Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
Ngày nhận bài: 15/4/2017; Ngày phản biện: 15/5/2017; Ngày duyệt đăng: 25/5/2017
(1) Tuyên giáo tỉnh ủy Thái Nguyên; e-mail: 
[email protected].
Số 18 - Tháng 6 năm 2017
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ỨNG DỤNG TIẾN BỘ 
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG SẢN XUẤT CHÈ Ở 
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Lan(1)
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất chè của các hộ nông dân tại thành 
phố Thái Nguyên. Số liệu sử dụng cho nghiên cứu được điều tra thực tế từ 150 hộ nông dân sản 
xuất chè trên địa bàn thành phố Thái Nguyên. Phương pháp phân tích hồi quy Binary Logistic 
được sử dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định ứng dụng tiến bộ khoa học và 
công nghệ vào sản xuất chè của nông hộ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trình độ học vấn, sự 
tham gia các tổ chức xã hội, tổng diện tích đất sản xuất của hộ, vay vốn sản xuất, cơ sở hạ tầng 
nông nghiệp sẽ tương quan thuận với quyết định ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ của 
nông hộ.
Từ khóa: Tiến bộ khoa học và công nghệ; sản xuất chè; nông hộ; thành phố Thái Nguyên 
của tỉnh Thái Nguyên.
1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ 
(KH&CN) vào sản xuất là xu thế của các nhà sản 
xuất trong quá trình hội nhập kinh tế. Kết quả của 
sự ứng dụng là năng suất sản xuất được nâng cao 
cũng như chất lượng sản phẩm được cải tiến. Tại 
Việt Nam cho đến nay, nhiều ý kiến cho rằng sự 
đóng góp của KH&CN vào tốc độ tăng trưởng 
nông nghiệp là khoảng 30%. Trong thực tế việc 
áp dụng các mô hình tiên tiến vào sản xuất nông 
nghiệp nói chung và sản xuất chè nói riêng không 
những giúp bà con nông dân tăng năng suất, chất 
lượng và lợi nhuận mà còn góp phần giảm chi 
phí sản xuất, giảm ô nhiễm môi trường, hướng 
tới xây dựng một nền sản xuất nông nghiệp bền 
vững.
Thành phố Thái Nguyên là thành phố trung 
du, miền núi Bắc Bộ, được thiên nhiên ưu đãi điều 
kiện đất đai và khí hậu thời tiết khá thích hợp cho 
việc phát triển cây chè. So với các huyện trong 
tỉnh, thành phố Thái Nguyên có diện tích chè khá 
lớn được phân bố chủ yếu ở các xã phía Tây, với 
vùng trọng điểm là 6 xã: Tân Cương, Phúc Trìu, 
Phúc Xuân, Phúc Hà và Quyết Thắng. Hiện nay, 
cây chè đã trở thành một trong những cây trồng 
mũi nhọn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
và cải thiện đời sống nhân dân. Trong những năm 
qua, để phát triển bền vững ngành chè, thành phố 
Thái Nguyên đã có nhiều chủ trương, chính sách 
quan tâm ưu tiên phát triển cây chè, đưa tiến bộ 
khoa học và công nghệ vào sản xuất được coi là 
khâu đột phá, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn 
so với một số cây trồng khác; năng suất, chất 
lượng sản phẩm chè ngày càng được cải thiện 
theo hướng bảo đảm an toàn thực phẩm. 
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt 
được, việc ứng dụng KH&CN vào sản xuất nông 
nghiệp nói chung và cây chè nói riêng trên địa 
bàn Thành phố còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt 
trong việc khuyến nghị nông dân không canh tác 
chè theo thói quen và lối cảm tính mà thay bằng 
các biện pháp canh tác khoa học. Thực tế, có 
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn 
đến những khó khăn trên. Vì thế, nghiên cứu này 
nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến ứng 
dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất chè của nông 
hộ thành phố Thái Nguyên, đề xuất giải pháp đẩy 
mạnh ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN 
trong thời gian tới, đồng thời cung cấp những 
luận cứ khoa học cho ngành nông nghiệp thành 
phố Thái Nguyên để triển khai hiệu quả chương 
trình ứng dụng tiến bộ KH&CN trong sản xuất 
chè nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn: 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
113Số 18 - Tháng 6 năm 2017
(1) Các báo cáo của Ủy ban nhân dân thành phố 
Thái Nguyên, Phòng Kinh tế, Trạm Khuyến nông: 
Báo cáo kinh tế xã hội thành phố Thái Nguyên 
hằng năm; Báo cáo tổng kết hoạt động KH&CN 
hằng năm; Báo cáo tổng kết hằng năm của Phòng 
Kinh tế; Báo cáo các mô hình khuyến nông trên 
địa bàn thành phố và một số tài liệu liên quan đến 
đối tượng nghiên cứu; (2) Các trường Đại học/
Viện nghiên cứu, các tổ chức khác: các đề tài, 
dự án nghiên cứu, tài liệu hội thảo có liên quan 
đến việc ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất 
nông nghiệp, sản xuất chè; (3) Các nhận định, 
đánh giá của các nhà chuyên môn, quản lý trong 
lĩnh vực kinh tế nông nghiệp.
