Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN 
Bài dọc 
NHỮNG CẠM BẪY CỦA MỘT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH 
DO NHÀ NƯỚC CHI PHỐI: 
TRƯỜNG HỢP CỦA TRUNG QUỐC 
Niên khóa 2004-2005
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 2 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
NHỮNG NHƯỢC ĐIỂM CỦA MỘT HỆ THỐNG TÀI 
CHÍNH 
DO NHÀ NƯỚC CHI PHỐI: 
TRƯỜNG HỢP CỦA TRUNG QUỐC 
Genevieve Boyreau-Debray, Ngân hàng Thế giới 
Shang-Jin Wei, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Viện Brookings và CEPR 
Tài liệu thảo luận số 4471 
Tháng 06-2004 
Trung tâm Nghiên cứu chính sách kinh tế (CEPR) 
90-98 Goswell Rd, London EC1V 7RR, UK 
Điện thoại: (44 20) 7878 2900, Fax: (4420) 7878 2999 
Email: 
[email protected], Website: www.cepr.org 
Tài liệu thảo luận này được sử dụng dưới sự bảo trợ của chương trình nghiên cứu về 
thể chế và thành quả kinh tế thuộc Trung tâm Nghiên cứu chính sách kinh tế. Những ý 
kiến được trình bày ở đây là của riêng các tác giả, chứ không phải của Trung tâm. 
Công việc nghiên cứu do CEPR phổ biến có thể bao hàm những nhận xét về chính 
sách, nhưng bản thân Trung tâm không bảo lưu các quan điểm về chính sách thể chế. 
Trung tâm Nghiên cứu chính sách kinh tế được thành lập năm 1983 như một tổ chức 
từ thiện giáo dục tư nhân, nhằm thúc đẩy việc phân tích độc lập và thảo luận công 
cộng về các nền kinh tế mở và mối quan hệ giữa những nền kinh tế này. Trung tâm có 
tính đa nguyên và không đảng phái, đưa hoạt động nghiên cứu kinh tế vào việc phân 
tích các vấn đề chính sách trung và dài hạn. Nguồn tài chính tổ chức (chủ yếu) của 
Trung tâm được cung ứng thông qua những khoản tài trợ chính từ Hội đồng Nghiên 
cứu kinh tế và xã hội, Trung tâm nguồn lực ESRC thuộc hội đồng này, hoạt động 
trong phạm vi của CEPR; tổ chức Esmée Fairbairn Charitable Trust; và Ngân hàng 
Anh. Các tổ chức này không xem xét trước các ấn bản của Trung tâm mà cũng không 
nhất thiết chứng thực cho những nhận định trình bày trong đó. 
Các tài liệu thảo luận của Trung tâm thường trình bày các công trình nghiên cứu sơ bộ 
hay các nghiên cứu chưa hoàn chỉnh, được lưu hành nhằm khuyến khích mọi người 
thảo luận và nhận xét. Việc trích dẫn và sử dụng một tài liệu thảo luận như vậy nên xét 
đến tính chất tạm thời của nó. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 3 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Tài liệu thảo luận CEPR số 4471 
Tháng 6-2004 
TÓM TẮT 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà nước chi phối: 
Trường hợp của Trung Quốc* 
Bài viết này xem xét những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà nước chi phối 
trong bối cảnh của Trung Quốc. Những cạm bẫy này bao gồm tình trạng manh mún 
của thị trường vốn trong nước do sự can thiệp của chính quyền địa phương và sự phân 
bổ sai nguồn vốn. Trước tiên, chúng tôi triển khai hai công cụ tiêu chuẩn từ tư liệu 
nghiên cứu tài chính quốc tế để phân tích sự hội nhập tài chính giữa các tỉnh thành 
Trung Quốc. Cả hai phép kiểm định đều xác nhận một bức tranh tương tự như nhau 
(và có phần khá ngạc nhiên): sự lưu chuyển vốn trong phạm vi Trung Quốc thật thấp! 
Ngoài ra, so với thời kỳ trước đó, mức độ hội nhập tài chính trong thập niên 90 ở trong 
nước xem ra đã giảm chứ không tăng. Thứ hai, chúng tôi cung cấp bằng chứng để 
chứng minh rằng chính phủ có xu hướng tái phân bổ nguồn vốn từ những vùng sản 
xuất hiệu quả sang những vùng sản xuất kém hiệu quả hơn. Theo ý nghĩa này, một vai 
trò nhỏ bé hơn của chính phủ trong lĩnh vực tài chính xem ra có thể làm tăng hiệu quả 
kinh tế và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. 
Phân loại JEL: F30 và G10 
Những từ khóa: nền kinh tế Trung Quốc, Feldstein-Horioka, hội nhập tài chính, thị 
trường vốn nội địa, và chia xẻ rủi ro. 
Genevieve Boyreau-Debray 
Ngân hàng Thế giới 
1818 H Street, N.W. 
Washington DC 20433 
USA 
Email: 
[email protected] 
Shang-Jin Wei 
Phòng Nghiên cứu, Room 10-700 
Quỹ Tiền tệ quốc tế 
700 19th Street, NW 
Washington DC 20431 
USA 
Tel: (1 202) 623 5980 
Fax: (1 202) 623 7271 
Email: 
[email protected] 
* Các tác giả xin cảm ơn Ray Brooks, Chun Chang, Martin Feldstein, Nick Lardy, 
Huayong Ge, Albert Keidel, Eswar Prasad, Gang Yi, và những người tham dự tại một 
cuộc hội thảo của Quỹ Tiền tệ quốc tế, cuộc họp khai mạc nhóm công tác về nền kinh 
tế Trung Quốc của Văn phòng Nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER), và một hội nghị 
ở trường đại học Hồng Kông, đã có những nhận xét bổ ích, và xin cảm ơn Heather 
Milkiewicz đã hỗ trợ công việc nghiên cứu. Những quan điểm trình bày ở đây là của 
riêng các tác giả, và không tiêu biểu cho các quan điểm của Ngân hàng Thế giới, Quỹ 
Tiền tệ quốc tế hay những chính sách riêng của các tổ chức này. 
Đệ trình ngày 15-5-2004
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 4 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
I. Giới thiệu 
Những thất bại thị trường trên thị trường tài chính, chẳng hạn như xu hướng thiên về 
độc quyền tự nhiên do lợi thế kinh tế theo qui mô, hay các yếu tố ngoại tác gắn liền 
với một cơn hoảng loạn ngân hàng (banking panic), đã thôi thúc người ta suy nghĩ về 
vai trò tích cực của chính phủ trong một hệ thống tài chính. Tuy nhiên, vai trò to lớn 
của chính phủ cũng có thể là một nguyên nhân của vấn đề. Bài viết này nghiên cứu 
một vài cạm bẫy tiềm tàng của một hệ thống tài chính do nhà nước chi phối thông qua 
trường hợp của Trung Quốc. 
Sự cất cánh kinh tế của Trung Quốc hơn một phần tư thế kỷ qua mang nhiều 
nét tương đồng với sự cất cánh kinh tế của châu Âu và Bắc Mỹ hơn một trăm năm sau 
cuộc Cách mạng Công nghiệp vào cuối thế kỷ mười chín. Trong trường hợp của Trung 
Quốc, quá trình này được tăng tốc, nhưng những đặc điểm như sự giảm sút dần của 
nông nghiệp trong tổng sản lượng quốc gia và sự gia tăng tương ứng của khu vực công 
nghiệp chế tạo, cũng như sự gia tăng trình độ giáo dục của lực lượng lao động nhằm 
đáp ứng những lợi ích gia tăng của giáo dục, mang những nét đặc thù chung giữa hai 
trường hợp. Tuy nhiên, một điểm khác biệt rõ rệt giữa hai hiện tượng “thần kỳ kinh tế” 
này là về tổ chức của các hệ thống tài chính. Trong khi châu Âu và Bắc Mỹ chủ yếu 
dựa vào một hệ thống tài chính do tư nhân thúc đẩy trong suốt thời kỳ cất cánh kinh tế 
của họ (cho dù giữa châu Âu và Bắc Mỹ cũng có sự khác biệt giữa việc dựa vào các 
ngân hàng và dựa vào thị trường cổ phiếu), Trung Quốc đã duy trì một hệ thống tài 
chính do chính phủ chi phối. Có hai kiểu chi phối của chính phủ. Thứ nhất, các hàng 
rào ngăn cản sự tham gia vào hoạt động ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và 
các dịch vụ tài chính khác được kiểm soát chặt chẽ để sự tập trung khu vực tài chính 
vào các tổ chức thuộc sở hữu nhà nước vẫn còn hết sức cao độ bất chấp hai mươi lăm 
năm cải cách. Thứ hai, chính phủ trung ương và đặc biệt là chính quyền địa phương 
các cấp can thiệp mạnh mẽ vào sự vận hành của thị trường vốn thông qua chỉ đạo hay 
khuyến khích những khoản cho vay hay những trường hợp niêm yết cổ phiếu nhất 
định, đồng thời không khuyến khích những trường hợp khác. Ứng với thành tích tăng 
trưởng kinh tế cao ở Trung Quốc, người ta dễ có xu hướng nghĩ rằng thị trường vốn do 
nhà nước chi phối đã đóng góp cho sự cất cánh kinh tế hay chí ít cũng không có hại gì. 
Về phần tri thức của chúng ta, trong những tài liệu nghiên cứu, hiện vẫn chưa có một 
công trình nào đánh giá định lượng về hiệu quả của thị trường vốn Trung Quốc. 
Chắc chắn, vấn đề những khoản cho vay quá hạn khó đòi trong khu vực ngân 
hàng Trung Quốc đã nhận được nhiều sự chú ý (ví dụ, Lardy, 1998) dù nguyên nhân 
và hậu quả của nó vẫn chưa được phân tích một cách sâu sắc. Ngoài ta, một mặt hạn 
chế tiềm ẩn khác của hệ thống tài chính là thị trường vốn manh mún do bị phân khúc 
theo khu vực, làm cho tiền tiết kiệm và vốn không được sử dụng tại những vùng hiệu 
quả nhất. Có một loạt những câu hỏi liên quan với nhau cần được giải đáp. Thị trường 
vốn trong nước của Trung Quốc hội nhập như thế nào? Tình trạng tiền tiết kiệm hình 
thành từ một vùng của đất nước được chuyển đến một vùng khác phổ biến đến mức 
nào? Sự lưu chuyển vốn tiến triển như thế nào theo thời gian? Dòng vốn có chảy từ 
những vùng kém hiệu quả sang những vùng sản xuất hiệu quả hơn không? Những câu 
hỏi đó có tầm quan trọng to lớn trong việc đánh giá chặt chẽ về hiệu quả của hệ thống 
tài chính do nhà nước chi phối này, nhưng vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ 
thống. 
Để lấp đầy chỗ trống trong tư liệu nghiên cứu, bài viết này xem xét mức độ 
manh mún (segmentation) của thị trường vốn trong nước ở Trung Quốc bằng cách áp 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 5 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
dụng hai phương pháp tiêu chuẩn từng được sử dụng trong tư liệu tài chính quốc tế. 
Phương pháp thứ nhất là sử dụng kiểm định Feldstein và Horioka (1980), gọi tắt là 
kiểm định FH, xem xét mối tương quan giữa đầu tư và tiết kiệm. Ý tưởng ẩn chứa 
trong kiểm định FH là: ứng với giả thuyết không (null hypothesis) về thị trường vốn 
hội nhập hoàn hảo, đầu tư trong một vùng không nhất thiết bị hạn chế bởi lượng tiết 
kiệm địa phương có sẵn trong vùng đó. Vì thế, mối tương quan giữa tiết kiệm địa 
phương và đầu tư địa phương sẽ không cao. Kiểm định FH đã được sửa đổi theo thời 
gian, chúng tôi thực hiện cả phiên bản đầu tiên và phiên bản sửa đổi của kiểm định FH 
được đề xuất trong những bài viết đã xuất bản. 
Phương pháp thứ hai sử dụng các kiểm định dựa trên tiêu dùng (consumption-
based test) từ các bài nghiên cứu về chia xẻ rủi ro để đánh giá mức độ hội nhập tài 
chính (Obstfeld, 1994). Ý tưởng là, ứng với giả thuyết không về sự lưu chuyển vốn 
hoàn hảo và sự hoàn chỉnh của thị trường tài sản, các hộ gia đình có thể thu xếp ổn 
thoả việc tiêu dùng theo thời gian và không gian với sự trợ giúp của các giao dịch tài 
chính. Kết quả là tính biến động tiêu dùng sẽ nhỏ hơn so với biến động thu nhập, và tỷ 
lệ tăng trưởng tiêu dùng giữa các vùng sẽ tương quan với nhau chặt chẽ hơn so với tỷ 
lệ tăng trưởng thu nhập. 
Cho dù nghiên cứu về hệ thống tài chính Trung Quốc trong tư liệu tài chính 
cực kỳ hiếm hoi, thế nhưng cũng có những tài liệu trong những ngành kinh tế khác 
xem xét những khía cạnh khác nhau của nền kinh tế Trung Quốc mà có liên quan đến 
tài liệu này, bao gồm chế độ liên bang kinh tế, sự phân khúc thị trường hàng hoá và 
những giới hạn đối với việc di cư lao động. Theo Qian và Xu (1993), Trung Quốc có 
thể được mô tả như một trường hợp của chế độ liên bang trên thực tế (de facto 
federalism), liên quan đến một hệ thống kinh tế phân quyền, trong đó từng vùng có thể 
được xem như một đơn vị kinh tế tự trị. Qian và Xu lập luận rằng hệ thống phân quyền 
này đã đóng góp cho khả năng đứng vững của nền kinh tế Trung Quốc. Liệu chế độ 
liên bang trên thực tế này dẫn đến một thị trường hàng hoá hội nhập trên toàn quốc có 
tính cạnh tranh cao, hay chỉ là một tập hợp những thị trường manh mún của từng địa 
phương và được bảo hộ kỹ lưỡng? Có nhiều nhận định khác nhau về vấn đề này. 
Young (2001) trình bày những bằng chứng cho thấy có một mức độ chuyên môn hoá 
không đầy đủ trong sản xuất hàng hoá theo vùng; cơ cấu sản xuất xem ra hết sức tương 
đồng giữa các vùng khác nhau ở Trung Quốc so với những gì cần thiết để phát triển 
một quốc gia hội nhập. Mặt khác, Huang và Wei (2001) xem xét tốc độ hội tụ 
(convergence) hướng tới qui luật một giá đối với những sản phẩm đồng nhất tại những 
thành phố khác nhau ở Trung Quốc trong thập niên 90 và nhận thấy rằng, thật ra, tốc 
độ hội tụ ở Trung Quốc tương thích với những gì Parsley và Wei (1996) hay O’Connel 
và Wei (2002) nhận thấy đối với Hoa Kỳ. Nói cách khác, phán đoán từ tốc độ hội tụ 
theo qui luật một giá, mức độ hội nhập thị trường hàng hoá ở Trung Quốc vào thập 
niên 90 có thể so sánh với mức độ hội nhập ở Hoa Kỳ, mà lẽ dĩ nhiên là một thị trường 
hàng hoá nội địa hội nhập cao.1 
1 Sử dụng số liệu từ các bảng đầu vào-đầu ra ở cấp độ tỉnh thành, Naughton (2000) cung cấp bằng 
chứng về sự gia tăng giao hàng của địa phương vào thập niên 90 so với GDP của địa phương; điều này 
cho thấy rằng sự hội nhập thị trường hàng hoá có thể đã gia tăng. Mặt khác, sử dụng số liệu tương tự 
nhưng đưa vào một đặc điểm kỹ thuật theo mô hình trọng lực (gravity-model), Poncet (2002) chứng 
minh rằng mức độ thương mại nội bộ tỉnh ở Trung Quốc xem ra quá cao so với dự đoán của mô hình; 
điều này cho thấy sự hiện diện của các hàng rào ngăn cản thương mại hàng hoá ở cấp độ tỉnh thành. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 6 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Thông qua nghiên cứu tình trạng manh mún thị trường vốn nội địa ở Trung 
Quốc, bài viết này giúp bổ sung tư liệu nghiên cứu về tình trạng manh mún trên thị 
trường hàng hoá bên trong Trung Quốc. Bài viết này cũng đánh giá mức độ hiệu quả 
của thị trường vốn trong việc phân bổ các dòng vốn đến những vùng sử dụng hữu hiệu 
hơn: nếu vốn có tính lưu chuyển và được thúc đẩy bởi động cơ lợi nhuận, vốn sẽ chảy 
sang những vùng sản xuất hiệu quả nhất. Chúng tôi chứng minh bằng tư liệu rằng 
chính phủ (so với khu vực tư nhân) có xu hướng tái phân bổ nguồn vốn từ những vùng 
sản xuất hiệu quả sang những vùng kém hiệu quả hơn. Theo ý nghĩa này, vai trò nhỏ 
bé hơn của chính phủ trong khu vực tài chính có thể giúp gia tăng tỷ lệ tăng trưởng 
kinh tế hơn nữa. 
