Đỗ Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 195 - 200 
 195
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ 
Ở TÂY BẮC HIỆN NAY 
Đỗ Huyền Trang* 
Trường Đại học Tây Bắc 
TÓM TẮT 
Nguồn nhân lực nữ trong đó có nguồn nhân lực nữ các dân tộc thiểu số chính là động lực cho sự 
phát triển của các quốc gia, khi bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử với phụ nữ là vấn đề nổi 
cộm ở nhiều quốc gia, nhiều thành phần dân tộc, đặc biệt là các nước đang phát triển. Nguồn nhân 
lực nữ trong đó có nguồn nhân lực nữ các dân tộc thiểu số là giải pháp đầu tư hữu hiệu không chỉ 
giúp giải quyết các vấn đề khó khăn về kinh tế, việc làm mà còn tạo động lực cho sự phát triển của 
toàn xã hội. Bài viết này đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ các dân tộc 
thiểu số ở Tây Bắc hiện nay. 
Từ khóa: Nguồn nhân lực, nguồn nhân lực nữ dân tộc thiểu số, phát triển nguồn nhân lực, dân 
tộc thiểu số, phát triển. 
ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Nguồn nhân lực (NNL) các dân tộc thiểu số là 
tổng thể số lượng và chất lượng người dân tộc 
thiểu số (DTTS) với các tiêu chí về thể lực, trí 
lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần 
tạo nên năng lực của lao động dân tộc thiểu số 
trong quá trình lao động sáng tạo vì sự phát 
triển và tiến bộ xã hội [1, tr. 11]. 
NNL dân tộc thiểu số được hiểu là một bộ 
phận của dân cư, không đồng nhất với quan 
niệm nguồn lực người dân tộc thiểu số hoặc 
toàn bộ dân cư DTTS. Đây được tính là 
những người dân tộc thiểu số, không phân 
biệt nam, nữ, trong độ tuổi lao động trực tiếp 
tham gia vào quá trình lao động động, đóng 
góp cho sự phát triển của đất nước. Lực lượng 
này không bao hàm người dân tộc thiểu số 
trong độ tuổi lao động nhưng không tham gia 
lao động. 
Phát triển NNL nữ các DTTS là sự gia tăng 
về quy mô, hợp lý hóa cơ cấu và nâng cao 
chất lượng nguồn nhân lực nữ các DTTS đáp 
ứng đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội 
và sự phát triển của nữ các DTTS. Nó chính 
là quá trình tạo ra số lượng và chất lượng 
NNL nữ các DTTS với việc nâng cao hiệu 
quả sử dụng nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn 
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất 
nước cũng như gắn với vùng dân tộc thiểu số. 
Các phương diện thể hiện phát triển NNL nữ 
* Tel: 0988985108; Email: 
[email protected] 
DTTS bao gồm: “phát triển về số lượng và 
chất lượng” [2, tr. 38]: 
Về số lượng được thể hiện ở quy mô dân số, 
cơ cấu về giới và độ tuổi NNL nữ DTTS. Về 
chất lượng là sự phát triển thể hiện ở cả ba 
phương diện: thể lực, trí lực và phẩm chất đạo 
đức - tinh thần. Quá trình công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước và phát 
triển kinh tế thị trường NNL nữ các DTTS 
không chỉ nhận đươc những sự tích cực, trước 
những thời cơ và triển vọng mà còn có cả 
những thách thức và nguy cơ. 
Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía Tây của 
miền Bắc Việt Nam, vùng này có khi được 
gọi là Tây Bắc Bắc Bộ. Về mặt hành chính, 
vùng Tây Bắc gồm 6 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, 
Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, với 
diện tích trên 5,64 triệu ha và trên 3,5 triệu 
dân [4, tr.21]. 
