Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Tổng Quan
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 1
NHIỄM TRÙNG TIỂU TRONG THAI KỲ: 
NHỮNG QUAN ĐIỂM MỚI TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ 
Nguyễn Hồng Hoa** 
MỞ ĐẦU 
Nhiễm trùng tiểu (NTT) là một trong các 
nhiễm trùng thường gặp, với 150 triệu người bị 
nhiễm mỗi năm trên toàn thế giới(21). NTT có tần 
suất bệnh đáng kể trong các trẻ trai, nam giới lớn 
tuổi và phụ nữ ở mọi lứa tuổi. Ở người phụ nữ 
có thai, tỉ lệ NTT không triệu chứng từ 2% tới 
13% (gần giống với tình trạng không có thai), tỉ 
lệ viêm bàng quang cấp 1-4% và viêm đài bể 
thận cấp 0,5-2%(2,3,4,6,7). Tuy nhiên, NTT không 
triệu chứng có nguy cơ cao tiến triển thành viêm 
đài bể thận, và NTT có triệu chứng có nguy cơ 
cao gây chuyển dạ sinh non và sinh trẻ nhẹ cân. 
Hệ niệu khi có thai có những thay đổi đáng 
kể ngay sau khi thụ thai và có thể tồn tại vài 
tháng sau sinh, trong đó có 1 số sự thay đổi hệ 
niệu trở thành yếu tố thuận lợi gây NTT: 
Thận tăng kích thước và trọng lượng trong 
thai kỳ. Các đài bể thận, niệu quản dãn rộng, 
thường xảy ra ở bên phải do tác động của các 
nội tiết tố (như progesterone, endothelin, 
relaxin) cùng với sự chèn ép của tử cung, dẫn 
tới gia tăng nguy cơ NTT. Ngoài ra, 
progesterone còn làm giảm trương lực của 
bàng quang, tăng sinh và phì đại các cơ vùng 
tam giác cổ bàng quang, dẫn tới dễ ứ đọng 
nước tiểu- tăng nguy cơ nhiễm trùng. 
Lưu lượng máu qua thận gia tăng, tăng 
nhiều nhất vào cuối 3 tháng đầu và giảm dần 
vào cuối thai kỳ nhưng vẫn cao hơn khi không 
có thai. Sự gia tăng này 1 phần do tăng cung 
lượng tim đồng thời giảm kháng trở mạch máu 
hệ niệu. Độ lọc cầu thận gia tăng trên 50% trong 
thai kỳ bình thường. Do sự thay đổi độ lọc cầu 
thận, và ngưỡng tái hấp thu bicarbonate, glucose 
giảm xuống, môi trường nước tiểu thay đổi như 
có hiện diện glucose trong nước tiểu, dẫn tới 
tăng cơ hội phát triển của vi khuẩn. 
Một số yếu tố khác làm gia tăng nguy cơ 
NTT trong thai kỳ: 
Theo một nghiên cứu phân tích hồi cứu lớn 
với 8037 phụ nữ từ Bắc Carolina, hai yếu tố có 
giá trị tiên đoán cao nhất về NTT trong thai kỳ là 
NTT trước khi có thai (OR = 2,5, 95% KTC: 0,6- 
9,8 đối với người da trắng và OR = 8,8, KTC 95%: 
3,8-20,3 đối với người da đen) và tiền căn NTT 
(OR = 2,1, KTC 95%: 1,4-3,2)(17). Một nghiên cứu 
khác cũng ghi nhận NTT trước khi có thai là một 
yếu tố tiên đoán viêm bể thận cấp xảy ra lúc thai 
20 tuần (OR = 5,3, KTC 95%: 2,6-11,0)(18). 
Các yếu tố nguy cơ khác của NTT trong thời 
kỳ mang thai là tình trạng kinh tế xã hội thấp, 
hoạt động tình dục, lớn tuổi, đa thai, dị dạng 
đường tiết niệu, tiểu đường và bệnh lý hồng cầu 
hình liềm, nhưng các yếu tố này có mối tương 
quan với NTT chưa cao và đang còn bàn cãi. 
Hậu quả của NTT cho thai kỳ 
Nhiễm trùng đường tiểu không triệu chứng 
Hậu quả nghiêm trọng duy nhất của NTT 
không triệu chứng không được điều trị ở phụ nữ 
có thai là gia tăng đáng kể nguy cơ viêm bể thận 
cấp ở những tháng cuối của thai kỳ (30-40%) so 
với các trường hợp được điều trị (3-4%)(12,20). 
