Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 321
NỒNG ĐỘ CÁC NỘI TIẾT TỐ NỀN VÀ SAU KÍCH THÍCH 
TRÊN BỆNH NHÂN DẬY THÌ SỚM TRUNG ƯƠNG 
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 
Huỳnh Thị Vũ Quỳnh*, Lê Minh Tường Vân*, Phạm Minh Thu** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định nồng độ LH, FSH, tỉ lệ LH/FSH, nồng độ Estradiol nền và sau khi làm nghiệm pháp 
kích thích ở các bệnh nhân dậy thì sớm trung ương tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 1/2010-12/2013. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca. 
Kết quả: 159 trẻ dậy thì sớm trung ương được đưa vào lô nghiên cứu. Nồng độ LH trung bình là 1,979 ± 
2,208 mUI/ml, giá trị điểm cắt LH nền là 0,1; 0,3; 0,6 và 1 lần lượt có độ nhạy 96,7%; 76,4%; 60,2% và 53,7% 
trong chẩn đoán dậy thì sớm trung ương. Nồng độ FSH trung bình là 4,224 ± 2,474 mUI/ml, Tỉ lệ LH nền / FSH 
nền trung bình là 0,447 ± 0,424, nồng độ LH đỉnh trung bình sau khi làm nghiệm pháp kích thích là 26,591 ± 
22,68. Thời điểm LH≥5mUI/ml sau 30 phút để chẩn đoán DTS trung ương có độ nhạy 87,7%. Tỉ lệ phần trăm 
tích lũy nồng độ LH LH≥5mUI/ml sau 60 phút, 120 phút lần lượt là 92,3% và 96,9%. Nồng độ Estradiol trung 
bình ở bé gái 37,285 ± 33,025 pg/ml, nồng độ Testosterone trung bình ở bé trai: 186,76 ± 103,941 ng/dl. 54,4% 
(81/149 trường hợp) bé gái có nồng độ Estradiol đạt mức dậy thì: 54,4% 87,5% (7/8 trường hợp) bé trai có nồng 
độ Testosterone đạt mức dậy thì. 
Kết luận: Giá trị của LH nền và giá trị của LH đỉnh sau kích thích thay đổi tùy theo ngưỡng chẩn đoán dậy 
thì sớm trung ương và thời điểm lấy máu khi làm nghiệm pháp kích thích. Nồng độ Estradiol trong máu có thể 
không tăng trong dậy thì sớm trung ương ở nữ. Hầu hết các trường hợp dậy thì sớm trung ương ở nam có nồng 
độ testosterone đạt được mức dậy thì. 
Từ khóa: Dậy thì sớm trung ương, gonadotropin, estradiol, testosterone. 
ABSTRACT 
BASAL AND STIMULATED LEVEL OF GONADOTROPIN AND STEROID HORMONE IN 
PRECOCIOUS PUBERTY PATIENTS 
AT CHILDREN’S HOSPITAL 2 
Huynh Thi Vu Quynh, Le Minh Tuong Van, Pham Minh Thu 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 321 - 326 
Objectives: To determine the level of basal LH, FSH, LH/FSH ratio and level of LH, FSH, LH/FSH ration 
after GnRH stimulation test in central precocious puberty (CPP) patients at Children’s hospital 2 from 1/2010-
12/2013. 
Methods: Case-series study. 
Results: There were 159 precocious puberty cases.Mean basal LH: 1.979 mIU/Ml, the cut off 0.1; 0.3; 0.6 
and 1of LH level had sensitivity 96.7%; 76.4%; 60.2% and 53.7%, respectively for CPP. Mean basal FSH: 4.224 
± 2.474 mUI/ml, Mean basal LH/FSH was 0.447 ± 0.424. After aGnRH stimulation test, mean peak LH was 
26.591 ± 22.68. Time of LH ≥ 5mUI/ml at 30 minutes after aGnRH stimulaton test had sensitivity 87.7%. The 
* Đại học Y Dược, TPHCM, ** Bệnh viện Nhi đồng 2 
Tác giả liên lạc: ThS. Huỳnh Thị Vũ Quỳnh ĐT: 0989350127 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 322
cumulative rate of LH ≥ 5mUI/ml at 60 minutes, 120 minutes was 92.3% and 96.9%, respectively. The mean 
level of estradiol in female was 37.285 ± 33.025 pg/ml, the mean level of testosterone was 186.76 ± 103.941 ng/dl. 
