Pháp luật về quyền của người khuyết tật ở việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Tài liệu Pháp luật về quyền của người khuyết tật ở việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện: Pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ở việt Nam hiện nay: thực trạng và giải pháp hoàn thiện Nguyễn Thị Báo(*) Quyền của ng−ời khuyết tật là mối quan tâm không chỉ của riêng một quốc gia nào. Tôn trọng và bảo đảm quyền của ng−ời khuyết tật là vấn đề mang ý nghĩa nhân đạo, từ thiện, đồng thời còn mang ý nghĩa kinh tế, xã hội và pháp lý. Nội dung bài viết phân tích thực trạng pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay trên các ph−ơng diện dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá; nêu bật những −u điểm, hạn chế cơ bản và nguyên nhân của những −u điểm, hạn chế đó; trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. háp luật về quyền của ng−ời khuyết tật tuy không phải là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật nh−ng có quan hệ chặt chẽ, t−ơng tác và gắn bó với các ngành luật khác. Đó là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà n−ớc ban hành hoặ...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 677 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về quyền của người khuyết tật ở việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ở việt Nam hiện nay: thực trạng và giải pháp hoàn thiện Nguyễn Thị Báo(*) Quyền của ng−ời khuyết tật là mối quan tâm không chỉ của riêng một quốc gia nào. Tôn trọng và bảo đảm quyền của ng−ời khuyết tật là vấn đề mang ý nghĩa nhân đạo, từ thiện, đồng thời còn mang ý nghĩa kinh tế, xã hội và pháp lý. Nội dung bài viết phân tích thực trạng pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay trên các ph−ơng diện dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá; nêu bật những −u điểm, hạn chế cơ bản và nguyên nhân của những −u điểm, hạn chế đó; trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. háp luật về quyền của ng−ời khuyết tật tuy không phải là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật nh−ng có quan hệ chặt chẽ, t−ơng tác và gắn bó với các ngành luật khác. Đó là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà n−ớc ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của ng−ời khuyết tật trên các lĩnh vực dân sự, chính trị; kinh tế, xã hội và văn hoá. Pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ở Việt Nam bao gồm 5 nội dung cơ bản. Thứ nhất, quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà n−ớc trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà n−ớc về việc chăm sóc, bảo vệ nhằm tôn trọng và bảo đảm quyền của ng−ời khuyết tật. Thứ hai, công nhận t− cách pháp nhân và ban hành quy chế hoạt động của các tổ chức của và vì ng−ời khuyết tật. Thứ ba, quy định quyền của ng−ời khuyết tật theo các nhóm quyền dân sự, chính trị; quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. Thứ t−, điều chỉnh các hoạt động về hợp tác quốc tế, các hoạt động từ thiện của các tổ chức trong và ngoài n−ớc vì mục đích hỗ trợ ng−ời khuyết tật Việt Nam. Thứ năm, các quy định về khen th−ởng và xử lý vi phạm. (*) Điều đó cho thấy quyền của ng−ời khuyết tật sẽ đ−ợc bảo đảm thực hiện khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Tuy nhiên, việc bảo đảm quyền của ng−ời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập. Vẫn còn tình trạng ng−ời khuyết tật bị phân biệt đối xử, thậm chí bị miệt thị, bị lạm dụng, bị lãng quên. Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, trong đó, có nguyên nhân (*) TS., Viện Nghiên cứu quyền con ng−ời, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. P Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2009 16 thiếu một hệ thống pháp luật hoàn thiện tạo cơ sở cho việc tôn trọng và bảo đảm quyền của ng−ời khuyết tật. Do vậy, hơn lúc nào hết cần phải hoàn thiện pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật để tạo cơ hội bình đẳng cho họ cống hiến và h−ởng thụ theo các quyền của mình. I. Thực trạng pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay 1. Một số quyền dân sự, chính trị cơ bản Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận và khẳng định những quyền tự do dân chủ cơ bản trên lĩnh vực dân sự, chính trị của ng−ời khuyết tật bao gồm: quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia quản l ý nhà n−ớc và xã hội; quyền tự do hội họp và tự do lập hội; quyền bình đẳng tr−ớc pháp luật... Mọi hành vi vi phạm các quyền đó đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Pháp lệnh về ng−ời tàn tật năm 1998 khẳng định: "Nhà n−ớc khuyến khích, tạo điều kiện bình đẳng các quyền về chính trị" cho ng−ời khuyết tật (Khoản 1, Điều 3). Quy định này cho thấy, Nhà n−ớc không những tôn trọng mà còn khuyến khích, tạo điều kiện cho ng−ời khuyết tật thực hiện quyền dân sự, chính trị của họ. Về quyền bầu cử, ứng cử: Đây là một trong những quyền chính trị hết sức quan trọng, đảm bảo quyền bầu cử và ứng cử cho ng−ời khuyết tật có nghĩa là Nhà n−ớc đã thực hiện đ−ợc quyền làm chủ của ng−ời khuyết tật. Quyền bầu cử, ứng cử của ng−ời khuyết tật đ−ợc ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, đ−ợc cụ thể hoá trong các văn bản luật và d−ới luật. Về quyền tự do hội họp và tự do lập hội: Đối với ng−ời khuyết tật, quyền này có ý nghĩa đặc biệt, bởi khi tham gia hội họp trong các tổ chức của và vì ng−ời khuyết tật, ng−ời khuyết tật có cơ hội giao l−u nâng cao nhận thức xã hội; tự tin hơn vào cuộc sống; đặc biệt là họ có đ−ợc sự cảm thông, chia sẻ kinh nghiệm sống, học tập, làm việc từ chính những ng−ời cùng cảnh ngộ; họ có thể hỗ trợ nhau cả về vật chất và tinh thần; động viên nhau cùng tiến bộ và cao hơn nữa là giúp nhau hiểu đ−ợc quyền và nghĩa vụ của mình để có tiếng nói đồng cảm, kêu gọi trách nhiệm của Nhà n−ớc, gia đình và xã hội đối với họ. Pháp lệnh về ng−ời tàn tật năm 1998 đã khẳng định: "Ng−ời tàn tật đ−ợc thành lập, gia nhập, hoạt động trong các tổ chức xã hội, các hiệp hội sản xuất, kinh doanh của ng−ời tàn tật theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá nhân đ−ợc thành lập, gia nhập các tổ chức bảo trợ ng−ời tàn tật theo quy định của pháp luật" (Điều 7). Trên thực tế, quyền đ−ợc hội họp và lập hội của ng−ời khuyết tật đã đ−ợc tôn trọng và bảo đảm thực hiện, Việt Nam hiện đã có một số tổ chức của ng−ời khuyết tật đ−ợc thành lập. Điển hình nhất là sự ra đời của Hội Ng−ời mù Việt Nam (năm 1969). Đây là sự kiện quan trọng, một mặt đáp ứng đ−ợc nguyện vọng thiết tha của những ng−ời bị khuyết tật về thị giác (khiếm thị); mặt khác, “là mốc son đánh dấu sự thay đổi to lớn trong cuộc sống của ng−ời mù. Đó là giải quyết vấn đề ng−ời mù không trên cơ sở ban ơn, c−u mang, coi ng−ời mù là ng−ời bất lực, tàn phế... mà trên cơ sở giúp đỡ cho ng−ời mù phát huy khả năng còn lại của mình, học tập nâng cao trình độ, tham gia sản xuất, làm việc, tham gia tích cực, chủ động và Pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật 17 bình đẳng vào đời sống gia đình và xã hội” (1, tr.8). Hiện nay, Hội đã phát triển ở 42/64 tỉnh thành với trên 54.000 hội viên. Ngoài ra còn phải kể đến: Hiệp hội sản xuất kinh doanh của ng−ời tàn tật, thành lập năm 2003, đã có tổ chức tại 32/64 tỉnh thành với 250 hội viên hoạt động theo tiêu chí trợ giúp ng−ời khuyết tật có cơ hội tiếp cận và h−ởng thụ quyền về lao động và việc làm (2, tr.2); Hiệp hội Thể thao ng−ời khuyết tật Việt Nam; Hội