Tây Bắc là vùng có trình độ phát triển kinh tế 
chưa cao, đời sống nhân dân còn khó khăn, là 
khu vực có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước, 
có quy mô nhân lực nhỏ, dân số chủ yếu tập 
trung tại vùng nông thôn. Tính đến 1/7/2015, 
Tây Bắc hiện có nguồn nhân lực dồi dào 
trong đó NNL các DTTS có khoảng 
3.345.377 người, trong đó nguồn nhân lực nữ 
các DTTS của toàn vùng khoảng 
1.659.306,99 người chiếm 49,6% dân số các 
DTTS của toàn vùng, lực lượng lao động nữ 
trong độ tuổi lao động là: 957.420,134 người 
chiếm 57,7% trong tổng số nguồn nhân lực nữ 
Đỗ Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 195 - 200 
 196
các DTTS và trên 30% lực lượng lao động 
toàn vùng [5;tr 97]. NNL nữ DTTS ở Tây Bắc 
hiện nay còn yếu, kém về chất lượng và số 
lượng so với lao động nam DTTS và so với 
lao động ở khu vực khác. 
Qua những nghiên cứu về NNL nữ các DTTS, 
một số vấn đề được đặt ra như sau: 
Thứ nhất: Đời sống kinh tế - xã hội thấp kém, 
ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển các 
nguồn lực, đòi hỏi Đảng và nhà nước cần đề ra 
chủ trương, chính sách đẩy mạnh hơn nữa việc 
phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực Tây Bắc. 
Thứ hai: Cần nâng cao chất lượng nguồn lao 
động về mọi mặt trong đó đặc biệt là nâng cao 
trí lực, đồng thời xây dựng môi trường lao 
động thu hút nhân tài. 
Thứ ba: Để tập trung hơn nữa, nâng cao chất 
lượng NNL nữ các DTTS ở khu vực Tây Bắc 
đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải quan tâm hơn 
nữa trong sửa đổi, ban hành và thực thi chính 
sách nhằm phát triển NNL nữ các DTTS ở Tây 
Bắc trong thời gian tới. 
Thứ tư: Bản thân nữ các DTTS còn có những 
rào cản về văn hóa truyền thống, về nhận thức 
vị trí vai trò của mình trong đời sống kinh tế - 
xã hội, trong khi yêu cầu ngày càng cao và khắt 
khe của thị trường đặt ra vấn đề họ cần phải có 
những đột phá, thay đổi chính bản thân 
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
Nâng cao đời sống kinh tế - xã hội cho NNL 
nữ các DTTS ở Tây Bắc hiện nay 
 Nhằm nâng cao đời sống kinh tế xã hội cho 
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chuyển dịch 
cơ cấu lao động trong ngành nông nghiệp để 
giải quyết việc làm là một trong những giải 
pháp cần thiết hiện nay. Đẩy mạnh xây dựng 
nông thôn mới, phấn đấu đến năm 2020 có 
khoảng trên 40% số xã đạt tiêu chuẩn nông 
thôn mới theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông 
thôn mới. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông 
thôn theo hướng tăng tỉ trọng các dịch vụ 
phục vụ nông nghiệp và nông thôn, tiểu thủ 
công nghiệp và các làng nghề. Chú trọng 
công tác khuyến nông, khuyến ngư, xây dựng 
và nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, 
phát triển kinh tế trang trại, đầu tư nâng cấp 
hệ thống tưới tiêu phục vụ sản xuất, đảm bảo 
an toàn phòng chống thiên tai. 
Phát triển các dịch vụ nông thôn, trung tâm 
chuyển giao công nghệ đưa công nghệ cao 
vào trong sản xuất để nâng cao thu nhập và 
chuyển hóa cơ cấu lao động nông thôn, mở 
rộng hệ thống thương mại, dịch vụ phục vụ 
cho sản xuất, khôi phục và mở rộng các làng 
nghề truyền thống, chuyển đổi nghề cho 
người dân không còn đất sản xuất do quá 
trình đô thị hóa, làm thủy điện. 