Các nguy cơ của NTT không triệu chứng cho 
kết cục thai kỳ còn nhiều bàn cãi. Một số nghiên 
cứu ghi nhận có mối liên quan giữa NTT không 
triệu chứng với sinh trẻ non tháng và sinh trẻ 
nhẹ cân nhưng cũng có nhiều nghiên cứu không 
ghi nhận mối liên quan này. Một nghiên cứu 
tổng kết năm 2007, ghi nhận việc điều trị bằng 
kháng sinh có hiệu quả trong việc làm giảm tỷ lệ 
trẻ sơ sinh nhẹ cân nhưng không giảm tỷ lệ sinh 
*Bộ môn Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS.BS Nguyễn Hồng Hoa ĐT: 0908285186 Email: 
[email protected] 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 2
non(12,20). Nhưng sau đó, các nghiên cứu đều ghi 
nhận NTT không triệu chứng, nếu không tiến 
triển đến NTT triệu chứng, sẽ không liên quan 
đến sinh non(4). 
Nếu có Streptococus nhóm B trong nước tiểu 
của 1 người phụ nữ mang thai thì được coi là có 
tình trạng nhiễm Streptococus nhóm B ở đường 
sinh dục. Tình trạng nhiễm Streptococus nhóm B 
có nguy cơ cao gây vỡ ối non, sinh non và nhiễm 
trùng sơ sinh nặng sớm(19). 
Nhiễm trùng đường niệu có triệu chứng 
Khoảng 15-20% phụ nữ bị viêm bể thận có 
du khuẩn huyết, có thể dẫn tới các biến chứng 
như tổn thương thận cấp tính, thiếu máu, tăng 
huyết áp, tiền sản giật, nhiễm trùng huyết và sốc 
nhiễm trùng, tán huyết, giảm tiểu cầu, và hội 
chứng suy hô hấp cấp tính, đặc biệt nếu điều trị 
muộn(7). Hầu hết các biến chứng dường như là 
do các tổn thương mô thận hoặc các mô khác gây 
ra bởi nội độc tố của vi khuẩn và phản ứng viêm 
hệ thống với tổn thương nội mô. 
Có mối quan hệ giữa nhiễm trùng đường 
niệu có triệu chứng và nguy cơ sinh non và sinh 
nhẹ cân: tần suất sinh non ở phụ nữ bị viêm bể 
thận cấp tính cao hơn so với ở phụ nữ không có 
biến chứng này. Tuy nhiên, chưa có nhiều bằng 
chứng đủ mạnh để xác định được sự liên quan 
của NTT đối với sinh non và tình trạng này 
thường bắt nguồn từ nhiễm trùng với 
Streptococus nhóm B(19). 
Chẩn đoán và điều trị các dạng của NTT 
NTT không triệu chứng 
Cấy nước tiểu là xét nghiệm đáng tin cậy 
nhất cho chẩn đoán NTT không triệu chứng. 
Theo các khuyến cáo của IDSA (Infectious 
Diseases Society of America -Hiệp hội Bệnh 
truyền nhiễm Hoa Kỳ), NTT không có triệu 
chứng được định nghĩa là sự hiện diện của 1 loại 
vi khuẩn với số lượng ≥ 105 khúm vi khuẩn/ ml 
nước tiểu trong hai liên mẫu nước tiểu giữa 
dòng có rửa sạch bộ phận sinh dục hoặc ≥ 102 
khúm trên mỗi ml nước tiểu được lấy từ ống 
thông tiểu vào bàng quang. 
Khuyến cáo sàng lọc NTT trong thai kỳ được 
chấp nhận: cấy nước tiểu 1 lần duy nhất từ tuần 
thứ 12 đến tuần thứ 16 của thai kỳ, hoặc vào lần 
khám thai đầu tiên (nếu đi khám thai muộn). 
Cách cấy 1 lần có tỷ lệ dương tính giả cao nên 
một số trung tâm yêu cầu thử lại lần 2 ở các phụ 
nữ có cấy nước tiểu dương tính 1 tuần, để tránh 
điều trị không cần thiết(19). 
Thực hiện cấy nước tiểu lập lại để tầm soát 
NTT trong suốt thai kỳ chưa được thống nhất. 