Để đảm bảo tính khoa học, tính đại diện 
của số liệu sơ cấp, phương pháp chọn mẫu ngẫu 
nhiên phân tầng được sử dụng để tiến hành thu 
thập số liệu.
Bước 1: Liên hệ địa điểm điều tra chọn 
vùng nghiên cứu. Sau khi xin ý kiến và được tư 
vấn, tác giả quyết định chọn địa bàn nghiên cứu 
cụ thể 03 xã: Tân Cương, Phúc Xuân, Phúc Trìu. 
Theo ý kiến tư vấn, 3 xã này nằm trong vùng chè 
trọng điểm của thành phố Thái Nguyên, tập trung 
nhiều diện tích sản xuất chè của thành phố cũng 
như nông hộ có tham gia ứng dụng KH&CN đa 
dạng và điển hình. Vì thế, việc chọn 3 địa bàn 
trên có khả năng đại diện cho việc nghiên cứu.
Bước 2: Sau khi đã có phiếu điều tra soạn 
sẵn, tác giả tiến hành điều tra thử để kiểm tra tính 
phù hợp của phiếu điều tra, đồng thời hiệu chỉnh 
phiếu điều tra phù hợp với điều kiện thực tế của 
địa bàn nghiên cứu.
Bước 3: Tiến hành điều tra chính thức. Cỡ 
mẫu theo từng địa bàn cụ thể như sau:
2.2. Phương pháp phân tích
Các phương pháp phân tích được sử dụng 
trong nghiên cứu bao gồm: (1) Thống kê mô tả 
với các chỉ tiêu nghiên cứu như: số trung bình, 
tỉ lệ, tần suất để phân tích thực trạng ứng dụng 
tiến bộ KH&CN trong sản xuất chè ở thành phố 
Thái Nguyên; (2) Mô hình Binary Logistic được 
sử dụng để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến 
quyết định ứng dụng tiến bộ KH&CN trong sản 
xuất chè của nông hộ ở thành phố Thái Nguyên. 
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Nguồn lực của nông hộ tại địa bàn 
nghiên cứu
Nguồn lực của nông hộ được mô tả qua 
các chỉ tiêu như: diện tích canh tác, lực lượng 
lao động, trình độ học vấn, kinh nghiệm sản xuất 
chè,
Bảng 2: Đặc điểm về nguồn lực sản xuất của nông hộ
Stt Chỉ tiêu ĐVT
Tân 
Cương 
(n = 50)
Phúc 
Xuân
 (n = 50)
Phúc 
Trìu
(n = 50)
1
Diện tích 
đất 
1000m2/
hộ
1,95 2,11 2,23
2
Diện tích 
chè
1000m2/
hộ
1,86 1,88 1,9
3
Thành 
viên gia 
đình
người/hộ 5,31 5,04 5,26
4
Lao động 
gia đình
người/hộ 2,92 2,92 2,94
5
Trình độ 
học vấn
Lớp 7,3 6,92 6,5
6
Kinh 
nghiệm 
sản xuất 
chè
năm 36,66 25,66 27,68
7
Tỷ lệ nông 
hộ thiếu 
vốn
% 56 34 34
Nguồn: Kết quả khảo sát 150 hộ tại vùng nghiên cứu
- Kinh nghiệm sản xuất: Theo kết quả khảo 
sát thực tế cho thấy, hầu hết nông hộ sản xuất 
chè ở thành phố Thái Nguyên đều có thời gian 
sống tại địa phương tương đối lâu. Ngoài kiến 
thức sản xuất, hoạt động sản xuất, canh tác chè 
đòi hỏi người trực tiếp sản xuất phải nắm được 
những kỹ năng cơ bản để nhận diện các loại bệnh 
cũng như từng thời kỳ tăng trưởng của cây chè 
để phun các loại thuốc, bón các loại phân thích 
hợp, đúng thời gian, đúng liều lượng nên kinh 
nghiệm là một trong những yếu tố khá quan trọng. 
