Tài liệu Nhận xét giá trị chẩn đoán của chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc trong chẩn đoán sỏi đường mật chính: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
** Bộ môn Ngoại TQ Đại Học Y Dược TPHCM, BV NDGĐ TPHCM 
NHẬN XÉT GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN CỦA CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH 
XOẮN ỐC TRONG CHẨN ĐOÁN SỎI ĐƯỜNG MẬT CHÍNH 
Đỗ Đình Công*, Nguyễn Việt Thành** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá giá trị của chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc (CLVT) trong chẩn đoán bệnh 
lý sỏi đường mật chính. 
Bệnh nhân và phương pháp: các bệnh nhân nghi ngờ sỏi đường mật chính trên lâm sàng được thực 
hiện siêu âm bụng (SA) và chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc với lát cắt liên tục dày 4-mm, không dùng thuốc 
cản quang. Sự hiện diện của sỏi được xác nhận bằng việc lấy sỏi trong mổ hoặc qua chụp đường mật trực 
tiếp trong mổ hoặc hình chụp kerh sau mổ hoặc chụp đường mật xuyên gan qua da hoặc nội soi mật tụy 
ngược dòng. 
Kết quả: từ tháng 4/2004 đến tháng 11/200...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 934 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét giá trị chẩn đoán của chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc trong chẩn đoán sỏi đường mật chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
** Bộ môn Ngoại TQ Đại Học Y Dược TPHCM, BV NDGĐ TPHCM 
NHẬN XÉT GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN CỦA CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH 
XOẮN ỐC TRONG CHẨN ĐOÁN SỎI ĐƯỜNG MẬT CHÍNH 
Đỗ Đình Công*, Nguyễn Việt Thành** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá giá trị của chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc (CLVT) trong chẩn đoán bệnh 
lý sỏi đường mật chính. 
Bệnh nhân và phương pháp: các bệnh nhân nghi ngờ sỏi đường mật chính trên lâm sàng được thực 
hiện siêu âm bụng (SA) và chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc với lát cắt liên tục dày 4-mm, không dùng thuốc 
cản quang. Sự hiện diện của sỏi được xác nhận bằng việc lấy sỏi trong mổ hoặc qua chụp đường mật trực 
tiếp trong mổ hoặc hình chụp kerh sau mổ hoặc chụp đường mật xuyên gan qua da hoặc nội soi mật tụy 
ngược dòng. 
Kết quả: từ tháng 4/2004 đến tháng 11/2004 có 41 bệnh nhân nghi ngờ sỏi đường mật được thực 
hiện siêu âm bụng và cắt lớp vi tính xoắn ốc. Độ nhạy và độ đặc hiệu của CLVT trong chẩn đoán sỏi gan 
là 82,75% và 100%. Độ nhạy này thấp hơn nhiều trong chẩn đoán sỏi ở vị trí ở cấp độ thùy hay phân thùy 
gan (độ nhạy tương ứng của CLVT là 75% và 68,08%). Đối với sỏi ống mật chủ, độ nhạy và đặc hiệu của 
CLVT là 70,07% và 100%. 
Kết luận: chụp cắt lớp vi tính có độ nhạy không cao trong chẩn đoán sỏi gan, độ nhạy này còn thấp 
hơn nữa khi chẩn đoán sỏi trong gan ở vị trí phân thuỳ. Tuy nhiên độ đặc hiệu của CLVT rất cao trong 
chẩn đoán sỏi trong gan và sỏi ống mật chủ, dường như cao hơn hẳn siêu âm trong việc chẩn đoán sỏi 
ống mật chủ mặc dù cần phải nghiên cứu với cở mẫu lớn hơn. Sự kết hợp siêu âm và cắt lớp vi tính làm 
tăng đáng kể độ nhạy trong chẩn đoán sỏi đường mật chính. Do đó CLVT xoắn ốc có thể được dùng như 
một phương pháp chẩn đoán ban đầu bổ xung cho siêu âm trong chẩn đoán sỏi đường mật chính vì giá 
thành có thể chấp nhận được của phương pháp này.. 
SUMMARY 
VALUE OF SPIRAL COMPUTER TOMOGRAPHY 
IN THE DIAGNOSIS OF BILE DUCT LITHIASIS 
Do Dinh Cong, Nguyen Viet Thanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 
49 - 53 
Purposes: To determine the value of spiral computer tomography (CT) in the diagnosis of bile duct 
lithiasis. 
Materials and Methods: patients suspected of having bile duct lithiasis based on clinical symptoms 
were examined with ultrasound and spiral computer tomography with continued slices of 4mm thickness 
and non-contrast. Presence or absence of biliary lithiasis were confirmed on the basis of findings at 
surgery and/or intraoperative, postoperative cholangiography or percutaneous cholangiography or 
endoscopic retrograde cholangiograpy. 
Results: From 4/2004 to 11/2004, spiral CT were performed in 41 patients suspected of having bile 
duct lithiasis. For intrahepatic lithiasis, the sensitivity and specificity of spiral CT are 82,75% và 100%. 