Phần còn lại của bài viết này được sắp xếp như sau. Phần II mô tả đặc điểm các 
kênh lưu thông vốn ở Trung Quốc. Phần III thực hiện một loạt kiểm định về việc liệu 
đầu tư địa phương có bị ràng buộc bởi tiết kiệm địa phương hay không. Phần IV 
nghiên cứu mức độ chia xẻ rủi ro tiêu dùng trên cả nước. Phần V xem xét cách thức 
phân bổ đầu tư giữa các vùng khác nhau ở Trung Quốc. Phần VI trình bày những suy 
nghĩ kết luận. Phần phụ lục mô tả số liệu. 
II. Nền tảng thể chế về sự lưu thông vốn ở Trung Quốc 
Có ba kênh chính để lưu thông vốn từ vùng này đến vùng khác trong phạm vi một 
quốc gia. Thứ nhất là đầu tư trong nước của các doanh nghiệp và chính phủ giữa các 
vùng. Thứ hai là cho vay của hệ thống ngân hàng giữa các vùng và thứ ba là tài trợ 
vốn từ thị trường cổ phiếu và trái phiếu giữa các vùng. 
A. Đầu tư của doanh nghiệp và chính phủ giữa các địa phương 
Một doanh nghiệp thuộc vùng này đầu tư sang vùng khác ở Trung Quốc dễ dàng đến 
mức nào? Thoạt nhìn qua, các qui định và hệ thống thuế trên toàn quốc tương đối 
trung tính đối với việc chọn lựa vùng đầu tư của doanh nghiệp. Tuy nhiên, có những 
rào cản theo vùng quan trọng và những biện pháp khuyến khích đặc biệt về ngân sách 
làm biến dạng thị trường vốn quốc gia. Chính quyền địa phương không muốn nhìn 
thấy dòng vốn chảy ra khỏi địa phương mình vì điều đó có thể gây thất thu ngân sách. 
Hơn nữa, chính quyền địa phương cũng có thể lo sợ mất đi những doanh nghiệp đang 
hoạt động tốt cùng với tình trạng mất việc làm.2 Hậu quả là phần lớn các vụ sáp nhập 
và mua lại (acquisition) doanh nghiệp có xu hướng được địa phương hoá (nghĩa là 
trong phạm vi một tỉnh thành, một hạt, hay một thành phố) chứ không phải được thực 
hiện giữa các vùng do sự phản đối của các cấp chính quyền địa phương khác nhau. 
Vựơt lên trên tất cả những nhân tố này, các biện pháp khuyến khích đầu tư bằng thuế 
tại các đặc khu đầu tư tạo ra sự biến dạng đáng kể về sức thu hút đầu tư tương đối của 
vùng này hay vùng khác trên đất nước.3 Tóm lại, sự lưu chuyển vốn do thị trường thúc 
đẩy thông qua việc đầu tư của các doanh nghiệp tại các địa phương có thể bị hạn chế. 
2 Tìm đọc tài liệu của Yi, 2003 mô tả sự can thiệp của chính quyền địa phương vào việc sáp nhập các 
doanh nghiệp, một tài liệu xuất sắc xem xét thể chế của sự phát triển thị trường vốn của Trung Quốc từ 
năm 1949. 
3 Như một phần của chính sách mở cửa của Trung Quốc, các đặc khu với các biện pháp khuyến khích 
đầu tư thông qua thuế (chủ yếu là dưới hình thức thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn) đã được hình 
thành. Việc miễn thuế chủ yếu nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước thường 
được hưởng lợi từ những biện pháp khuyến khích thông qua ngân sách này, hoặc một cách tự động hoặc 
trên cơ sở tuỳ chọn. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 7 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Ngược lại, sự lưu chuyển vốn do chính sách thúc đẩy, được phát động bởi 
chính sách đầu tư của chính quyền trung ương, có vai trò tích cực trong việc tái phân 
phối nguồn lực từ vùng này đến vùng khác cho dù tầm quan trọng của đầu tư nhà nước 
giảm dần theo thời gian: Tỷ trọng đầu tư do nhà nước tài trợ cao đến 28 phần trăm vào 
năm 1981, chỉ còn 7 phần trăm vào năm 2001, và tỷ trọng đầu tư theo trách nhiệm của 
trung ương là 45 phần trăm vào năm 1980 và 31 phần trăm vào năm 2001.4 
B. Cho vay của khu vực ngân hàng giữa các vùng5 
Trong phạm vi hệ thống ngân hàng, có ba kênh chính để chuyển giao nguồn lực tài 
chính từ vùng này đến vùng khác: tái phân bổ vốn giữa các chi nhánh ngân hàng quốc 
gia tại địa phương (chuyển giao trong nội bộ ngân hàng); thị trường liên ngân hàng 
(chuyển giao giữa các ngân hàng);6 và ngân hàng trung ương cho các địa phương vay. 
Mãi đến đầu thập niên 90, chính phủ vẫn sử dụng một hệ thống trần tín dụng để 
kiểm soát cung tiền. Trong hệ thống này, các khoản chuyển giao trong nội bộ ngân 
hàng và giữa các ngân hàng với nhau bị hạn chế. Việc cho vay của từng ngân hàng bị 
áp đặt hạn ngạch, và được phân chia theo vùng. Tuy vậy, nghiệp vụ vay và cho vay 
liên ngân hàng cũng đã đóng góp cho sự lưu chuyển vốn trong một chừng mực nhất 
định.7 
Chuyển giao nội bộ và chuyển giao liên ngân hàng có thể đã gia tăng khi các 
ngân hàng được trao quyền tự quản nhiều hơn vào thập niên 90. Thứ nhất, các ngân 
hàng dần dần được phép phân bổ trần tín dụng quốc gia cho các chi nhánh ngân hàng.8 
4 Gần đây hơn, chính phủ phát động một chính sách mới tập trung vào việc phát triển khu vực phía tây 
như một nỗ lực giúp tạo ra sự phát triển đồng đều hơn giữa các vùng, mà trước đây vốn thuận lợi hơn 
cho những vùng ven biển. Chính sách mới được phát động vào năm 2000 có hai thành phần chính: phát 
triển cơ sở hạ tầng với sự đầu tư của chính phủ trung ương vào địa phương và mở rộng các biện pháp 
khuyến khích đầu tư bằng ngân sách cho các tỉnh phía tây. 
5 Hệ thống ngân hàng của Trung Quốc gồm Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa là ngân hàng trung ương; 
bốn ngân hàng thương mại sở hữu nhà nước được thành lập vào đầu thập niên 80; ba ngân hàng chính 
sách ra đời năm 1994; mười ngân hàng thương mại cổ phần quốc gia; khoảng 90 ngân hàng thương mại 
địa phương, khoảng 3.000 hợp tác xã tín dụng thành thị, và khoảng 42.000 hợp tác xã tín dụng nông 
thôn. Các ngân hàng nước ngoài có chi nhánh hay văn phòng đại diện, nhưng hoạt động của họ vẫn còn 
hạn chế. Bốn ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm ưu thế trên thị trường. Tính đến cuối năm 2001, 
bốn ngân hàng này chiếm 63,1 phần trăm dư nợ cho vay chưa thanh toán và 61,5 phần trăm tiền gửi. 
Bốn ngân hàng này cũng chiếm ưu thế về chi nhánh và người lao động: gần hai triệu người được tuyển 
dụng trong khoảng 103.000 chi nhánh trên khắp đất nước Trung Quốc. 
6 Park và Sehrt, 2001. 
7 Các thị trường liên ngân hàng địa phương được phép hoạt động vào giữa năm 1986 và 1993. Các chi 
nhánh ngân hàng có thể cho các chi nhánh ở các tỉnh khác vay vốn. Tuy nhiên, thị trường liên ngân 
hàng cũng trở thành một phương tiện để cân đối thặng dư và thiếu hụt vốn trung hạn và dài hạn. Ví dụ, 
các vùng mở cửa ven biển vay mượn từ các vùng sâu trong đất liền những khoản tiền lớn với mục đích 
tài trợ dài hạn nhằm bù đắp cho tình trạng thiếu hụt vốn địa phương (Xie Duo 2002). Thị trường liên 
ngân hàng cũng trở thành một phương tiện để các ngân hàng quốc doanh lũng đoạn hệ thống hạn ngạch 
tín dụng và cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng vay vì mục đích đầu cơ (đầu tư vào chứng khoán và 
bất động sản), và qua đó tiếp sức cho tình trạng lạm phát. Vì thế, như một phần của chính sách cắt giảm 
thực hiện vào năm 1993, giao dịch liên ngân hàng bị đình chỉ, với ngoại lệ là trung tâm giao dịch do các 
chi nhánh của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa điều hành tại 35 thành phố. 
8 Bắt đầu vào năm 1994, trần tín dụng chỉ áp dụng cho các ngân hàng quốc doanh, và quan trọng hơn, 
trần tín dụng này không còn được xác định bằng các biện pháp hành chính nữa, mà dựa trên tỷ số tối đa 
giữa cho vay và tiền gửi, chỉ được áp dụng cho tổng cho vay quốc gia của các ngân hàng quốc doanh 
riêng lẻ (tất cả các chi nhánh của một ngân hàng quốc doanh được tính chung với nhau). Vào tháng 1-
1998, hệ thống hạn ngạch tín dụng hàng năm chính thức được bãi bỏ. Ngân hàng trung ương bây giờ 
chủ yếu dựa vào những công cụ như điều khiển lãi suất, dự trữ bắt buộc và tỷ số tài sản trên nghĩa vụ 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 8 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Thứ hai, vào năm 1995, các ngân hàng bắt đầu phải chịu trách nhiệm trước những thua 
lỗ của họ, đồng thời bốn ngân hàng phát triển được thành lập để kế tục “các khoản cho 
vay chính sách” – những khoản cho vay thuờng được dành cho các doanh nghiệp nhà 
nước, không chỉ dựa trên cơ sở đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro mà thôi – từ mỗi 
ngân hàng quốc doanh tương ứng.9 Mục tiêu là giải thoát các ngân hàng thương mại 
quốc doanh khỏi các hoạt động chính sách và làm cho việc quản lý của họ hoàn toàn 
chịu ảnh hưởng của lợi nhuận. Chuyển giao nội bộ ngân hàng có thể đã gia tăng trong 
thập niên 90, phù hợp với tính tự chủ nhiều hơn của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, 
trần lãi suất ban hành đối với tiền gửi và cho vay làm hạn chế động cơ khuyến khích 
ngân hàng tối đa hoá lợi nhuận. Thứ ba, vào tháng 1-1996, một thị trường liên ngân 
hàng thống nhất toàn quốc được thành lập, và vào tháng 6, lãi suất liên ngân hàng 
được tự do hoá. Điều này giúp vốn lưu thông dễ dàng hơn. Nhưng cùng lúc ấy, sự lưu 
chuyển vốn giữa các vùng, đặc biệt là sự lưu chuyển được phát động bởi các chi nhánh 
ngân hàng địa phương, từng được phép trước đây, lúc này đã bị cấm. Vì thế, ảnh 
hưởng ròng của những chính sách này đối với sự lưu thông vốn có tính chất không 
chắc chắn và cần được xem xét thêm bằng thực nghiệm. 
Cho vay của ngân hàng trung ương là một công cụ chính sách quan trọng để 
phân bổ nguồn lực trong kỳ kế hoạch tín dụng. Ngân hàng trung ương tham gia vào 
việc tái phân phối tiền gửi ngân hàng để hỗ trợ các mục tiêu kế hoạch tín dụng và cho 
vay chính sách.10 Đại đa số việc cho vay lại của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa là 
thông qua các chi nhánh ngân hàng tại địa phương. Các chi nhánh ngân hàng địa 
phương này chịu ảnh hưởng nặng nề của chính quyền địa phương, và do đó, họ muốn 
gia tăng cho vay lại của ngân hàng trung ương trong phạm vi địa phương. Hệ quả là, 
các chỉ tiêu tín dụng thường bị vượt ở cấp độ quốc gia và phải được tài trợ bằng cho 
vay thêm của ngân hàng trung ương. Để duy trì kiểm soát việc tạo ra tiền cứng (hard 
money), việc cho vay lại của ngân hàng trung ương được tái tập trung hoá thông qua 
(1) qui định rằng ngân hàng trung ương chỉ cho hội sở chính của ngân hàng vay mà 
thôi, và (2) thay thế các chi nhánh tỉnh bằng chi nhánh vùng của ngân hàng trung 
ương.11 Hệ quả là, sau cải cách, vai trò của việc cho vay của ngân hàng trung ương 
trong việc tái phân bổ vốn có thể bị hạn chế. 
C. Việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu từ thị trường chứng khoán giữa các 
vùng 
nợ, đánh giá tín dụng, suất chiết khấu và ngày càng sử dụng các nghiệp vụ thị trường mở nhiều hơn để 
kiểm soát cung tiền. 
9 Luật ngân hàng thương mại mới được ban hành năm 1995. 
10 Năm 1984, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa trở thành ngân hàng trung ương của Trung Quốc, chịu 
trách nhiệm thiết kế và thực hiện chính sách tiền tệ. Larsy (1998) định nghĩa “cho vay nhiều quá”, là giá 
trị cho vay vượt trên giá trị mà lẽ ra nên cho vay nếu tỷ số cho vay trên tiền gửi bằng mức bình quân 
quốc gia. Căn cứ theo số đo này, giá trị cho vay nhiều quá lên đến 8 phần trăm tổng sản lượng nội địa 
(GDP) của tỉnh ở Hắc Long Giang vào năm 1993 và “cho vay ít quá” ở tỉnh Quảng Đông bình quân 
chiếm 7,5 phần trăm GDP của tỉnh trong một thời kỳ năm năm. 
11 Vào tháng 5-1994, các chi nhánh địa phương của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa bị cấm không được 
cho vay lại trong các ngân hàng quốc doanh tại địa phương. Thay vào đó, Ngân hàng Nhân dân Trung 
Hoa chỉ đạo tái tài trợ cho các hội sở chính của các ngân hàng quốc doanh, sau đó các hội sở chính này 
tái phân phối cho các chi nhánh địa phương dựa trên kế hoạch đã được duyệt. Từ tháng 7-1993, chỉ có 
các hội sở chính của ngân hàng trung ương mới được phép cho hội sở chính của các ngân hàng vay. 