Stt Tên xã
Tên xóm 
được 
chọn
Số 
mẫu 
được 
chọn
Tỷ 
trọng 
(%)
Thông tin thu 
thập
1 Tân Cương
Hồng 
Thái II 25 16,67 Đặc điểm 
chung, nguồn 
lực của nông 
hộ sản xuất 
chè, khả 
năng tiếp cận 
thông tin, tập 
huấn tiến bộ 
KH&CN,
Đội Cấn 25 16,67
2 Phúc Xuân
Cây Thị 25 16,67
Xóm Giữa 
II 25 16,67
3 Phúc Trìu
Khuôn I 25 16,67
Đồng Nội 25 16,67
Tổng 150 100
Bảng 1: Cỡ mẫu điều tra theo địa bàn khảo sát
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
114 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
Nhìn chung, nông hộ được phỏng vấn đều có kinh 
nghiệm lâu năm, trung bình 30 năm tham gia canh 
tác chè, đây là một yếu tố thuận lợi trong quá trình 
sản xuất chè. Đặc biệt, số năm kinh nghiêm cao 
nhất của hộ là 66 năm và thấp nhất 1 năm, đây 
là yếu tố quan trọng giúp cho nông hộ có thể tiếp 
cận và áp dụng kỹ thuật thuận lợi hơn. Ngoài sản 
xuất chè thì nông hộ còn tham gia vào một số hoạt 
động tạo thu nhập khác như: trồng lúa, chăn nuôi 
gia súc, gia cầm và hoạt động phi nông nghiệp. 
- Nguồn lao động: Nguồn lao động sản 
xuất chè của các nông hộ hầu hết là lao động sẵn 
có trong gia đình. Nhìn chung, trung bình mỗi 
hộ trong vùng nghiên cứu có tổng số nhân khẩu 
khoảng 5 người thì có 2 - 3 người tham gia sản 
xuất chè, các thành viên còn lại là những người 
sống phụ thuộc như người cao tuổi, trẻ nhỏ còn 
đi học. Phần lớn các hộ ít sử dụng lao động thuê 
vì tốn kém chi phí, chỉ những hộ có diện tích sản 
xuất lớn thì mới thuê mướn nhiều lao động theo 
ngày để hái chè, chăm sóc. Như vậy, có thể thấy 
rằng, nếu việc sản xuất chè của nông hộ đạt hiệu 
quả thì không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế, mà 
còn góp phần tạo công ăn việc làm cho lao động 
trong gia đình. 
- Trình độ học vấn: Nhìn chung, trình độ 
học vấn bình quân của các hộ sản xuất chè trong 
vùng nghiên cứu là không cao. Trình độ học vấn 
là nhân tố quan trọng góp phần giúp nông hộ tiếp 
thu và vận dụng hiệu quả tiến bộ kỹ thuật vào sản 
xuất. Qua nghiên cứu cho thấy, trình độ học vấn 
trung bình của chủ hộ tham gia sản xuất chè tại 
các địa bàn nghiên cứu từ lớp 6 đến lớp 7. Số chủ 
hộ có trình độ đại học chiếm tỷ lệ rất thấp. Điều 
kiện được nâng cao đã giúp nông hộ nắm bắt vấn 
đề một cách nhanh nhạy hơn, họ mạnh dạn hơn 
trong việc thử nghiệm ứng dụng những tiến bộ 
mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất chè.
- Diện tích canh tác: Với nguồn thu nhập 
chính chỉ từ sản xuất chè nên hầu hết nông hộ ở 
các xã sử dụng hầu hết toàn bộ diện tích đất sản 
xuất hiện có của gia đình để trồng chè. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy, diện tích đất sản xuất trung 
bình/hộ trên 2.000m2, trong đó diện tích đất trung 
bình mà nông hộ trong vùng nghiên cứu dùng để 
sản xuất chè là trên 1.800m2. Diện tích đất sản 
xuất của các nông hộ tương đối ổn định trong 
vòng 5 năm trở lại đây, một số ít nông hộ có tăng 
diện tích đất sản xuất nhưng chủ yếu là do nông 
hộ mua đất sản xuất để tích lũy thêm tài sản hoặc 
mở rộng quy mô sản xuất bằng hình thức thuê 
mướn thêm đất.