Một số nghiên cứu đưa khuyến cáo chỉ lập lại 
cấy nước tiểu trong các trường hợp nguy cơ cao 
như mắc bệnh đái tháo đường, thiếu máu hồng 
cầu lưỡi liềm, khiếm khuyết miễn dịch, rối loạn 
hệ tiết niệu hoặc tiền sử nhiễm trùng tái phát 
trước khi mang thai. Gần đây 1 số nghiên cứu 
cho thấy lặp lại việc cấy nước tiểu trong mỗi 3 
tháng thai kỳ giúp tăng tỷ lệ phát hiện NTT 
không triệu chứng. Dù vậy, cũng còn cần nhiều 
nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để chứng minh 
sự cần thiết của tầm soát NTT không triệu chứng 
trong từng 3 tháng của thai kỳ(16,14). 
Điều trị NTT không triệu chứng trong thai 
kỳ là điều trị ngắn hạn thường là 5-7 ngày, sử 
dụng kháng sinh đường uống (Bảng 1). Do tình 
trạng kháng thuốc ngày càng nhiều, hiện tại việc 
điều trị nên dựa trên kết quả kháng sinh đồ- 
đánh giá độ nhạy của kháng sinh với vi khuẩn(20). 
Trong trường hợp NTT không triệu chứng 
do Streptococus nhóm B, điều trị được khuyến 
cáo theo hướng dẫn CDC (Centers for Disease 
Control and Prevention)(22). Streptococus nhóm B 
được xem là 1 tác nhân gây bệnh và điều trị với 
kháng sinh như Penicillin V 500 mg uống 2 lần 
mỗi ngày trong 5 ngày, nếu có dị ứng PNC thì sử 
dụng Cephalexine hay Clindamycine. Nhưng 
nếu số lượng vi khuẩn <100000 khúm/ml thì điều 
trị không giảm vi khuẩn cũng không ngăn ngừa 
bệnh cho trẻ sơ sinh và có thể gây hậu quả xấu 
nên sẽ điều trị theo phác đồ của nhiễm 
Streptococcus B: vào thời điểm chuyển dạ hoặc vỡ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Tổng Quan
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 3
màng ối, dùng kháng sinh đường tĩnh mạch 
thích hợp để phòng ngừa bệnh Streptococus 
nhóm B cho trẻ sơ sinh(19). 
Bảng 1: Khuyến cáo điều trị kháng sinh trong NTT 
không triệu chứng hoặc viêm bàng quang cấp/ viêm 
niệu đạo 
 NTT không triệu chứng Viêm bàng 
quang/ niệu 
đạo cấp 
Khuyến cáo 
đầu tiên 
Amoxicillin 500 mg uống mỗi 
8 -12 giờ trong 3-7 ngày 
Trong 7 ngày 
Cephalexin 500 mg mỗi 
12/6 giờ trong 3–7 ngày 
Trong 7 ngày 
Chọn lựa thứ 
hai 
Amoxicillin/clavulanic acid 
500 mg mỗi 12 giờ trong 3-7 
ngày 
Trong 7 ngày 
Nitrofurantoin 100 mg mỗi 
12 giờ trong 3-7 ngày 
Trong 7 ngày 
Cefuroxime 250 mg, mỗi 12 
h trong 3–7 ngày 
Trong 7 ngày 
Cefpodoxime 100 mg mỗi 
12 giờ 
Chọn lựa thứ 
ba 
Trimethoprim với 
sulfamethoxazole 960 mg 
mỗi 12 h trong 5 ngày 
Trong 7 ngày 
Các phụ nữ mang thai có NTT không triệu 
chứng có tới một phần trường hợp bị tái phát 
sau điều trị cho nên họ nên được kiểm tra bằng 
cách cấy nước tiểu 1-2 tuần sau điều trị và lặp lại 
mỗi tháng một lần. Trong trường hợp NTT kéo 
dài hoặc tái phát, cần dùng kháng sinh cùng loại 
kéo dài hơn hoặc một loại thuốc khác. Các đợt 
điều trị tiếp theo được thực hiện cho đến khi số 
lượng vi khuẩn giảm xuống mức không đáng 
kể(10,16). Nếu NTT tồn tại sau điều trị lặp lại, cũng 
như ở phụ nữ có nguy cơ cao (ví dụ như suy 
giảm miễn dịch, tiểu đường, thiếu máu hồng cầu 
lưỡi liềm, bàng quang thần kinh) hoặc có NTT tái 
phát/tồn tại kéo dài trước khi mang thai, nên 
xem xét điều trị dự phòng kháng sinh(10). NTT tái 
phát có liên quan đến hoạt động tình dục có thể 
dùng một liều kháng sinh duy nhất dự phòng (ví 
dụ nitrofurantoin 50-100 mg uống hoặc 
cephalexin 250-500 mg uống) sau khi giao hợp. 