Ngoài ra, vào cuối năm 1998, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa được tái cơ cấu để giảm thêm nữa ảnh 
hưởng của địa phương đối với việc cho vay. 31 chi nhánh tỉnh của ngân hàng được cắt giảm chỉ còn 9 
chi nhánh vùng; các chi nhánh vùng này phải báo cáo trực tiếp cho hội sở chính của ngân hàng trung 
ương. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 9 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Kênh lưu thông vốn thứ ba là các thị trường vốn sở hữu và thu nhập cố định. Cho dù 
các ngân hàng chiếm ưu thế trong khu vực tài chính, nhưng gần đây đã có những biểu 
hiện cho thấy sự dịch chuyển hướng tới các giao dịch tài chính dựa trên thị trường 
nhiều hơn. Bảng 1 trình bày những thay đổi về tài sản và nghĩa vụ tài chính của từng 
khu vực tổ chức ở Trung Quốc và giữa các khu vực này với phần còn lại của thế giới 
vào năm 2000.12 Bình quân, 67 phần trăm tổng giao dịch tài chính được thực hiện 
thông qua hệ thống ngân hàng (cho vay và tiền gửi). Ngược lại, chỉ có 5 phần trăm 
dòng tài chính chảy qua thị trường (thị trường trái phiếu và cổ phiếu). Tuy nhiên, thậm 
chí nếu các khoản vay vẫn còn tiêu biểu cho hơn một nửa hoạt động huy động vốn của 
các công ty phi tài chính, tài chính trực tiếp - chủ yếu thông qua phát hành cổ phần – 
đang trở nên một nguồn huy động vốn đáng kể, tiêu biểu cho 14 phần trăm tổng nguồn 
tài chính vào năm 2000. Vào năm 1997, tỷ trọng của nguồn này rất nhỏ, chỉ có 1 phần 
trăm tổng nguồn tài chính. Tương tự, từ năm 1997 đến 2000, có sự dịch chuyển tài sản 
hộ gia đình từ tiền gửi tiết kiệm sang cả tiền gửi ngoại tệ và chứng khoán. Năm 2000, 
các hộ gia đình đầu tư 20 phần trăm tài sản tài chính của họ dưới hình thức chứng 
khoán (14 phần trăm vào cổ phiếu, 6 phần trăm vào trái phiếu), so với 14 phần trăm 
hồi ba năm trước đây. Chính phủ cũng dựa nhiều hơn vào việc phát hành trái phiếu (84 
phần trăm tổng nguồn tài chính vào năm 2000 so với 78,9 phần trăm vào năm 1997). 
Cuối cùng, các tổ chức tài chính cũng tăng tỷ trọng chứng khoán trong danh mục đầu 
tư của họ. Những dịch chuyển trong danh mục tài chính này cho thấy một xu thế của 
thị trường vốn tiến tới một hệ thống dựa trên thị trường nhiều hơn, trong đó, việc tài 
trợ trực tiếp thông qua cổ phiếu và trái phiếu đóng một vai trò ngày càng quan trọng 
hơn. Trên nguyên tắc, cổ phiếu và trái phiếu giúp tạo điều kiện dễ dàng cho sự lưu 
thông vốn giữa các vùng theo thời gian, cho dù vào thời điểm này chưa được đáng kể 
cho lắm. 
Tóm lại, sự lưu chuyển vốn thông qua áp lực thị trường vẫn còn bị hạn chế 
trong thập niên 80, nhưng có thể đã quan trọng hơn vào những năm 90. Tuy nhiên, 
chính phủ tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong việc phân bổ nguồn lực tài chính. 
Sự kiểm soát của chính phủ đối với các dòng vốn lưu thông giữa các vùng được tăng 
cường trên một vài bình diện vào thập niên 90. 
III. Đầu tư địa phương có bị ràng buộc bởi tiết kiệm địa phương? 
A. Ý tưởng cơ bản 
Vì mục đích thảo luận, chúng ta bắt đầu bằng hai trường hợp giả định cực đoan. Nếu 
không có sự lưu chuyển vốn giữa các vùng, tiết kiệm địa phương chỉ có thể được đầu 
tư tại địa phương, và toàn bộ đầu tư địa phương phải được tài trợ bằng tiết kiệm địa 
phương. Trong trường hợp này, đầu tư địa phương và tiết kiệm địa phương sẽ tương 
quan hoàn hảo. Ở một thái cực khác, với sự lưu thông vốn hoàn hảo, tiết kiệm từ địa 
phương này có thể đi đến bất cứ nơi đâu để tìm đến sự đánh đổi tốt nhất giữa lợi nhuận 
và rủi ro. Nói cách khác, tiết kiệm địa phương phản ứng trước các cơ hội đầu tư toàn 
cầu; đầu tư địa phương được tài trợ bằng nguồn vốn quốc tế và quốc gia. Không cần 
có mối quan hệ chính xác nào giữa tiết kiệm địa phương và đầu tư địa phương. Cho dù 
12 Nguồn: Tập san thống kê của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa, 2002:4, trang 78-79. Các tài khoản 
dòng tiền bao hàm toàn bộ các giao dịch tài chính giữa các khu vực trong nước, và giữa các khu vực 
trong nước và phần còn lại của thế giới. Thuật ngữ “sử dụng vốn” và “nguồn vốn” phản ánh những thay 
đổi về tài sản tài chính và nghĩa vụ tài chính của từng khu vực. Các thuật ngữ này được sử dụng từ năm 
1997 trở về sau. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 10 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
điều này không nhất thiết ngụ ý một mối tương quan bằng không, nhưng mối tương 
quan đó sẽ thấp đáng kể. Đây là ý tưởng cơ bản của Feldstein và Horioka (1980), 
những người đề xuất sử dụng mối tương quan giữa tiết kiệm và đầu tư làm số đo sự 
hội nhập thị trường vốn (hay thiếu hội nhập). 
Kiểm định Feldstein Horioka (FH) ban đầu được đề xuất như một phép kiểm 
định sự hội nhập thị trường vốn thế giới, nghĩa là như một đại lượng đo lường mức độ 
lưu chuyển vốn giữa các quốc gia. Trong bối cảnh đó, tư liệu nghiên cứu cho rằng đại 
lượng này không mang lại một bằng chứng dứt khoát về sự lưu chuyển vốn vì mối 
tương quan thấp giữa tiết kiệm và đầu tư có thể nhất quán với những tình huống khác 
chứ không chỉ đơn thuần là mức độ hội nhập thị trường vốn thấp giữa các quốc gia. 
Những tình huống này bao gồm sự tồn tại của một khoản phí đền bù rủi ro (bảo hiểm 
rủi ro) gắn liền với sự phá giá đồng tiền, và nỗ lực của chính phủ nhằm cân đối tài 
khoản vãng lai thông qua điều khiển tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, trong phạm vi một 
quốc gia, kiểm định FH tỏ ra lại là một chỉ báo hợp lý về mức độ hội nhập thị trường 
vốn giữa các vùng khác nhau. Lý do chính là bởi những cách lý giải khác được đề cập 
trên đây không có tác dụng trong phạm vi một quốc gia. Các vùng khác nhau trong 
một đất nước có chung một đồng tiền, không có sự phá giá đồng tiền nào để nói đến ở 
đây. Chính quyền địa phương cũng hiếm khi có một mục tiêu tài khoản vãng lai ở cấp 
độ địa phương.13 
Để tham khảo, bảng 2 tóm tắt các kết quả thu được từ năm tài liệu nghiên cứu 
nổi bật trong tư liệu, xem xét bằng chứng nội bộ quốc gia về mối tương quan giữa tiết 
kiệm và đầu tư tại các nước phát triển. Các quốc gia được nghiên cứu là Canada, Đức, 
Nhật Bản, Hoa Kỳ và Anh. Ai cũng biết, tất cả các nước này đều có một thị trường 
vốn trong nước hội nhập. Trong từng tài liệu, người ta đều nhận thấy mối tương quan 
tiết kiệm-đầu tư âm hoặc không có ý nghĩa giữa các vùng. Điều này chứng minh cho 
việc sử dụng kiểm định FH để xem xét sự hội nhập thị trường vốn nội bộ Trung Quốc. 
Trong phần này, trước tiên chúng tôi trình bày những mối tương quan đơn giản 
(vô điều kiện) giữa tiết kiệm và đầu tư trên các tỉnh thành Trung Quốc và so sánh với 
số liệu tương ứng từ những nước được biết là có thị trường vốn trong nước hội nhập. 
Sau đó, chúng tôi tính một chuỗi các mối tương quan có điều kiện, tuân theo một tiến 
trình mà Iwamoto và van Wincoop (2000) đã sử dụng, kiểm soát số nhân tố khác ngoài 
sự hội nhập thị trường vốn mà có thể ảnh hưởng đến mối tương quan tiết kiệm-đầu tư. 
Vì thị trường vốn Trung Quốc nhìn chung bị chi phối bởi hệ thống ngân hàng, chúng 
tôi cũng thực hiện cùng những phép kiểm định này bằng số liệu tiền gửi và cho vay 
của ngân hàng: hệ thống ngân hàng địa phương phải dựa vào tiền gửi địa phương để 
gia hạn những khoản cho vay mới đến chừng mực nào. 
B. Kiểm định FH vô điều kiện 
Chúng tôi sử dụng tập hợp số liệu từ tất cả các tỉnh thành Trung Quốc mà có sẵn dữ 
liệu để thực hiện phép kiểm định. Điều này có nghĩa là 28 tỉnh (hay những vùng tự trị 
cấp tỉnh, hay các thành phố trực thuộc trung ương) ở lục địa trong suốt thời kỳ cải cách 
(1978-2001), và 24 tỉnh trong thời kỳ trước cải cách (1952-1977).14 Cơ sở dữ liệu 
13 Lưu ý rằng sự bảo hộ của địa phương trên thị trường hàng hoá và mục tiêu tài khoản vãng lai không 
phải là cùng một vấn đề như nhau. 
14 Các tỉnh Giang Tây, Quảng Đông và Hải Nam, Tây Xuyên và Trùng Khánh và Ninh Hạ không được 
bao hàm trong giai đoạn tiền cải cách vì thiếu số liệu. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 11 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
được lấy từ cơ quan Nghiên cứu thị trường Trung Quốc A11, và bao gồm GDP tỉnh 
thành được phân ra theo tiêu dùng hộ gia đình và chính phủ, tạo lập vốn gộp, thay đổi 
hàng tồn kho và xuất khẩu ròng. Tiết kiệm tỉnh thành được định nghĩa là GDP trong 
vùng trừ đi tiêu dùng chính phủ và tư nhân. Đầu tư tỉnh thành được định nghĩa là thay 
đổi trữ lượng vốn gộp của cả hai khu vực tư nhân và chính phủ. Cả tiết kiệm và đầu tư 
đều được biểu thị như một tỷ số của GDP tỉnh thành.15 
Bảng 3 trình bày mối tương quan của tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm tại các tỉnh thành 
Trung Quốc bình quân giai đoạn tiền cải cách (1952-1977), giai đoạn cải cách (1978-
2001) và hai giai đoạn nhỏ thuộc giai đoạn cải cách (1978-1989 và 1990-2001).16 Vì 
mục đích nghiên cứu, bảng 3 cũng trình bày số liệu tương ứng cho các nền kinh tế 
quốc gia thuộc các nước OECD.17 
Tương quan bình quân giữa tiết kiệm và đầu tư địa phương là 0,53 trong giai 
đoạn tiền cải cách (1952-1977) và 0,53 trong giai đoạn cải cách (1978-2001). Qua so 
sánh, mối tương quan giữa tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm trong phạm vi các quốc gia thành 
viên OECD như Nhật Bản hay Hoa Kỳ, nơi có thể được cho là có mức độ lưu thông 
vốn cao, hoặc không khác biệt đáng kể so với zero, hoặc thậm chí có giá trị âm (bảng 
2). Ngược lại, tương quan giữa tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm giữa các quốc gia thành viên 
OECD là 0,71 trong giai đoạn 1960-1977 và 0,45 trong giai đoạn 1978-2001, như 
được trình bày ở cuối bảng 3. Như vậy, mức tương quan nội bộ quốc gia được tìm thấy 
ở Trung Quốc gần giống với mức tương quan giữa các quốc gia hơn so với mức tương 
quan trong nội bộ quốc gia, dựa trên bằng chứng từ các nước OECD. So sánh này cho 
thấy có sự tồn tại của những rào cản ngăn chặn sự lưu thông vốn giữa các vùng ở 
Trung Quốc. 
Kế đến, chúng tôi xem xét sự tiến triển của mối tương quan giữa đầu tư và tiết 
kiệm theo thời gian. Các kết quả được trình bày trong cột 3 và 6 của bảng 3. Các mối 
tương quan này không thay đổi nhiều trước và trong thời kỳ cải cách, như thể hiện qua 
mức độ không đáng kể của sự biến thiên. Ngược lại, hệ số tương quan tăng mạnh từ 
0,3 trong thập niên 80 lên đến 0,6 trong những năm 90 (cột 6, bảng 3). Kết quả này ít 
nhiều làm ta ngạc nhiên, nếu ta tin rằng thị trường vốn lẽ ra đã trở nên hội nhập hơn 
theo thời gian cùng với diễn tiến của cải cách thị trường và sự mở cửa nền kinh tế. 
Như đã đề cập trên đây, những mối tương quan đơn giản dựa trên số liệu thô 
chỉ mang lại một số đo sơ bộ về sự hội nhập tài chính, vì những yếu tố khác với sự hội 
nhập thị trường có thể ảnh hưởng đến mối tương quan giữa tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư. 
Trong phần tiếp theo, chúng tôi áp dụng một phép kiểm định FH có điều kiện cho số 
liệu Trung Quốc, trong đó có kiểm soát những yếu tố này. 
C. Kiểm định FH có điều kiện 
Kiểm định FH có điều kiện mà chúng tôi sử dụng tuân theo chiến lược do Iwamoto và 
van Wincoop (2000) đề xuất. Ý tưởng của họ là nếu thị trường tài chính hội nhập, thì 
đầu tư phụ thuộc vào những yếu tố xác định nguồn cung vốn quốc gia và toàn cầu, 
15 Chúng tôi đã kiểm định bậc hội nhập của chuỗi số liệu bằng các phép kiểm định đơn vị gốc theo 
nhóm (Im, Pesaran, và Shin, 1997). Các tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm đều ổn định. 
16 Chúng tôi cũng khảo sát sự tồn tại của tình trạng phá vỡ cơ cấu trong chuỗi trong thập niên 90 nhưng 
không tìm thấy. 