Bảo trợ nạn nhân chất độc da cam;... Về quyền bình đẳng tr−ớc pháp luật: Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng tr−ớc pháp luật là nguyên tắc cơ bản của chế định quyền và nghĩa vụ của công dân. Tuy nhiên, d−ới góc độ quyền con ng−ời, không thể hiểu sự bình đẳng tr−ớc pháp luật của mọi công dân theo nghĩa cào bằng, máy móc. Bởi vì, mỗi ng−ời đều có những đặc điểm riêng về thể chất và tinh thần, có điều kiện, hoàn cảnh khác nhau về sức khỏe, điều kiện kinh tế, khả năng tiếp cận để h−ởng thụ quyền và gánh vác nghĩa vụ của mình. Đối với ng−ời khuyết tật, là nhóm dễ bị tổn th−ơng, họ gặp nhiều trở ngại trong tiếp cận và h−ởng thụ quyền; do đó, Nhà n−ớc phải có trách nhiệm hỗ trợ, phá bỏ rào cản, tạo cơ hội bình đẳng cho họ. Tiếp cận và h−ởng thụ quyền, đó mới là sự bình đẳng theo đúng ý nghĩa của nó. Qua nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về một số quyền dân sự, chính trị cơ bản của ng−ời khuyết tật hiện nay, có thể rút ra một số nhận xét nh− sau: Thứ nhất, Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận và khẳng định những quyền tự do dân chủ cơ bản trên lĩnh vực dân sự, chính trị của ng−ời khuyết tật. Mọi hành vi vi phạm các quyền đó đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Thứ hai, các quy định về quyền dân sự, chính trị của ng−ời khuyết tật còn là những quy định chung, mang tính nguyên tắc nên việc áp dụng còn mang lại hiệu quả ch−a cao. Thực tế còn thiếu các quy định đặc thù trong lĩnh vực quyền dân sự, chính trị dành riêng cho ng−ời khuyết tật. Ngay Pháp lệnh về ng−ời tàn tật năm 1998, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong việc bảo đảm thực hiện quyền của ng−ời khuyết tật, nh−ng cũng chỉ có các quy định chung chung trong Ch−ơng I, tại Khoản 1, Điều 3: "Nhà n−ớc khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho ng−ời tàn tật... tham gia các hoạt động xã hội"; tại Điều 7, về quyền đ−ợc tham gia hoạt động trong các tổ chức xã hội, hiệp hội sản xuất kinh doanh và quyền đ−ợc tham gia, thành lập các tổ chức bảo trợ xã hội. Do đó, có thể thấy trong Pháp lệnh còn thiếu các quy định cụ thể về quyền đ−ợc tham gia quản lý nhà n−ớc; quyền bầu cử, ứng cử; quyền bình đẳng tr−ớc pháp luật; quyền đ−ợc giữ bí mật đời t−, quyền tự do ngôn luận, báo chí; quyền đ−ợc thông tin; quyền khiếu nại tố cáo; quyền không bị t−ớc đoạt mạng sống; quyền đ−ợc bảo hộ hôn nhân và gia đình..., là những quyền dân sự, chính trị quan trọng và là những quyền dễ bị xâm phạm nhất đối với ng−ời khuyết tật. Việc thiếu các quy định cụ thể hoá về những quyền này là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc ng−ời khuyết tật bị hạn chế trong việc h−ởng thụ quyền bầu cử, ứng cử; không đ−ợc tiếp cận thông tin, trong đó có thông tin về chính sách pháp luật đối với ng−ời Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2009 18 khuyết tật; không biết tố cáo, khiếu nại khi bị vi phạm quyền; gặp nhiều trở ngại khi thực hiện quyền đ−ợc kết hôn; 2. Một số quyền kinh tế, xã hội và văn hoá cơ bản Các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá cơ bản của ng−ời khuyết tật đã đ−ợc ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, bao gồm: quyền đ−ợc chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng; quyền lao động và việc làm; quyền đ−ợc học tập; quyền đ−ợc h−ởng thụ các giá trị văn hoá, tiếp cận các công trình công cộng và hoà nhập cộng đồng... Về quyền đ−ợc chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng: Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã chú trọng ghi nhận nhóm quyền này, thể hiện rõ nhất là các quy định trong Pháp lệnh về ng−ời tàn tật năm 1998, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006; các