Những trường hợp còn lại có thể được cho 
kháng sinh liều thấp (ví dụ nitrofurantoin 50-100 
mg vào buổi tối) cho đến khi kết thúc thai kỳ. 
Trong nhóm này, việc cấy nước tiểu theo dõi chỉ 
được thực hiện vào đầu tam cá nguyệt thứ ba. 
Trong trường hợp NTT đáng kể, liều dự phòng 
nên được thay thế bằng một đợt kháng sinh 
khác, dựa kháng sinh đồ. 
Viêm bàng quang / viêm niệu đạo 
Chẩn đoán 
Chẩn đoán dựa trên cơ sở các triệu chứng 
(nước tiểu đục, khó tiểu, tiểu lắt nhắt, tiểu són, 
đau vùng bụng hoặc đau vùng trên xương mu) 
và có sự hiện diện của vi khuẩn trong nước tiểu 
(≥ 102 -103 khúm vi khuẩn/ ml nước tiểu). 
Điều trị 
Trong hầu hết các trường hợp NTT dưới, 
điều trị tương tự như trong NTT không triệu 
chứng (bảng 2) và nên được theo kết quả kháng 
sinh đồ. Thời gian điều trị tối ưu là không rõ, 
nhưng các đợt điều trị kéo dài hơn (5-7 ngày) 
thường được gợi ý. Nên cấy nước tiểu 1-2 tuần 
sau khi điều trị và sau đó mỗi tháng một lần. Ở 
phụ nữ bị viêm bàng quang cấp tái phát, khuyến 
cáo sử dụng một liều kháng sinh thấp hàng ngày 
trong giai đoạn NTT không có triệu chứng hoặc 
trong trường hợp có liên quan tới bệnh lây 
truyền qua đường tình dục, xảy ra sau giao hợp 
(Ví dụ Nitrofurantoin 50-100 mg, Cephalexin 
250-500 mg). 
Viêm bể thận cấp tính 
Viêm bể thận cấp thường xảy ra vào cuối 
thai kỳ, khoảng 80-90% các trường hợp xảy ra 
trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba(8). 
Biểu hiện lâm sàng là điển hình và bao 
gồm đau thắt lưng, sốt trên 380C, ớn lạnh, buồn 
nôn, nôn mửa và đau góc sườn sống, trong khi 
các triệu chứng tiểu khó ít gặp hơn. Gần 1% 
các phụ nữ có thai bị viêm bể thận cấp sẽ có 
nhiễm trùng huyết lúc chẩn đoán. Các biến 
chứng bao gồm: thiếu máu (23%), nhiễm trùng 
huyết (17%), rối loạn chức năng thận thoáng 
qua (2%), và suy hô hấp (7%). Số trẻ sanh non 
và trẻ nhỏ khi sinh, không tăng so với tỷ lệ dự 
kiến ở bệnh viện này. Cấy nước tiểu có > 105 
khúm vi khuẩn/ ml nước tiểu(7). 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 4
Điều trị 
Bệnh nhân nên được nhập viện điều trị 
kháng sinh tĩnh mạch trong vòng 48 giờ (theo 
bảng III). Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy 
việc điều trị ngoại trú có thể thực hiện trong các 
trường hợp bệnh không quá trầm trọng, vd phụ 
nữ có thai trước 24 tuần không có biểu hiện sốt 
lạnh run, không dấu rối loạn điện giải hay nhiễm 
trùng toàn thân. Bệnh nhân nên được điều chỉnh 
nước điện giải, truyền dịch và theo dõi nước 
nhập- xuất. Đồng thời, nên nuôi ăn cho bệnh 
nhân bằng đường tĩnh mạch trong 24 giờ đầu. 
Theo dõi các dấu hiệu sinh non vì có nguy cơ 
chuyển dạ sinh non để điều trị kịp thời (Bảng 1). 