17 Số liệu đầu tư và tiết kiệm của các quốc gia thành viên OECD được lấy từ Thống kê tài khoản quốc 
gia Liên hiệp quốc và có sẵn từ năm 1960 trở về sau. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 12 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
những yếu tố xác định năng suất vốn, và một tập hợp các yếu tố cụ thể theo vùng. Tiết 
kiệm trong cùng một đất nước cũng có thể phụ thuộc vào các yếu tố toàn cầu và các 
yếu tố cụ thể theo vùng. Các yếu tố quốc gia và toàn cầu có thể được cô đọng lại và 
được gọi là g. Những yếu tố cụ thể theo vùng mà ảnh hưởng đến đầu tư và tiết kiệm có 
thể được tổ chức lại như một tập hợp các vec tơ không tương quan với nhau, v, w, và 
z; trong đó, v và w ảnh hưởng đến đầu tư, còn v và z ảnh hưởng đến tiết kiệm. Nói 
cách khác, v là một vec tơ các yếu tố cụ thể theo vùng ảnh hưởng đến cả đầu tư và tiết 
kiệm. w (hay z) là một vec tơ các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư (hay tiết kiệm) một 
cách độc lập. Đầu tư và tiết kiệm có thể lần lượt được biểu thị bằng các hàm sau đây: I 
= I(g, v, w) và S = S(g, v, z). Thông qua việc xây dựng mô hình, nếu các nhà nghiên 
cứu không kiểm soát ảnh hưởng của g và v, thì tiết kiệm địa phương và đầu tư địa 
phương sẽ tương quan với nhau ngay cả trong trường hợp thị trường tài chính hoàn 
toàn hội nhập. 
Iwamoto và van Wincoop thực hiện một phương pháp nghiên cứu dựa trên 
khung phân tích này cho các quận của Nhật Bản và nhận thấy rằng mối tương quan 
giữa đầu tư địa phương và tiết kiệm địa phương là thấp một khi các yếu tố toàn cầu 
hay quốc gia và các yếu tố khu vực được kiểm soát. Vì thế, các tác giả kết luận rằng 
mức độ hội nhập tài chính giữa các vùng ở Nhật Bản là cao. Chúng tôi áp dụng 
phương pháp này cho các tỉnh thành Trung Quốc. Thứ nhất, chúng tôi kiểm soát các 
cú sốc quốc gia bằng cách lấy tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư của tỉnh trừ cho tỷ lệ tiết kiệm 
và đầu tư của quốc gia 
Trong đó, Sit và Iit lần lượt là tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư của tỉnh i, S-it là tỷ lệ tiết 
kiệm quốc gia bên ngoài tỉnh i, và L-it là tỷ lệ đầu tư quốc gia bên ngoài tỉnh i.18 
Thứ hai, chúng tôi kiểm soát các cú sốc cụ thể theo vùng bằng cách chạy hồi 
qui tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cho mỗi tỉnh một cách tách biệt theo các yếu tố cụ thể theo 
vùng mà có thể ảnh hưởng đến những thay đổi đồng thời của tiết kiệm và đầu tư 
(phương trình 2a và 2b): 
Trong đó y đo lường tình trạng chu kỳ kinh tế của địa phương và F đo lường 
các chính sách ngân sách trong vùng. Chuỗi số liệu chu kỳ kinh tế của tỉnh, y, được tạo 
ra bằng cách áp dụng phương pháp sàng lọc Hodrick và Prescott (HP) cho chuỗi số 
liệu GDP địa phương.19 Biến số ngân sách, F, là tỷ số giữa tiêu dùng của chính phủ địa 
phương trên GDP địa phương. Số dư eSit và eIit từ phương trình (2a) và (2b) lần lượt 
được sử dụng để tính mối tương quan mới giữa tiết kiệm và đầu tư. 
18 Một số tỉnh tạo thành một tỷ phần đáng kể trong tiết kiệm và đầu tư quốc gia. Do đó, chúng tôi sử 
dụng phần còn lại của quốc gia thay cho các giá trị tổng tiết kiệm và đầu tư quốc gia để tránh làm biến 
dạng mối tương quan theo chiều hướng tăng lên. 
19 Chúng tôi sử dụng log(GDP tỉnh) sàng lọc theo HP (100) trừ đi log(GDP quốc gia) sàng lọc theo 
HP(100). 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 13 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Bảng 4a trình bày các kết quả. Mối tương quan bình quân giữa đầu tư và tiết 
kiệm giảm từ 0,53 còn 0,19 sau khi kiểm soát các cú sốc quốc gia trong giai đoạn tiền 
cải cách và giảm từ 0,53 còn 0,34 trong giai đoạn cải cách (dòng 2, bảng 4a). Khi các 
yếu tố cụ thể theo vùng cũng được kiểm soát, mối tương quan giảm thêm nữa, lần lượt 
chỉ còn 0,14 và 0,21 trong giai đoạn tiền cải cách và cải cách (dòng 3, bảng 4a). 
Tuy nhiên, sự gia tăng tương quan từ thập niên 80 đến thập niên 90, được trình 
bày trong kiểm định vô điều kiện trong bảng 3, vẫn tiếp tục duy trì ngay sau khi kiểm 
soát các cú sốc quốc gia và các cú sốc cụ thể theo vùng (các cú sốc về chu kỳ kinh tế 
và ngân sách) đối với tiết kiệm và đầu tư địa phương. Như trình bày trong dòng 3 bảng 
4a, mối tương quan đầu tư-tiết kiệm địa phương là 0,04 trong thập niên 80 (cột 4, dòng 
3), nhưng tăng đến 0,43 trong thập niên 90 (cột 5, dòng 3). Như vậy, vẫn còn một vấn 
đề rắc rối: xem ra tình trạng manh mún thị trường vốn lại càng tệ hại hơn. 
Để kiểm soát sự thiên lệch khả dĩ về tính đồng thời trong các yếu tố hồi qui, 
chúng tôi đưa vào mô hình các giá trị trễ một năm của các biến cụ thể theo vùng trong 
phương trình 2a và 2b. Như trình bày trong dòng 4 bảng 4a, việc sử dụng các giá trị trễ 
thay cho các giá trị đương thời dẫn đến những kết quả hết sức tương tự. Cuối cùng, 
nhằm mục đích so sánh, cột 7 và 8 trình bày các kết quả do Iwamoto và van Wincoop 
tìm thấy đối với các quận của Nhật Bản và các quốc gia OECD. Đối với các quận Nhật 
Bản, các mối tương quan trở nên không có ý nghĩa thống kê một khi các biến số quốc 
gia và vùng được giữ không đổi (cột 7, dòng 3). Ngược lại, mối tương quan giữa các 
nền kinh tế OECD được lập điều kiện dựa trên các yếu tố toàn cầu và quốc gia là 0,28 
(cột 8, dòng 3). 
Cuối cùng, chúng tôi tìm hiểu tác động biên của tiết kiệm địa phương đối với 
đầu tư địa phương, nghĩa là, một đơn vị tiết kiệm địa phương tăng thêm sẽ đóng góp 
bao nhiêu cho đầu tư địa phương. Để làm điều này, chúng tôi chạy hồi qui tỷ lệ đầu tư 
của tỉnh theo tỷ lệ tiết kiệm địa phương và trình bày giá trị ước lượng hệ số tỷ lệ tiết 
kiệm trong bảng 4b. Các kết quả cũng tương tự với những kết quả trước đây sử dụng 
mối tương quan đầu tư-tiết kiệm. Hệ số tiết kiệm địa phương có giá trị dương và có ý 
nghĩa thống kê đáng kể thậm chí khi đã kiểm soát các yếu tố quốc gia và vùng. Có sự 
gia tăng hệ số tiết kiệm trong thập niên 90. Do đó, không có bằng chứng gì cho thấy sự 
cải thiện mức độ hội nhập thị trường vốn. 
D. Sự lưu chuyển vốn trong khu vực ngân hàng 
Vì khu vực tài chính của Trung Quốc bị chi phối bởi các ngân hàng, kết quả kiểm định 
FH sử dụng số liệu tiền gửi và cho vay của ngân hàng có thể chứa đựng nhiều thông 
tin. Chuyển giao nội bộ ngân hàng và chuyển giao giữa các ngân hàng bị hạn chế trong 
thời kỳ kế hoạch tín dụng và gia tăng tầm quan trọng thập niên 90 cùng với cải cách 
ngân hàng nhằm trao cho các ngân hàng sự tự chủ và trách nhiệm tài chính nhiều hơn. 
Do đó, kiểm định mức ý nghĩa mối tương quan tiền gửi và cho vay có thể mang lại 
một mảng bằng chứng khác về mức độ lưu chuyển vốn trong phạm vi Trung Quốc. 
Bảng 5 trình bày kết quả của việc áp dụng cùng một phương pháp luận như 
trên đối với số liệu tiền gửi và cho vay tại các tỉnh thành Trung Quốc cũng như tại các 
quốc gia thành viên OECD nhằm mục đích so sánh. Mối tương quan vô điều kiện là 
0,66 trong thập niên 80 và 0,50 trong thập niên 90, tương tự như tương quan giữa các 
quốc gia thành viên OECD, lần lượt là 0,63 và 0,62 trong thập niên 80 và 90. Khi 
chúng tôi kiểm soát xu hướng quốc gia, mối tương quan bình quân trong phạm vi 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 14 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Trung Quốc giảm từ 0,66 còn 0,30 trong thập niên 80, và tăng nhẹ trong thập niên 90. 
Điều này cho thấy rằng tầm quan trọng của cấu phần quốc gia trong thập niên 80 đã 
giảm khi bước sang thập niên 90. Quả thật, các cuộc cải cách được thực hiện trong 
thập niên 90 trao cho ngân hàng nhiều sự tự chủ hơn đã làm giảm tầm quan trọng của 
việc lập kế hoạch trung ương. Qua so sánh, chúng ta thấy cấu phần toàn cầu của các 
quốc gia thành viên OECD gần như không có tác động đối với mối tương quan. 
Cuối cùng, khi các yếu tố quốc gia và toàn cầu được kiểm soát, mối tương 
quan giữa tiền gửi và cho vay gia tăng theo thời gian, từ 0,44 trong giai đoạn 1978-89 
lên đến 0,58 trong giai đoạn 1990-2001 (dòng 3, cột 1 và 2 trong bảng 5). Sự gia tăng 
này có ý nghĩa thống kê (cột 3, dòng 3 trong bảng 5), cho thấy tình trạng giảm sút lưu 
thông vốn trong khu vực ngân hàng trong thập niên 90. 
Nhìn chung, phát hiện về mối tương quan đồng biến (dương) và có ý nghĩa sau 
khi kiểm soát các yếu tố quốc gia và các cú sốc cụ thể theo vùng cho thấy rằng: vẫn có 
những rào cản đáng kể đối với sự lưu thông vốn trong phạm vi đất nước Trung Quốc. 
Vì vậy, chiều hướng dòng chảy vốn trong phạm vi Trung Quốc vẫn gần giống với sự 
di chuyển vốn quốc tế hơn so với sự lưu chuyển vốn nội bộ quốc gia mà người ta có 
thể nhận thấy tại những quốc gia không có rào cản lưu chuyển vốn trong nước (như 
Nhật Bản). Hơn nữa, chúng tôi phát hiện thấy sự gia tăng đáng kể mối tương quan đầu 
tư-tiết kiệm tương ứng với sự giảm sút lưu chuyển vốn trong thập niên 90. Kết quả sau 
này nhất quán với những phát hiện về tình trạng sa sút trong phân bổ vốn trong thập 
niên 90 (tìm đọc Cull và Xu, 2000, Park và Sehrt 2001). Điều này cũng nhất quán với 
kết quả về sự gia tăng phân tán suất sinh lợi biên của vốn mà Tan và Zhang (2003) 
từng nhận thấy. 
IV. Có sự chia xẻ rủi ro hữu hiệu trong tiêu dùng? 
Trong phần này, ta chuyển sang xem xét một khía cạnh khác của sự hội nhập vốn nội 
địa, tập trung vào khía cạnh tiêu dùng (so với khía cạnh đầu tư được thảo luận trong 
phần trên), ấy là, thị trường vốn nội địa Trung Quốc cho phép có sự chia xẻ rủi ro đến 
mức nào trong tiêu dùng giữa các vùng khác nhau. 
A. Ý tưởng cơ bản 
Căn cứ theo tư liệu nghiên cứu về chia xẻ rủi ro quốc tế (tìm đọc tài liệu tham khảo 
của Obstfeld, 1994), trong một thế giới hoàn toàn hội nhập, thông qua sự tập hợp rủi 
ro, các cá nhân có thể được bảo hiểm trước tình trạng không chắc chắn về thu nhập 
của mình. Ứng với giả định về một thị trường tài sản hoàn chỉnh và sự lưu thông vốn 
hoàn hảo, những thay đổi về tiêu dùng của hộ gia đình sẽ tương ứng một-một với 
những thay đổi tiêu dùng của cả nước khi không có những biến động đặc ứng về sở 
thích hay các sai số đo lường. Hơn nữa, những khác biệt trong thay đổi tiêu dùng giữa 
các hộ gia đình sẽ không tương quan với những thay đổi trong nguồn lực hộ gia đình. 
Dựa trên ý tưởng này, người ta có thể xây dựng một đại lượng khác đo lường 
sự hội nhập thị trường vốn.20 Biết rằng giả định về sự lưu thông vốn hoàn hảo và sự 
hoàn chỉnh của thị trường thì không sát với thực tế, người ta sẽ không kỳ vọng tìm 
thấy tính chất chặt chẽ hoàn hảo trong sự tiến triển của tiêu dùng trên đầu người giữa 
các quốc gia. Ta sẽ quan sát thấy một giả thuyết hợp lý hơn, ứng với sự lưu chuyển 
20 Tìm đọc điều tra tư liệu về chia xẻ rủi ro trong tài liệu của Crucini và Hess (2000). 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 15 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
vốn quốc tế và sự tinh xảo về tài chính tăng dần, sự liền lạc chặt chẽ của những thay 
đổi về tiêu dùng tăng dần và tính biến động tiêu dùng giảm dần.21 Căn cứ theo những 
bằng chức thực nghiệm tìm thấy trong tư liệu, so với sự tương quan tiêu dùng giữa các 
quốc gia thành viên OECD, tiêu dùng trong phạm vi các quốc gia thành viên OECD có 
tương quan cao hơn, do mức độ hội nhập tài chính cao hơn.22 Kết luận chung của tư 
liệu về nội bộ quốc gia là: sự chia xẻ rủi ro trong phạm vi nội bộ quốc gia mạnh hơn 
nhiều so với sự chia xẻ rủi ro quốc tế. 
Phần này được tổ chức như sau: Trước tiên chúng tôi trình bày kiểm định vô 
điều kiện về chia xẻ rủi ro nhằm mô tả xem việc tiêu dùng được thu xếp ổn thoả thuận 
tiện (giảm biến động) đến mức nào giữa các tỉnh thành Trung Quốc. Sau đó, chúng tôi 
áp dụng khung phân tích do Obstfeld (1994) đề xuất, cho phép kiểm định sự chia xẻ 
rủi ro ngay cả với một thị trường tài sản không hoàn chỉnh.23 
B. Kiểm định vô điều kiện về chia xẻ rủi ro 
Bảng 6 trình bày các mối tương quan của tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng trên đầu người 
của tỉnh với tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng trên đầu người của phần còn lại của đất nước, 
và mối tương quan giữa tỷ lệ tăng trưởng GDP trên đầu người của tỉnh với tỷ lệ tăng 
trưởng GDP trên đầu người của phần còn lại của đất nước.24 Toàn bộ số liệu được biểu 
thị theo giá trị thực, sử dụng giá năm 1978 và theo chênh lệch logarit (hay sai phân bậc 
một của logarit). Như trong phần trên đây, mối tương quan giữa các tỉnh thành Trung 
Quốc được tính cho giai đoạn tiền cải cách (1952-1977), giai đoạn cải cách (978-2001) 
và hai giai đoạn nhỏ trong thời kỳ cải cách (1978-1989 và 1990-2001). Nhằm mục 
đích so sánh, chúng tôi cũng tính toán và trình bày số liệu tương ứng cho các quốc gia 
thành viên OECD. 
