Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Tổng Quan
Chuyên Đề Nội Khoa 1 1
NHỮNG CẬP NHẬT MỚI VỀ GỐC TỰ DO 
VÀ HỆ THỐNG CHỐNG OXY HÓA TRONG CƠ THỂ 
Lê Quốc Tuấn*, Nguyễn Thị Hiệp**, Nguyễn Thị Lệ* 
MỞ ĐẦU 
Gốc tự do được định nghĩa là các gốc hóa 
học có chứa một hoặc nhiều electron không bắt 
cặp trong nguyên tử hay trong các orbital của 
phân tử. Sơ đồ cấu tạo của phân tử oxygen cho 
thấy bản thân nó cũng chính là một gốc oxy hóa, 
bởi vì oxygen sở hữu 2 electron không bắt cặp . 
Sự hình thành các gốc có nguồn gốc oxy (hay 
các gốc oxy phản ứng: reactive oxygen species) 
do 2 cơ chế: phản ứng chuyển điện tử (electron-
transfer reaction), và phản ứng chuyển năng 
lượng (electron-transfer reaction). Cả 2 nhóm 
phản ứng này đều có vai trò quan trọng trong 
môi trường sinh học, và tạo thành các típ khác 
nhau của quá trình tổn thương và ngộ độc tế 
bào. 
- Phản ứng chuyển điện tử: tạo ra các gốc 
anion superoxide, gốc hydrogen peroxide, gốc 
hydroxyl, gốc peroxyl và alkoxyl lipid. 
- Phản ứng chuyển năng lượng: tạo ra các 
gốc oxy đơn (singlet oxygen), phức hợp bộ ba 
carbonyl (riplet carbonyl compound). 
SỰ TẠO THÀNH CÁC GỐC OXY PHẢN 
ỨNG TRONG TẾ BÀO 
Trong tế bào, có 2 nguồn chính của anion 
superoxide và hydrogen peroxide, còn gốc 
hydroxyl được tạo thành từ chính superoxide và 
hydrogen peroxide(1,2). 
Nguồn gốc của anion superoxide 
Những phản ứng quan trọng nhất trong tế 
bào tạo thành superoxide(1): 
Phản ứng enzyme: xanthine oxidase, NADH 
oxidase, NADPH-cytochrome P450 reductase. 
Nguồn gốc tế bào: bạch cầu và đại thực bào, 
chuỗi truyền điện tử ti thể, microsomal 
monooxygenase. 
Các yếu tố môi trường: tia cực tím, X-quang, 
hóa chất độc hại, hydroxyl-amine thơm, hợp 
chất nitro thơm, thuốc trừ sâu (như paraquat), 
hóa trị liệu. 
Ti thể là nguồn gốc chính của các gốc oxy 
phản ứng: Ti thể tiêu thụ oxygen kết hợp với quá 
trình phosphoryl hóa oxy hóa. Ở điều kiện bình 
thường, gần 95-97% oxygen được khử thành 
nước, một phần nhỏ oxy tiêu thụ (3-5%) dùng để 
khử anion superoxide. Ubiquinone hay 
Coenzym Q là một chất vận chuyển electron 
trong chuỗi hô hấp nội bào. Coenzym Q hiện 
diện cả ở khoảng gian màng và chất nền ti thể. 
Ubiquinone hay Coenzym Q được khử bởi phức 
hợp I và phức hợp II, sau đó chuyển electron 
sang phức hợp III. Trong các quá trình oxy hóa 
khử, ubiquinone có thể tồn tại ở 3 dạng: quione 
(dạng oxy hóa hoàn toàn), semiquinone (gốc tự 
do), và hydroquinone (khử hoàn toàn): hình bên 
dưới. Sự rò rỉ electron (electron leakage), chiếm 
khoảng 3-5% lượng oxy tiêu thụ trong ti thể, kết 
hợp với sự tạo thành gốc oxy phản ứng: 
Ubisemiquinone truyền một điện tử sang cho 
phân tử oxygen tạo thành anion superoxide và 
ubiquinone. Phản ứng này gọi là sự tự oxy hóa 
của ubisemiquinone. Phản ứng tự oxy hóa của 
ubisemiquinone là nguồn chính của anion 
superoxide trong ti thể. Do ubiquinone tồn tại cả 
ở khoảng gian màng và chất nền ti thể, vì vậy 
anion superoxide được giải phóng vào cả 2 
khoang trên. Anion superoxide giải phóng vào 
khoang gian màng ti thể có thể xuyên qua màng 
ngoài ti thể vào tế bào chất thông qua một kênh 
ion phụ thuộc điện thế (VDAC: voltage – 
dependent anion channel). 