Bảng 2: Khuyến cáo điều trị trong viêm bể thận cấp 
Viêm đài bể thận 
cấp nhẹ và trung 
bình 
Ceftriaxone 1 g tĩnh mạch mỗi 24 giờ 
Cefepime 1 g tĩnh mạch mỗi 24 giờ 
Amoxicillin/clavulanic acid 1,2 g tĩnh 
mạch mỗi 12 giờ 
Aztreonam 1 g mỗi 8-12 giờ 
Viêm đài bệ thận 
cấp nặng 
Ticarcilline với clavulanic acid 3.1 g mỗi 6 
giờ 
Piperacilline với tazobactam 3375 g mỗi 6 
giờ 
Meropenem 0,5 g mỗi 8 giờ 
Entapenem 1 g mỗi 24 giờ 
Doripenem 1 g mỗi 24 giờ. 
Độ an toàn của kháng sinh 
Gần như tất cả các thuốc kháng sinh đều đi 
qua nhau thai, và một số trong đó có thể gây ra 
tác động gây dị tật thai. Các kháng sinh thông 
thường được sử dụng trong điều trị NTT trong 
thời kỳ mang thai, bao gồm các dẫn xuất của 
penicillin và cephalosporin, đặc biệt là những 
chất có khả năng liên kết protein thấp (như 
cephalexin) thuộc phân loại B theo phân loại của 
FDA, không gây dị tật thai. 
Các nghiên cứu cho thấy Nitrofurantoin 
nhạy với gần 90% các chủng E. coli được phân 
lập từ nước tiểu, bao gồm 89% các chủng kháng 
β-lactamase phổ rộng (ESBL). Mức kháng thuốc 
của Nitrofurantoin với E. Coli ở mức trung bình 
(2,3%), thấp hơn đáng kể so với Ciprofloxacin, 
Levofloxacin và Trimethoprim 
/Sulfamethoxazole (lần lượt là 24,2%, 24% và 
29%); vì vậy Nitrofuratoin trở thành thuốc chọn 
lựa hàng đầu khi có NTT. Gần đây 
Nitrofurantoin/ sulfonamides có một số bằng 
chứng có thể gây dị tật thai nhi. Việc chẩn đoán 
đúng có NTT (không phải là tạp nhiễm vi khuẩn 
như Lactobacilli, Staphylococus spp) và chọn lựa 
kháng sinh phù hợp là rất quan trọng khi người 
phụ nữ có thai. Đặc biệt trong tam cá nguyệt thứ 
nhất, người bác sĩ sản khoa nên cân nhắc và thảo 
luận với bệnh nhân nguy cơ dị tật thai nhi và lợi 
ích của dùng thuốc. Trong tam cá nguyệt thứ 
nhất, không nên sử dụng Nitrofuraintoin/ 
sulfonamides trong chọn lựa hàng đầu nếu sẵn 
có các nhóm thuốc khác. Sau đó, trong tam cá 
nguyệt II/III có thể sử dụng 
Nitrofuratoin/Sulfonamides nhưng thuốc chống 
chỉ định trong nhóm phụ nữ thiếu men G6PD, 
bệnh lý thiếu folate(1). 
Sử dụng các Fluoroquinolones (nhóm C theo 
phân loại FDA) về cơ bản là chống chỉ định 
trong suốt thai kỳ, vì rối loạn phát triển sụn của 
thai nhi đã được báo cáo ở động vật thực 
nghiệm, mặc dù không phải trong các nghiên 
cứu con người. Trong 1 số các nghiên cứu đã chỉ 
ra rằng sử dụng Fluoroquinolones trong 3 tháng 
đầu của thai kỳ dường như không liên quan đến 
tăng nguy cơ dị dạng nặng của thai nhi hay thai 
lưu, sinh non hoặc thai nhẹ cân. Rõ ràng là cần 
nhiều dữ liệu hơn để xác định độ an toàn của 
Fluoroquinolones trong thai kỳ trước khi chúng 
có thể được kê đơn thuốc(3). Tuy nhiên, trong 
một số trường hợp nhiễm trùng tiểu có biến 
chứng nặng, kháng với thuốc nhiều, lợi ích của 
sử dụng Fluoroquinolones có thể lớn hơn những 
rủi ro. 
Gentamicin và các Aminoglycosid khác 
thuộc nhóm D, có độc tính tiềm ẩn đến thận 
và thần kinh (tổn thương thần kinh số VIII) 
đối với bào thai(6). Tetracyclines dẫn đến sự 
đổi màu của răng nếu người mẹ sử dụng sau 5 
tháng mang thai(15). 