- Nguồn vốn sản xuất: Thực tế cho thấy, có 
58,7 % nông hộ sử dụng vốn tự có trong gia đình 
để sản xuất chè, 41,3 % nông hộ còn lại là thiếu 
vốn. Các nông hộ mua vật tư, phân bón chịu lãi, 
cuối vụ thanh toán, 6% nông hộ vay qua kênh 
chính thức (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển 
nông thôn). Đối với những hộ vay từ nguồn vay 
chính thức để sản xuất nông nghiệp, họ phải thế 
chấp quyền sử dụng đất, tài sản. 
- Tham gia hoạt động xã hội: Ngoài thời 
gian tham gia sản xuất thì thành viên của nông 
hộ còn tham gia hoạt động của các tổ chức chính 
quyền, đoàn thể và xã hội tại địa phương. Theo 
kết quả điều tra 150 hộ cho thấy trong số 68 hộ 
có tham gia các tổ chức xã hội (45,3%), như: 
chính quyền địa phương, hội nông dân, hợp tác 
xã, hoặc tổ hợp tác, hội phụ nữ, hội cựu chiến 
binh, đoàn thanh niên Khi được hỏi về lợi ích 
khi tham gia các tổ chức trên họ cho rằng tổ chức 
là nơi để trao đổi thông tin sản xuất, thị trường 
đối với thành viên hội nông dân, hoặc giúp họ có 
thể tiếp cận nguồn tín dụng, đối với những thành 
viên tham gia tổ chức chính quyền giúp cho họ có 
thể tiếp cận thông tin sớm hơn so với nông dân 
bình thường bởi vì thông tin được truyền đạt theo 
chiều dọc của hệ thống quản lý.
3.2. Thực trạng ứng dụng tiến bộ khoa học 
- công nghệ vào sản xuất chè của nông hộ 
Qua khảo sát, số nông hộ sản xuất chè trong 
vùng nghiên cứu có ứng dụng tiến bộ KH&CN 
chiếm 57,3 % số nông hộ được khảo sát. Nhóm 
đối tượng này bao gồm những hộ sản xuất chè có 
ứng dụng các mô hình tiến bộ kỹ thuật vào sản 
xuất chè như: van phun tưới, máy vò chè, sao chè, 
VietGap, UTZ Certified, Nhóm đối tượng còn 
lại chủ yếu sản xuất chè theo phương pháp truyền 
thống, ngoài việc sử dụng giống mới trong canh 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
115Số 18 - Tháng 6 năm 2017
tác thì hầu như nhóm hộ này không ứng dụng bất 
cứ mô hình tiến bộ kỹ thuật nào (số này chiếm 
42,7 % số nông hộ được khảo sát).
Bảng 3: Tình hình ứng dụng tiến bộ KH&CN của 
nông hộ sản xuất chè 
Địa bàn 
nghiên cứu
Tổng số 
hộ
Có ứng dụng Không ứng dụng
Số hộ Tỷ lệ (%) Số hộ Tỷ lệ (%)
Tân Cương 50 33 66 17 34
Phúc Xuân 50 27 54 23 46
Phúc Trìu 50 26 52 24 48
Tổng 150 86 57,3 64 42,7
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát năm 2017
- Nguồn thông tin tiến bộ KH&CN: Nông 
hộ trong vùng nghiên cứu tiếp cận thông tin tiến 
bộ kỹ thuật mới trong sản xuất bằng nhiều hình 
thức đa dạng. Nông hộ sản xuất chè tại vùng 
nghiên cứu chủ yếu biết đến thông tin tiến bộ kỹ 
thuật chủ yếu từ các chương trình khuyến nông 
trên phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình, 
đài, báo), cán bộ khuyến nông và nhân viên 
công ty thuốc bảo vệ thực vật. Các phương tiện 
thông tin truyền thông phổ biến trên phạm vi rộng, 
kiến thức trình bày dễ hiểu, phù hợp với mọi trình 
độ, thuận tiện về thời gian. Bên cạnh đó, đội ngũ 
cán bộ khuyến nông cũng là đầu mối thông tin 
quan trọng, tỷ lệ nông dân tiếp xúc được những 
kiến thức tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất chè từ 
đối tượng này là khá nhiều. Ngoài ra, nông hộ còn 
tiếp cận tiến bộ kỹ thuật thông qua người quen, 
nhân viên công ty thuốc bảo vệ thực vật, cán bộ 
hội nông dân, các viện trường
- Tình hình tập huấn tiến bộ KH&CN: Mục 
tiêu và nội dung chủ yếu của chính sách khuyến 
nông là truyền bá kiến thức cho nông dân ngay 
tại địa bàn sản xuất của họ, giúp họ đưa ra những 
quyết định để xử lý đúng đắn trước những tình 
huống liên tiếp nảy sinh trong quá trình sản xuất 
mà không cần qua các lớp đào tạo tập trung ở 
trường học. Hình thức phổ biến nhất hiện nay là tổ 
chức các lớp tập huấn, hội thảo kỹ thuật, hội thảo 
đầu bờ, xây dựng mô hình trình diễn “mắt thấy 
tai nghe”, để tăng cường khả năng tiếp cận của 
nông dân đối với kỹ thuật mới bằng những cách 
tiếp cận sinh động, gây ấn tượng, phù hợp với 
cách tiếp thu mang tính thực tiễn của nông dân.