văn bản có liên quan do Bộ y tế ban hành. Bên cạnh các văn bản quy định về quyền đ−ợc chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng của ng−ời khuyết tật, Nhà n−ớc còn chú trọng ban hành các văn bản về chính sách đối với các cán bộ y tế chăm sóc ng−ời khuyết tật, chính sách xã hội hoá công tác chăm sóc ng−ời khuyết tật; chính sách ngăn ngừa th−ơng tích lao động, tai nạn, ngộ độc thực phẩm - những vấn đề liên quan trực tiếp đến sức khoẻ của con ng−ời, là một trong những nguyên nhân gây nên khuyết tật. Trên thực tế, Việt Nam đã đạt đ−ợc nhiều thành tựu trong việc bảo đảm quyền đ−ợc chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng của ng−ời khuyết tật. Ngành y tế đã triển khai thực hiện công tác phục hồi chức năng, hình thành hệ thống cơ sở, trung tâm, khoa chỉnh hình, phục hồi chức năng cho ng−ời khuyết tật trên cả n−ớc. Hiện nay, gần 100% các bệnh viện thuộc tuyến trung −ơng, khoảng 90% bệnh viện đa khoa cấp tỉnh, thành phố đã có khoa phục hồi chức năng; 46/64 tỉnh, thành phố với 215 huyện, thị và 2.420 xã, ph−ờng triển khai thực hiện ch−ơng trình chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng cho ng−ời khuyết tật; huấn luyện cho 74,1% gia đình có ng−ời khuyết tật về ph−ơng pháp phục hồi chức năng; trên 10 nghìn ng−ời khuyết tật vận động đ−ợc cung cấp ph−ơng tiện trợ giúp nh−: xe lăn, xe đẩy, chân tay giả. Hàng chục nghìn trẻ em đ−ợc phẫu thuật chỉnh hình, trợ giúp phục hồi chức năng về vận động, thần kinh, khiếm thị; một số cơ sở y tế đã b−ớc đầu triển khai ch−ơng trình ngăn ngừa và phát hiện sớm dấu hiệu khuyết tật ở trẻ sơ sinh (3). Về quyền lao động và việc làm: Bảo đảm quyền lao động việc làm một mặt, tạo cho ng−ời khuyết tật tâm lý tự tin vào cuộc sống, tự v−ơn lên, tự khẳng định mình, hạn chế sự phân biệt đối xử của xã hội, có thu nhập để tự trang trải cuộc sống, tạo cơ sở vật chất cho việc tiếp cận và h−ởng thụ các quyền khác; mặt khác, chính lao động sẽ giúp cho ng−ời khuyết tật tự rèn luyện phục hồi chức năng một cách toàn diện để h−ởng thụ và cống hiến. Quyền lao động việc làm của mọi công dân trong đó có ng−ời khuyết tật đ−ợc quy định trong Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, tiếp tục đ−ợc tái khẳng định trong Hiến pháp năm 1992; đ−ợc cụ thể hóa trong Luật lao động năm 1994, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và các văn bản h−ớng dẫn thi hành; đặc biệt là trong Pháp lệnh về ng−ời tàn tật năm 1998. Hệ thống các văn bản trên đã tạo cơ sở Pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật 19 pháp lý bảo đảm quyền lao động và việc làm của ng−ời khuyết tật. Trong những năm qua, Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo các Bộ, ban, ngành thành lập các tr−ờng dạy nghề, hệ thống các trung tâm giới thiệu việc làm, ch−ơng trình dạy nghề ngắn hạn, trong đó phải dành −u tiên đặc biệt đối với lao động là ng−ời khuyết tật. Hai tr−ờng dạy nghề của Bộ Lao động -Th−ơng binh và Xã hội hàng năm thu hút dạy nghề cho hơn 1 nghìn ng−ời khuyết tật. Hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm đã thu hút bình quân khoảng 10 nghìn ng−ời khuyết tật vào học nghề hàng năm. Riêng Hiệp hội sản xuất kinh doanh của ng−ời tàn tật có 57 trong số 250 cơ sở đ−ợc cấp giấy đăng ký hoạt động dạy nghề; hàng năm, tạo việc làm cho hơn 60% số ng−ời đ−ợc học nghề. Ch−ơng trình mục tiêu Quốc gia về giáo dục và đào tạo năm 2005 đã hỗ trợ kinh phí 11,5 tỷ đồng, năm 2006 con số này là 18,5 tỷ đồng, năm 2007 gần 20 tỷ đồng để dạy nghề ngắn hạn cho ng−ời khuyết tật. Hiện cả n−ớc có hơn 400 cơ sở sản xuất với trên 20 nghìn lao động là ng−ời khuyết tật. Riêng Hội Ng−ời mù quản lý 147 cơ sở sản xuất tập trung với 40 nghìn lao động. Quỹ hỗ trợ việc làm