* Bộ môn Sinh lý học,Đại Học Y Dược TP. HCM ** Đại Học Quốc Tế - Đại Học Quốc Gia Tp. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS. Lê Quốc Tuấn ĐT: 01696929792 Email: 
[email protected] 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa 1 2
Nguồn gốc của hydrogen peroxide 
Hydrogen peroxide (H2O2) được tạo ra trong 
tế bào từ hai quá trình khác nhau: không tạo gốc 
tự do (nonradical or enzymic generation), và có 
tạo gốc tự do (radical generation or superoxide 
anion disproportionation)(1). 
Không tạo gốc tự do (Nonradical or enzymic 
generation): Các enzym sau sinh ra hydrogen 
peroxide (H2O2) khi khử đồng cơ chất của chúng 
(phân tử oxy): glycolate oxidase, D-amino acid 
oxidase, urate oxidase, acetyl-CoA oxidase, 
NADH oxidase, monoamine oxidase. Các 
enzyme monoamine oxidase (MAO) hoạt động 
trong hai dạng A và B, xúc tác sự khử amin oxy 
hóa của các amin sinh học. Chúng hiện diện ở 
màng ngoài ti thể. 
Có tạo gốc tự do (Radical generation or from 
superoxide anion dispropor-tionation): Điều này 
xảy ra khi chuyển đổi gốc superoxide theo các 
phản ứng đã đề cập: 
Ti thể là nguồn cung cấp nhiều nhất các gốc 
oxy phản ứng trong tế bào. Anion superoxide 
tạo ra từ sự tự oxy hóa của ubisemiquinone, phát 
tán vào khoảng gian màng và chất nền ti thể. 
Trong chất nền ti thể, superoxide được chuyển 
thành hydrogen peroxide. Hydrogen peroxide 
khuếch tán tự do qua màng tế bào. Do đó, ti thể 
có hai nguồn chính của H2O2: thứ nhất, từsự 
chuyển đổi của anion superoxide trong màng ti 
thể, và, thứ hai, từ sự khử amin oxy hóa của các 
amin sinh học (do hoạt động của các MAO 
monoamine oxidase gắn trên màng ngoài ti thể). 
H2O2 tạo ra từ ti thể có liên quan đến sự điều 
hòa oxy hóa khử trên các con đường tín hiệu nội 
bào. Nồng độ ổn định của H2O2 quyết định trạng 
thái oxy hóa khử của tế bào, cũng như quá trình 
chuyển đổi từ tang trưởng sang chết theo 
chương trình hoặc hoại tử. 
Nguồn gốc của hydroxyl 
Hầu hết các gốc hydroxyl (HO.) được tạo ra 
trong invivo, ngoại trừ khi tiếp xúc quá nhiều 
với bức xạ ion hóa(3). Gốc hydroxyl có nguồn gốc 
từ sự phân hủy hydrogen peroxide (H2O2) thông 
qua phản ứngFenton. Phản ứng Fenton đòi hỏi 
phải có sự khử (phụ thuộc kim loại) của 
hydrogen peroxide (H2O2) tạo thành gốc 
hydroxyl (HO.). Các kim loại chuyển tiếp như: 
đồng (Cu), sắt (Fe), và coban (Co), khi ở trạng 
thái khử có thể là chất xúc tác cho phản ứng này. 