Xã hội hóa công tác đào tạo nghề, tăng cường 
đào tạo nghề cho nông dân tập trung vào các 
nhóm đối tượng cụ thể như: nhóm nông dân 
nghèo, nhóm dân tộc thiểu số, nhóm ven đô 
thị, nhóm chuyên sản xuất cây thực phẩm, cây 
công nghiệp. gắn kết các cơ sở sử dụng lao 
động với các cơ sở đào tạo nghề, tỉnh cần có 
những chính sách đặc biệt khuyến khích mô 
hình này. 
Nâng cao chất lượng lao động nông thôn, lao 
động dân tộc thiểu số trong đó cần đặc biệt chú 
ý quan tâm tới lao động nữ dân tộc thiểu số, 
điều này đang đòi hỏi nhưng bước đi đột phá. 
Giải quyết việc làm gắn với nông nghiệp và 
phát triển nông nghiệp nông thôn. Tăng cường 
cơ sở kỹ thuật, dịch vụ giới thiệu việc làm để 
đảm bảo các điều kiện cho thị trường lao 
động phát triển, thông tin thị trường được 
công khai giúp cho người lao động có thể 
nhận biết được cơ hội của mình. Có chính 
sách hỗ trợ, đảm bảo tài chính, tư vấn đối với 
lao động nông thôn, lao động người DTTS 
khi đi xuất khẩu lao động. 
Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp 
nhất là vùng khó khăn, phát triển các khu 
công nghiệp, thu hút đầu tư nước ngoài. Đặc 
biệt cần “lựa chọn những ngành mũi nhọn 
như khai thác, chế biến khoáng sản, mía 
đường, chăn nuôi đại gia súc” [3,tr 245] để 
phát triển. Đẩy mạnh và tăng cường tuyên 
truyền chính sách thu hút nhân tài về tỉnh nhà, 
mềm dẻo trong việc sử dụng người tài bằng cách 
thuê, hợp tác, tư vấn đối với các chuyên gia đầu 
ngành, trong các lĩnh vực công nghệ cao. 
Đỗ Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 195 - 200 
 197
Hỗ trợ nguồn nhân lực nữ DTTS xây dựng, tổ 
chức cuộc sống gia đình, đẩy mạnh và phát huy 
hơn nữa vai trò của dịch vụ gia đình. Xây dựng 
chính sách phát triển các ngành, các hình thức 
dịch vụ gia đình, chính sách giảm nhẹ công việc 
cho phụ nữ miền núi có thể được thực hiện 
thông qua việc nhà nước hỗ trợ phát triển các 
dịch vụ gia đình theo quan điểm coi lao động 
nội trợ là một bộ phận của lao động xã hội. 
Nâng cao nhận thức cho các thành viên trong 
gia đình, chú trọng đến NNL nữ các DTTS về 
kiến thức tổ chức cuộc sống gia đình, nuôi 
dạy chăm sóc con cái, khuyến khích sự quan 
tâm của các thành viên trong gia đình chia sẻ 
các hoạt động lao động. 
Bài trừ các hủ tục lạc hậu, phát huy những 
truyền thống văn hóa tốt đẹp của đồng bào 
DTTS. Tăng cường hơn nữa việc tuyên 
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng 
bào DTTS, đặc biệt là nữ DTTS, phân tích rõ 
tác hại của các hủ tục, vận động nhân dân 
từng bước xóa bỏ các hủ tục lạc hậu không 
còn phù hợp với đời sống hiện tại, gây lãng 
phí, tốn kém. 
Phát triển các tổ chức tập hợp đoàn kết phụ nữ: 
Các đoàn thể quần chúng là những tổ chức 
chính trị - xã hội, tập hợp các thành viên tự 
nguyện thuộc các nhóm xã hội khác nhau như 
Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn 
thanh niên 
Tăng cường công tác y tế, giáo dục chăm sóc 
sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình. 