Trung −ơng và các địa ph−ơng đã dành gần 40 tỷ đồng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh của ng−ời khuyết tật vay vốn; riêng Hội Ng−ời mù đã quản lý, sử dụng 33,1 tỷ đồng từ nguồn quỹ này cho 10 nghìn hội viên vay vốn tạo việc làm. Theo kết quả khảo sát của Bộ Lao động - Th−ơng binh và Xã hội năm 2005, có 64,86% số hộ có ng−ời khuyết tật đ−ợc h−ởng các chính sách hỗ trợ phát triển kinh doanh, 91,26% số hộ này đ−ợc miễn giảm thuế, hỗ trợ tín dụng −u đãi, hỗ trợ sản xuất (4, tr.33). Tuy nhiên, ngay trong từng điều khoản của pháp luật vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến tạo rào cản cho việc thực thi quyền về lao động, việc làm của ng−ời khuyết tật, chẳng hạn: quy định về thời gian làm việc 7 tiếng trong ngày đối với ng−ời khuyết tật; quy định về điều kiện sức khoẻ khi tuyển dụng lao động; v.v... Về quyền đ−ợc học tập (quyền đ−ợc giáo dục): "Có thể nói rằng quyền đ−ợc giáo dục là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền con ng−ời" (6, tr.150). Quyền đ−ợc giáo dục của ng−ời khuyết tật đ−ợc ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, đặc biệt là tại ch−ơng III "Học văn hóa đối với ng−ời tàn tật" của Pháp lệnh về ng−ời tàn tật năm 1998, đã tạo điều kiện cho việc xã hội hóa công tác giáo dục cho ng−ời khuyết tật, tạo cơ hội tốt hơn để ng−ời khuyết tật thực hiện quyền đ−ợc học tập của mình. Nhà n−ớc đã quan tâm đến chế độ đãi ngộ đối với giáo viên dạy ng−ời khuyết tật, chẳng hạn Chính phủ đã ra Nghị định số 61/2006/NĐ-CP ngày 20/6/2006 quy định về mức phụ cấp −u đãi đối với giáo viên tại các tr−ờng chuyên biệt. Đặc biệt, Nhà n−ớc cũng quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy cho trẻ khuyết tật, ví dụ Khoa Giáo dục đặc biệt thuộc tr−ờng Đại học S− phạm Hà Nội đ−ợc mở mã ngành đào tạo, tạo cơ sở pháp lý cho việc đào tạo và cấp văn bằng, chứng chỉ cho giáo viên về giáo dục đặc biệt. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo, đến nay cả n−ớc có 105 tr−ờng chuyên biệt; 2.500 tr−ờng phổ thông tiến hành giáo dục hoà nhập cho ng−ời khuyết tật; 4 tr−ờng đại học s− phạm đã mở mã ngành s− phạm giáo dục đặc biệt; 3 tr−ờng cao đẳng s− phạm thành lập khoa giáo dục đặc biệt nhằm đào tạo Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2009 20 giáo viên trình độ cử nhân và cao đẳng s− phạm về tật học. Hơn 700 giáo viên đ−ợc đào tạo trình độ cao đẳng về giáo dục hoà nhập và hơn 10 nghìn giáo viên mầm non và tiểu học đã đ−ợc bồi d−ỡng kiến thức, kỹ năng dạy học hoà nhập cho các loại trẻ khuyết tật khác nhau. Năm 2005 có 230 nghìn trong số gần 1 triệu trẻ em khuyết tật đ−ợc đi học, chiếm khoảng 24,22%. Hội ng−ời mù Việt Nam đã tổ chức cho 21 nghìn ng−ời mù học chữ nổi (chữ Braille). Bộ Văn hoá và Thông tin đã đầu t− thí điểm 2 phòng đọc dành cho ng−ời khiếm thị tại Th− viện khoa học tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh và Th− viện Hà Nội (5, tr.2). Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề ch−a đ−ợc pháp luật ghi nhận cụ thể, chẳng hạn các quy định về ch−ơng trình học, tài liệu, giáo trình, giáo viên thủ ngữ, ngôn ngữ, ký hiệu, chữ viết... những điều kiện mà thiếu nó ng−ời khuyết tật khó có thể thực hiện đ−ợc quyền học tập của mình. Về quyền đ−ợc h−ởng thụ các giá trị văn hoá, tiếp cận các công trình công cộng và hoà nhập cộng đồng: Hơn ai hết, ng−ời khuyết tật bị chịu nhiều thiệt thòi trong việc thực hiện quyền văn hóa và hòa nhập cộng đồng, do hạn chế bởi sự khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần. Quyền đ−ợc h−ởng thụ các giá trị văn hóa, tiếp cận môi tr−ờng và hòa nhập cộng đồng của ng−ời khuyết tật đã đ−ợc Nhà n−ớc quan tâm, tôn trọng và bảo vệ; đ−ợc ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Trong