Sự khử của kim loại chuyển tiếp có thể được 
thực hiện bởi anion superoxide (O2.-). Phản ứng 
tổng quát liên quan cả đến 2 quá trình khử sắt 
bởi anion superoxide (O2-.), và quá trình oxy hóa 
sắt bởi hydrogen peroxide (H2O2), như sau: (O2.- 
+ H2O2 → O2 + HO-+ HO.), được gọi là phản ứng 
Haber-Weiss. Phản ứng xảy ra với tốc độ rất 
chậm. Phản ứng Fenton do đó chiếm ưu thế 
trong môi trường sinh học. Điều cần lưu ý ở đây 
là không có sự tạo thành trực tiếp gốc hydroxyl 
trong tế bào, mà luôn luôn yêu cầu sự có mặt của 
cả 2 gốc superoxide và hydrogen peroxide. 
Nguồn gốc của oxy đơn (singlet oxygen) 
Oxy đơn (singlet oxygen) là gốc oxy phản 
ứng, không chỉ được tạo thành từ sự chuyển 
năng lượng (như đã đề cập bên trên), mà còn từ 
phản ứng chuyển điện tử(4). 
Phản ứng chuyển điện tử: Enzym 
myeloperoxidase trong bạch cầu đa nhân 
trung tính có thể xúc tác tạo thành 
hypochlorite từ Cl– và H2O2. Phản ứng sau đó 
giữa H2O2 với HOCl tạo thành oxy đơn (1O2: 
singlet oxygen). 
Phản ứng chuyển năng lượng: Đây là con 
đường khác tạo thành oxy đơn, bao gồm sự nhạy 
cảm hóa photon của nhiều tác nhân hóa trị liệu 
khác nhau. Tác nhân hóa trị liệu 
(chemotherapeuticagent, hay chất cảm ứng 
sensitizer = S) hấp thu năng lượng tia xạ, và 
chuyển năng lượng này đến phân tử oxygen để 
tạo thành oxy đơn. 
Như đã đề cập, oxy đơn là một gốc phản 
ứng với nhiều phân tử như: vitamin E, 
vitamin C, DNA, cholesterol, carotenoids, các 
acid béo không no trên màng, và một số các 
acid amin. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Tổng Quan
Chuyên Đề Nội Khoa 1 3
STRESS OXY HÓA – CÁC CHẤT OXY 
HÓA GÂY TỔN THƯƠNG TẾ BÀO 
Do phổ hoạt động rộng cũa các chất oxy hóa, 
được tạo thành cả trong tế bào, cũng như trong 
hệ vi tuần hoàn (ví dụ: gây nên bởi neutrophil), 
rõ rang rằng không có hợp chất nào trong cơ thể 
là không chịu tác động của gốc tự do. Có thể xem 
như anion superoxide và hydrogen peroxide có 
tính phản ứng yếu hơn so với gốc hydroxyl và 
oxy đơn (singlet oxygen). Tuy nhiên, trong 
những trường hợp cụ thể, 2 gốc này có thể tham 
gia các phản ứng hóa học đưa đến tổn thương 
nhiều phân tử sinh học khác nhau(5). 
Sự peroxy hóa lipid 
Màng sinh học và các bào quan trong tế bào 
rất nhạy cảm với sự tấn công của các gốc oxy 
hóa, do sự hiện diện của các acid béo không no 
(PUFA: polyunsaturated fatty acids) trên màng 
phospholipid của chúng. Quá trình peroxy hóa 
lipid bao gồm 3 giai đoạn: khởi đầu, kéo dài, và 
kết thúc(5,6). 
- Giai đoạn khởi đầu (initation): Quá trình 
peroxy hóa màng sinh học có thể được khởi đầu 
bằng sự tương tác giữa một gốc oxy hóa có tính 
phản ứng mạnh (như gốc hydroxyl), với một 
acid béo (RH) tạo thành gốc tự do alkyl béo. 