54.4% (81/149 cases of female) had pubertal estradiol level. 87.5% (7/8 cases of male) had pubertal estosterone 
level. 
Conclusions: The value of basal LH and aGnRH stimulation LH depends on cut off and collection time of 
blood samples. The level of estradiol may not increase in female CPP. Most case of male CPP had pubertal level of 
testosterone. 
Keywords: Central precocious puberty, gonadotropin, Estradiol, Testosterone. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Dậy thì sớm ngày càng phổ biến trên thế giới 
và ngay cả ở Việt Nam. Tuổi khởi phát dậy thì có 
khuynh hướng ngày càng giảm(1,8). Dậy thì sớm 
dẫn đến nhiều vấn đề khác nhau, như các rối 
loạn về hành vi ứng xử, tâm lý, lạm dụng tình 
dục, có thai sớm, đặc biệt là ảnh hưởng đến 
chiều cao khi trưởng thành(12). 
Chẩn đoán dậy thì sớm trung ương khi 
chứng minh được sự hoạt hóa trục hạ đồi – 
tuyến yên – tuyến sinh dục sớm hơn tuổi dậy thì 
bình thường của trẻ. Quan trọng nhất là sự tăng 
nồng độ LH trong máu trên ngưỡng dậy thì. 
Nồng độ LH nền một thời điểm có thể thay đổi 
và có giá trị chẩn đoán khác nhau trong chẩn 
đoán dậy thì sớm trung ương. Tuy nhiên, tiêu 
chuẩn vàng để chẩn đoán dậy thì sớm trung 
ương nghiệm pháp kích thích Gonadotropin 
bằng GnRH hoặc đồng vận của GnRH. 
Ở Việt Nam, vấn đề dậy thì sớm vẫn còn ít 
nghiên cứu. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên 
cứu này nhằm khảo sát các nồng độ của các nội 
tiết tố Gonadotropin và các nội tiết tố sinh dục 
cũng như giá trị của nó trong chẩn đoán dậy thì 
sớm trung ương. 
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt ca. 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả trẻ đã chẩn đoán dậy thì sớm tại 
bệnh viện Nhi Đồng 2 TP HCM từ tháng 
1/2010-12/2013. 
Phương pháp lấy mẫu 
Lấy trọn. 
Tiêu chí đưa vào 
Tất cả trẻ được chẩn đoán dậy thì sớm trung 
tương tại bệnh viện Nhi Đồng 2 TP HCM từ 
tháng 1/2010-12/2013 với các tiêu chuẩn sau 
Tiêu chuẩn chẩn đoán dậy thì sớm trung 
ương: 
• Phát triển một trong các đặc tính sinh dục 
thứ phát trước 8 tuổi ở trẻ nữ và trước 9 tuổi ở 
trẻ nam. 
• Trẻ nữ có kinh nguyệt trước 10 tuổi. 
• Nồng độ LH nền ≥ 0,3 mIU/ml (độ đặc 
hiệu 100%). 
• Hoặc nghiệm pháp kích thích GnRH (+) 
(LH ≥ 5 mIU/ml) (tiêu chuẩn vàng). 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Hồ sơ không làm đủ các xét nghiệm như 
bệnh án nghiên cứu. 
Thu thập dữ liệu 
Hồi cứu hồ sơ tất cả các bệnh nhân được 
chẩn đoán dậy thì sớm, chọn ra các trường hợp 
dậy thì sớm trung ương thõa mãn nghiên cứu 
(theo tiêu chí chọn vào và tiêu chí loại ra). Ghi 
nhận các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng như tuổi, 
giới tính, tiền căn, cân nặng, chiều cao, BMI, lý 
do nhập viện, các triệu chứng lâm sàng (vú to, 
lông mu, lông nách, kinh nguyệt, huyết trắng, 
tinh hoàn lớn, dương vật lớn), các kết quả cận 
lâm sàng như nồng độ FSH, LH, Estradiol, 
Testosteron nền và nồng độ FSH, LH, tỉ lệ 
LH/FSH sau khi nghiệm pháp kích thích bằng 
GnRH sau 30 phút, 60 phút và 120 phút. Nồng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 323
độ các nội tiết tố được đo bằng kỹ thuật hóa phát 
quang (máy Architect thế hệ 3). 
Xử lý số liệu 
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS. 