Các mối tương quan tiêu dùng giữa các tỉnh thành Trung Quốc bình quân lần 
lượt là 0,62 và 0,54 trong giai đoạn tiền cải cách và cải cách. So ra, các số liệu tương 
ứng của các quốc gia thành viên OECD đều thấp hơn, ở mức 0,35 trong cả hai thời kỳ 
(bảng 6, dòng 4). Các mối tương quan tiêu dùng trong nội bộ quốc gia tìm thấy trong 
tư liệu thực nghiệm về chia xẻ rủi ro được trình bày trong bảng 7. Các tỷ lệ tăng 
trưởng tiêu dùng trên đầu người địa phương trong nội bộ Trung Quốc tương quan với 
nhau nhiều hơn so với trong phạm vi các quốc gia thành viên OECD như Hoa Kỳ 
(tương quan 0,31 hay 0,40 như trình bày trong bảng 7), hay Nhật Bản (tương quan 
0,46, cũng được trình bày trong bảng 7). Như vậy, có phần nào hơi ngạc nhiên, các tỷ 
lệ tăng trưởng tiêu dùng trên đầu người trong nội bộ Trung Quốc tương quan với nhau 
21 Ví dụ, Obstfeld (1994) lưu ý rằng trong các quốc gia G7 giai đoạn từ 1951 đến 1988, tiêu dùng nội 
địa có xu hướng trở nên tương quan chặt chẽ hơn với tiêu dùng thế giới. 
22 Tư liệu về chia xẻ rủi ro trong nội bộ quốc gia đã sử dụng số liệu khu vực trong phạm vi Canada 
(Crucini (1999) và Bayoumi và McDonald (1995)), Nhật Bản (van Wincoop (1995)) và Hoa Kỳ 
(Atkeson và Bayoumi (1993), Crucini (1999), Hess và Shin (1997), Asdrubali, Sorensen, và Yosha 
(1996)). 
23 Sau cùng, những kiểm định dựa trên tiêu dùng mà không giả định tính hoàn chỉnh của thị trường tài 
sản mang lại một khung khổ sát thực tế hơn để đánh giá mức độ hội nhập tài chính trên cơ sở các dự 
đoán lý thuyết về chia xẻ rủi ro. 
24 Chuỗi số liệu về tiêu dùng là GDP được lấy từ cơ sở dữ liệu Nghiên cứu Tiếp thị Trung Quốc A11 
năm 2001 (xem phụ lực mô tả chi tiết về số liệu). Một số tỉnh tạo thành một tỷ phần đáng kể sản lượng 
quốc gia. Do đó, chúng tôi sử dụng phần còn lại của quốc gia thay cho các giá trị tổng của quốc gia 
(nghĩa là chúng tôi loại phần đơn giản của tỉnh ra) để tránh làm biến dạng mối tương quan của mẫu theo 
chiều hướng tăng lên. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 16 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
nhiều hơn so với bất kỳ một mẫu quốc tế hay nội bộ quốc gia nào của các quốc gia 
thành viên OECD, nơi mà ta biết có sự hội nhập cao. Tuy nhiên, thật là sai lầm nếu ta 
đi đến kết luận rằng mức độ chia xẻ rủi ro trong nội bộ Trung Quốc cao hơn so với 
trong nội bộ Hoa Kỳ chỉ dựa vào bằng chứng này mà thôi. Quả thật, mức độ tương 
quan tiêu dùng cao có thể phản ánh tương quan sản lượng địa phương cao, cùng với 
mối quan hệ chặt chẽ giữa các tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng và sản lượng. Như trình bày 
trong dòng thứ hai bảng 6, các tỷ lệ tăng trưởng sản lượng địa phương ở Trung Quốc 
tương quan với nhau khá cao. Các hệ số tương quan bằng 0,8 trong giai đoạn tiền cải 
cách và 0,65 trong giai đoạn cải cách. Hơn nữa, những giá trị ước lượng này cao hơn 
so với các quốc gia thành viên OECD (dòng 5, bảng 6) hay của các vùng trong nội bộ 
Nhật Bản hay Hoa Kỳ (cột 3, bảng 7). 
Như vậy, chúng ta cần biểu thị mối tương quan tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng so 
với những chuyển biến đồng thời tương ứng của GDP. Chúng ta làm điều này thông 
qua chia tương quan của tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng địa phương cho tương quan của tỷ 
lệ tăng trưởng sản lượng địa phương (dòng 3 và 6 trong bảng 6). Vì các tỷ lệ tăng 
trưởng tiêu dùng địa phương tương quan với nhau ít hơn so với tỷ lệ tăng trưởng GDP 
địa phương trong giai đoạn tiền cải cách, cho nên tỷ số này thấp hơn một đơn vị một 
cách đáng kể về mặt thống kê, trong khi trong giai đoạn cải cách thì không như vậy. 
So ra, tỷ số tương ứng đối với các quốc gia thành viên OECD lại không khác 1 một 
cách đáng kể trong giai đoạn 1960-1977 và giai đoạn 1978-1999 (dòng 6, bảng 6). 
Các cột 3 và 6 bảng 6 trình bày kiểm định có trị trung bình khác nhau về sự 
thay đổi tương quan giữa các giai đoạn tiền cải cách và cải cách, cũng như giữa thập 
niên 80 và 90. Cả hai mối tương quan tiêu dùng và sản lượng đếu giảm từ giai đoạn 
tiền cải cách sang giai đoạn cải cách, như thể hiện qua dấu âm và có ý nghĩa của sự 
biến thiên (lần lượt là -0,080 và -0,148). Vì mối tương quan sản lượng giảm nhiều hơn, 
cho nên mối tương quan tiêu dùng tương đối tăng lên (tăng thêm 0,054, cột 3), nhưng 
sự thay đổi này không khác không về mặt thống kê. 
Ngoài ra, khi ta chia giai đoạn cải cách ra làm hai giai đoạn nhỏ, thập niên 80 
và thập niên 90, có một chiều hướng khá ngạc nhiên xuất hiện (bảng 6, cột 4 và 5). 
Mối tương quan tiêu dùng giảm rõ rệt (từ 0,70 còn 0,21) trong khi mối tương quan sản 
lượng tăng lên (từ 0,63 lên 0,72, dòng 1 và 2). Hai chiều hướng biến chuyển trái ngược 
nhau này dẫn đến sự giảm sút mạnh trong mối tương quan tiêu dùng tương đối từ 1,10 
còn 0,30 (dòng 3, cột 4 và 5 trong bảng 6). Sự giảm sút này có ý nghĩa thống kê (dòng 
3, cột 6). Nếu ta thực hiện công việc tính toán tương tự cho các quốc gia thành viên 
OECD, ta nhận thấy rằng cũng có sự giảm sút vừa phải trong mối tương quan tiêu 
dùng tương đối (dòng 6, cột 4 và 5). Tuy nhiên, không như trong trường hợp Trung 
Quốc, sự giảm sút này không khác không về mặt thống kê. Nói cách khác, có sự giảm 
sút mức độ chia xẻ rủi ro giữa các vùng ở Trung Quốc trong hai mươi năm qua. 
Như một đại lượng khác đo lường sự chia xẻ rủi ro, người ta cũng có thể nhìn 
vào sự biến động tiêu dùng bình quân so với biến động sản lượng bình quân. Mức độ 
chia xẻ tiêu dùng cao hơn giữa các vùng địa lý sẽ ngụ ý sự biến động tiêu dùng tương 
đối thấp hơn. Bảng 8 trình bày sự biến động tỷ lệ tăng trưởng sản lượng và tiêu dùng 
trên đầu người bình quân giữa các tỉnh thành Trung Quốc cũng như giữa các quốc gia 
OECD để so sánh. Sự biến động tiêu dùng và sản lượng lần lượt được trình bày trong 
dòng 1 và 2. Nhìn chung, có sự giảm sút biến động tiêu dùng và sản lượng đáng kể 
trong giai đoạn cải cách so với giai đoạn tiền cải cách. Biến động tiêu dùng tương đối 
so với biến động sản lượng của Trung Quốc và các quốc gia OECD lần lượt được trình 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 17 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
bày trong dòng 3 và 6 của bảng 8. Biến động tiêu dùng tương đối trong nội bộ Trung 
Quốc cũng nằm trong phạm vi giống như số đo tương ứng của các quốc gia OECD cả 
trong giai đoạn tiền cải cách và cải cách. Nếu chia thời kỳ cải cách ra làm hai thập 
niên, ta thấy rằng biến động tiêu dùng tương đối ở Trung Quốc đã tăng lên chứ không 
giảm đi, từ 1,23 trong thập niên 80 tăng lên đến 1,39 trong thập niên 90 (dòng 3, cột 4 
và 5), cho dù sự gia tăng này không đáng kể về mặt thống kê. Điều này cho thấy rằng 
các cơ hội chia xẻ rủi ro không được cải thiện trong vòng mười năm qua. 
Tóm lại, cả bằng chứng về tương quan tiêu dùng tương đối (tương quan tiêu 
dùng địa phương so với tương quan sản lượng địa phương) và bằng chứng về biến 
động tiêu dùng tương đối (biến động tiêu dùng bình quân so với biến động sản lượng) 
xem ra đều cho thấy rằng mức độ chia xẻ rủi ro giữa các vùng Trung Quốc không cao 
và không được cải thiện từ thập niên 80 sang thập niên 90. Tuy nhiên, bản thân những 
số đo này không có tính chất kết luận. Một mức độ lưu chuyển vốn thấp có thể xuất 
phát từ mức độ hội nhập tài chính thấp trong phạm vi Trung Quốc, nhưng cũng thể 
hình thành từ tính không hoàn chỉnh của thị trường tài sản. Trong phần tiếp theo, 
chúng tôi sẽ triển khai một đại lượng đo lường chia xẻ rủi ro dựa trên nghiên cứu của 
Obstfeld (1994), chính thức xem xét đến những yếu tố khác ngoài sự lưu chuyển vốn 
ảnh hưởng đến sự chia xẻ rủi ro. 
C. Kiểm định có điều kiện về chia xẻ rủi ro 
Obstfeld (1994) đã triển khai một mô hình về chia xẻ rủi ro tiêu dùng quốc tế mà từ 
mô hình này, người ta đã suy ra một số phép kiểm định khác. Mô hình cho phép ta 
kiểm định hai trường hợp cực đoan về sự lưu chuyển vốn hoàn hảo và không hoàn hảo 
ứng với giả định về thị trường hoàn chỉnh cũng như trường hợp phổ biến hơn, trong đó 
các thị trường tài sản không hoàn chỉnh. Trong phần này, chúng tôi áp dụng phương 
pháp luận thực nghiệm này để đánh giá mức độ chia xẻ rủi ro ở Trung Quốc. 
Phương pháp luận do Obstfeld (1994) đề xuất đã nới lỏng giả định về thị 
trường hoàn chỉnh và bao gồm việc ước lượng phương trình sau đây: 
Trong đó, Cit là tiêu dùng tư nhân trên đầu người theo giá trị thực, C-it là tổng 
tiêu dùng tư nhân trên đầu người bên ngoài tỉnh i, ui là ảnh hưởng cố định của tỉnh, và 
eit là số hạng sai số.25 Số hạng LRLit viết tắt của “Local Resouce Limit”, giới hạn 
nguồn lực địa phương, được biểu thị bằng giá trị trên đầu người. Số hạng này được 
định nghĩa là LRLit = GDPit – Iit – Git, trong đó Iit là tỷ lệ đầu tư và Git là tiêu dùng của 
chính phủ. Số hạng này tương ứng với mức tiêu dùng tối đa của địa phương khi các thị 
trường nội bộ quốc gia và quốc tế đều đóng cửa. Nếu đầu tư địa phương bị ràng buộc 
bởi tiết kiệm điều kiện, thì tiêu dùng bị ràng buộc bởi giới hạn nguồn lực địa phương 
và giả thuyết b = 0 và c = 1 sẽ không bị bác bỏ. Ngược lại, nếu có sự hội nhập tài 
chính cao, chúng ta sẽ kỳ vọng b gần với một và c gần với không. Theo cảm nhận trực 
giác, phương trình (3) cho ta một chỉ báo về mức độ tiêu dùng liên quan chặt chẽ như 
25 Ảnh hưởng theo năm không được bao hàm vì ảnh hưởng này có thể tương quan với biến tổng tiêu 
dùng. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 18 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
thế nào với những yếu tố toàn cầu hay địa phương lần lượt được thể hiện qua tổng tiêu 
dùng C-it hay giới hạn nguồn lực địa phương LRLit.26 
Bảng 9 trình bày các giá trị ước lượng của phương trình (3), sử dụng mẫu các 
tỉnh thành Trung Quốc và giá trị thống kê kiểm định các giả thuyết phù hợp. Giả 
thuyết không về hội nhập tài chính hoàn hảo (H3: b = 1 và c = 0) bị bác bỏ đối với cả 
hai giai đoạn tiền cải cách và cải cách. Ở thái cực ngược lại, giả thuyết về tình trạng 
không hội nhập tài chính cũng bị bác bỏ một cách hệ thống (H4: b = 0 và c = 1). Nhằm 
mục đích so sánh, bảng 10 trình bày các kết quả tương ứng trong phạm vi các quốc gia 
OECD. Giá trị ước lượng hệ số của tổng tiêu dùng tăng dần theo thời gian từ 0,35 
(trong giai đoạn 1960-77, được trình bày trên dòng 1, cột 1, bảng 10) lên đến 0,60 
trong thập niên 80 (dòng 1, cột 3) và lên đến 0,90 trong thập niên 90 (dòng 1, cột 4), 
trong khi giá trị ước lượng hệ số giới hạn nguồn lực nội địa (DRLit) giảm liên tục, từ 
0,43 (giai đoạn 1960-1977) còn 0,081 trong thập niên 90. Hai chuyển biến ngược nhau 
này cho thấy sự gia tăng mức độ hội nhập tài chính giữa các quốc gia OECD. Kết luận 
này được hỗ trợ bởi sự kiện giả thuyết không về hội nhập tài chính cao (H3) không bị 
bác bỏ trong thời kỳ gần đây nhất (1990-1999). 
Các kết quả cho thấy rằng các quốc gia OECD đã trở nên hội nhập tài chính 
hơn, trong khi kết luận có tính chất lẫn lộn đối với các tỉnh thành Trung Quốc, chỉ đạt 
đến mức độ hội nhập tài chính vừa phải trong thời kỳ chuyển đổi. Đặc biệt hơn, có sự 
gia tăng chia xẻ rủi ro giữa các vùng từ giai đoạn tiền cải cách sang giai đoạn cải cách. 
Tuy nhiên, mức độ chia xẻ rủi ro đi theo chiều ngược lại từ thập niên 80 sang thập niên 
90. Hệ số tổng tiêu dùng giảm từ 0,88 trong giai đoạn 1978-1989 chỉ còn 0,67 trong 
giai đoạn 1990-2001. Đồng thời, ảnh hưởng của sự ràng buộc nguồn lực địa phương 
đối với tiêu dùng tăng từ 0,06 trong thập niên 80 lên 0,14 trong thập niên 90. Do đó, có 
sự giảm sút đáng kể về mức độ chia xẻ rủi ro giữa các vùng. 