- Giai đoạn kéo dài (propagation): Gốc tự do 
alkyl béo (R.) phản ứng rất nhanh với các phân 
tử oxygen tạo thành gốc peroxyl béo (ROO.: fatty 
peroxyl radical). Gốc này có khả năng oxy hóa 
mạnh, tấn công vào các acid béo không bão hòa 
lân cận trên màng (RH) tạo thành gốc 
hydroperoxide và một gốc tự do alkyl béo mới 
(R.). Theo cách này, các chu kỳ tự xúc tác từ 
chuỗi phản ứng khởi đầu sẽ kéo dài cho đến khi 
chuỗi gốc tự do được chấm dứt. 
- Giai đoạn kết thúc (termination): Chuỗi 
phản ứng tự xúc tác trên sẽ kết thúc bởi sự va 
chạm giữa 2 gốc tự do, tạo thành các sản phẩm 
không phải là gốc tự do. Phản ứng kết thúc xảy 
ra tùy thuộc vào nồng độ oxy nội bào. Sự giảm 
oxy ở màng sinh học và lipoprotein có thể dẫn 
đến khởi đầu một chuỗi phản ứng phức tạp, tạo 
thành các sản phẩm phản ứng, oxy hóa không 
ổn định, hay các sản phẩm độc hại có đời sống 
kéo dài; hoặc hoạt hóa các chất trung gian gây 
viêm. Các gốc tự do tấn công các acid béo không 
no trên màng hay trong lipoprotein sẽ đi kèm 
với những thay đổi đưa đến rối loạn chức năng 
tế bào hoặc gây chết tế bào. 
Sự oxy hóa DNA 
Gốc hydroxyl là một gốc tự do độc biệt: kết 
hợp các tính chất ưa điện, sinh nhiệt cao, phản 
ứng xảy ra ở vùng lân cận của DNA (cơ chế vị trí 
đặc hiệu). Hydroxyl có thể chuyển hydrogen 
nguyên tử từ đường trong vòng xoắn DNA vào 
base của DNA dẫn đến bẻ gãy sợi đơn và oxy 
hóa nucleobase (8-hydroxydesoxy-guanosine). 
DNA là phân tử nhạy cảm với những thay đổi, 
có thể đưa đến các đột biến. Ví dụ, bae DNA bị 
thay đổi do tác động của gốc tự do và các hóa 
chất trong môi trường. Gốc hydroxyl làm trung 
gian trong quá trình gây tổn thương phân tử 
đường (deoxyribose) là một phần trong cơ chế 
C’4, đưa đến phá vỡ sợi DNA(3). 
Như vậy, các gốc oxy phản ứng có thể gây 
tổn thương DNA ở nhiều mức độ khác nhau: gốc 
hydroxyl thông qua phản ứng phụ gây thay đổi 
base trên chuỗi đơn (ví dụ: tạo thành 8-
Hydroxydeoxyguanosine), hay thông qua phản 
ưng chuyển hydrogen nguyên tử làm mất liên 
tục chuỗi đơn (ssDNA nick: single strand DNA 
nick), hoặc phá vỡ sợi đôi DNA (dsDNA break: 
double strand DNA break). Sau khi sao chép, sự 
mất liên tục chuỗi đơn có thể gây phá vỡ cấu trúc 
sợi đôi DNA. 
HỆ THỐNG CHỐNG OXY HÓA TRONG 
CƠ THỂ 
Các tế bào của động vật không có khả năng 
tự chống lại tác động của các gốc oxy hóa, nhưng 
chúng có một hệ thống các cơ chế bảo vệ để 
ngăn chặn, hạn chế, và sửa chữa các tổn thương 
oxy hóa(4). Các tế bào còn được hổ trợ từ các 
enzym đặc hiệu chống lại sự tấn công của các 
gốc oxy hóa, có thể xem như là hệ thống chống 
oxy hóa phòng ngừa (preventive antioxidants). 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa 1 4
Ngoài ra, trong tế bào còn hiện hữu các phân tử 
chống oxy hóa nhỏ, phản ứng với hàng loạt các 
gốc tự do, được biết như là chất chống oxy hóa 
phá vỡ chuỗi (chain-breaking antioxidants). 