Các biến số định lượng trình bày dưới dạng 
trung bình ± độ lệch chuẩn, các biến số định tính 
trình bày dưới dạng tần số và tỷ lệ %. 
KẾT QUẢ 
Từ 1/2010 đến 12/2013, tại bệnh viện Nhi 
Đồng 2 có 159 trường hợp được chẩn đoán dậy 
thì sớm trung ương. 
Bảng 1: Đặc điểm dân số nghiên cứu (N=159). 
Đặc điểm Kết quả 
Tỉ lệ Nam: nữ 18,875/1 
Tuổi trung bình 7,17 
Tuổi khởi phát trung bình 6,18 
Tỉ lệ thừa cân, béo phì 60% 
Chiều cao lớn hơn so với tuổi 35,8% 
Nồng độ hormone sinh dục nền 
Nồng độ LH trung bình là 1,979 ± 2,208 
mUI/ml (nhỏ nhất: 0,07 mUI/ml, lớn nhất là 
12,93 mUI/ml. 
Nồng độ FSH trung bình là 4,224 ± 2,474 
mUI/ml (nhỏ nhất 0,242 mUI/ml, lớn nhất 21,41 
mUI/ml). 
Khi so sánh với nghiệm pháp kích thích 
Gonadotropin bằng aGnRH để chẩn đoán dậy 
thì sớm trung ương (LH đỉnh ≥ 5 mUI/ml), giá 
trị của ngưỡng của LH nền là 0,1; 0,3; 0,6;1 
mUI/ml lần lượt có độ nhạy là 96,7%; 76,4%; 
60,2% và 53,7%. 
Tỉ lệ LH nền/FSH nền. 
Tỉ lệ LH nền / FSH nền trung bình là 0,447 ± 
0,424, nhỏ nhất là 0,013, lớn nhất là 2,241. 
Tỉ lệ bệnh nhân có LH/FSH nền ≥ 1 là 13%. 
Nghiệm pháp kích thích bằng aGnRH. 
Trong 159 bệnh nhân được chẩn đoán dậy 
thì sớm trung ương, có 130 bệnh nhân đượclàm 
nghiệm pháp kích thích Gonadotropin bằng 
aGnRH để chẩn đoán. Các bệnh nhân còn lại do 
có nồng độ LH nền đủ để chẩn đoán dậy thì sớm 
trung ương nên không được làm nghiệm pháp 
kích thích. 
Bảng 2: Nồng độ hormon hướng sinh dục và tỉ lệ LH/FSH trong nghiệm pháp kích thích bằng aGnRH (N=130). 
 0 phút(mUI/ml) 30 phút 60 phút 120 phút Nồng độ đỉnh 
LH 1,538 ± 1,469 22,066 ± 20,123 25,417 ± 21,99 22,269 ± 18,253 26,591 ± 22,68 
FSH 3,828 ± 1,532 10,885 ± 6,759 14,255 ± 9,914 17,035 ± 12,242 17,282 ± 12,354 
LH/FSH 0,386 ± 0,324 2,112 ± 1,462 1,939 ± 1,377 1,512 ± 1,129 2,168 ± 1,468 
Hình 1: Diễn tiến nồng độ trung bình hormon hướng 
sinh dục trong nghiệm pháp kích thíchbằng aGnRH 
(N=130). 
Độ nhạy của LH ≥ 5 mIU/mL để chẩn đoán 
dậy thì sớm trung ương vào thời điểm 30 phút là 
87,7%. Tỉ lệ phần trăm tích lũy của LH ≥ 5 
mIU/mL ở thời điểm 60 phút là 92,3%, ở thời 
điểm 120 phút là 96,9%. 
Nồng độ hormon estradiol (bé gái) và 
testosterone (bé trai) 
Nồng độ Estradiol trung bình ở bé gái 
37,285 ± 33,025 pg/ml (nhỏ nhất 5 pg/ml, lớn 
nhất 229 pg/ml). 
Nồng độ Testosterone trung bình ở bé trai: 
186,76 ± 103,941 ng/dl (nhỏ nhất 2,5 ng/dl, lớn 
nhất 337,8 ng/dl). 
54,4% (81/149 trường hợp) bé gái có nồng độ 
Estradiol đạt mức dậy thì. 