Bảng 4: Hình thức tiếp cận nguồn thông tin tiến bộ 
kỹ thuật của nông hộ
Vùng nghiên cứu Tân Cương Phúc Xuân Phúc Trìu
Nguồn thông tin Tần số
Tỷ lệ
(%)
Tần số
Tỷ lệ
(%)
Tần số
Tỷ lệ
(%)
Phương tiện 
thông tin đại 
chúng
30 90,91 25 92,6 11 42,31
Cán bộ khuyến 
nông
25 75,76 24 72,72 13 50
Nhân viên công 
ty thuốc BVTV
31 93,94 23 85,19 10 38,46
Người quen, hàng 
xóm
23 69,7 22 81,48 7 26,92
Cán bộ hội nông 
dân
18 45,45 13 39,4 5 19,23
Cán bộ các 
Trường/Viện
3 9,1 2 7,41 8 30,77
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát năm 2017
Kết quả khảo sát tại vùng nghiên cứu cũng 
cho thấy, phần lớn nông dân tham gia tập huấn 
chủ yếu dưới sự hướng dẫn trực tiếp của các cán 
bộ khuyến nông. Bên cạnh đó, nhân viên các công 
ty thuốc bảo vệ thực vật cũng là một trong những 
lực lượng nòng cốt trong phong trào phổ biến kỹ 
thuật mới và hướng dẫn sử dụng các loại thuốc 
mới đến nông dân. Đây là hoạt động có lợi cho cả 
hai bên, công ty thuốc bảo vệ thực vật có thể giới 
thiệu, quảng cáo được các loại phân bón, thuốc họ 
sản xuất còn nông dân tham gia tập huấn thì được 
hỗ trợ các loại phân bón, thuốc từ công ty về áp 
dụng thử nghiệm trong sản xuất. Ngoài ra, nông 
dân còn được các tổ chức khác chuyển giao kỹ 
thuật như Đại học Thái Nguyên, hội nông dân địa 
phương, chủ yếu những buổi tập huấn này được 
diễn ra trên đồng ruộng mang tính thực nghiệm 
hơn là truyền đạt thông tin.
3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết 
định ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ 
vào sản xuất chè của hộ nông dân ở thành phố 
Thái Nguyên
Mô hình Binary Logistic được áp dụng để 
xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định 
ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất chè của 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
116 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
nông hộ ở thành phố Thái Nguyên. Trong nghiên cứu này, mô hình Binary Logistic được xây dựng 
như sau:
log e [ 
P(Y = 1) 
] = Bo + B1X1 + B2X2 + B3X3 + B4X4 + B5X5 + B6X6 + B7X7
 P(Y = 0)
Trong đó: Y là biến nhị phân, thể hiện ứng dụng tiến bộ KH&CN của nông hộ vào sản xuất 
chè và được đo lường bằng hai giá trị 1 và 0 (1 là nông hộ có ứng dụng ít nhất một mô hình TBKT, 
0 là nông hộ không ứng dụng ứng dụng tiến bộ KH &CN hay gọi là nông hộ sản xuất chè theo truyền 
thống). Các biến X1, X2, X3, X4, X5, X6, X7 là các biến độc lập (biến giải thích).
Bảng 5: Diễn giải các biến độc lập trong mô hình Binary Logistic
Biến số Diễn giải
X1: Số lao động trong nông hộ Tổng số người trong tuổi lao động trong gia đình của nông hộ sản xuất chè.
X2: Trình độ học vấn chủ hộ Lớp mà chủ hộ đã học tính đến thời điểm nghiên cứu.
X3: Kinh nghiệm của chủ hộ Số năm nông hộ tham gia sản xuất chè tính đến thời điểm nghiên cứu.
X4: Tham gia tổ chức xã hội
Biến giả, nhận giá trị 1 nếu nông hộ có tham gia tổ chức xã hội, nhận giá trị 
0 tức là nông tham gia bất kỳ tổ chức nào.