số các văn bản đó phải kể đến Luật Khoa học công nghệ năm 2000, Luật Xây dựng năm 2004, Luật Giao thông đ−ờng bộ, Luật Công nghệ thông tin, Pháp lệnh về ng−ời tàn tật năm 1998 đã dành ch−ơng V gồm 3 điều (từ Điều 24 đến Điều 26) quy định về Hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao và sử dụng công trình công cộng của ng−ời tàn tật. Các quy định của pháp luật đã đ−ợc hiện thực hoá trong cuộc sống và đã đạt đ−ợc những thành tựu. Một số các công trình lớn ở đô thị đ−ợc xây dựng trong vài năm gần đây đã đ−ợc thiết kế để ng−ời khuyết tật có thể tiếp cận thuận lợi nh−: sân bay Nội Bài, công trình Liên hiệp thể thao Mỹ Đình, Bảo tàng Dân tộc học, Trung tâm Th−ơng mại Tràng Tiền, hè đ−ờng phố cổ Hội An... Một số công trình cũ đ−ợc cải tạo và có chủ tr−ơng cải tạo để ng−ời khuyết tật tiếp cận thuận tiện nh− công trình cải tạo nhà hát Bến Thành tại Tp. Hồ Chí Minh, v.v.. Việc thí điểm miễn vé xe buýt cho th−ơng binh và ng−ời tàn tật đã và đang đ−ợc triển khai thực hiện ở các thành phố lớn nh− Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh. Ngành đ−ờng sắt đã chỉ đạo thực hiện việc giảm vé 10% cho học sinh khuyết tật và th−ơng binh. Trong những năm qua, Nhà n−ớc đã hỗ trợ kinh phí cho Trung −ơng Hội Ng−ời mù sản xuất chữ nổi, sách nói, tổ chức các buổi liên hoan văn nghệ quần chúng các cấp, tạo diễn đàn cho ng−ời khuyết tật thể hiện năng khiếu, vui chơi giải trí. Ngành Văn hoá-Thông tin, Uỷ ban Thể dục, Thể thao phối kết hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng các ch−ơng trình phục vụ văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao cho ng−ời khuyết tật có cơ hội tiếp cận và tham gia. Đài truyền hình Việt Nam đã có ch−ơng trình hiện chữ và chạy chữ trên ch−ơng trình chào buổi sáng (VTV1) và ch−ơng trình tổng hợp thời sự vào lúc 22 giờ (VTV2) dành cho ng−ời khiếm thính. Về thể dục, thể thao, cả n−ớc đã có Pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật 21 35/61 tỉnh, thành phố thành lập câu lạc bộ thể dục, thể thao cho ng−ời khuyết tật tham gia tập luyện. Hàng năm, Uỷ ban Thể dục, Thể thao phối hợp với Hiệp hội Thể thao ng−ời khuyết tật tổ chức các hội thi thể thao toàn quốc cho ng−ời khuyết tật. Nhân ngày lễ lớn, ngày Th−ơng binh liệt sĩ, nhiều địa ph−ơng đã tổ chức thi và trao giải cho các vận động viên xuất sắc là ng−ời khuyết tật. Ng−ời khuyết tật Việt Nam đã tham gia thi đấu các kỳ thể thao ng−ời khuyết tật khu vực châu á và thế giới, đạt nhiều thành tích cao, nh− tại Đại hội thể thao ng−ời khuyết tật châu á - Thái Bình D−ơng. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá có thể rút ra một số nhận xét nh− sau: Thứ nhất, các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá cơ bản của ng−ời khuyết tật đã đ−ợc ghi nhận theo h−ớng ngày càng hoàn thiện hơn trong Hiến pháp và pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho ng−ời khuyết tật tiếp cận và h−ởng thụ quyền. Thứ hai, pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá một mặt đã thể chế hoá đ−ợc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế-xã hội tạo điều kiện cơ bản cho mọi công dân, trong đó có ng−ời khuyết tật, đ−ợc h−ởng thụ theo các quyền của mình và cống hiến cho xã hội. Thứ ba, pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá nhìn chung vẫn ch−a hoàn thiện. Mặc dù đây là nhóm quyền đ−ợc quy định cụ thể, chiếm dung l−ợng lớn nhất trong Pháp lệnh về ng−ời tàn tật năm 1998 (gồm 4 ch−ơng: II, III, IV, V với 17 Điều), nh−ng vẫn thiếu các quy định về quyền đ−ợc h−ởng những điều kiện làm việc công bằng, đ−ợc trả thù lao bằng nhau cho những công việc có giá trị nh− nhau; cơ hội ngang nhau cho mọi ng−ời trong việc đề bạt; quyền h−ởng an