Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 141
PHẪU THUẬT CẮT GAN NỘI SOI TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TẾ BÀO GAN: 
NHÂN HAI TRƯỜNG HỢP 
Nguyễn Văn Định*, Nguyễn Tuấn* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Ung thư biểu mô tế bào gan xếp trong số 5 loại ung thư thường gặp trên thế giới, là 
nguyên nhân gây tử vong đứng thứ 3 do ung thư. Phẫu thuật nội soi cắt gan có nhiều ưu điểm so với mổ 
mở; tuy nhiên, đây là kỹ thuật khó và phức tạp, nguy cơ chảy máu trong mổ là rất cao và chỉ định mổ còn 
nhiều quan điểm khác nhau. 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá về kỹ thuật và kết quả ban đầu của 2 trường hợp cắt gan nội soi. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hai trường hợp cắt gan nội soi do ung thư tế bào gan. 
Kết quả: Hai trường hợp này có thời gian mổ là 120 phút, lượng máu mất trong mổ là 50 và 350 ml, 
kích thuớc u là 2,5 và 5 cm, diện cắt cách u từ 1,5 đến 2 cm, thời gian nằm viện là 4 và 7 ngày, không có 
biến chứng sau mổ. 
Kết luận: Phẫu thuật cắt gan nội soi có khả năng thực hiện được, an toàn và hiệu quả, thời gian nằm 
viện ngắn, hồi phục sớm. 
Từ khóa: Ung thư tế bào gan, phẫu thuật cắt gan nội soi 
ABSTRACT 
LAPAROSCOPIC HEPATECTOMY IN TREATMENT OF HEPATOCELLULAR CARCINOMA: 
A REPORT OF TWO CASES 
Nguyen Van Dinh, Nguyen Tuan 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 – supplement of No 1 – 2016: 141 - 145 
Background: Hepatocellular carcinoma is ranked among the five most common cancer in the world, is 
the cause of death from cancer ranked third. Laparoscopic hepatectomy has many advantages compared to 
open hepatic surgery, but it is technically difficult and complex, the risk of bleeding during surgery is very 
high and the indication for operation was much different perspective. 
Objective: We focus on evaluation of the technical and preliminary results of the 2 cases laparoscopic 
hepatectomy. 
Methods: We described two cases of laparoscopic hepatectomy due to hepatocellular carcinoma in our 
hospital. 
Results: In our two cases, operative time 120 minutes, intraoperative blood loss 50-350 ml, tumor size 
2.5-5cm, surgical margin 1.5-2 cm, length of stay 4-7 days, no postoperative complications were 
documented. 
Conclusion: Laparoscopic hepatectomy is potentially feasible, safe and effective, shorter hospital stays, 
recovery soon. 
Key words: hepatocellular carcinoma, laparoscopic hepatectomy 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư biểu mô tế bào gan xếp trong số 5 
loại ung thư thường gặp trên thế giới sau ung 
thư phổi, tiền liệt tuyến, đại tràng, dạ dày và là 
nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 3 do 
* Khoa tiêu hóa, Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn 
Tác giả liên lạc: TS.BS Nguyễn Tuấn ĐT: 0913154424 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Ngoại Khoa 142 
ung thư. 
Mổ mở cắt gan vẫn là phương pháp điều trị 
được lựa chọn trong điều trị ung thư biểu mô tế 
bào gan. Phẫu thuật nội soi cắt gan có nhiều ưu 
điểm so với mổ mở như tính thẩm mỹ cao, giảm 
đau nhanh và phục hồi sau mổ sớm. Tuy nhiên, 
đây là kỹ thuật khó và phức tạp, nguy cơ chảy 
máu trong mổ là rất cao và chỉ định mổ còn 
nhiều quan điểm khác nhau. 
Phẫu thuật nội soi cắt gan được Gagner thực 
hiện đầu tiên tại Mỹ năm 1992(7). Tại Việt Nam, 
phẫu thuật nội soi cắt gan được thực hiện đầu 
tiên tại bệnh viện Việt Đức tháng 12/2004, sau đó 
được triển khai ở một số bệnh viện lớn trong cả 
nước(3). Tuy nhiên, số lượng còn ít và còn nhiều 
hạn chế, đặc biệt với các trường hợp cắt gan lớn. 
Tại bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn, trong 
những năm gần đây đã bước đầu tiến hành triển 
khai phẫu thuật cắt gan nội soi. 