D. Sự lưu thông vốn có được cải thiện trong thập niên 90 không? 
Cho đến giờ, chúng ta thấy không có bằng chứng về sự cải thiện tính lưu chuyển vốn 
từ thập niên 80 sang thập niên 90. Một số cuộc cải cách vào đầu và giữa thập niên 90 
có thể có ảnh hưởng cải thiện sự lưu thông vốn. Vì vậy, chúng tôi muốn kiểm tra xem 
thử sự lưu thông vốn có gia tăng trong thập niên 90 hay không. Chúng tôi làm điều này 
thông qua chia giai đoạn sau cùng trong mẫu (1990-2001) ra làm hai giai đoạn nhỏ 
(1990-1995 và 1996-2001), và kiểm định bất kỳ sự biến thiên đáng kể nào trong mối 
tương quan đầu tư-tiết kiệm hay việc thu xếp tiêu dùng ổn thoả (giảm biến động) theo 
thời gian. 
Trước tiên, chúng tôi tìm hiểu xem thử vào cuối thập niên 90, đầu tư địa 
phương có bị ràng buộc bởi thiết kế địa phương ít hơn so với nửa đầu thập niên hay 
không. Hai dòng đầu tiên trong bảng 11 trình bày các kết quả. Số đo mối tương quan 
đầu tư-tiết kiệm vô điều kiện thể hiện sự giảm sút vừa phải, cho thấy sự lưu chuyển 
vốn đã được cải thiện đôi chút. Tuy nhiên, số đo tương quan có điều kiện thể hiện sự 
tăng nhẹ, cho thấy sự lưu thông vốn bị sa sút. Trong bất luận trường hợp nào, sự giảm 
sút hay gia tăng đều không có ý nghĩa thống kê. Hơn nữa, mức độ tương quan đầu tư-
tiết kiệm trong nửa sau thập niên 90 vẫn rất cao (lần lượt là 0,58 và 0,42 cho các số đo 
26 Như Obstfeld từng nhấn mạnh, khung phân tích này có quan hệ chặt chẽ với kiểm định đầu tư-tiết 
kiệm đối với sự lưu chuyển vốn. Ngoài ra, chúng tôi cũng giới thiệu sự tăng trưởng tổng sản lượng như 
một yếu tố hồi qui và thu được những kết quả rất tương tự. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 19 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
vô điều kiện và có điều kiện) và nằm trong cùng phạm vi như các giá trị ước lượng 
trong thập niên 80 (xem các giá trị ước lượng trong bảng 3 và bảng 4a). Chúng tôi 
nhận thấy những kết quả tương tự khi sử dụng số liệu tiền gửi và cho vay (dòng 3 và 
4): không có sự biến thiên đáng kể trong thập niên 90. Do đó, trong chừng mực vẫn có 
sự tương ứng chặt chẽ giữa đầu tư địa phương và tiết kiệm địa phương (hay giữa tiền 
gửi địa phương và cho vay địa phương trong hệ thống ngân hàng), không có bằng 
chứng gì cho thấy có sự cải thiện lưu thông vốn đáng kể từ nửa đầu thập niên sang nửa 
cuối thập niên 90. 
Bức tranh có phần nào khác biệt (và kém rõ ràng dứt khoát hơn) khi ta xem xét 
sự chia xẻ rủi ro tiêu dùng. Quả thật sự chia xẻ rủi ro đã cải thiện một cách có ý nghĩa 
về mặt thống kê vào thập niên 90 như biểu thị qua sự gia tăng tỷ số giữa tương quan 
tiêu dùng và tương quan sản lượng (dòng 5), từ 0,027 trong giai đoạn 1990-1995 lên 
đến 0,289 trong giai đoạn 1996-2001. Tuy nhiên, mức độ thuận lợi tiêu dùng vào cuối 
thập niên 90 vẫn thấp hơn nhiều so với thập niên 80, khi mối tương quan tương ứng là 
1,29 (bảng 6). Hơn nữa, ta cũng không thấy có sự biến thiên đáng kể của biến động 
tiêu dùng so với biến động thu nhập (dòng 6 trong bảng 11). 
Cuối cùng, phần B bảng 11 trình bày các kết quả của mô hình chia xẻ rủi ro có 
điều kiện theo Obstfeld (1994) trong hai giai đoạn nhỏ của thập niên 90. Giả thuyết về 
mức độ chia xẻ rủi ro cao không thể bị bác bỏ trong giai đoạn 1996-2001. Tuy nhiên, 
vì ước lượng điểm về tiêu dùng (0,81) tương thích với ước lượng điểm trong thập niên 
80 (xem bảng 9), cho nên việc không thể bác bỏ giả thuyết này chủ yếu là do sự gia 
tăng sai số chuẩn của giá trị ước lượng (nghĩa là, phép kiểm định có sức thuyết phục 
yếu hơn). 
Nhìn chung, sự lưu chuyển vốn có lẽ đã được cải thiện đôi chút từ nửa đầu thập 
niên 90 sang nửa sau thập niên. Điều này chủ yếu là kết quả của sự khôi phục nền tảng 
đã mất vào đầu thập niên 90, chứ không phải do bất kỳ sự tiến bộ đáng kể nào so với 
thập niên 80. 
Trong tình hình này, ta cũng nên lưu ý rằng sự lưu chuyển vốn và hiệu quả 
phân bổ vốn không nhất thiết là cùng một vấn đề. Ví dụ, nếu tiết kiệm địa phương 
từng được bố trí một cách ngẫu nhiên bởi chính phủ trung ương trong một khuôn khổ 
kinh tế kế hoạch, thì sự chuyển biến từ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung phi hiệu 
quả sang mô hình kinh tế thị trường có thể dẫn đến biểu hiện giảm sút lưu thông vốn 
cho dù hiệu quả phân bổ vốn (xét theo sự phân bổ vốn đến những dự án đầu tư hữu 
hiệu nhất) có thể tăng lên ngay lúc ấy. Như một ví dụ khác, tình trạng thông tin bất cân 
xứng giữa người sử dụng vốn và người tiết kiệm có thể dẫn đến sự lưu chuyển vốn 
thấp ngay cả khi không có những rào cản nào do chính sách nào gây ra đối với sự lưu 
thông vốn. 
Những ví dụ này minh họa cho sự kiện là: bằng chứng về sự lưu chuyển vốn 
thấp không tự động có nghĩa là hiệu quả phân bổ vốn thấp. Trong phần tiếp theo, 
chúng ta sẽ tìm hiểu một cách trực tiếp hơn về mức độ lưu chuyển vốn trong nội bộ 
Trung Quốc, xem thử vốn có được phân bổ từ những vùng kém hiệu quả sang những 
vùng hoạt động hiệu quả hơn chăng. 
V. Tại sao vốn không chảy sang những vùng hoạt động hữu hiệu hơn? 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 20 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Thị trường vốn hiệu quả là một thị trường vốn trong đó vốn được chuyển đến những 
hoạt động hiệu quả nhất. Trong ví dụ của chúng ta, ta sẽ dự đoán rằng dòng vốn ròng 
chảy vào một vùng (so với qui mô kinh tế của vùng đó) có quan hệ đồng biến với năng 
suất biên của vốn trong vùng. Do đó, chúng ta sẽ ước lượng sự biến thiên của phương 
trình sau đây: 
(Dòng vốn vào ròng)it = a + b (Thu nhập ban đầu)-it + c (Năng suất biên của vốn)it + ui + eit (4) 
Để làm điều này, ta cần có thông tin về năng suất biên của vốn của mỗi vùng. 
Để dễ theo dõi, ta giả định hàm sản xuất có dạng Cobb-Douglas với sinh lợi không đổi 
theo qui mô, áp dụng cho mọi tỉnh thành: 
Thông số năng suất Ajt được phép thay đổi giữa các tỉnh thành và theo thời gian, 
nhưng hệ số tỷ trọng α được giả định là như nhau đối với các tỉnh thành và không thay 
đổi. Điều này cho phép chúng ta biểu thị năng suất biên của vốn cho một tỉnh bất kỳ 
như một tỷ trọng không đổi của tỷ số sản lượng trên trữ lượng vốn (hay sản lượng vốn 
bình quân): 
Chúng tôi sử dụng số liệu trữ lượng vốn cấp độ tỉnh thành từ năm 1984 đến 
năm 1998 do Li (2003) ước lượng và được cập nhật cho đến năm 2001 để tính năng 
suất vốn biên.27 
Trong cột 1 bảng 12, chúng tôi ước lượng xem thử dòng vốn ròng chảy vào 
một tỉnh đáp ứng như thế nào trước năng suất vốn biên của tỉnh đó. Kết quả cho thấy 
không có mối quan hệ đồng biến giữa dòng vốn vào ròng và năng suất vốn. Điều này 
cho thấy rằng xét bình quân, dòng vốn trong phạm vi Trung Quốc không đi đến những 
vùng hoạt động hữu hiệu nhất. Ngược lại, hệ số của tăng trưởng GDP địa phương có 
giá trị âm và có ý nghĩa thống kê, cho thấy xu hướng vốn chảy vào những vùng có 
năng suất vốn thấp hơn. Hình 1 minh họa chiều hướng này thông qua biểu thị các dòng 
vốn vào bình quân của tỉnh trong toàn bộ thời kỳ (1984-2001) theo năng suất vốn cùng 
với đường hồi qui. Những tỉnh có năng suất vốn bình quân thấp nhất như Ninh Hạ, 
Thanh Hải, Tân Cương, Thiểm Tây, cũng là những tỉnh nhận được dòng vốn vào bình 
quân cao nhất. Ngược lại, những tỉnh như Hà Bắc, tây Xuyên Quảng Đông, Hồ Nam 
Phúc Kiến có năng suất vốn cao, nhưng có dòng vốn vào thấp. 
Từ cột 2 đến cột 6, chúng tôi tìm hiểu chiều hướng đáp ứng của các cấu phần 
vốn khác nhau trong vốn đầu tư của một vùng trước năng suất vốn biên của địa 
phương. Trong hệ thống dữ liệu của chúng tôi, các nguồn tài chính có thể được chia 
thành nhiều chủng loại khác nhau: 
(a) Phân bổ thông qua ngân sách chính phủ: Tríach riêng ngân sách chính phủ 
trung ương và địa phương cho xây dựng cơ bản và các dự án đầu tư; 
27 Xem mô tả phương pháp sử dụng để tính trữ lượng vốn của tỉnh và năng suất vốn trong phần phụ lục 
thống kê. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 21 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
(b) Vay ngân hàng: Các khoản cho vay từ ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng 
cho các tổ chức và doanh nghiệp địa phương; 
(c) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đầu tư của các doanh nghiệp sở hữu nước 
ngoài bao gồm các công ty liên doanh; 
(d) “Vốn tự huy động” của các doanh nghiệp: Vốn do doanh nghiệp huy động từ 
những tổ chức có trách nhiệm cao hơn (trụ sở chính hay các bộ chủ quản) hay 
nhưng nguồn khác ngoài ngân sách chính phủ và cho vay ngân hàng như thông 
qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu; 
(e) Những nguồn khác: Tất cả những nguồn đầu tư khác không nằm trong các 
chủng loại trên. 
Một chiều hướng thú vị đã bộc lộ. Trước tiên, đầu tư của các doanh nghiệp 
trong nước dựa vào vốn tự huy động quan hệ đồng biến với năng suất vốn biên. Điều 
này cho thấy rằng khi đầu tư được kích hoạt chủ yếu bởi sự tối đa hoá lợi nhuận, vốn 
đầu tư có xu hướng đi đến những nơi sử dụng hữu hiệu nhất. Đầu tư trực tiếp nước 
ngoài và vốn tự huy động là hai loại vốn đầu tư duy nhất có quan hệ đồng biến với 
năng suất vốn biên, cho dù hệ số của FDI không có ý nghĩa thống kê. Thứ hai, đầu tư 
được phân bổ thông qua ngân sách chính phủ và các khoản cho vay của các tổ chức tài 
chính sở hữu nhà nước là hai loại vốn (duy nhất) thể hiện mối quan hệ nghịch biến rõ 
rệt với năng suất vốn biên. Từ những kết quả này, ta kết luận rằng chính sự phân bổ 
đầu tư của chính phủ chịu trách nhiệm trước kiểu phân bổ khác thường là dòng vốn 
ròng chảy đến những vùng hoạt động kém hiệu quả hơn. 
Tại sao chính phủ lại phân bổ vốn một cách có hệ thống đến những vùng hoạt 
động kém hiệu quả và không hướng đến những vùng hoạt động hiệu quả hơn? Người 
ta có thể nghĩ đến ít nhất ba lý thuyết ở đây: Thứ nhất, chính phủ có thể xem trọng 
mục tiêu giảm nghèo và do đó phân bổ vốn đến những vùng nghèo hơn. Nếu thu nhập 
ban đầu thấp trùng hợp với năng suất vốn thấp, người ta có thể thấy một quan hệ 
nghịch biến giữa dòng vốn vào và sinh lợi vốn đầu tư. 
Thứ hai, các doanh nghiệp sở hữu nhà nước có thể ví như một chiếc túi không 
đáy, hút hết nguồn vốn đầu tư do chính phủ phân bổ. Ở đây, ta có thể xem xét hai biến 
thể của lý thuyết. Phiên bản A nhấn mạnh vào cách lý giải theo khía cạnh kinh tế chính 
trị. Các doanh nghiệp nhà nước có thể có thế lực chính trị mạnh hơn so với các công ty 
tư nhân hay những doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác như các doanh nghiệp hương 
trấn. Hệ quả là, doanh nghiệp nhà nước có thể có được nhiều vốn đầu tư hơn từ chính 
phủ, đặc biệt thông qua sự phân bổ ngân sách nhà nước, ngay cả nếu họ hoạt động 
không hiệu quả. Phiên bản B quan tâm đến vấn đề việc làm tại các doanh nghiệp nhà 
nước. Chính xác vì xét bình quân, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả 
hơn và cạnh tranh vốn đầu tư khó khăn hơn trong một thị trường vốn hội nhập và vận 
hành tốt đẹp, cho nên chính phủ, vì quan tâm lo lắng đến người lao động tại các doanh 
nghiệp nhà nước, có thể quyết định phân bổ vốn một cách có hệ thống cho các doanh 
nghiệp nhà nước ngay cả khi những doanh nghiệp này hoạt động không hiệu quả. Lẽ 
dĩ nhiên, hai phiên bản lý thuyết này không loại trừ lẫn nhau. Bằng cách này hoặc 
bằng cách khác, hai phiên bản này có thể tạo ra một mối quan hệ đồng biến giữa dòng 
vốn vào và tầm quan trọng của doanh nghiệp nhà nước tại các nền kinh tế địa phương. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 22 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Thứ ba, chính phủ có thể chỉ đạo dòng vốn ưu tiên cho một cơ cấu công nghiệp 
nhất định. Trong tư liệu nghiên cứu, ta có thể hiểu rằng nền kinh tế kế hoạch tậpt rung 
của Trung Quốc trước năm 1978 đã phân biệt đối xử một cách có hệ thống không 
thuận lợi cho nông nghiệp và những lĩnh vực sơ khai khác, đồng thời ưu tiên cho công 
nghiệp. Từ khi cải cách bắt đầu vào năm 1978, chủ trương hùng hồn của chính phủ là 
hỗ trợ nhiều hơn đối với nhà nông và dân chài ở các vùng nông thôn. Nếu như những 
chủ trương hùng hồn này được phản ánh trên thực tế, thì ta sẽ thấy mối quan hệ đồng 
biến giữa dòng vốn ròng chảy vào một địa phương và tầm quan trọng của khu vực sơ 
khai trong nền kinh tế địa phương đó. 