X5: Diện tích đất sản xuất Tổng diện tích đất sản xuất (1.000 m2) mà hộ đang sử dụng
X6: Vay vốn sản xuất Biến giả, nhận giá trị 1 tức là nông hộ có vay vốn và giá trị 0 tức là nông hộ không vay vốn.
X7: Cơ sở hạ tầng nông nghiệp Đánh giá của nông hộ đối với cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp (1= kém, 4 = tốt)
Sử dụng phần mềm SPSS để chạy mô hình Binary Logistic cho kết quả như sau: (1) Kiểm định 
giả thuyết về độ phù hợp tổng quát có mức ý nghĩa quan sát Sig. = 0,00 nên ta bác bỏ giả thuyết H0 là 
hệ số hồi quy của các biến độc lập bằng không. (2) Mức độ dự báo trúng của toàn bộ mô hình là 97,3 %.
Bảng 6: Kết quả phân tích hồi quy bằng mô hình Binary Logistic
Nhân tố B S.E. Wald df Sig. Exp(B)
X1: Số lao động trong nông hộ -1.867 0.997 3.508 1 0.061 0.155
X2: Trình độ học vấn của chủ hộ 2.404 1.089 4.871 1 0.027 11.067
X3: Kinh nghiệm của chủ hộ -0.070 0.062 1.263 1 0.261 0.933
X4: Tham gia tổ chức xã hội 7.775 3.059 6.462 1 0.011 2.381
X5: Diện tích đất sản xuất 3.186 1.380 5.327 1 0.021 24.194
X6: Vay vốn sản xuất 3.848 2.395 2.582 1 0.018 46.883
X7: Cơ sở hạ tầng nông nghiệp 2.251 1.236 3.318 1 0.029 9.493
Hằng số -22.980 11.283 4.148 1 0.042 0.000
Nguồn: Xử lý số liệu điều tra năm 2017
Mức ý nghĩa thống kê của các biến X2 (trình độ học vấn), X4 (tham gia tổ chức xã hội), X5 
(diện tích đất sản xuất), X6 (vay vốn sản xuất), X7 (cơ sở hạ tầng nông nghiệp) đều có sig. nhỏ hơn 
0,05. Như vậy, các hệ số hồi quy tìm được có ý nghĩa và mô hình của chúng ta sử dụng tốt. Từ các hệ 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
117Số 18 - Tháng 6 năm 2017
số hồi quy này ta viết được phương trình:
Dựa vào phương trình trên cho thấy, cả 5 biến đều tác động cùng chiều với biến phụ thuộc. 
log e [ 
P(Y = 1) 
] = -22,980 + 2,404X2 + 7,775X4 + 3,186X5 + 3,848X6 + 2,251X7
 P(Y = 0)
Các biến trình độ học vấn, tham gia các tổ chức 
xã hội, tổng diện tích đất sản xuất của hộ, vay vốn 
sản xuất, cơ sở hạ tầng nông nghiệp sẽ tương 
quan thuận với quyết định ứng dụng tiến bộ 
KH&CN của nông hộ, hay nói cách khác là khi 
tăng trình độ học vấn chủ hộ, diện tích đất sản 
xuất của nông hộ, nông hộ có tham gia các tổ 
chức xã hội, có vay vốn sản xuất và cơ sở hạ tầng 
phục vụ sản xuất nông nghiệp địa phương tốt sẽ 
làm tăng khả năng ứng dụng tiến bộ KH&CN của 
nông hộ. Cụ thể, từng biến tác động đến quyết 
định ứng dụng tiến bộ KH&CN được giải thích 
như sau:
Hai biến định lượng trình độ học vấn (X2) 
và diện tích đất sản xuất (X5) có mối quan hệ 
thuận chiều với biến quyết định ứng dụng tiến 
bộ KH&CN của nông hộ. Giá trị 2 biến này càng 
tăng thì giá trị của biến Y càng gần 1. Lý do là 
trình độ học vấn sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới khả 
năng tiếp thu thông tin tiến bộ KH&CN và ứng 
dụng tiến bộ KH&CN vào thực tế sản xuất; trong 
khi đó, diện tích đất sản xuất càng lớn thì càng tạo 
động lực cho nông hộ ứng dụng tiến bộ KH&CN 
nhằm làm giảm chi phí, sức lao động, thời gian 
chăm sóc đến mức tối thiểu.