Macrolide thuộc nhóm C, gồm các thuốc như 
Erythromycin, Clarithromycin và 
Roxithromycin. Một số nghiên cứu trước kia cho 
thấy có liên quan giữa dị tật tim thai nhi và hẹp 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Tổng Quan
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 5
môn vị khi sử dụng Erythromycin và 
Clarithromycin, nhưng rất nhiều nghiên cứu gần 
đây đã chứng tỏ không có mối liên quan này, 
như nghiên cứu của Lin và cs so sánh việc dùng 
Erythromycin và Nonerythromycin macrolide 
trước khi sinh của các bà mẹ của 4132 trẻ bị 
khuyết tật tim bẩm sinh và 735 có chứng hẹp 
môn vị và mẹ của 6952 trẻ mà không có bất kỳ dị 
tật nào, làm thành nhóm kiểm soát và qua phân 
tích hồi qui không tìm thấy mối liên quan giữa 
việc tiếp xúc với thuốc và tăng nguy cơ cả hai 
loại dị tật bẩm sinh. Dù sao, cũng nên thận trọng 
và nhóm kháng sinh này nên được dành riêng 
để điều trị các tình trạng nguy hiểm hoặc đe dọa 
đến mạng sống, không đáp ứng với liệu pháp 
kháng sinh tiêu chuẩn(4,13). 
Trong 1 nghiên cứu trẻ em ORACLE II, đánh 
giá kết quả lâu dài của 3190 trẻ em sinh ra từ 
những phụ nữ đã được điều trị kháng sinh so 
với giả dược trong những trường hợp có dọa 
sinh non với màng ối còn nguyên. Nghiên cứu 
ghi nhận phơi nhiễm với Erythromycin hoặc 
Amoxicillin-clavulanate làm tăng đáng kể số trẻ 
suy giảm chức năng và bại não so với giả dược 
(OR = 1,42, KTC 95%: 0,68-2,98, và OR = 1,22, 
KTC 95%: 0,57 - 2,62, tương ứng). Nguy cơ lớn 
nhất là khi cả hai thuốc kháng sinh được cho 
cùng nhau so với giả dược đôi (OR = 2,91, KTC 
95%: 1,50-5,65). Nguyên nhân của rối loạn chức 
năng thần kinh này là chưa rõ ràng, nhưng nó có 
thể là kết quả của nhiễm trùng chu sinh không 
triệu chứng, cũng như là một hậu quả trực tiếp 
của kháng sinh lên não bào thai hoặc dòng máu 
trong não. Ngoài ra kháng sinh có thể có ảnh 
hưởng xấu đến hệ vi khuẩn của đứa trẻ mới 
sanh với hậu quả lâu dài. Có một số ý kiến cho 
rằng thuốc kháng sinh làm thay đổi dung nạp 
miễn dịch bằng cách thay đổi hệ thực vật đường 
ruột của thai nhi, góp phần vào sự gia tăng đáng 
kể trong tỷ lệ mắc bệnh hen suyễn, dị ứng, các 
bệnh tự miễn, bệnh tự kỷ, ADHD và các bệnh 
mãn tính khác(11,13). 
Những thách thức trong tương lai 
Do tiềm ẩn nguy cơ đối với mẹ và thai nhi 
nên việc phát hiện và điều trị nhiễm trùng tiểu 
hiệu quả vẫn là vấn đề lâm sàng quan trọng. Tuy 
nhiên, các khuyến cáo trong chẩn đoán và điều 
trị đang dựa trên một số ít các bằng chứng vì vậy 
phải có những nghiên cứu có cỡ mẫu lớn và 
phương pháp nghiên cứu tốt, để có thể trả lời các 
câu hỏi về tần suất sàng lọc và theo dõi sau điều 
trị, phương cách dự phòng, hoặc kháng sinh mới 
cũng như phác đồ tối ưu cho điều trị NTT trong 
thai kỳ. 
Một vấn đề đáng lo ngại, đặc biệt là trong 
khía cạnh an toàn của thai nhi liên quan đến 
điều trị, là sự phát triển nhanh chóng của đề 
kháng kháng sinh. Tác nhân chính gây nhiễm 
trùng là E.coli nhưng hiện nay hơn một nửa 
số chủng E. coli và hơn một phần ba Klebsiella là 
ESBL +, dẫn đến sự đề kháng với cephalosporin 
thế hệ thứ ba. Nói chung, tình trạng kháng thuốc 
đang trở thành một trong những mối đe dọa 
ngày càng lớn đối với sức khoẻ cộng đồng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. ACOG Committee Opinion, ACOG Committee Opinion, 
number 717, 2017. Sulfonamides, Nitrofuratoins and Birth 
Defects. 