* Bộ môn Ngoại TQ Đại Học Y Dược TPHCM, Trưởng khoa Ngoại Tiêu hoá -Gan mật BV NDGĐ TPHCM
 49
This specificity are lower in diagnosis of lobar and segmentary lithiasis (the specificity are 75% and 
68,08%). For choledocholithiasis, the sensitivity and specificity of spiral CT are 70,07% và 100%. 
Conclusions: The sensitivity of Spiral CT is low in the diagnosis of intrahepatic lithiasis, especially for 
segmentary lithiasis. This sensitivity depends on biliary dilatation and density of calcium in lithiasis. 
However the specificity of spiral CT for blie duct lithiasis is very high, probably markedly higher than the 
specificity of ultrasound. Spiral CT could be used as a complementary investigator with US because the 
combination of these two methods improve considerably the specificity for lithiasis diagnosis. 
MỞ ĐẦU 
Sỏi đường mật chính là bệnh lý thường gặp ở 
nứớc ta. Từ lâu siêu âm là phương tiện không xâm hại 
được dùng phổ biến bước đầu trong chẩn đoán xác 
định sỏi đường mật chính ở bệnh nhân có triệu 
chứng lâm sàng nghi ngờ. Tuy nhiên vì kết quả chẩn 
đoán của siêu âm tùy thuộc nhiều vào người thực 
hiện và không phải lúc nào cũng độ tin cậy đủ để 
hướng dẫn cho việc điều trị. Trong thời gian gần đây 
ở bệnh viện Nhân dân gia định, chúng tôi đã bắt đầu 
thực hiện một số truờng hợp chẩn đoán bệnh lý sỏi 
đường mật chính bằng chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc. 
Nên chúng tôi muốn tổng kết đánh giá vai trò của 
chụp điện tóan cắt lớp trong chẩn đoán bệnh lý sỏi 
đường mật chính qua so sánh các giá trị chẩn đoán 
của hai phương pháp này. 
SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Trong thời gian từ tháng 04 năm 2004 đến tháng 
11 năm 2004, 41bệnh nhân (bn) gồm 24 nữ và 17 
nam có triệu chứng lâm sàng nghi ngờ sỏi đường mật 
chính được thực hiện siêu âm bụng và chụp cắt lớp vi 
tính xoắn ốc. Chẩn đoán sỏi được xác nhận qua việc 
tìm thấy sỏi trong mổ hoặc bằng các phương pháp 
chụp đường mật trực tiếp như chụp đường mật trong 
mổ, chụp đường mật sau mổ qua kerh, chụp đường 
mật xuyên gan qua da, nội soi mật tụy ngược dòng. 
Siêu âm bụng được các bác sỉ siêu âm của bệnh 
viện nhân dân gia định thực hiện với máy Toshiba 
SaL 10A (đầu dò 8,5cm với tần số 2,25MHZ). Siêu âm 
được thực hiện với lát cắt dọc và đưói sườn, mặt 
phẳng cắt liên sườn chỉ được dùng khi cần thiết. 
Chụp cắt lớp vi tính được thực hiện với các lát cắt 
hình liên tục 4-7mm với MSCT Aquillon, thuốc cản 
quang không được dùng trong đa số các trường hợp. 
KẾT QUẢ 
- 41 bệnh nhân gồm 24 nữ (58,50%), 17 nam 
(41,5o%). 
-Tuổi: từ 21 đến 86, tuổi trung bình 51,98. 
 -Bệnh lý sỏi đường mật thường phức tạp: thời 
gian mắc bệnh lâu dài (trung bình 5, 4 năm). Đa số 
bệnh nhân có tiền sử bệnh lý sỏi mật (30 bn 
#73,20%): 31, 70% bệnh nhân (13bn) có viêm đường 
mật và 41,50% bệnh nhân (17bn) có mổ sỏi mật 
trong đó có bệnh nhân được mổ nhiều đến 5 lần. 
-36/41bn được xác nhận có sỏi (87,80%): 10 bn 
sỏi trong gan đơn thuần (24,40%), 19 bn sỏi trong 
gan kết hợp với sỏi ống mật chủ (46,30%), 7 bn sỏi 
ống mật chủ đơn thuần (17,10%). 
Sỏi gan 
-Sỏi đường mật chính được chẩn đoán trên chụp 
điện tóan cắt lớp với tiêu chuẩn: bóng cản quang 
(hình tròn, bầu dục hoặc nhiều cạnh) nằm trong 
đường mật trong gan dãn hoặc trong ống mật chủ. 
Đối với SA thì sỏi được chẩn đoán với tiêu chuẩn 
bóng phản âm dày nằm trong đường mật dãn, có thể 
có bóng lưng hoặc không. Với tiêu chuẩn chẩn đoán 
như trên, chụp cắt lớp vi tính phát hiện 24/29 trường 
hợp sỏi trong gan so với 25/29 trường hợp được phát 
hiện qua siêu âm. Độ nhạy và độ đặc hiệu của siêu 
âm và chụp cắt lớp vi tính được thể hiện như sau 
(bảng 1). 