87,5% (7/8 trường hợp) bé trai có nồng độ 
Testosterone đạt mức dậy thì. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 324
BÀN LUẬN 
Nồng độ LH, FSH nền trong máu: 
Điểm mấu chốt của dậy thì sớm trung ương 
là tăng nồng độ LH máu. Đây là xét nghiệm ban 
đầu để tầm soát dậy thì sớm cùng với FSH, 
estradiol máu ở nữ và testosterone máu ở nam(3). 
Tương tự các xét nghiệm đo nồng độ hormone 
sinh dục, các phương pháp định lượng LH cũng 
cần có độ nhạy, độ đặc hiệu cao và các phòng xét 
nghiệm cần thiết lập ngưỡng bình thường cho 
trẻ em vì mỗi phương pháp xét nghiệm sẽ cho 
kết quả định lượng LH khác nhau. 
Bảng 3: So sánh nồng độ hướng sinh dục nền giữa 
các nghiên cứu. 
Nghiên cứu Số trường 
hợp 
Nồng độ 
LH nền 
trung 
bình 
(mIU/mL) 
Nồng độ 
FSH nền 
trung bình 
(mIU/mL) 
Han Kyul Kim
(9) 
128 0,42 3,14 
Yehonatan Pasternak
(11) 
42 0,87 3,5 
Hyo-Kyoung Nam
(9) 
574 1,2 2,7 
Huseyin Demirbilek
(5) 
142 1,2 _ 
Doosoo Kim
(1) 
148 1,8 2,6 
Elena Chiocca
(10) 
17 1,9 4,1 
Parvin Yazdani
(13) 
58 1,96 3,68 
Chúng tôi 152 1,979 4,224 
Như vậy, nồng độ LH nền thay đổi qua 
nhiều nghiên cứu khác nhau, có thể do sự khác 
nhau về thiết kế nghiên cứu, độ nhạy và độ 
chuyên của thiết bị phương pháp đo. Trong đó, 
nghiên cứu của chúng tôi có LH nền tương 
đương với nghiên cứu của Parvin Yazdani (p = 
0,913); nghiên cứu của Elena Chiocca (p = 0,658) 
và nghiên cứu của Doosoo Kim (p = 0,318). 
Qua khảo sát các điểm cắt LH nền 1 
mIU/mL; 0,6 mIU/mL; 0,3 mIU/mL; 0,1 mIU/mL, 
ta thấy rằng chọn điểm cắt LH nền càng thấp thì 
độ nhạy càng cao (càng ít bỏ sót các trường hợp 
dậy thì sớm trung ương thực sự - so với tiêu 
chuẩn vàng là nghiệm pháp kích thích bằng 
GnRH). Tuy nhiên, độ đặc hiệu sẽ càng thấp. 
Với điểm cắt LH nền 0,6 mIU/mL, theo 
nghiên cứu của Brito VN và cộng sự, có độ nhạy 
là 71% ở bé trai; 63% ở bé gái; độ đặc hiệu là 
100% ở cả hai giới(7). 
Với điểm cắt LH nền 0,1 mIU/mL, theo 
nghiên cứu của Parvin Yazdani và cộng sự, độ 
nhạy ở bé trai là 100%, ở bé gái là 67%. Ngoài 
ra, nồng độ LH nền > 0,1 mIU/mL cũng có liên 
quan mạnh với nồng độ LH > 5 mIU/mL trong 
nghiệm pháp kích thích bằng GnRH (r = 0,842; 
p = 0,0001)(13). Trong khi đó, nghiên cứu của 
Neely EK và cộng sự cho thấy điểm cắt nồng 
độ LH nền > 0,1 mIU/mL có độ nhạy 94% và 
độ đặc hiệu 88% trong chẩn đoán dậy thì sớm 
trung ương(10). 
Theo Han Kyul Kim, nồng độ LH nền càng 
cao càng gợi ý nghiệm pháp kích thích bằng 
GnRH dương tính, tuy nhiên, nồng độ LH nền 
thấp lại không thể loại trừ dậy thì sớm trung 
ương. Do đó, nồng độ LH nền không nên là 
dấu chứng đơn độc cho chẩn đoán dậy thì 
sớm trung ương(9). 
Tỉ lệ LH nền/FSH nền 
Tương tự sự thay đổi của FSH và LH, tỉ lệ 
LH/FSH nền cũng có những thay đổi tương ứng. 
Tỉ lệ này trong nghiên cứu của chúng tôi là 0,447. 