Biến tham gia tổ chức xã hội (X4) có ảnh 
hưởng lớn nhất tới quyết định ứng dụng tiến bộ 
KH&CN vào trong sản xuất chè của nông hộ. Do 
biến X4 là một biến định danh nhận 2 giá trị đại 
diện (0: không tham gia tổ chức, 1: có tham gia 
tổ chức) nên xác suất biến Y nhận giá trị 1 (có 
ứng dụng tiến bộ KH&CN) là rất lớn nếu biến 
X4 bằng 1. Nói cách khác, khả năng ứng dụng 
tiến bộ KH&CN vào sản xuất đối với nông hộ 
có tham gia tổ chức và đoàn thể xã hội là rất cao. 
Điều này hoàn toàn hợp lý với thực tế, bởi vì 
thông qua hoạt động đoàn hội như: hội cựu chiến 
binh, hội nông dân, phụ nữ, tổ hợp tác, hợp tác 
xã, nông dân sẽ thường xuyên tiếp nhận thông 
tin khoa học cũng như là tham gia các lớp tập 
huấn đầy đủ, hiệu quả hơn. Nếu chính quyền địa 
phương có biện pháp phổ biến thông tin, mô hình 
tiến bộ kỹ thuật tiên tiến nhanh chóng, kịp thời 
thì sẽ sớm giúp cho nông dân thay đổi nhận thức 
sản xuất, chuyển từ trồng chè truyền thống sang 
áp dụng mô hình kỹ thuật mới.
Biến vay vốn (X6) cũng là một biến định 
danh nhận 2 giá trị đại diện (0: không có vay, 1: 
có vay). Ta giải thích mối quan hệ giữa biến Y 
và X6 tương tự như biến Y và X4. Như vậy, khả 
năng ứng dụng tiến bộ KH&CN của nông hộ sẽ 
rất cao nếu hộ có vay vốn để hỗ trợ sản xuất. Mục 
đích của việc đi vay là đầu tư trang thiết bị, máy 
móc, để phục vụ phát triển sản xuất. Thường 
thì nông hộ phải bỏ ra số vốn cơ bản trong vài 
năm đầu hoặc cập nhật thông tin kỹ thuật mới. 
Việc này chỉ tốn kém trong ngắn hạn, xét về dài 
hạn thì có lợi ích rất lớn do tiết kiệm được chi phí 
vật tư nông nghiệp, chi phí lao động, chi phí thuê 
mướn, cơ giới hóa, cho từng vụ tiếp theo.
Đối với biến X7 (đánh giá cơ sở hạ tầng 
địa phương), khi biến này tiến gần về giá trị lớn 
nhất của chính nó (là 4) thì Y sẽ dần tiến về giá 
trị lớn nhất là 1. Có nghĩa là khi điều kiện cơ sở 
hạ tầng địa phương thuận lợi sẽ góp phần thúc 
đẩy nông dân ứng dụng tiến bộ KH&CN. Trong 
quá trình khảo sát, một số nông dân cho rằng lý 
do họ không ứng dụng tiến bộ KH&CN nhiều là 
do: cán bộ khuyến nông không tiếp xúc nhiều với 
dân, ít xuống tập huấn và chỉ sản xuất mô hình 
thí nghiệm ở những nơi có điều kiện thuận lợi 
hơn; nông dân tại các cơ sở hạ tầng không thuận 
lợi cũng không có nhiều điều kiện ứng dụng tiến 
bộ KH&CN hoặc áp dụng mô hình không đồng 
bộ, không đúng cách nên dẫn đến hiệu quả không 
cao. Vì vậy, biến yếu tố cơ sở hạ tầng là nhân tố 
khách quan có ảnh hưởng quan trọng tới quyết 
định ứng dụng tiến bộ KH&CN của nông dân 
thành phố Thái Nguyên.
Các biến X1 (lao động) và X3 (kinh 
nghiệm sản xuất của chủ hộ) có quan hệ nghịch 
chiều với việc ứng dụng tiến bộ KH&CN. Hộ 
có số lao động càng lớn, kinh nghiệm sản xuất 
chè càng lâu năm thì xu hướng ứng dụng tiến bộ 
KH&CN trong sản xuất càng ít.
