” 
- Đưa cho người học bản tóm tắt văn bản đã được 
đơn giản hoá.
- Yêu cầu người học sắp xếp lại trật tự các câu đã 
được đảo lộn hoặc khôi phục lại các câu đã bị chia 
đôi và trộn lẫn vào nhau nhưng chứa những yếu 
tố chủ đạo trong văn bản.
Trong khi đọc
Đầu tiên phải cho người học đọc thầm để tìm ra 
những ý chính. Người dạy có thể yêu cầu người 
học kiểm tra tính đúng đắn của giả thiết họ đã đặt 
ra trước khi đọc và đặt những giả thiết mới, gắn 
nội dung văn bản với kiến thức của bản thân 
Sau đó có thể cho người học đọc thầm một lần 
nữa và đọc kĩ hơn để nhặt ra những thông tin xác 
đáng, sắp xếp chúng và tìm ra mối quan hệ giữa 
chúng, nhất là đối với người học ở trình độ cao. 
Đánh giá việc hiểu văn bản của người học có thể 
được thực hiện thông qua các hoạt động và các 
kĩ thuật khác nhau như thảo luận, đặt câu hỏi, viết 
phiếu Người học cần phải tận dụng những hoạt 
động này để ghi nhớ và có thể sử dụng được từ 
mới mà họ đã gặp trước khi đọc.
Sau khi người học đã hiểu hết các ý của văn bản, 
chúng ta có thể yêu cầu họ đi xa hơn, đưa ra nhận 
xét, đánh giá về văn bản từ các ý hiển ngôn đến 
các suy luận. Như vậy, người học sẽ phải tiến đến 
bước đọc hiểu rất tinh tế để có thể đạt được mục 
tiêu đề ra.
Quả thực, việc cho đọc thầm có khống chế thời 
gian là rất quan trọng. Mục tiêu ở đây là khám 
phá văn bản, và dần đưa người học nắm được ý 
nghĩa của văn bản. Chúng ta có thể đưa cho họ 
một hệ thống câu hỏi hoặc chi tiết cần phải tìm. 
Nhưng những câu hỏi đầu tiên này chỉ cần làm 
cho người học hiểu được ý nghĩa tổng quát của 
văn bản, chưa phải là lúc đòi hỏi người học hiểu 
chi tiết và hiểu sâu.
Tiếp theo, ta có thể chia lớp học thành 2 nhóm, 
yêu cầu một nhóm đọc và tìm các giả thiết và 
nhóm còn lại sẽ kiểm tra các giả thiết đưa ra có 
đúng không. Giáo viên có thể đặt những câu hỏi 
để kiểm tra việc hiểu văn bản của người học bằng 
cách bắt họ xem lại văn bản, đó chính là đọc có 
định hướng. Phải yêu cầu người học giải thích để 
tránh việc họ trả lời ngẫu nhiên.
Nhưng đặc điểm của các câu hỏi này là gì?
- Cần tránh những câu hỏi yêu cầu người học đọc 
văn bản lần lượt từng câu một từ trên xuống dưới 
bởi vì như thế quá đơn giản, mất thời gian và 
không hiệu quả. 
- Giáo viên nên đặt các câu hỏi mở để rèn luyện 
chiến lược đọc của người học. Hạn chế những câu 
hỏi đóng, đặc biệt các câu hỏi mà người học chỉ 
cần trả lời có hoặc không, đúng hoặc sai. Cần yêu 
cầu người học trả lời bằng một câu hoàn chỉnh và 
chứng minh bằng các nội dung trong bài khoá.
- Cũng cần chú ý là không được đặt ra những câu 
hỏi mà bản thân nó đã mang ý trả lời.
- Đơn giản hoá các câu hỏi (vì cái mà chúng ta 
cho là hiển nhiên thì chưa chắc đã hiển nhiên với 
người học).
- Câu hỏi phải phù hợp với trình độ của người học.
Tiếp theo, việc thiết yếu là phải thu hút được sự 
chú ý của người học đối với cách tổ chức văn bản 
bằng tiếng nước ngoài vì nó khác với tiếng mẹ 
đẻ. Chẳng hạn như chúng ta cần giúp người học, 
nhất là người học ở trình độ sơ cấp hoặc trung cấp 
nhặt ra và phân tích các yếu tố khác nhau của văn 
bản như từ nối, những dấu hiệu, dấu chấm câu 
Có thể đặt câu hỏi về các dấu hiệu này bởi vì 
chúng cũng tạo nên ý nghĩa của văn bản. 
39KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Giáo viên không nên xem nhẹ việc giải thích các 
dấu hiệu này (thông thường giáo viên có khuynh 
hướng giải thích các cụm từ trọn vẹn nhiều hơn). 
Từ vựng không phải là thành phần quan trọng 
nhất trong văn bản ngay cả khi việc giải thích 
chúng là rất cần thiết. Cần nhắc lại rằng chúng ta 
không nên yêu cầu người học hiểu toàn bộ văn 
bản và chỉ ra nghĩa của tất cả các từ. 
Trước khi chuyển sang đọc to văn bản, giáo viên 
có thể đọc mẫu (đặc biệt đối với người mới bắt 
đầu học) một cách diễn cảm rồi cho người học 
đọc theo. Giáo viên phải tận dụng lúc này để sửa 
lỗi vễ ngữ âm, về nhịp điệu và ngữ điệu sau khi 
người học đọc xong. 