Trường hợp (TH) 1 
Bệnh nhân (BN) nữ, 74 tuổi, cách ngày nhập 
viện 2 tuần xuất hiện cảm giác đau tức vùng 
thượng vị, đi khám phát hiện u gan. Khám vùng 
thượng vị có khối kích thước khoảng 5 cm, ít di 
động. MSCT, MRI: hình ảnh khối u gan kích 
thước 4,7 cm ở hạ phân thùy (HPT) IV, ngấm 
thuốc cản quang (cản từ) thì động mạch và thoát 
thuốc nhanh thì tĩnh mạch cửa. Túi mật có nhiều 
sỏi. Xét nghiệm: HBsAg (+), định lượng virus 
viêm gan B: 2711360 IU/mL, AFP 3548 ng/mL, 
SGOT 35 U/L, SGPT 28 U/L, bilirubin toàn phần 
0,43 mg/dL, INR 1,19, Albumin 40,8 g/L. Trong 
mổ: ổ bụng không có dịch, gan xơ đầu đinh toàn 
bộ, khối u gan HPT IV kích thước 4-5cm, cạnh 
túi mật. Tiến hành mổ cắt u gan hạ phân thùy IV 
bằng dao siêu âm, cắt túi mật. Giải phẫu bệnh 
sau mổ: carcinom tế bào gan biệt hóa vừa, bờ 
phẫu thuật không có tế bào ác tính. Bệnh nhân 
trong quá trình hậu phẫu không có biến chứng 
và xuất viện sau 4 ngày, ổn định. Thời gian theo 
dõi là 10 tháng, không tái phát. 
Trường hợp 2 
Bệnh nhân nam, 49 tuổi, bệnh khởi phát với 
đau âm ỉ vùng thượng vị, ăn uống kém, sụt 2 kg 
trong 1 tháng, đi khám phát hiện u gan. MSCT, 
MRI: khối u gan HPT VI, kích thước 2,2 cm, 
ngấm thuốc cản quang (cản từ) thì động mạch 
và thoát thuốc nhanh thì tĩnh mạch cửa. Xét 
nghiệm: anti-HCV (+), AFP 7,11 ng/mL, SGOT 
49,8 U/L, SGPT 49,9 U/L, bilirubin toàn phần 0,89 
mg/dL, INR 1,19, Albumin 47 g/L. Trong mổ: ổ 
bụng không có dịch, gan xơ đầu đinh, khối u 
gan HPT VI kích thước 2,5 cm. Tiến hành mổ cắt 
u gan hạ phân thùy VI bằng dao siêu âm. 
Truyền máu trong mổ: 350ml hồng cầu lắng và 
450ml huyết tương tươi đông lạnh. Giải phẫu 
bệnh sau mổ: carcinom tế bào gan biệt hóa tốt, 
bờ phẫu thuật không có tế bào ác tính. Bệnh 
nhân trong quá trình hậu phẫu không có biến 
chứng và xuất viện sau 7 ngày, ổn định. Thời 
gian theo dõi là 3 năm, không tái phát. 
Hình 1. Hình ảnh u gan hạ phân thùy IV (*) sỏi túi 
mật (mũi tên) trên MRI (TH 1). 
PHƯƠNG PHÁP PHẪU THUẬT 
Tư thế bệnh nhân 
Nằm ngửa, dạng hai chân, phẫu thuật viên 
đứng giữa hai chân bệnh nhân. 
Vị trí đặt trocar 
Trocar 10mm trên rốn cho camera, 2 trocar 
10mm trên rốn để thao tác, 1 trocar 5 mm dưới 
sườn phải, đường nách trước. 
Kỹ thuật mổ 
Bơm hơi ổ bụng áp lực 12 mmHg, quan sát 
bề mặt gan, túi mật, cuống gan, dạ dày, ruột non 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 143
và các tạng khác trong ổ bụng. 
Xác định vị trí khối u, đánh giá và xác định 
vị trí phân thùy có khối u cần cắt. Dùng dao 
siêu âm, cắt nhu mô gan cách bờ khối u 
khoảng 1-2cm, cầm máu, lau bụng, đặt dẫn 
lưu hạ sườn phải. 
Bệnh phẩm được cho vào túi nylon và lấy 
ra ngoài qua đường mở nhỏ qua trocar 10 mm 
ở rốn. 
Hình 2. Hình ảnh u gan hạ phân thùy VI (mũi tên) 
trên MRI (TH 2). 
Hình 3. Khối u gan hạ phân thùy IV được cắt bỏ 
sau phẫu thuật (TH 1). 
BÀN LUẬN 
Về chẩn đoán 
Cả hai BN đều được phát hiện u gan tình 
cờ qua siêu âm, và đang trong quá trình điều 
trị viêm gan siêu vi, xơ gan, một trường hợp 
AFP < 400 ng/ml, có hình ảnh đặc trưng của 
HCC trên MSCT và MRI là ngấm thuốc thì 
động mạch và thoát thuốc nhanh thì tĩnh mạch 
cửa. Viêm gan siêu vi B, C mạn được xem là 
yếu tố chính làm gia tăng tỉ lệ HCC, đồng 
nhiễm virus viêm gan B và C làm gia tăng 
nguy cơ HCC. Xơ gan cũng là yếu tố nguy cơ 
của HCC, nguy cơ phát triển của HCC ở BN xơ 
gan hàng năm là 1-6%(2). Để chẩn đoán xác 
định chúng tôi dựa vào hình ảnh đặc trưng 
của khối u gan trên phim MRI hoặc MSCT: 
ngấm thuốc thì động mạch và thải thuốc 
nhanh thì tĩnh mạch cửa. 