4. Kết luận
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
118 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
Qua nghiên cứu thực trạng ứng dụng tiến 
bộ KH&CN và phân tích các yếu tố ảnh hưởng 
đến ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất chè 
của hộ nông dân trên địa bàn thành phố Thái 
Nguyên, tác giả rút ra một số kết luận như sau: 
(1) Nông hộ tiếp cận tiến bộ KH&CN chủ yếu 
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, 
cán bộ khuyến nông, công ty thuốc bảo vệ thực 
vật. Phần lớn nông hộ hài lòng về các khóa tập 
huấn tiến bộ KH&CN và đánh giá cao khả năng 
triển khai ứng dụng. Khá nhiều nông hộ sản xuất 
chè ở thành phố Thái Nguyên đã và đang ứng 
dụng các mô hình tiến bộ KH&CN vào sản xuất 
chè (chiếm tỷ lệ 57,3%). Nông hộ ứng dụng tiến 
bộ KH&CN vào sản xuất chè chủ yếu là: Giống 
mới, thâm canh chè, sản xuất chè an toàn theo quy 
trình VietGap, UTZ, tưới van xoay, chế biến bằng 
tôn sao inox,. (2) Quyết định ứng dụng tiến bộ 
KH&CN vào sản xuất chè của nông hộ chịu ảnh 
hưởng bởi các yếu tố chính: Lao động gia đình, 
Trình độ học vấn; Kinh nghiệm sản xuất của chủ 
hộ; Tham gia tổ chức xã hội, Diện tích đất, Vay 
vốn; Cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp tốt. 
Kết quả của nghiên cứu đã xác định được 
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết 
định ứng dụng tiến bộ KH&CN của nông hộ 
trong sản xuất chè ở thành phố Thái Nguyên. Hạn 
chế của nghiên cứu là chưa phân tích được các 
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ ứng dụng tiến 
bộ KH&CN trong sản xuất chè của nông hộ trên 
địa bàn thành phố Thái Nguyên và so sánh sự 
khác biệt về hiệu quả sản xuất chè giữa các nhóm 
hộ có mức độ ứng dụng tiến bộ KH&CN khác 
nhau, các nghiên cứu tiếp theo có thể thực hiện 
trên phạm vi rộng hơn và tiếp cận theo hướng giải 
quyết hạn chế này./.
Tài liệu tham khảo
[1] Phạm Văn Việt Hà (2007), Thực trạng 
và những giải pháp chủ yếu nhằm nhằm phát 
triển sản xuất chè tại thành phố Thái Nguyên, 
Luận văn Thạc sĩ kinh tế;
[2] Hà Thị Bích Hồng (2011), Nâng cao 
khả năng ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất 
của thanh niên nông thôn tỉnh Thái Nguyên, Luận 
văn thạc sĩ kinh tế;
[3] Huỳnh Thanh Chí (2004). “Vai trò 
của tiến bộ kỹ thuật trong nâng cao hiệu quả 
sản xuất của nông hộ tại xã Viên An, Mỹ Xuyên, 
Sóc Trăng”, Luận văn tốt nghiệp, Khoa Kinh tế - 
QTKD, Trường Đại học Cần Thơ;
[4] Phan Văn Hùng (2009), Một số vấn đề 
về chuyển giao KH&CN vào vùng dân tộc thiểu 
số, NXB. Lý luận Chính trị, Hành chính;
[5] Nguyễn Công Sự (2014), Phân tích 
các yếu tố ảnh hưởng đến việc ứng dụng công 
nghệ trong nông nghiệp ở huyện Quang Bình, 
tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc sĩ kinh tế;
[6] PGS.TS Trịnh Xuân Ngọ (2009), Cây 
chè và kỹ thuật chế biến;
[7] Tổng quan phát triển chè Việt Nam 2001-
2010, Bùi Quang Toản, Nguyễn Cảnh Khâm, Vụ 
QHKH - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
[8] Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng 
Ngọc, (2008), Phân tích dữ liệu với SPSS”, tập 2. 
NXB. Hồng Đức, Hà Nội;
[9] Đinh Phi Hổ và Đoàn Ngọc Phả, (2009) 
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng tập huấn 
công nghệ mới cho nông dân ở An Giang”, Tạp 
chí Quản lý Kinh tế.
FACTORS AFFECTING THE APPLICATION OF SCIENCE AND TECHNOLOGY 
ADVANCES IN TEA PRODUCTION IN THAI NGUYEN CITY, THAI NGUYEN PROVINCE
Abstract: This study was conducted to determine the factors that affect the application 
of scientific and technological advances in tea production of farmer households in Thai Nguyen 
city. Data used for the study was actually surveyed by 150 tea farmers in Thai Nguyen city. 
Binary logistic regression analysis is used to determine the factors influencing the decision 
to apply advanced science and technology to tea production of the household. The results 
showed thateducation level, participation in social organizations, total production land area 
of household, loan for production, and agricultural infrastructure positively correlated with 
farmer’s decision of application of advanced techniques.
Keywords: Advances in science and technology; tea production; farmers; Thai Nguyen city