Chúng tôi đã tiến hành xem xét kiểm tra lý thuyết này và trình bày kết quả 
trong bảng 12. Trong cột đầu tiên, chúng tôi xem xét các dòng vốn vào ròng. Dòng 
vốn vào có quan hệ đồng biến với tỷ trọng của sản xuất quốc doanh trong tỉnh và có 
quan hệ nghịch biến với tỷ trọng nông nghiệp. Trong các cột tiếp theo của bảng 13, 
chúng tôi xem xét mối quan hệ giữa các cấu phần vốn khác nhau trong đầu tư địa 
phương và thu nhập ban đầu, tỷ trọng của doanh nghiệp nhà nước trong sản lượng 
công nghiệp địa phương, và tỷ trọng của khu vực sơ khai trong sản lượng địa phương. 
Chúng tôi tìm thấy một số kết quả. Thứ nhất, không có quan hệ nghịch biến và có ý 
nghĩa thống kê của thu nhập ban đầu đối với đầu tư. Nói cách khác, nếu vốn đầu tư 
được phân bổ một cách có hệ thống cho những vùng nghèo hơn, ảnh hưởng của nó 
không đủ lớn để thể hiện qua số liệu. Thứ hai, thật là thú vị, tỷ trọng của doanh nghiệp 
nhà nước trong sản lượng công nghiệp địa phương có quan hệ đồng biến và có ý nghĩa 
thống kê với qui mô vốn đầu tư được phân bổ từ ngân sách chính phủ và được tài trợ 
bằng vốn vay ngân hàng. Vì thế, tầm quan trọng của các doanh nghiệp sở hữu nhà 
nước trong nền kinh tế địa phương là một nhân tố đáng kể, giải thích chiều hướng đầu 
tư từ hai nguồn tài chính này. Ngược lại, tỷ trọng của các doanh nghiệp nhà nước có 
dấu âm trong phương trình FDI, cho thấy rằng sự hiện diện của các doanh nghiệp nhà 
nước có thể đóng vai trò như một rào cản đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ ba, tỷ trọng 
của khu vực sơ khai trong GDP địa phương không có ý nghĩa trong bất kỳ phương 
trình hồi qui nào. Điều này cho thấy rằng sự phân bổ vốn ở Trung Quốc nói chung 
không ưu tiên hơn mà cũng chẳng phân biệt đối xử chống lại khu vực sơ khai. 
Kết luận, yếu tố mạnh nhất quyết định qui tắc phân bổ vốn đầu tư ở Trung 
Quốc xem ra là sự ưu thế của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế địa 
phương. Nhìn chung, các doanh nghiệp nhà nước tăng trưởng chậm hơn so với khu 
vực tư nhân và các thành phần ngoài quốc doanh khác trong nền kinh tế. Do đó, qui 
tắc phân bổ vốn đầu tư của chính phủ, ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước, sẽ phân bổ 
vốn một cách có hệ thống hướng tới những hoạt động phi hiệu quả và rời xa những 
vùng hoạt động hiệu quả hơn. Theo ý nghĩa này, một vai trò nhỏ bé hơn của chính phủ 
trong việc phân bổ vốn đầu tư xem ra có thể làm tăng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. 
IV. Nhận xét kết luận 
Trong bài viết này, chúng tôi đã tìm hiểu một số cạm bẫy của một hệ thống tài chính 
do nhà nước chi phối thông qua nghiên cứu trường hợp của Trung Quốc. Một cách cụ 
thể chúng tôi đã xem xét mức độ manh mún của thị trường vốn nội địa, có lẽ do sự can 
thiệp của chính quyền địa phương; chúng tôi cũng tìm hiểu xem thử liệu hệ thống tài 
chính do nhà nước chi phối có chuyển giao nguồn vốn đến những vùng hoạt động kém 
hiệu quả và rời xa những vùng hoạt động hiệu quả hơn không. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 23 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Phân tích của chúng tôi dựa trên hai phương pháp tiêu chuẩn trong tư liệu tài 
chính quốc tế, ấy là kiểm định mối tương quan đầu tư-tiết kiệm địa phương và kiểm 
định việc thu xếp tiêu dùng ổn thỏa và thuận tiện (giảm biến động tiêu dùng). Các kết 
quả cho thấy rằng vốn đầu tư trong nội bộ Trung Quốc lưu chuyển kém hơn nhiều so 
với trong nội bộ những quốc gia được biết là có những thị trường vốn quốc tế hội 
nhập. Nhìn chung, chiều hướng lưu chuyển vốn nội bộ Trung Quốc xem ra gần giống 
với chiều hướng lưu chuyển vốn xuyên quốc gia hơn so với chiều hướng lưu chuyển 
vốn nội bộ trong các nghiên cứu nội bộ quốc gia khác. Có lẽ điều gây ngạc nhiên hơn 
cả là, mức độ lưu chuyển vốn ở Trung Quốc giảm đáng kể trong thập niên 90 so với 
thập niên 80. Cuối cùng, chúng tôi chứng minh bằng tư liệu rằng chính phủ (so với 
khu vực tư nhân) có xu hướng phân bổ vốn đầu tư một cách có hệ thống từ những 
vùng hoạt động hiệu quả hơn đến những vùng hoạt động kém hiệu quả hơn. Những 
phát hiện này cho thấy rằng một vai trò nhỏ bé hơn của chính phủ trong hệ thống tài 
chính có thể sẽ cải thiện tính hiệu quả của hệ thống tài chính. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 24 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
I. Phụ lục thống kê 
Chuỗi số liệu của tỉnh thành về tiêu dùng, đầu tư và GDP bao gồm GDP của tỉnh được 
phân theo tiêu dùng chính phủ và hộ gia đình, sự tạo lập vốn gộp, thay đổi hàng tồn 
kho và xuất khẩu ròng (hạch toán của tỉnh). Nguồn thống kê là: 
• Nghiên cứu tiếp thị Trung Quốc A11, 2001, Tập hợp số liệu thống kê Trung 
Quốc 1949-1999 
• Cục thống kê nhà nước, 1996, Kinh tế khu vực Trung Quốc, tư liệu 17 năm cải 
cách và mở cửa, Cục thống kê Trung Quốc, Bắc Kinh. 
• Cục thống kê nhà nước, 2000 và 2001, Niên giám thống kê Trung Quốc, Cục 
thống kê Trung Quốc, Bắc Kinh. 
Hệ thống số liệu bao gồm 28 tỉnh (hay các khu vực tự trị cấp tỉnh và các thành 
phố trực thuộc trung ương) ở lục địa trong thời kỳ cải cách (1978-2001) và 24 tỉnh 
trong thời kỳ tiền cải cách (1952-1977). 
Danh sách các tỉnh thành trong mẫu (1978-2001): Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà 
Bắc, Sơn Tây, Nội Mông, Liêu Ninh, Cát Lâm, Hắc Long Giang, Thượng Hải, Giang 
Tô, Triết Giang, An Huy, Phúc Kiến, Giang Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ 
Nam, Quảng Tây, Quế Châu, Vân Nam, Thiểm Tây, Cam Túc, Thanh Hải, Ninh Hạ, 
Tân Cương, Quảng Đông+Hải Nam, Tây Xuyên+Trùng Khánh. 
Danh sách các tỉnh thành trong mẫu (1952-1977): Giang Tây, Quảng Đông và 
Hải Nam, Tây Xuyên và Trùng Khánh và Ninh Hạ không được bao hàm trong giai 
đoạn tiền cải cách do thiếu số liệu. Thiên Tân không được bao hàm trong giai đoạn 
tiền cải cách trong phân tích về chia xẻ rủi ro vì không có số liệu dân số từ năm 1952 
đến 1977. 
Số liệu hạch toán quốc gia (tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, GDP) cho các quốc gia 
OECD được lấy từ: Văn phòng thống kê Liên hiệp quốc, Tài khoản các quốc gia Liên 
hiệp quốc, Hệ thống số liệu bao gồm 24 quốc gia OECD: Úc, Áo, Bỉ, Canada, Đan 
Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Iceland, Ireland, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc, 
Luxembourg, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, 
Thụy Sĩ, Anh, Hoa Kỳ. 
Định nghĩa các biến số 
Cit : Tiêu dùng tư nhân (hộ gia đình) của địa phương. 
Sit : Tiết kiệm địa phương được định nghĩa là GDP địa phương trừ đi tiêu dùng của 
tư nhân và chính phủ. 
Iit : Đầu tư địa phương được định nghĩa là thay đổi trong tạo lập vốn gộp của khu 
vực tư nhân và chính phủ. 
Một số tỉnh thành tạo nên một tỷ phần sản lượng quốc gia đáng kể. Do đó, 
chúng tôi sử dụng phần còn lại của đất nước thay cho số liệu tổng cấp quốc gia, nhằm 
tránh làm biến dạng mối tương quan mẫu theo chiều hướng tăng lên, thông qua sử 
dụng công thức sau đây (trong đó Xit tiêu biểu cho C-it , I-it, hay S-it, và Yit là GDP của 
tỉnh). 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 25 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
C-it : Tỷ lệ tiêu dùng quốc gia bên ngoài tỉnh i. 
S-it : Tỷ lệ tiết kiệm quốc gia bên ngoài tỉnh i. 
I-it : Tỷ lệ đầu tư quốc gia bên ngoài tỉnh i. 
Fit : Tỷ số của tiêu dùng chính phủ (địa phương) trên GDP địa phương. 
yit : Chu kỳ kinh tế địa phương, có được thông qua áp dụng biện pháp sàng lọc 
Hodrick và Prescott (HP) cho chuỗi số liệu GDP địa phương. Chúng tôi sử 
dụng log(GDP tỉnh) được sàng lọc bằng HP(100) trừ đi log(GDP quốc gia) 
được lọc bằng HP (100). 
LRLit = GDPit – Iit – Git : Giới hạn nguồn lực địa phương (các tỉnh thành Trung Quốc) 
DRLit = GDPit – Iit – Git : Giới hạn nguồn lực nội địa (các quốc gia OECD) 
Git : Tiêu dùng của chính phủ. 
Tất cả các biến số được biểu thị theo tỷ trọng trong GDP của tỉnh trong phần 2 (phân 
tích đầu tư-tiết kiệm) và theo giá trị trên đầu người, sử dụng mức giá năm 1978 trong 
phần 2 (phân tích chia xẻ rủi ro). 
Trữ lượng vốn của tỉnh 
Chuỗi số liệu trữ lượng vốn của tỉnh được lấy từ tài liệu của Li (2003) tính toán trữ 
lượng vốn cho từng tỉnh thành Trung Quốc từ năm 1984 đến năm 1998. Phương pháp 
bao gồm các bước dưới đây: 
1. Ước lượng tỷ lệ khấu hao vốn từ năm 1984 đến năm 1992 (các con số khấu hao 
tài sản cố định của tỉnh có sẵn trong số liệu thống kê chính thức bắt đầu từ năm 
1993). Điều này được thực hiện bằng cách áp dụng một tỷ lệ khấu hao thăm dò 
là 4 phần trăm trong giai đoạn 1984-1992 nhằm tạo ra một chuỗi số liệu trữ 
lượng vốn tạm thời. Sau đó, sử dụng chuỗi số liệu trữ lượng vốn tạm thời này 
để tính tỷ lệ khấu hao ngầm ẩn từ năm 1993 đến năm 1998 (trong thời kỳ này 
số liệu về khấu hao tài sản cố định đã có sẵn). Sử dụng tỷ lệ khấu hao bình 
quân để tính lại số liệu trữ lượng vốn từ năm 1984 đến 1992. 
2. Tính toán giá trị ban đầu của trữ lượng vốn. Điều này được thực hiện bằng 
cách áp dụng tỷ số vốn của tỉnh suy ra từ phương trình X dưới đây trên trữ 
lượng vốn quốc gia năm 1984; ii) sử dụng phương trình (i). 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 26 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
3. Sử dụng giá trị ban đầu của vốn và số liệu đầu tư gộp thực (real gross 
investment – RGI), số liệu khấu hao (Dept), các phương trình (ii) và (iii), trữ 
lượng vốn của tỉnh được tạo ra cho toàn bộ thời kỳ tính đến năm 2001. 
Chuỗi số liệu năng suất vốn được tạo ra bằng cách sử dụng phương trình (7). 
Vì α là một thông số không biến thiên theo thời gian và tỉnh, cho nên chúng tôi sử 
dụng tỷ số GDP thực trên trữ lượng vốn thực (theo mức giá năm 1978) làm một biến 
uỷ nhiệm cho năng suất vốn biên. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 27 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Bảng 1. Dòng vốn tài chính năm 2000 (phần trăm) 
Hộ gia đình Công ty phi tài 
chính 
Chính phủ Tổ chức tài 
chính 
Tổng số 
Sử 
dụng 
vốn 
Nguồn 
vốn 
Sử dụng 
vốn 
Nguồn 
vốn 
Sử 
dụng 
vốn 
Nguồn 
vốn 
Sử 
dụng 
vốn 
Nguồn 
vốn 
Sử 
dụng 
vốn 
Nguồn 
vốn 
Đầu tư tài chính ròng1 
 Sử dụng tài chính 
 Nguồn tài chính 
Tiền tệ 
Tiền gửi 
Cho vay 
Chứng khoán 
 Trái phiếu 
 Cổ phiếu 
Dự trữ bảo hiểm 
Vốn thanh toán 
Tài khoản liên tài chính 
Dự trữ bắt buộc & vượt quá 
Tiền mặt dự trữ 
Cho vay của NH trung ương 
Các khoản khác (ròng) 
Cán cân thanh toán 
Vốn dài hạn 
Vốn ngắn hạn 
Thay đổi tài sản dự trữ 
Sai số và sót số trong cán 
cân thanh toán 
Nguồn: Tập san thống kê hàng quí của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa 2002, tập 4, trang 78-79. 
1 100 triệu nhân dân tệ. 
Chú thích: Mục “Sử dụng vốn” liên quan đến những thay đổi của tài sản; Mục “Nguồn vốn” liên quan 
đến những thay đổi của nghĩa vụ nợ. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Những cạm bẫy của một hệ thống tài chính do 
nhà nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 28 Biên dịch: Kim Chi 
 Hiệu đính: Tự Anh 
Bảng 2. Tóm tắt tư liệu nghiên cứu về mối tương quan đầu tư-tiết kiệm trong nội 
bộ các quốc gia phát triển 
Quốc gia [thời kỳ] Tác giả Hệ số tiết kiệma Ý nghĩa 
Nhật Bản [1975-88]b 
Nhật Bản [19970-85] 
Nhật Bản [1971-85] 
Hoa Kỳ [1971-85] 
Anh [1971-87] 
Canada [1961-89] 
Đức [1970-87] 
Deckle (1996) 
Yamori (1995) 
Bayoumi & Rose (1993) 
Sinn (1992) 
Thomas (1993) 
Có ý nghĩa (nghịch biến) 
Có ý nghĩa (nghịch biến) 
Có ý nghĩa (nghịch biến) 
Có ý nghĩa (nghịch biến) 
Có ý nghĩa (nghịch biến) 
Có ý nghĩa (nghịch biến) 
Có ý nghĩa (nghịch biến) 
Có ý nghĩa (nghịch biến) 
Không có ý nghĩa 
Không có ý nghĩa 
Không có ý nghĩa 
Có ý nghĩa (nghịch biến) 
Có ý nghĩa (nghịch biến) 
Không có ý nghĩa 
Sai số chuẩn trong dấu ngoặc đơn. 
a Hệ số của tỷ lệ tiết kiệm trong phương trình hồi qui đầu tư. 
b Không kể Kanto và Kansai. 
c Tương quan. 
d Tiết kiệm và đầu tư tư nhân. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
 Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà nước chi phối: 
Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 29 Biên dịch: Kim Chi 
Bảng 3. Kiểm định FH vô điều kiện: Các tỉnh thành Trung Quốc so với các quốc gia OECD 
 (1) (2) (3) = (2) – (1) (4) (5) (6) = (5) – (4) 
Trung Quốc 1952-1977 1978-2001 Chênh lệch 1978-1989 1990-2001 Chênh lệch 
(1) Tương quan 
đầu tư-tiết kiệm* 
0.534 
(0.062) 
0.525 
(0.0910) 
-0.027 
(0.092) 
0.300 
(0.102) 
0.5991 
(0.0841)** 
0.2985 
(0.1200)*** 
OECD 1960-1977 1978-1999 Chênh lệch 1978-1989 1990-1999 Chênh lệch 
(2) Tương quan 
đầu tư-tiết kiệm* 
0.717 
(0.067) 
0.457 
(0.069) 
0.118 
(0.078)* 
0.413 
(0.099) 
0.483 
((0.094) 
0.069 
(0.138) 
Nguồn (Trung Quốc): Nghiên cứu Tiếp thị Trung Quốc A11, 2001, Tập hợp số liệu thống kê Trung Quốc 1949-1999, Cục Thống kê Trung Quốc, Bắc Kinh. Niên giám thống 
kê Trung Quốc, các năm khác nhau, Cục Thống kê Trung Quốc, Bắc Kinh. 