Phát triển mạng lưới y tế, đảm bảo cho các trẻ 
em gái DTTS được hưởng các dịch vụ y tế, 
việc chăm sóc y tế tốt sẽ có tác động lớn tới 
chất lượng NNL nữ DTTS trong tương lai. 
Hạn chế nhu cầu nhiều con để tập trung nuôi 
con khỏe, dạy con ngoan, chuẩn bị hành trang 
bước vào đời cho con thật tốt. Chăm sóc sức 
khỏe cho phụ nữ và trẻ em gái DTTS phải được 
tiến hành một cách tích cực, chủ động và quyết 
liệt, đẩy mạnh các phong trào trong khu dân cư. 
Đẩy mạnh giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng 
nhằm nâng cao chất lượng nguồn NNL nữ 
các DTTS ở Tây Bắc hiện nay 
Phát triển nguồn nhân lực có vai trò rất quan 
trọng trong việc tăng năng suất lao động, 
thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao mức sống, 
về cơ bản được tiến hành thông qua giáo 
dục, đào tạo. 
Đối với NNL nữ các DTTS ở Tây Bắc hiện nay 
để nâng cao chất lượng của họ cần có những 
chính sách cụ thể, gắn với đặc thù của vùng. 
Nâng cao chất lượng tuyển sinh, chất lượng 
đào tạo dự bị đại học, hệ cử tuyển của các 
trường đại học, cao đẳng ở miền núi phía Bắc. 
Thực hiện công bằng, khách quan chính sách 
cử tuyển của nhà nước đối với học sinh các 
dân tộc thiểu số trong khu vực. Thực hiện tốt 
chế độ chính sách trung ương, địa phương ban 
hành đối với cán bộ, giảng viên theo quy 
định, xây dựng các chính sách đặc thù về chế 
độ đãi ngộ cho giáo viên các tỉnh miền núi và 
biên giới. 
Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư cho công tác đào 
tạo nghề, đặc biệt là khu vực nông thôn, vùng 
khó khăn, vùng có nhiều đồng bào là DTTS ít 
người. Tìm ra những mô hình dạy nghề mang 
tính mũi nhọn, đào tạo nghề mang tính quy 
mô, bài bản theo trường, lớp, không đào tạo 
nghề mang tính kinh nghiệm, gia đình. Tăng 
tỉ lệ chi ngân sách cho dạy nghề, ưu tiên ngân 
sách cho cơ sở đào tạo nghề dân tộc nội trú, 
nghề đào tạo khó tuyển sinh và nghề nghiệp 
cho người tàn tật. 
Thực hiện chính sách cử tuyển học sinh là 
người DTTS tại chỗ. Quy định giao nhiệm vụ 
cho các trung tâm dạy nghề của tỉnh tổ chức các 
khóa đào tạo dành riêng cho đồng bào DTTS 
đặc biệt là nữ DTTS. Xây dựng các dự án và 
cơ chế chính sách đặc thù kèm theo để phát 
triển NNL DTTS, lồng ghép các chương 
trình, dự án đào tạo như chương trình 
134,135, khuyến nông, khuyến lâm để đào 
tạo kỹ năng cho lao động DTTS. 
Quy hoạch lại mạng lưới đào tạo nhân lực, 
cần đến gần, tiếp cận học sinh, khuyến khích 
học sinh đến trường nhất là ở vùng sâu, vùng 
cao, vùng dân tộc hẻo lánh, có chính sách để 
khi học sinh đến trường rồi phải giữ được 
học sinh tránh việc học sinh bỏ học. Nâng 
cao chất lượng cơ sở đào tạo để đạt chuẩn 
quốc gia về cơ sở vật chất và trang thiết bị 
trường học, nâng cao chất lượng phổ cập 
giáo dục ở các cấp. 