Hệ thống các enzym chống oxy hóa 
(preventive antioxidants) 
Các tế bào động vật có vú sở hữu một hệ 
thống các enzym đặc hiệu, giúp loại bỏ được cả 
anion superoxide và hydrogen peroxide (là 2 
tiền chất của gốc oxy hóa mạnh hydroxyl). 
- Sự loại bỏ anion superoxide: Superoxide 
dismuatases 
Các gốc anion superoxide trong tế bào được 
tạo thành từ nhiều phản ứng enzym và không 
enzym khác nhau. Enzym superoxide 
dismutases (SOD: superoxide dismutases), xúc 
tác sự chuyển đổi nhanh gốc superoxide thành 
hydrogen peroxide và oxy phân tử. Tốc độ của 
phản ứng có enzym xúc tác gấp 1000 lần hơn 
phản ứng tự phát không có enzyme(6). 
Tất cả các enzym SOD (superoxide 
dismutase) đều là các metalloprotein chứa Cu, 
Zn, hoặc Mn. Có 4 típ SOD ở người: 
Cu, Zn-superoxide dismutase tế bào chất 
Mn-superoxide dismutase chất nền ti thể 
Cu, Zn-superoxide dismutase khoảng gian 
màng ti thể 
Cu, Zn-superoxide dismutase khoảng ngoại 
bào 
- Sự loại bỏ hydrogen peroxide: Catalase và 
Glutathione Peroxidase 
Sản phẩm của các phản ứng được xúc tác bởi 
enzym SOD ở trên chính là các gốc hydrogen 
peroxide (H2O2). Tuy tính phản ứng kém hơn 
superoxide, nhưng gốc hydrogen peroxide vẫn 
là một gốc oxy hóa, và là tiền thân của gốc 
hydroxyl (HO) qua phản ứng Fenton. Tế bào có 
thể khử gốc hydrogen peroxide thành nước nhờ 
enzym catalase và glutathione peroxide(4). 
Glutathione peroxide là enzym hoạt động trong 
tế bào chất và chất nền ti thể, đòi hỏi cần sự có 
mặt của glutathione – một tripeptide có nồng độ 
cao ở hầu hết các tế bào ở động vật có vú. Trong 
phản ứng này, hydrogen peroxidase bị khử 
thành nước, và glutathione (GSH) bị oxy hóa 
thành glutathione disulfide (GSSG). 
Như vậy, tế bào chỉ có các enzyme đặc hiệu 
để chống lại gốc anion superoxide, và hydrogen 
peroxide, thiếu hoàn toàn hệ thống loại bỏ các 
gốc hydroxyl (HO). Nhưng do sự hình thành gốc 
hydroxyl đòi hỏi phải có cả 2 gốc superoxide, và 
hydrogen peroxide. Do đó, các enzyme SOD, 
catalase/glutathione peroxide đã gián tiếp ngăn 
chặn việc hình thành các gốc hydroxyl. 
Các phân tử chống oxy hóa không đặc hiệu 
Ngăn chặn và sửa chữa các tổn thương gây 
nên bởi các gốc oxy phản ứng mạnh, như 
hydroxyl (HO.) là nhiệm vụ rất quan trọng đối 
với tế bào. Vì vậy, tế bào còn bao gồm hệ thống 
thứ hai, gọi là các phân tử chống oxy hóa nhỏ 
(small antioxidant molecule) như: vitamin E, 
vitamin C, ubiquinone (hay Coenzym Q), 
carotenoid. Một số trong nhóm này còn được 
xem như là chất chống oxy hóa phá vỡ chuỗi 
(chain-breaking antioxidants) do chúng có hiệu 
quả làm gián đoạn các phản ứng giai đoạn kéo 
dài trong quá trình gây tổn thương tế bào (xem 
lại sự peroxide hóa lipid ở trên). 