2. Bahadi A, El Kabbaj D, Elfazazi H, et al (2010). Urinary tract 
infection in pregnancy. Saudi J Kidney Dis Transpl.; 21:342–4. 
3. Bar-Oz B, Moretti ME, Boskovic R et al (2009). The safety of 
quinolones – a meta-analysis of pregnancy outcomes. Eur J 
Obstet Gynecol Reprod Biol; 143:75–8. 
4. Bar-Oz, Weber-Schoendorfer C, Barlin M et al (2012). The 
outcomes of pregnancy in women exposed to the new 
macrolides in the first trimester. A prospective, multicentre, 
observational study. Drug Saf, 35:589–98. 
5. Chen YK, Chen SF, Li HC, Lin HC (2010). No increased risk of 
adverse pregnancy outcomes in women with urinary tract 
infections: a nationwide population-based study. Acta Obstet 
Gynecol Scand, 89:882–8. 
6. Dashe JS, Gilstrap LC (1999). Antibiotic use in pregnancy. Obstet 
Gynecol Clin North Am, 24:617–29. 
7. Farkash E, Wientraub AY, Sergienko R et al (2012). Acute 
antepartum pyelonephritis in pregnancy: a critical analysis of 
risk factors and outcomes. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol, 
162:24–7. 
8. Farkash E, Wientraub AY, Sergienko R et al (2012). Acute 
antepartum pyelonephritis in pregnancy: a critical analysis of 
risk factors and outcomes. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol, 
162:24–7. 
9. Hill JB, Sheffield JS, McIntire DD, Wendel GD Jr (2015). Acute 
pyelonephritis in pregnancy. Obstet Gynecol., 105:18–23. 
10. Hooton TM (2011). Urinary tract infections and asymptomatic 
bacteriuria in pregnancy. UpToDate.com. 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 6
11. Kenyon S, Pike K, Jones DR et al (2008). Childhood outcomes 
after prescription of antibiotics to pregnant women with 
spontaneous preterm labour: 7-year follow-up of the ORACLE II 
trial. Lancet, 372:1319–27. 
12. Kovavisarach E, Vichaipruck M, Kanjarahareutai S (2009). Risk 
factors related to asymptomatic bacteriuria in pregnant women. 
J Med Assoc Thai, 92:606–10. 
13. Lin KJ, Mitchell AA, Yau WP et al (2013). Safety of macrolides 
during pregnancy2. Am J Obstet Gynecol, 208:221.e1–8. 
14. Lumbiganon P, Laopaiboon M, Thinkhamrop J (2010). Screening 
and treating asymptomatic bacteriuria in pregnancy. Curr Opin 
Obstet Gynecol, 22:95–9. 
15. Macejko AM, Schaeffer AJ (2007). Asymptomatic bacteriuria and 
symptomatic urinary tract infections during pregnancy. Urol 
Clin North Am, 34:35–42. 
16. Matuszkiewicz-Rowińska J (2015). Urinary tract infections in 
pregnancy: old and new unresolved diagnostic and therapeutic 
problems, 
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4379362/ 
17. Pastore LM, Savitz DA, Thorp JM, Jr, et al (1999). Predictors of 
symptomatic urinary tract infection after 20 weeks’ gestation. J 
Perinatol, 19:488–93. 
18. Pastore LM, Savitz DA, Thorp JM. (1999). Jr Predictors of urinary 
tract infection at the first prenatal visit. Epidemiology, 10:282–7. 
19. Schrag SJ, Phil D, Zywicki S et al (2000). Group B streptococcal 
disease in the era of intrapartum antibiotic prophylaxis. N Engl J 
Med, 342:15–20. 
20. Smaill F, Vazquez JC (2007). Antibiotics for asymptomatic 
bacteriuria in pregnancy. Cochrane Database Syst Rev, 
8:CD000490. 
21. Stamm WE, Norrby SR (2001). Urinary tract infections: disease 
panorama and challenges. J Infect Dis, 183(Suppl 1):S1–S4. 
22. Verani JR, McGee L, Schrag SJ (2010). Prevention of perinatal 
group B streptococcal disease revised guidelines from CDC 
2010. MMWR, 59:1–31. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019