Nguồn (OECD): Tài khoản quốc gia Liên hiệp quốc, Chỉ báo phát triển thế giới. 
* Tương quan theo thời gian bình quân giữa tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm (phần trăm GDP). 
* (**, ***) Có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 10 phần trăm (5 phần trăm, 1 phần trăm). 
Sai số chuẩn trong dấu ngoặc đơn. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
 Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà nước chi phối: 
Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 30 Biên dịch: Kim Chi 
Bảng 4a. Kiểm định FH có điều kiện 
 (1) (2) (3)=(2)-(1) (4) (5) (6)=(5)-(4) (7) (8) 
 1952-1977 1978-2001 Chênh lệchi 1978-1989 1990-2001 Chênh lệch Nhật 
Bản 
OECD 
(1) Số liệu thô 
 Số liệu đã kiểm soát: 
(2) Các yếu tố quốc gia 
(3) Các yếu tố quốc gia & vùng 
 & chu kỳ kinh tế & chính sách ngân sách 
(4) Sử dụng các biến vùng trễ một năm 
 & chu kỳ kinh tế & chính sách ngân sách 
 (trễ một năm) 
Nguồn: Các cột 1-6 là tính toán của các tác giả; các cột 7 và 8 lấy từ tài liệu của Iwamoto và van Wincoop (2000). 
* (**, ***) Có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 10 phần trăm (5 phần trăm, 1 phần trăm). 
Sai số chuẩn trong dấu ngoặc đơn. 
i Thể hiện trung bình của khoảng chênh lệch về hệ số tương quan giữa hai giai đoạn. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà 
nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 31 Biên dịch: Kim Chi 
Bảng 4b. Kiểm định FH: Đóng góp biên của tiết kiệm đối với đầu tư 
 (1) (2) (3) (4)=(3)-(2) 
 1978-2001 1978-1989 1990-2001 Chênh lệch 
(1) Số liệu thô 
(3) Kiểm soát các yếu tố quốc gia & vùng 
 chu kỳ kinh tế & chính sách ngân sách 
Nguồn: Tính toán của các tác giả. 
Chú thích: Bảng này trình bày ước lượng hệ số “b” của tỷ lệ tiết kiệm trong phương trình hồi qui đầu tư 
sau đây: ijt = a + b.sjt + ui + tj + eit trong đó “i” và “s” lần lượt tiêu biểu cho tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm của 
tỉnh, u và i là các ảnh hưởng cố định theo thời gian và tỉnh thành và e là số hạng sai số. Do đó, hệ số tiết 
kiệm tiêu biểu cho đóng góp biên của tiết kiệm địa phương cho đầu tư địa phương trong tỉnh. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà 
nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 32 Biên dịch: Kim Chi 
Bảng 5. Kiểm định FH có điều kiện - Số liệu ngân hàng: Các tỉnh Trung Quốc so 
với các quốc gia OECD 
(1) (2) (3)=(2)-(1) 
Trung Quốc 1978-1989 1990-2001 Chênh lệchi 
(1) Số liệu thô 
(2) Kiểm soát các yếu tố quốc gia 
(3) Các yếu tố quốc gia & vùng 
(1) (2) (3)=(2)-(1) 
Các quốc gia OECD 1978-1989 1990-2001 Chênh lệchi 
(1) Số liệu thô 
(2) Kiểm soát các yếu tố toàn cầu 
(3) Các yếu tố toàn cầu & quốc gia 
Nguồn: Tính toán của các tác giả. 
* (**, ***) Có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 10 phần trăm (5 phần trăm, 1 phần trăm). 
Sai số chuẩn trong dấu ngoặc đơn. 
i Thể hiện trung bình của khoảng chênh lệch về hệ số tương quan giữa hai giai đoạn. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
 Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà nước chi phối: 
Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 33 Biên dịch: Kim Chi 
Bảng 6. Kiểm định vô điều kiện về chia xẻ rủi ro – các mối tương quan tiêu dùng: Các tỉnh thành Trung Quốc so với các quốc gia 
OECD 
(1) (2) (3)=(2)-(1) (4) (5) (6)=(5)-(4) 
Trung Quốc 1952-1977 1978-2001 Chênh lệchi 1978-1989 1990-2001 Chênh lệch 
(1) Tương quan tiêu dùng* 
(2) Tương quan sản lượng* 
(3) Tỷ số tương quan tiêu dùng trên 
tương quan sản lượng =(1)/(2) 
OECD 1960-1977 1978-1999 Chênh lệch 1978-1989 1990-1999 Chênh lệch 
(1) Tương quan tiêu dùng* 
(2) Tương quan sản lượng* 
(3) Tỷ số tương quan tiêu dùng trên 
tương quan sản lượng =(1)/(2) 
Nguồn (OECD): Tài khoản quốc gia Liên hiệp quốc, Chỉ báo phát triển thế giới. 
Nguồn (Trung Quốc): Nghiên cứu Tiếp thị Trung Quốc A11, 2001, Tập hợp số liệu thống kê Trung Quốc 1949-1999, Cục Thống kê Trung Quốc, Bắc Kinh. Niên giám thống 
kê Trung Quốc, các năm khác nhau, Cục Thống kê Trung Quốc, Bắc Kinh. 
* Tương quan giữa tiêu dùng trên đầu người của tỉnh (quốc gia) và tiêu dùng trên đầu người của phần còn lại của đất nước (của thế giới). 
Tiêu dùng và GDP trên đầu người được biểu thị theo giá trị thực và lấy chênh lệch (sai phân bậc một) của logarit. 
* (**, ***) Có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 10 phần trăm (5 phần trăm, 1 phần trăm) (chỉ biểu thị cho chênh lệch trong các kiểm định trung bình trong cột 3 và cột 6. 
Sai số chuẩn trong dấu ngoặc đơn. 
i Thể hiện trung bình của khoảng chênh lệch về hệ số tương quan giữa hai giai đoạn. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà 
nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 34 
 Biên dịch: Kim Chi 
Bảng 7. Tóm tắt các nghiên cứu về sự tiêu dùng thuận lợi dễ dàng trong phạm vi 
các quốc gia công nghiệp 
Quốc gia [số 
vùng] 
Thời kỳ 
Tác giả 1 
Tương quan 
tiêu dùng 
2 
Tương quan 
sản lượng 
4 
Biến động tiêu 
dùng 
3 
Biến động sản 
lượng 
Nhật Bản [47] 
1975-88 
Canada [10] 
1971-91 
Hoa Kỳ [51] 
1971-91 
Hoa Kỳ [19] 
1977-91 
Van Wincoop 
(1995) 
Crucini (1995) 
Crucini (1995) 
Hess và Shin 
(1995) 
Nguồn: Hess và Shin (1997) 
Chú thích: nr = không có số liệu; 
Sai số chuẩn trong dấu ngoặc đơn. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
 Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà nước chi phối: 
Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 35 Biên dịch: Kim Chi 
Bảng 8. Kiểm định vô điều kiện về chia xẻ rủi ro - biến động tiêu dùng: Các tỉnh Trung Quốc so với các quốc gia OECD 
 (1) (2) (3)=(2)-(1) (4) (5) (6)=(5)-(4) 
Trung Quốc 1952-1977 1978-2001 Chênh lệch 1978-1989 1990-2001 Chênh lệch 
(1) Biến động tiêu dùng 
(2) Biến động sản lượng 
(3) Tỷ số biến động tiêu 
dùng trên biến động sản 
lượng 
OECD 1960-1977 1978-1999 Chênh lệch 1978-1989 1990-1999 Chênh lệch 
(1) Biến động tiêu dùng 
 Std(Cit) 
(2) Biến động sản lượng 
 Std(Yit) 
(3) Tỷ số biến động tiêu 
dùng trên biến động sản 
lượng 
Nguồn (OECD): Tài khoản quốc gia Liên hiệp quốc, Chỉ báo phát triển thế giới. 
Nguồn (Trung Quốc): Nghiên cứu Tiếp thị Trung Quốc A11, 2001, Tập hợp số liệu thống kê Trung Quốc 1949-1999, Cục Thống kê Trung Quốc, Bắc Kinh. Niên giám thống 
kê Trung Quốc, các năm khác nhau, Cục Thống kê Trung Quốc, Bắc Kinh. 
In đậm: Không khác 1 một cách có ý nghĩa thống kê. 
Biến động: Độ lệch chuẩn theo chuỗi thời gian của tiêu dùng (GDP) trên đầu người cho từng tỉnh (quốc gia). 
Tiêu dùng và GDP trên đầu người được biểu thị theo giá trị thực và lấy chênh lệch (sai phân bậc một) của logarit. 
* (**, ***) Có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 10 phần trăm (5 phần trăm, 1 phần trăm) 
Sai số chuẩn trong dấu ngoặc đơn. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
 Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà nước chi phối: 
Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 36 Biên dịch: Kim Chi 
Bảng 9. Kiểm định có điều kiện về chia xẻ rủi ro – thị trường tài sản không hoàn chỉnh: Các tỉnh Trung Quốc (biến phụ thuộc: logarit 
của tiêu dùng thực trên đầu người của hộ gia đình (biến thiên)) 
Giai đoạn 1952-1977 1978-2001 1978-1989 1990-2001 
dln(C-it) – (b) 
dln(LRLt) – (c) 
r2 điều chỉnh 
Số quan sát 
Số tỉnh thành 
H1: b = 1 
H2: c = 1 
H3: b = 1 & c = 0 
H4: b = 0 & c = 1 
Nguồn: Tính toán của các tác giả. 
C-it: Tiêu dùng thực trên đầu người của hộ gia đình trên toàn quốc bên ngoài tỉnh i. Yit: GDP thực trên đầu người của hộ gia đình. LRLit = Yit – Iit – Git : Giới hạn nguồn lực 
địa phương. Iit: Đầu tư thực trên đầu người của tỉnh. Git: Tiêu dùng thực trên đầu người của chính phủ cấp tỉnh. ln: Logarit. d: Sai phân bậc nhất. 
* (**, ***) Có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 10 phần trăm (5 phần trăm, 1 phần trăm) 
Tất cả các phương trình hồi qui đều bao hàm ảnh hưởng cố định của tỉnh. 
Sai số chuẩn trong dấu ngoặc đơn. 
H1: Giả thuyết không về hệ số b của tiêu dùng (C-it) không khác một (mức độ chia xẻ rủi ro cao). 
H2: Giả thuyết không về hệ số b của giới hạn nguồn lực địa phương (LRLit) không khác một (mức độ chia xẻ rủi ro thấp). 
H3: Giả thuyết về ý nghĩa kết hợp của hệ số tiêu dùng (C-it) không khác một và giới hạn nguồn lực địa phương (LRLit) không khác không (mức độ chia xẻ rủi ro cao). 
H4: Giả thuyết không về ý nghĩa kết hợp của hệ số tiêu dùng (C-it) không khác không và giới hạn nguồn lực địa phương (LRLit) không khác một (mức độ chia xẻ rủi ro thấp). 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
 Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà nước chi phối: 
Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 37 Biên dịch: Kim Chi 
Bảng 10. Kiểm định có điều kiện về chia xẻ rủi ro – thị trường tài sản không hoàn chỉnh: Các quốc gia OECD (biến phụ thuộc: Logarit 
của tiêu dùng thực trên đầu người của hộ gia đình (biến thiên)) 
Giai đoạn 1960-1977 1978-1999 1978-1989 1990-1999 
dln(C-it) – (b) 
dln(LRLit) – (c) 
r2 điều chỉnh 
Số quan sát 
Số quốc gia 
H1: b = 1 
H2: c = 1 
H3: b = 1 & c = 0 
H4: b = 0 & c = 1 
Nguồn: Tính toán của các tác giả. 
C-it: Tiêu dùng thực trên đầu người của hộ gia đình trên toàn quốc bên ngoài tỉnh i. 
Yit: GDP thực trên đầu người của hộ gia đình. 
LRLit = Yit – Iit – Git : Giới hạn nguồn lực địa phương. 
Iit: Đầu tư thực trên đầu người của tỉnh. 
Git: Tiêu dùng thực trên đầu người của chính phủ cấp tỉnh. 
ln: Logarit. d: Sai phân bậc nhất. * (**, ***) Có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 10 phần trăm (5 phần trăm, 1 phần trăm). 
Tất cả các phương trình hồi qui đều bao hàm ảnh hưởng cố định của quốc gia. 
Sai số chuẩn trong dấu ngoặc đơn. 
H1: Giả thuyết không về hệ số b của tiêu dùng (C-it) không khác một (mức độ chia xẻ rủi ro cao). 
H2: Giả thuyết không về hệ số b của giới hạn nguồn lực địa phương (LRLit) không khác một (mức độ chia xẻ rủi ro thấp). 
H3: Giả thuyết về ý nghĩa kết hợp của hệ số tiêu dùng (C-it) không khác một và giới hạn nguồn lực địa phương (LRLit) không khác không (mức độ chia xẻ rủi ro cao). 
H4: Giả thuyết không về ý nghĩa kết hợp của hệ số tiêu dùng (Cit) không khác không và giới hạn nguồn lực địa phương (LRLit) không khác một (mức độ chia xẻ rủi ro thấp.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khoá 2004-2005 
Tài chính phát triển 
Bài đọc 
Cạm bẫy của một hệ thống tài chính do nhà 
nước chi phối: Trường hợp của Trung Quốc 
G. B. Debray & S-J Wei 38 Biên dịch: Kim Chi 
Bảng 11. Biến thiên của sự lưu thông vốn trong thập niên 90 
Phần A (1) 
1990-95 
(2) 
1996-2001 
(3)=(2)-(1) 
Chênh lệch 
(1) Tương quan đầu tư-tiết kiệm (vô điều kiện) 
(2) Tương quan đầu tư-tiết kiệm (có điều kiện) 
(3) Tương quan tiền gửi-cho vay (vô điều kiện) 
(4) Tương quan tiền gửi-cho vay (có điều kiện) 
(5) Chia xẻ rủi ro-tương quan tiêu dùng trên sản lượng (vô điều 
kiện) 
(6) Chia xẻ rủi ro-biến động tiêu dùng trên sản lượng (vô điều kiện) 
Phần B 1990-9