toàn xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội. Các quy định về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá vẫn chịu ảnh h−ởng của nhận thức về ng−ời khuyết tật d−ới góc độ bảo trợ xã hội, ch−a quán triệt quan điểm coi ng−ời khuyết tật ngoài nhu cầu cần hỗ trợ, bảo trợ còn có nhu cầu phát triển, tự khẳng định vị thế của mình một cách bình đẳng nh− mọi thành viên khác trong xã hội. 3. Những −u điểm, hạn chế của pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật hiện nay và nguyên nhân Về những −u điểm: Đảng và Nhà n−ớc ta luôn quan tâm tạo điều kiện cho ng−ời khuyết tật thực hiện các quyền cơ bản của con ng−ời. Sự quan tâm đó đ−ợc thể chế hóa thành các quy định của pháp luật. Pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật Việt Nam, nhìn chung, b−ớc đầu đã nội luật hóa đ−ợc những nguyên tắc, chuẩn mực về quyền của ng−ời khuyết tật trong các Công −ớc quốc tế về quyền con ng−ời, mà Việt Nam là thành viên; có sự kế thừa, phát triển, bổ sung và sửa đổi theo h−ớng ngày càng hoàn thiện hơn; ngày càng chú trọng quy định về cơ chế bảo đảm quyền của ng−ời khuyết tật. Đạt đ−ợc những thành tựu trên, tr−ớc hết phải kể đến sự đổi mới về t− duy, nhận thức của Đảng, định h−ớng cho sự đổi mới t− duy và nhận thức của các nhà lập pháp; sau đó là sự đổi mới về nhận thức của toàn xã hội, của chính ng−ời khuyết tật về vị thế của ng−ời khuyết tật trong xã hội. Về những hạn chế: Nhìn chung, Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2009 22 pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật hiện nay tính ổn định ch−a cao. Về hình thức, chủ yếu là những văn bản d−ới luật nên giá trị pháp lý còn thấp. Về nội dung, còn thiếu các quy định mang tính chất chế tài; còn nhiều quy định tạo rào cản cho việc tiếp cận và h−ởng thụ quyền của ng−ời khuyết tật; còn nhiều quy định mang tính nguyên tắc, tính chiến l−ợc hay nội dung chung chung mà thiếu các quy định chi tiết, cụ thể dẫn đến khó thực hiện, khó vận dụng. Hiện Việt Nam vẫn ch−a có Luật về quyền của ng−ời khuyết tật... Chính những hạn chế này đã tạo rào cản khiến ng−ời khuyết tật khó tiếp cận và h−ởng thụ theo các quyền của mình. Nguyên nhân của những hạn chế trên là do: Thứ nhất, nhận thức của xã hội, của các cơ quan lập pháp, của chính ng−ời khuyết tật về quyền của ng−ời khuyết tật, pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật còn nhiều bất cập; nhiều vấn đề lý luận về pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ch−a đ−ợc nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống; chậm tiến hành tổng kết, đánh giá một cách toàn diện, mang tính khoa học. Thứ hai, việc bổ sung sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật còn mang nặng giải pháp tình thế, cơ chế quản lý nhà n−ớc về tôn trọng và bảo đảm quyền của ng−ời khuyết tật còn thiếu tập trung thống nhất, còn phân tán, chia cắt giữa các ngành. II. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay Hoàn thiện pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật trong điều kiện hiện nay là một yêu cầu khách quan, cấp bách, xuất phát từ: yêu cầu giữ gìn và phát huy truyền thống nhân đạo của dân tộc, tôn trọng, bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng cho ng−ời khuyết tật; yêu cầu phát huy vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền của ng−ời khuyết tật; yêu cầu phù hợp với pháp luật quốc tế trong xu thế hội nhập và phát triển; yêu cầu xây dựng Nhà n−ớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; yêu cầu khắc phục những hạn chế của pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ở n−ớc ta hiện nay; và phù hợp với tình hình ng−ời khuyết tật trong điều kiện hội nhập và phát triển; nhằm tạo cơ sở