Theo tác giả Han Kyul Kim, khi khảo sát trên 128 
trường hợp dậy thì sớm trung ương, tỉ lệ 
LH/FSH nền là 0,14(9). Còn theo tác giả 
Yehonatan Pasternak, tỉ lệ này là 0,19(11). Điều 
này được lý giải là trong giai đoạn sớm của dậy 
thì FSH vẫn tăng trội hơn LH. Tuy nhiên, tỉ lệ 
này sẽ tăng lên trong giai đoạn muộn của dậy thì 
hoặc khi làm nghiệm pháp kích thích. 
Nghiệm pháp kích thích bằng GnRH 
Nồng độ FSH, LH đỉnh 
Nồng độ LH đỉnh trung bình trong 
nghiệm pháp của chúng tôi (26,591 mIU/mL) 
tương đương với nghiên cứu của Elena 
Chiocca (25,7 mIU/mL)(p = 0,659)(10), cao hơn 
so với các nghiên cứu của Han Kyul Kim (8,82 
mUI/ml), Doosoo Kim (10,8 mUI/L)(1, 9).Khác 
biệt này có thể do trong nghiên cứu của chúng 
tôi, nghiệm pháp kích thích bằng GnRH được 
thực hiện trên cả những bệnh nhi có LH nền ≥ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 325
0,3 mIU/mL, còn trong các nghiên cứu của 
Han Kyul Kim và Doosoo Kim, nghiệm pháp 
kích thích bằng GnRH chỉ được thực hiện khi 
LH nền thấp hơn điểm cắt chẩn đoán dậy thì 
sớm trung ương. Ngoài ra, sự khác biệt giữa 
nồng độ LH đỉnh còn tùy thuộc vào phương 
pháp đo và thời gian lấy máu trong nghiệm 
pháp trong các nghiên cứu khác nhau. 
Mặc dù nồng độ FSH có tăng lên trong 
nghiệm pháp kích thích bằng GnRH, nhưng 
nồng độ FSH đỉnh không có sự khác biệt giữa 
hai nhóm dậy thì sớm trung ương và phát 
triển sớm tuyến vú đơn độc (p = 0,748 theo 
nghiên cứu của Han Kyul Kim và cộng sự(9). 
Do đó, nồng độ FSH không có giá trị trong 
chẩn đoán dậy thì sớm trung ương. Khi đo 
nồng độ hormon sinh dục nền và trong 
nghiệm pháp kích thích bằng GnRH, các bác sĩ 
lâm sàng cũng như các nhà nghiên cứu chỉ chú 
trọng đến nồng độ LH. 
Thời điểm LH đạt nồng độ ≥ 5 mIU/mL 
Trong đa số các trường hợp, LH đạt nồng độ 
≥ 5 mIU/mL sau nghiệm pháp 30 phút (87%). 
Nếu chỉ đo nồng độ LH ở thời điểm 30 phút và 
60 phút sẽ bỏ sót 4,6% trường hợp dậy thì sớm 
trung ương, nếu chỉ đo nồng độ LH ở thời điểm 
30 phút sẽ bỏ sót khoảng 9% trường hợp dậy thì 
sớm trung ương. 
Theo nghiên cứu của Han Kyul Kim và cộng 
sự, phần trăm tích lũy của nồng độ LH nền ≥ 5 
mIU/mL ở thời điểm 30 phút và 45 phút là 100%; 
điểm cắt nồng độ LH 4,99 mIU/mL ở thời điểm 
45 phút có độ nhạy 98,4% và độ đặc hiệu 100% 
trong chẩn đoán dậy thì sớm trung ương. Nhiều 
nghiên cứu trước đây cũng cho thấy, nồng độ 
LH trong nghiệm pháp kích thích bằng GnRH 
giữa hai thời điểm 30 phút và 60 phút đủ để 
chẩn đoán dậy thì sớm trung ương(9). Tuy nhiên, 
điểm cắt nồng độ LH và thời gian đạt điểm cắt 
đó trong nghiệm pháp còn tùy thuộc vào 
phương pháp và dụng cụ đo. Tại Việt Nam nói 
chung và bệnh viện Nhi Đồng 2 nói riêng nên có 
thêm nhiều nghiên cứu để có được điểm cắt và 
thời gian lấy máu tối ưu, nhằm làm giảm chi phí, 
thời gian và khó chịu cho bệnh nhi khi thực hiện 
nghiệm pháp kích thích bằng aGnRH. 