Đỗ Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 195 - 200 
 198
Trên cơ sở quy hoạch mạng lưới các trường cao 
đẳng và đại học giai đoạn 2006 - 2020 đã được 
chính phủ phê duyệt, các trường này sẽ được 
cơ cấu và xắp xếp lại theo hướng gọn nhẹ, 
hiện đại, gắn với phương hướng phát triển 
kinh tế và nhu cầu sử dụng nhân lực của các 
cơ quan, các ngành. Đào tạo bồi dưỡng gắn 
với nhu cầu thực tiễn công việc, nâng cao chất 
lượng dạy và học tiếng dân tộc, ngoại ngữ tại 
các địa phương trong các trường trung học. 
Lựa chọn ngành mũi nhọn để tập trung ưu 
tiên, đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất 
lượng cao, trên cơ sở đặc thù của các tỉnh. 
Các tỉnh Tây Bắc có một số ngành nghề mũi 
nhọn chung như: Khai thác và chế biến 
khoáng sản, thủy điện, mía đường, chăn nuôi 
gia súc, công nghiệp chế biến thực phẩm, chế 
biến gỗ, chè, cao su, cây dược liệu, nông 
nghiệp gắn với công nghệ cao. Qua đây xuất 
hiện một số ngành công nghệ cao cần đòi hỏi 
trong thời gian tới như: chế biến chuyên sâu 
về khoáng sản (hiện nay và trước kia vẫn chủ 
yếu là chế biến thô, nên chất lượng sản phẩm 
và giá trị thu về chưa cao); phát triển các 
ngành công nghiệp mũi nhọn ưu tiên như: 
công nghiệp chế biến đã có thương hiệu mạnh 
như (chè Mộc châu, Sữa Mộc châu) đảm bảo 
tăng năng suất, tăng chất lượng, vệ sinh an 
toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, an ninh 
luong thực; Công nghiệp năng lượng, phát 
triển dịch vụ du lịch cộng đồng, nhằm khai 
thác các nguồn lực dân tộc thiểu số. Với nhiều 
địa điểm được quy hoạch và là khu du lịch 
quốc gia tại các tỉnh như Điện Biên, Mai Châu, 
Kim Bôi, Mộc Châu, lòng hồ sông Đà  
Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính 
quyền khu vực Tây Bắc về vai trò công tác 
phát triển NNL nữ các dân tộc thiểu số 
trong thời kỳ CNH, HĐH 
Quán triệt quan điểm con người là nền tảng, 
là yếu tố quyết định nhất trong phát triển bền 
vững kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc 
phòng của đất nước, sự hưng thịnh của vùng. 
Vì vậy cần sự chuyển biến mạnh ở các cấp 
lãnh đạo từ trung ương đến cơ sở về việc phải 
đổi mới triệt để trong quản lý nhà nước về 
giáo dục - đào tạo, xây dựng xã hội học tập, 
về sự cần thiết phải cải thiện giống nòi, đảm 
bảo dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe toàn 
diện NNL nữ DTTS, về việc phải tạo điều 
kiện, nâng cao thu nhập cho đối tượng này. 
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng 
và chính quyền các cấp đối với việc thực hiện 
mục tiêu phát triển NNL nữ các DTTS ở Tây 
Bắc hiện nay. Do điều kiện kinh tế xã hội còn 
hết sức khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp kém nên 
tại khu vực này, việc tiếp cận về thông tin và 
phát triển NNL nữ các DTTS còn nhiều bất 
cập. Đội ngũ tuyên truyền viên cần có những 
phương pháp tiếp cận vận động tới các hộ gia 
đình người DTTS, nhằm thu hút người dân 
hiểu và tham gia với công tác đào tạo NNL 
nữ đến tuổi lao động. 
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 
chương trình hành động của Nghị quyết số 
11- NQ/TW của Bộ Chính trị “Về công tác 
phụ nữ thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH đất 
nước”. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo 
dục thực hiện Luật bình đẳng giới, Luật 
phòng chống bạo lực gia đình, Luật hôn nhân 
gia đình sâu rộng trong quần chúng nhân 
dân cả nam và nữ. Tạo cơ hội để nhân lực nữ 
miền núi nhất là nhân lực nữ DTTS được 
tham gia xây dựng, lãnh đạo thực hiện các 
chương trình, đề án phát triển kinh tế văn hóa 
xã hội của địa phương. 
Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ 
sở giáo dục đào tạo, các tổ chức khoa học 
và công nghệ với các phương tiện thông tin 
đại chúng để tuyên truyền các chủ trương, 
chính sách, pháp luật về phát triển nhân lực 
của trung ương và tỉnh. 
Đổi mới cơ chế quản lý của các cấp, ngành 
về phát triển nguồn nhân lực 
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách 
đối với giáo dục - đào tạo. Ngoài việc thực 
hiện các chính sách chung của Nhà nước đối 
với giáo dục và giáo viên các cấp, các tỉnh 
cần có chính sách đặc thù khuyến khích đào 
tạo các môn đặc thù đặc biệt chú trọng phát 
triển tiếng dân tộc thay cho việc học ngoại 
ngữ trước đây. 
Hoàn thiện, đổi mới phương pháp quản lý, 
nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của 
bộ quản lý phát triển NNL. Có kế hoạch thu 
Đỗ Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 195 - 200 
 199
hút, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực; đổi mới 
phương pháp đánh giá năng lực công tác và 
chế độ khen thưởng - kỷ luật, đổi mới phương 
pháp quản lý hành chính nhân lực theo hướng 
hiện đại hiệu quả. Rà soát, đánh giá, quy 
hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý 
phát triển NNL của ngành. Nhìn chung, mặt 
bằng giáo dục, trình độ dân trí của đồng bào 
các DTTS vẫn còn có khoảng cách đáng kể 
với người Kinh. Chất lượng nguồn nhân lực 
đồng bào DTTS còn hạn chế, đội ngũ cán bộ 
DTTS thiếu và một bộ phận yếu về trình độ 
chuyên môn. Mặc dù Đảng, Nhà nước đã 
quan tâm ban hành nhiều chính sách đối với 
giáo dục, đào tạo vùng DTTS, tuy nhiên đến 
nay vẫn chưa thể giải quyết được hết những 
khó khăn của địa phương. Công tác quản lý 
giáo dục dân tộc chưa theo kịp thực tiễn phát 
triển giáo dục ở vùng DTTS, miền núi; công 
tác chỉ đạo còn thiếu linh hoạt và mang nặng 
thủ tục hành chính; công tác tham mưu ban 
hành một số chính sách cụ thể chưa phù hợp 
với tình hình thực tế chính vì vậy cần có 
chính sách ưu tiên phát triển nguồn nhân lực 
các dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng sâu và 
vùng xa. 
Nâng cao tính tích cực chủ động phấn đấu 
vươn lên của phụ nữ các DTTS ở Tây Bắc 
hiện nay 
Mục tiêu xây dựng NNL nữ các DTTS Tây Bắc 
có phong cách sống, có nhân cách, tinh thần lao 
động phù hợp đáp ứng được yêu cầu phát triển 
kinh tế - xã hội. Điều này đòi hỏi lực lượng này 
phải biết tiếp nhận, hình thành những giá trị mới 
đồng thời phát huy những giá trị truyền thống, 
trong đó có giá trị đạo đức, tinh thần của NNL 
nữ các dân tộc thiểu số. Loại bỏ những tâm lý, 
thói quen lạc hậu do ảnh hưởng của nền sản 
xuất nhỏ như chủ quan, bảo thủ, tùy tiện, 
thiếu tinh thần tập thể, thụ động gạt bỏ 
những tư tưởng phong kiến và hủ tục lạc hậu 
như: trọng nam khinh nữ, tâm lý mặc cảm, tự 
ti ở nữ giới đồng thời phải kiên quyết đấu 
tranh với những biểu hiện lệch lạc trong định 
hướng giá trị đạo đức, nhân cách của một bộ 
phận nữ DTTS Tây Bắc trước những tác động 
của kinh tế thị trường như: lối sống hưởng 
thụ, ích kỉ các nhân, chạy theo lợi ích vật chất 
mà chà đạp lên những giá trị tinh thần, làm 
tha hóa, bang hoại giá trị đạo đức của phụ nữ. 