pháp lý bảo đảm quyền của ng−ời khuyết tật ngày càng tốt hơn, góp phần ổn định xã hội, nâng cao uy tín của Đảng và Nhà n−ớc ta trên tr−ờng quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật phải nhằm thể chế hoá chính sách của Đảng và Nhà n−ớc để trợ giúp ng−ời khuyết tật khắc phục khó khăn, bình đẳng về cơ hội và điều kiện phát triển; trên cơ sở nhận thức đúng đắn vị trí của ng−ời khuyết tật trong xã hội để phát huy vai trò của ng−ời khuyết tật trong cộng đồng và xã hội; phải bảo đảm tính toàn diện, tính đồng bộ, tính thống nhất, tính phù hợp và tính khả thi; phải trên cơ sở gắn với việc hoàn thiện cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật và phải bảo đảm tính kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và t−ơng thích với pháp luật quốc tế về quyền của ng−ời khuyết tật. Với yêu cầu hoàn thiện cả về nội dung và hình thức pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp cụ thể là: + Rà soát, hệ thống hóa th−ờng xuyên các văn bản pháp luật hiện hành Pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật 23 liên quan đến quyền của ng−ời khuyết tật; + Tổ chức nghiên cứu, tổng kết, đánh giá thực trạng pháp luật về quyền của ng−ời khuyết tật qua thực tiễn thi hành; + Khảo sát, phân loại ng−ời khuyết tật trên toàn quốc nhằm mục đích có đ−ợc số liệu chính xác hơn về ng−ời khuyết tật, những thông số có ý nghĩa quan trọng giúp cho các nhà hoạch định chính sách và pháp luật, xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật điều chỉnh kịp thời, bảo đảm quyền của ng−ời khuyết tật đ−ợc thực hiện một cách hiệu quả, thiết thực, phù hợp với từng đối t−ợng cụ thể trên nguyên tắc bình đẳng về cơ hội và không phân biệt đối xử; + Tăng c−ờng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lập pháp về quyền của ng−ời khuyết tật để học hỏi kinh nghiệm, tranh thủ các nguồn lực cho việc nghiên cứu, xây dựng và áp dụng luật pháp Tóm lại, xuất phát từ đòi hỏi của việc tôn trọng và bảo đảm quyền của ng−ời khuyết tật, việc hoàn thiện pháp luật là một nhu cầu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, tạo môi tr−ờng pháp lý ổn định, thông thoáng, thuận lợi, phá bỏ các rào cản cho ng−ời khuyết tật tiếp cận và h−ởng thụ quyền; nâng cao vị thế của ng−ời khuyết tật, tạo điều kiện cho ng−ời khuyết tật cống hiến và h−ởng thụ. Tuy nhiên, đây không phải là việc làm trong một sớm một chiều, mà là một hoạt động mang tính lâu dài, phức tạp và nhạy cảm, đòi hỏi sự nỗ lực tập trung, thống nhất, sự phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và t− pháp; sự nỗ lực của chính ng−ời khuyết tật, của nội lực và sự hợp tác quốc tế trên tinh thần bình đẳng, tự nguyện, tôn trọng độc lập chủ quyền của dân tộc. Tài liệu tham khảo 1. Lê Hồng Thuỷ. Tầm nhìn lãnh tụ qua lời dạy: "Tàn nh−ng không phế". Kỷ yếu Hội thảo khoa học "T− t−ởng Hồ Chí Minh về ng−ời khiếm thị". H.: 2006. 2. Hà Minh. Chăm sóc ng−ời khuyết tật là truyền thống tốt đẹp của ng−ời Việt Nam. Báo Điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, 19/4/2007. 3. Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ ng−ời tàn tật Việt Nam. Kết quả thực hiện pháp luật về ng−ời tàn tật, 1998-2006, 4. Uỷ ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội khoá XI. Báo cáo kết quả giám sát thực hiện chính sách pháp luật về ng−ời cao tuổi, ng−ời tàn tật, dân số. H.: Lao động - Xã hội, 2006. 5. Trung tâm Nghiên cứu quyền con ng−ời (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Tuyên ngôn thế giới và hai Công −ớc 1966 về quyền con ng−ời. H.: 2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphap_luat_ve_quyen_cua_nguoi_khuyet_tat_o_viet_nam_hien_nay_thuc_trang_va_giai_phap_hoan_thien_1476.pdf
Tài liệu liên quan