Hình 4. Khối u gan hạ phân thùy VI được cắt sau 
phẫu thuật (TH 2). 
Về chỉ định mổ 
Theo Nguyen(7), trong tổng số 2804 trường 
hợp mổ cắt gan nội soi, 75% thực hiện hoàn 
toàn bằng phẫu thuật nội soi, 17% mổ với bàn 
tay hỗ trợ, 2% sử dụng phương pháp 
“Hybrid”. Phương pháp cắt gan nội soi thông 
thường nhất là cắt gan hình chêm hoặc cắt 
phân thùy (45%), cắt phân thùy gan trái theo 
giải phẫu (20%), cắt gan phải (9%) và cắt gan 
trái (7%). Kết quả cho thấy cắt gan nội soi có 
thể thực hiện an toàn. 
Cả hai bệnh nhân đều có tiền căn viêm gan 
siêu vi trước đó, phân độ xơ gan trước phẫu 
thuật là Child Pugh A; trên MRI, kích thước u 
lần lượt là 4,7 cm ở HPT IV và 2.2 cm ở HPT VI. 
Trong mổ mở với đường rạch da lớn có thể 
dẫn đến suy gan sau mổ do làm gián đoạn 
những tĩnh mạch bàng hệ lớn ở bệnh nhân xơ 
gan. Hiện tại, phẫu thuật cắt gan nội soi được ưa 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Ngoại Khoa 144 
thích để làm giảm tỉ lệ suy gan sau mổ ở những 
bệnh nhân này. 
Phẫu thuật cắt gan thường được chỉ định 
dựa trên giai đoạn của khối u, chức năng gan và 
thể tích gan còn lại sau mổ. Phẫu thuật nội soi 
cắt gan còn phụ thuộc vào vị trí của khối u gan. 
Hiện nay, phẫu thuật nội soi được chỉ định cho 
các khối u nằm ở ngoại vi (hạ phân thùy II, III, 
IVa, V, VI), khối u nằm ở hạ phân thùy I, VII, 
VIII mổ nội soi rất khó khăn, khối u gan trung 
tâm (HPT IVb hoặc HPT V, VIII) nằm gần TM 
gan, TM chủ vẫn là những chống chỉ định của 
mổ nội soi. Khi tiến hành phá vỡ nhu mô gan 
gần các mạch máu lớn thường làm tổn thương 
các mạch máu này, gây chảy máu và rất khó cầm 
máu trong mổ nội soi. Hiện nay, tại các trung 
tâm phẫu thuật nội soi lớn, phẫu thuật nội soi cắt 
gan lớn (cắt gan phải, cắt gan trái) được thực 
hiện ngày càng nhiều. 
Chỉ định phẫu thuật cắt gan nội soi phụ 
thuộc vào kích thước, loại u và vị trí của khối 
u. Những khối u kích thước < 4 cm, hoặc khối 
u có cuống < 6 cm, vị trí khối u ở phân thùy 
dưới và phân thùy bên (II, III, IVa, V, VI) thích 
hợp với phẫu thuật nội soi(4). Những chỉ định 
của phẫu thuật cắt gan nội soi được tóm lược 
trong Bảng 1. 
Bảng 1. Chỉ định cắt gan nội soi 
1. Chức năng gan trước mổ: phân độ xơ gan là Child 
Pugh A hoặc B 
2. Những yếu tố liên quan khối u 
(i) Kích thước: < 4cm (hoặc loại có cuống < 6cm) 
(ii) Vị trí: Phân thùy dưới hoặc phân thùy bên 
(iii) Loại u: Khối u đặc hoặc dạng nốt (loại có cuống là 
thích hợp nhất) 
3. Phương pháp mổ 
(i) Cắt một phần (hình chêm) 
(ii) Cắt phân thùy bên 
(iii) Cắt hạ phân thùy VI 
Kỹ thuật mổ 
Cả hai bệnh nhân đều được phẫu thuật cắt 
gan một phần, bờ phẫu thuật cách khối u từ 1,5 – 
2cm. Cả hai trường hợp đều có tình trạng xơ gan 
trước mổ do viêm gan siêu vi mạn tính. Do đó, 
vấn đề cầm máu trong mổ là rất đáng chú ý. 