Nỗ lực học hỏi, bổ sung cho mình kiến thức 
văn hóa và nâng cao trình độ chuyên môn, 
đáp ứng kịp yêu cầu của xã hội. Nữ DTTS ở 
Tây Bắc cần có bản lĩnh và khả năng tổ chức. 
Cần nâng cao tính tích cực xã hội của mình: 
Người phụ nữ cần lôi kéo các thành viên trong 
gia đình mình, chia sẻ, trách nhiệm cho các 
thành viên, xóa bỏ tự ti, mặc cảm về mọi mặt, 
vươn lên tự khẳng định mình trong gia đình và 
xã hội. Giải phóng phụ nữ, đấu tranh vì sự 
phát triển của phụ nữ là sự nghiệp của toàn xã 
hội nhưng trước hết đó là sự nghiệp của bản 
thân người phụ nữ, phụ nữ chỉ được giải 
phóng, được phát triển khi họ nhận thức ra 
được vị trí, vai trò của mình và có quyết tâm 
vì sự nghiệp cao cả ấy, việc giải phóng lao 
động nữ phải là việc của phụ nữ. 
KẾT LUẬN 
NNL nữ trong đó có nguồn nhân lực nữ các 
DTTS có đóng góp nhất định quá trình phát 
triển kinh tế - xã hội. Để phát huy hơn nữa số 
lượng, chất lượng của lực lượng lao động này 
cần có sự chung tay của Đảng, Nhà nước và 
người lao động, của tổng hợp các biện phát 
phát triển kinh tế - xã hội trong đó không thể 
thiếu được sự nỗ lực cố gắng vươn lên của 
bản thân người phụ nữ DTTS ở Tây Bắc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lương Đình Hải (2018), “Quan niệm về nguồn 
nhân lực trong bối cảnh cách mạng khoa học công 
nghệ - hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu con người 
số 2 (95), tr 11. 
2. Nguyễn Thị Giáng Hương (2016), Phát triển 
nguồn nhân lực nữ chất lượng cao trong quá trình 
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nxb 
Quốc gia sự thật, Hà Nội. 
3. Nguyễn Đình Nguyên (chủ biên) (2016), Hiện 
trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực Tây 
Bắc giai đoạn 2016 - 2020, Nxb Khoa học tự 
nhiên và công nghệ, Hà Nội 
4.Tổng cục Thống kê (2009), Tổng điều tra dân 
số, Hà Nội 
5. Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 
dân tộc thiểu số (5/2017) - tiểu dự án hỗ trợ giảm 
nghèo PRPP - UBDT do UNDP và Irish Aid tài 
trợ- UBDT - Lưu hành nội bộ, Hà Nội. 
Đỗ Huyền Trang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 195 - 200 
 200
SUMMARY 
DEVELOPMENT OF HUMAN RESOURCES FOR ETHNIC MINORITY 
WOMEN IN THE NORTH – WEST 
Do Huyen Trang* 
Tay Bac University 
Female human resources, including those belonging to ethnic minority women, are the driving 
forces for the prosperity of nations, when gender inequality and discrimination against women are 
a prominent issue in many countries, many ethnic groups, especially developing countries. Female 
human resources, including female ethnic minority women as an effective investment solution not 
only to economy and employment problems, but also to enhance the development of the whole 
society. This paper proposes some solutions for developing human resoures among ethnic 
minorities in the Northwest region of Vietnam. 
Keywords: Human resources, ethnic minority human resources, human resources development, 
ethnic minorities, development 
Ngày nhận bài: 13/9/2018; Ngày phản biện: 22/9/2018; Ngày duyệt đăng: 28/9/2018 
* Tel: 0988985108; Email: 
[email protected]