- Vitamin E hay tocopherol: Vitamin E tự 
nhiên là một hỗn hợp các tocopherols (α, β, và γ) 
và tocotrienols (α, β, và γ). Đây là một vitamin 
tan trong mỡ, tập trung chủ yếu ở vùng bên 
trong màng tế bào và protein huyết thanh. 
Vitamin D là chất chống oxy hóa tan trong mỡ 
chủ yếu của huyết tương người. Vitamin E phản 
ứng đáng kể với một loạt các gốc tự do, nhất là 
gốc peroxyl lipid hình thành trong quá trình 
peroxy hóa lipid. Trong phản ứng này (tương tự 
như bất kỳ cơ chế chống oxy hóa nào khác), 
dạng gốc tự do của vitamin E được hình thành. 
Gốc tự do mới, (gốc α-tocopheroxyl), có tính 
phản ứng thấp hơn so với các gốc tự do ban đầu. 
Như vậy, kết quả phản ứng hướng tới việc tạo 
thành một gốc có đặc tính oxy hóa kém hơn, 
giảm gây nguy hại cho tế bào. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Tổng Quan
Chuyên Đề Nội Khoa 1 5
- Vitamin C: Vitamin C hay acid ascorbic 
(AH) là một vitamin tan trong nước, phản ứng 
với các gốc tự do (như hydroxyl) tạo thành 
acid semidehydroascorbic hay gốc ascorbyl 
(A.–). Nhiều loài động vật chứa 2 enzym có 
khả năng khử gốc ascorbyl hay acid 
semidehydroascorbic thành lại acid ascorbic: 
dehydroascorbate reductase, và NADH-
semidehydroascorbate reductase. Các enzyme 
dehydroascorbate reductase khử gốc ascorbyl 
thành acid ascorbic, trong khi oxy hóa GSH 
thành GSSG. Enzym thứ hai, NADH-
semidehydroascorbate reductase, khử gốc 
ascorbyl thành acid ascorbic, trong khi oxy 
hóa NADH thành NAD+. 
Như vậy, phản ứng chuyển đổi gốc oxy hóa 
của vitamin C hay acid ascorbic tạo thành một 
sản phẩm không phải gốc tự do (nước), và một 
gốc có nguồn gốc từ chất chống oxy hóa (gốc 
ascorbyl). Gốc ascorbyl có thể chuyển ngược lại 
thành vitamin C nhờ sự hoạt động của enzyme 
GSH-dependent dehydroascorbate reductase. 
- Ubiquinone hay Coenzyme Q: Coenzym 
Q hay Ubiquinone-10 là thành phần oxy hóa 
khử có mặt trên màng tế bào của tất cả các loài 
động vật có vú. Tại màng trong ti thể, 
ubiquinone đóng vai trò là thành phần dẫn 
truyền điện tử từ phức hợp I và II sang phức 
hợp III của chuỗi hô hấp nội bào. Tại màng 
ngoài ti thể, ubiquinone có chức năng như một 
chất chống oxy hóa, ở dạng khử (ubiquinol) 
bảo vệ acid béo không no không bị tổn thương 
bởi sự peroxy hóa. Giống như các quinone 
khác, ubiquinone có những đặc tính hóa học 
đặc trưng nhưkhả năng vận chuyển một điện 
tử có thể đảo nghịch với trung gian của gốc 
semiquinone. Sự hiện diện của các nhóm thay 
thế isoprenoids (R) trong ubiquinone cản trở 
sự tấn công ái nhân lên các cầu nối đôi(5). 
Khi ubiquinone phản ứng với các gốc tự 
do, nó tạo thành một gốc mới. Trên màng 
ngoài ti thể, phần lớn ubiquinone ở trạng thái 
khử. Vậy cơ chế nào để duy trì điều này? 