Tỉ lệ LH/FSH đỉnh 
Tỉ lệ LH/FSH đỉnh trong nghiên cứu của 
chúng tôi là 2,168 cao hơn của tỉ lệ LH/FSH trong 
nghiên cứu của Han Kyul Kim (0,74)(9).Còn theo 
tác giả Doosoo Kim nghiên cứu trên 148 trường 
hợp dậy thì sớm trung ương, tỉ lệ này là 0,8(1). Do 
nồng độ LH nền và nồng độ LH đỉnh trong 
nghiên cứu của chúng tôi tương đối cao so với 
các nghiên cứu khác, như đã nói ở trên, nên tỉ lệ 
LH nền/FSH nền và tỉ lệ LH/FSH đỉnh của chúng 
tôi cũng cao hơn so với các nghiên cứu khác. 
Khác biệt này có thể do thiết kế nghiên cứu, cách 
thức và phương pháp đo nồng độ các 
hormon trong máu. 
Do vai trò của nồng độ LH nền, LH đỉnh 
ngày càng rõ rệt, trên lâm sàng ngày càng ít sử 
dụng giá trị LH/FSH trong chẩn đoán dậy thì 
sớm trung ương. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi, chỉ có 13% bệnh nhi có LH/FSH nền ≥ 1, từ 
đó có thể nhận thấy rằng, tỉ lệ LH/FSH nền 
không phải là dữ liệu đáng tin cậy để chẩn đoán 
dậy thì sớm trung ương. Tuy nhiên, theo nghiên 
cứu của Han Kyul Kim và cộng sự, có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỉ lệ LH/FSH nền; tỉ 
lệ LH/FSH đỉnh ở hai nhóm dậy thì sớm trung 
ương và phát triển tiến vú sớm (p < 0,001). Với tỉ 
lệ LH nền/FSH nền > 0,2, độ nhạy và độ đặc hiệu 
trong chẩn đoán dậy thì sớm trung ương lần lượt 
là 36,7% và 97,4%(9). 
Nồng độ hormon estradiol (bé gái) và 
testosterone (bé trai): 
Nồng độ Estradiol trung bình trong nghiên 
cứu của chúng tôi là 37,285 pg/ml, thấp hơn 
nồng độ Estradiol trong nghiên cứu của Elana 
Chiocca(10), nhưng cao hơn nồng độ trong nghiên 
cứu của Doosoo Kim (12,2 pg/ml) và Han Kyul 
Kim (12,91 mUI/L)(1,9). Tương tự với tỉ lệ LH/FSH, 
nồng độ estradiol trong máu thường chỉ được 
dùng để đánh giá giai đoạn dậy thì, ít được sử 
dụng trong chẩn đoán phân biệt dậy thì sớm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 326
trung ương trên lâm sàng. Theo nghiên cứu của 
Doosoo Kim và cộng sự, nồng độ estradiol ở trẻ 
dậy thì sớm trung ương cao hơn so với trẻ phát 
triển tuyến vú sớm và nhóm chứng (p < 0,05); 
không có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
nồng độ estradiol ở hai nhóm phát triển tuyến 
vú sớm và nhóm chứng(1). 
Trong những bé gái dậy thì sớm trung 
ương trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 
54,4% các trường hợp có nồng độ estradiol nền 
trong máu đạt mức dậy thì (≥ 25 pg/mL). Điều 
này có thể được giải thích do nồng độ 
estradiol trong máu thay đổi theo chu kì 
buồng trứng, nên khi đo nồng độ estradiol 
trong máu ở một thời điểm bất kì trong chu kì, 
có thể không đạt được nồng độ dậy thì. Do đó, 
nồng độ estradiol nền trong máu không phải 
là một dấu chứng nhạy để đánh giá dậy thì. 
Khác với bệnh nhân nữ, đa số các trẻ trai dậy 
thì sớm trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ 
testosterone tăng trên ngưỡng dậy thì. Điều này 
có thể là bệnh nhân dậy thì sớm trung ương đến 
với chúng tôi giai đoạn muộn hơn, khi mà đã có 
sự phát triển của nhiều đặc tính sinh dục thứ 
phát như tinh hoàn, dương vật, phát triển lông 
và thay đổi giọng nói. 