Trong cả 2 trường hợp, chúng tôi đều dùng dao 
siêu âm hỗ trợ. Lượng máu mất trong mổ nhiều 
nhất là 350 ml. Thời gian mổ trung bình là 120 
phút. Ở trường hợp 1, do bệnh nhân được chẩn 
đoán sỏi túi mật có triệu chứng kèm theo, nên 
được mổ cắt túi mật cùng với cắt gan. 
Bằng phẫu thuật nội soi, chúng ta có thể di 
động hoàn toàn gan phải và gan trái trong 
khoảng thời gian không dài so với mổ mở. Chảy 
máu là nguyên nhân chính gây thất bại của mổ 
nội soi cắt gan, chảy máu có thể từ diện cắt và từ 
các mạch máu lớn. Để hạn chế chảy máu, 
Kaneko đề xuất sử dụng dao cắt đốt siêu âm khi 
phẫu thuật(4). 
Theo Lương Công Chánh(5), trong 5 trường 
hợp cắt gan qua nội soi thì 3 trường hợp cắt gan 
trái, 02 trường hợp cắt phân thùy sau. Kết quả 
phẫu thuật cho thấy: thời gian mổ trung bình là 
118 phút, lượng máu mất trung bình là 350 ml, 
thời gian nằm viện trung bình là 7 ngày, không 
có trường hợp nào có biến chứng hay tử vong 
sau mổ. 
Biến chứng rò mật, tắc mạch do khí và hoại 
tử diện cắt là những biến chứng thường được 
quan tâm trong cắt gan nội soi. Không có biến 
chứng sau mổ trong cả hai trường hợp này. 
Đặc điểm ung thư học 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, diện cắt của 
cả hai trường hợp đều không có tế bào ác tính. 
Diện cắt được cho là đảm bảo sạch tế bào ung 
thư khi cách vỏ bao của khối u khoảng 1cm. Đối 
với những khối u nằm ở phân thùy bên hay 
những khối u nằm nông trên bề mặt gan thì việc 
đảm bảo nguyên tắc này không khó. Tuy nhiên, 
đối với những khối u nằm sâu, gan xơ chắc thì 
việc đánh giá ranh giới khối u gặp nhiều khó 
khăn. Theo Nguyễn Hoàng Bắc(6), bờ phẫu thuật 
trên hoặc bằng 2cm có tỉ lệ tái phát thấp hơn bờ 
phẫu thuật dưới 2cm. Các yếu tố ảnh hưởng đến 
tỉ lệ tái phát: kích thước u, u có vỏ bao trên quan 
sát đại thể, giai đoạn ung thư tế bào gan và bờ 
phẫu thuật. Độ biệt hóa tế bào không ảnh hưởng 
đến tỉ lệ tái phát. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng Quát 145
KẾT LUẬN 
Qua hai trường hợp phẫu thuật cắt gan nội 
soi tại Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn cho thấy đối 
với những khối u ở phân thùy trái bên hay phân 
thùy dưới có thể thực hiện cắt gan nội soi một 
cách an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, cần phải 
nghiên cứu trên một số lượng lớn bệnh nhân 
mới có thể rút ra được hiệu quả và lợi ích của kỹ 
thuật này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chen KH, Siow TF, Trần Thế Sơn (2014), Phẫu thuật nội 
soi cắt gan trung tâm- nhân hai trường hợp được phẫu 
thuật tại bệnh viện Viễn Đông, Đài Loan, Phẫu thuật nội 
soi và nội soi Việt Nam, tập 4 (3), trang 15-21. 
2. Collier J, Sherman M (1998), Screening for hepatocellular 
carcinoma, Hepatology, 27(1): 273-8. 
3. Đỗ Mạnh Hùng, Đỗ Tuấn Anh, Trần Bình Giang, Trịnh 
Quốc Đạt (2014), Kết quả phẫu thuật nội soi cắt gan do u 
tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, Phẫu thuật nội soi và 
nội soi Việt Nam, tập 4 (2), trang 43-46. 
4. Kaneko H (2005), Laparoscopic hepatectomy: indications 
and outcomes. J hepatobiliary pancreatic surgery, 12: 438-
443. 
5. Lương Công Chánh, Nguyễn Cường Thịnh (2012), Kết quả 
bước đầu cắt gan nội soi, điều trị ung thư gan. Phẫu thuật 
nội soi và nội soi Việt Nam, tập 2 (2), trang 71-74. 
6. Nguyễn Hoàng Bắc và cộng sự (2014), Đánh giá tình trạng 
tái phát sớm sau phẫu thuật cắt gan điều trị ung thư tế bào 
gan, Phẫu thuật nội soi và nội soi Việt Nam, tập 4 (3), 
trang 27-35. 
7. Nguyen KT, Gamblin TC, Geller DA (2009), World review 
of laparoscopic liver resection-2,804 patients. Ann Surg, 
250(5): 831-41. 
Ngày nhận bài báo: 20/12/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/12/2015 
Ngày bài báo được đăng: 15/02/2015