Dưới đây là một số hoạt động thường được sử 
dụng trong khi đọc:
- Giải thích nghĩa
- Câu hỏi trắc nghiệm khách quan: câu hỏi nhiều 
lựa chọn, câu hỏi đúng/sai và câu hỏi trả lời ngắn
- Nhận diện loại hình văn bản, thể loại văn bản, 
chủ đề (ví dụ: Suy ra từ tiêu đề, đề mục), đối tượng 
tiếp nhận văn bản (ví dụ: công chúng, chuyên gia), 
mục đích của văn bản (ví dụ: cung cấp thông tin, 
gây cười, thuyết phục), đoạn văn bản nào thâu 
tóm nội dung thông tin của văn bản, ý chính của 
mỗi đoạn, văn phong của văn bản (ví dụ: miêu tả, 
châm biếm, hài hước), mối quan hệ giữa người 
viết và người tiếp nhận,
Sau khi đọc
Sau khi đọc xong văn bản, người học sẽ phải sử 
dụng thông tin rút ra từ văn bản để thực hiện một 
dự định hoặc đạt được mục tiêu đã đặt ra. Bertin 
(1988, p.53) đưa ra các ví dụ sau: nấu một món 
ăn sau khi đã đọc công thức nấu ăn, vẽ một bức 
tranh sau khi được nghe miêu tả,  Người dạy 
còn phải yêu cầu người học tóm tắt văn bản, đưa 
ra nhận xét đánh giá về văn bản
Một số nhà nghiên cứu cũng đưa ra cách chia ba 
bước lớn trên thành các giai đoạn nhỏ hơn nữa. 
Những giai đoạn này tạo điều kiện thuận lợi cho 
việc trao đổi giữa người dạy và người học, dẫn dắt 
người học tham gia đầy đủ vào hoạt động học. 
Những hoạt động sau khi đọc cho phép người 
học xử lí văn bản theo cách riêng của mình bằng 
cách thiết lập mối quan hệ giữa bài khoá với ý 
kiến, tình cảm, kinh nghiệm riêng của họ. Những 
hoạt động này chủ yếu là thảo luận và viết một 
văn bản mới. Người học có thể:
- Bày tỏ quan điểm của mình về đề tài và gắn kết 
nó với kinh nghiệm của riêng mình và của những 
người trong lớp.
- Thảo luận về những cách hiểu khác nhau về một 
văn bản và bảo vệ ý kiến của mình.
- Viết những văn bản mới, ví dụ như viết một văn 
bản mới theo mẫu vừa mới đọc.
- Xây dựng lại một văn bản từ những từ khoá, tóm 
tắt một văn bản khai thác một văn bản ở khía 
cạnh ngữ pháp và từ vựng (ví dụ: tìm từ đồng nghĩa 
hoặc từ trái nghĩa với một số từ trong bài khoá...)
3. KẾT LUẬN
Đổi mới dạy và học ngoại ngữ phải được thực 
hiện một cách toàn diện và thường xuyên liên 
tục. Trên đây chỉ là ba giai đoạn chính dạy đọc 
hiểu tiếng nước ngoài theo đường hướng giao 
tiếp và đường hướng hành động. Thực hiện dạy 
đọc hiểu theo ba giai đoạn này chỉ là một phần 
trong đổi mới dạy kỹ năng đọc hiểu tiếng nước 
ngoài. Thực hiện tốt ba bước dạy đọc hiểu này 
chắc chắn sẽ góp phần đổi mới giảng dạy nói 
chung và dạy đọc hiểu các văn bản tiếng nước 
ngoài nói riêng./.
Ghi chú:
1. La compréhension «  est envisagée comme 
un processus complexe de traitement de l’infor-
mation présentée dans un texte Il ne s’agit pas 
d’un processus passif d’encodage mnésique des 
lettres, des mots, des phrases ou des sons mais 
d’une activité mentale multidimensionnelle dont 
le but est la construction d’une représentation sé-
mantique de ce qui est dit ou écrit »(Deschênes, 
1988, p. 15)
40 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Tài liệu tham khảo:
1. Bertin, C. (1988), «Le rôle des stratégies de lec-
ture dans la compréhension des textes», La revue 
canadienne des langues vivantes, Vol 44, no 3, 527-
535.
2. Denhière, G., & Baudet, S. (1992), Lecture, com-
préhension de textes et sciences cognitives. Paris: 
Presses Universitaires de France.
3. Deschênes, A-J. (1988), La compréhension et la 
production de textes. Presses de l’Université du 
Québec.
4. Grellet.F. 91981), Developing Reading Skills,  A 
Practical Guide to Reading Comprehension Exercis-
es. Cambridge: CUP.
5. Smith, F. (1979), La compréhension et l’apprentis-
sage. Montréal: HRW.
6. Swan, M. (1975), Inside Meaning, Cambridge: CUP.
COMMUNICATIVE AND ACTION APPROACHES 
IN TEACHING READING COMPREHENSION IN A 
LANGUAGE CLASS
Abstract: Reading comprehension is one of 
the four integral language skills for learners. 
The reading comprehension skill aims to 
provide good strategies for learners to read and 
understand various documents at a high speed. 
This article introduces and analyzes three phases 
of teaching how to read and comprehend a text 
written in a foreign language, as well as activities 
necessary to be conducted in each phase based 
on communicative and action approaches.
Keywords: reading phases, reading 
comprehension, reading objective, reading 
documents
Ngày nhận: 08/7/2016
Ngày phản biện: 14/7/2016
Ngày duyệt đăng: 27/7/2016
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 3_5692_2137188.pdf 3_5692_2137188.pdf