KẾT LUẬN 
Giá trị của ngưỡng của LH nền là 0,1; 0,3; 
0,6;1 mUI/ml lần lượt có độ nhạy là 96,7%; 
76,4%; 60,2% và 53,7% trong chẩn đoán dậy thì 
sớm trung ương. 87% bệnh nhân có đạt được 
ngưỡng chẩn đoán vào thời điểm 30 phút. Các 
xét nghiệm nội tiết tố có vai trò quan trọng 
trong chẩn đoán dậy thì sớm trung ương trong 
đó quan trọng nhất là nồng độ LH trong máu. 
Tuy nhiên, giá trị ngưỡng LH nền và LH sau 
kích thích, cũng như thời điểm tối ưu để đạt 
được đỉnh LH vẫn còn thay đổi và có độ nhạy, 
độ đặc hiệu khác nhau trong chẩn đoán dậy 
thì sớm trung ương. Cần có các nghiên cứu có 
cỡ mẫu lớn hơn và đa trung tâm để tìm được 
ngưỡng LH nền, LH đỉnh sau kích thích và 
thời điểm lấy máu thích để có giá trị cao và 
tiết kiệm chi phí cho bệnh nhân trong chẩn 
đoán dậy thì sớm trung ương. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Anderson SE, Dallal GE, Must A (2003), Relative weight and 
race influence average age at menarche: results from two 
nationally representative surveys of US girls studied 25 years 
apart. Pediatrics, 111: 844-850. 
2. Anderson SE, Must A (2005). Interpreting the Continued 
Decline in the Average Age at Menarche: Results from Two 
Nationally Representative Surveys of U.S. Girls Studied 10 
Years Apart. The Journal of pediatrics, 147: 753-760. 
3. Brito VN, Batista CM, et al (1999), Diagnostic Value of 
Fluorometric Assays in the Evaluation of Precocious Puberty 
1, The Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism, 84: 3539-
3544. 
4. Chiocca E, Dati E, Baroncelli GI, et al (2012), Central 
precocious puberty: treatment with triptorelin 11.25 mg. 
ScientificWorldJournal, 2012: 1-6. 
5. Demirbilek H, Alikasifoglu A, Gonc NE, Ozon A, Kandemir 
N (2012), Assessment of gonadotrophin suppression in girls 
treated with GnRH analogue for central precocious puberty; 
validity of single luteinizing hormone measurement after 
leuprolide acetate injection. Clinical endocrinology, 76: 126-130. 
6. Houk CP, Kunselman AR, Lee PA (2009), Adequacy of a 
single unstimulated luteinizing hormone level to diagnose 
central precocious puberty in girls. Pediatrics, 123: e1059-1063. 
7. Kim D, Cho SY, Maeng SH, et al (2012), Diagnosis and 
constitutional and laboratory features of Korean girls referred 
for precocious puberty. Korean journal of pediatrics, 55: 481-486. 
8. Kim HK, Cho, Kee SJ, Seo JY, Jang EM, Chae HJ, Kim CJ 
(2011), Gonadotropin-releasing hormone stimulation test for 
precocious puberty. The Korean journal of laboratory medicine, 
31: 244-249. 
9. Nam HK, Rhie YJ, Son CS, Park SH, Lee KH (2012). Factors to 
predict positive results of gonadotropin releasing hormone 
stimulation test in girls with suspected precocious puberty. J 
Korean Med Sci. 2012 Feb;27(2): 194-9. doi: 10.3346/jkms. 
2012.27.2.194. 
10. Neely EK, Wilson DM, Lee PA, Stene M, Hintz RL (1995), 
Spontaneous serum gonadotropin concentrations in the 
evaluation of precocious puberty. The Journal of pediatrics, 127: 
47-52. 
11. Pasternak Y, Friger M, Loewenthal N, Haim A, Hershkovitz E 
(2012), The utility of basal serum LH in prediction of central 
precocious puberty in girls. European Journal of Endocrinology, 
166: 295-299. 
12. Sun L, Guo X, Zhang J, et al (2016), Gender specific 
associations between early puberty and behavioral and 
emotional characteristics in children. Zhonghua Liu Xing Bing 
Xue Za Zhi, 37: 35-39. 
13. Yazdani P, Lin Y, Raman V, Haymond M (2012), A single 
sample GnRHa stimulation test in the diagnosis of precocious 
puberty. Int J Pediatr Endocrinol, 2012: 23. 
Ngày nhận bài báo: 24/11/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/11/2016 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2017