Enzym NADPH-ubiquinone reductase trong 
tế bào chất gan chính là cơ chế duy trì 
ubiquinone ở dạng ubiquinol (trạng thái khử) 
trên màng ngoài ti thể. Do đó, sau phản ứng 
giữa ubiquinol và gốc peroxyl lipid hoặc gốc 
tạo thành từ vitamin E, gốc tạo ra từ ubiquinol 
(ubiquinone) sẽ phục hồi lại thành dạng 
ubiquinol nhờ hoạt động của enzyme liên kết 
flavin (FPH2), NADPH-ubiquinone reductase. 
- Hoạt động hiệp đồng giữa vitamin E và 
vitamin C: Vitamine E là vitamin tan trong 
lipid, và là chất chống oxy hóa (nhóm chất 
chống oxy hóa phá vỡ chuỗi, phản ứng chính 
với các gốc peroxyl tạo thành trong quá trình 
peroxy hóa lipid). Vitamine E có mặt trên 
màng tế bào. Phản ứng của vitamin E với các 
gốc tự do peroxyl lipid tại màng tế bào tạo 
thành các gốc có nguồn gốc vitamin E tương 
ứng (antioxidant-derived radical), hoặc gốc 
tocopheroxyl. Vitamin C là vitamin tan trong 
nước, và là chất chống oxy hóa phản ứng với 
nhiều gốc tự do. Gốc có nguồn gốc từ vitamin 
C, hay gốc ascorbyl, tạo thành sẽ được phục 
hồi thành dạng vitamin C trở lại nhờ enzyme 
dehydroascorbate reductase. Vitamin C có mặt 
trong tế bào chất. Các đặc tính khác nhau giữa 
vitamin C và E cung cấp một cơ chế chống oxy 
hóa hiệp đồng, theo đó các gốc tự do sẽ được 
chuyển từ pha lipid (màng tế bào) sang pha tế 
bào chất(4,5). 
KẾT LUẬN 
Sự oxy hóa là một phản ứng hóa học trong 
đó electron được chuyển từ chất này sang chất 
khác, sinh ra các gốc tự do làm phá hủy tế bào. 
Chất chống oxy hóa là giúp ngăn chặn hoặc 
làm chậm quá trình oxy hóa các chất diễn ra 
trong tế bào, khử đi các gốc tự do bằng cách tự 
oxy hóa chính chúng. Cơ thể có một hệ thống 
chống oxy hóa rất phong phú, điển hình 
như glutathione, vitamin C, vitamin 
E, enzyme catalase, superoxide dismutase  
giúp bảo vệ tế bào trước sự sản sinh liên tục 
các gốc tự do. 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa 1 6
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Afanas'ev I (2010). Signaling and Damaging Functions of Free 
Radicals in Aging-Free Radical Theory, Hormesis, and TOR. 
Aging And Disease. 1(2) 75-88. 
2. Brink TC, Demetrius L, Lehrach H, Adjaye J (2009). Age-
related transcriptional changes in gene expression in different 
organs of mice support the metabolic stability theory of aging. 
Biogerontology. 10(5) 549-64. 
3. Conte D, Narindrasorasak S, Sarkar B (1996). In vivo and in 
vitro iron-replaced zinc finger generates free radicals and 
causes DNA damage. The Journal Of Biological Chemistry. 
1996;271(9) 5125-30. 
4. Miyazawa M, Ishii T, Yasuda K, Noda S, Onouchi H, 
Hartman PS, et al (2009). The role of mitochondrial superoxide 
anion (O2(-)) on physiological aging in C57BL/6J mice. Journal 
Of Radiation Research. 50(1) 73-83. 
5. Sasaki T, Unno K, Tahara S, Shimada A, Chiba Y, Hoshino M, 
et al (2008). Age-related increase of superoxide generation in 
the brains of mammals and birds. Aging Cell. 7(4) 459-69. 
6. Sohal R (2002). "Role of oxidative stress and protein oxidation 
in the aging process". Free Radic Biol Med 33 (1): 37–44 
Ngày nhận bài báo: 24/11/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2015 
Ngày bài báo được đăng: 15/02/2016