Bảng1 
Giá trị chẩn đoán SA CLVT SA + CT 
Độ nhạy 
Độ chuyên 
Giá trị tiên đoán dương 
Giá trị tiên đoán âm 
86,20% 
91,66% 
96,15% 
77,33% 
82,75% 
100% 
100% 
70,58% 
93,10% 
83,33% 
93,10% 
83,33% 
 50 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
- Chẩn đoán vị trí sỏi ở mức độ thùy gan: 41 
bệnh nhân có 36 thùy gan bị sỏi (36/82 # 43,90%). 
CLVT phát hiện sỏi ở 27 thùy (27/36# 75%) so với SA 
(31/36 thùy # 86,11%) 
Độ nhạy, độ đăc hiệu của CLVT và SA trong chẩn 
đoán vị trí sỏi ở thùy gan được tóm tắt trong bảng 2 
Bảng 2 
Giá trị chẩn đoán SA CLVT SA + CT
Độ nhạy 
Độ chuyên 
Giá trị tiên đoán dương tính 
Giá trị tiên đoán âm tính 
86,11% 
86,95% 
83,78% 
88,88% 
75% 
86,95% 
75% 
81,63% 
89,19% 
88,09% 
86,48% 
84,09% 
-Chẩn đoán vị trí sỏi ở phân thùy gan: 38 bệnh 
nhân (loại trừ 3 bn vì không kiểm chứng được) có 47 
thùy gan bị sỏi (47/152 # 30,92%). CLVT phát hiện 
sỏi ở 32 thùy (32/47# 68,08%) so với 27 thùy trên SA 
(27 /47 # 57,44%). 
Độ nhạy và đặc hiệu của CLVT và SA trong chẩn 
đoán sỏi vị trí phân thùy được tóm tắt trong bảng 3: 
Bảng 3 
Giá trị chẩn đoán SA CLVT SA + CT
Độ nhạy 
Độ chuyên 
Giá trị tiên đoán dương tính 
Giá trị tiên đoán âm tính 
57,44% 
94,28% 
81,81% 
83,19% 
68,08% 
97,14% 
91,42% 
87,17% 
70,73% 
93,69% 
80,55% 
89,65% 
Sỏi ống mật chủ 
-26/41 bệnh nhân có sỏi ở ống mật chủ (63,41%), 
CLVT phát hiện 19 truờng hợp sỏi ống mật chủ 
(19/26# 70,07%) so với 20 trường hợp trên siêu âm 
(20/ 26 #76,92 %). Độ nhạy, độ đặc hiệu của SA và 
CLVT trong chẩn đoán sỏi ống mật chủ được tóm tắt 
trong bảng 4: 
Bảng 4: 
Giá trị chẩn đoán SA CLVT SA + CT
Độ nhạy 
Độ chuyên 
Giá trị tiên đoán dương 
Giá trị tiên đoán âm 
76,92% 
80% 
86,95% 
75% 
70,07%
100% 
100% 
68,18%
93,33%
80% 
93,33%
80% 
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc 
phát hiện sỏi 
Mổ cũ ở đường mật 
Dùng phép kiểm X2 ta thấy không có sự liên quan 
giữa tiền sữ mổ sỏi mật với việc không phát hiện sỏi 
gan phải trên siêu âm, sỏi gan phải và trái trên CLVT, 
phát hiện sỏi ống mật chủ trên siêu âm và CLVT 
nhưng giữa tiền sử mổ và không phát hiện sỏi gan 
trái trên siêu âm lại có liên quan (P<0,05) với tỷ số 
khả năng 5,718 >1. 
Dãn đường mật 
+ Dùng phép kiểm X2 ta thấy việc không phát 
hiện sỏi gan, sỏi ống mật chủ trên siêu âm, trên 
CLVT có liên quan chặt với tình trạng dãn ống mật 
chủ (kích thước ống mật chủ) (P<0,01) với tỷ số khả 
năng >1 (8,835-20,663) 
Hơi trong đường tiêu hóa và phát hiện 
sỏi ống mật chủ 
Dùng phép kiểm X2 ta thấy có sự liên quan giữa 
hơi trong đường tiêu hóa với việc không phát hiện sỏi 
gan trái, sỏi ống mật chủ trên siêu âm (P<0,01) với 
tỷ số khả năng >1 nhưng hơi trong đường tiêu hoá 
không cản trỡ chẩn đoán sỏi gan phải trên siêu âm, 
sỏi gan và sỏi ống mật chủ trên CLVT. 
Cản quang của viên sỏi 
Việc phát hiện sỏi trên CLVT phụ thuộc vào 
thành phần canxi trong viên sỏi. Chỉ có 
70,03%(19/26) sỏi ống mật chủ và 68,08% (32/47) sỏi 
ở các phân thuỳ gan là thấy được trên CLVT. 
So sánh giữa CLVT và SA trong việc 
phát hiện sỏi 
Bảng 5: 
 CLVT SA 
Gan có sỏi 
Thùy gan có sỏi 
Phân thùy gan có sỏi
Sỏi ống mật chủ 
Nhiều hơn 2bn 
Nhiều hơn 4bn 
Nhiều hơn 5bn 
Nhiều hơn 2bn 
Nhiều hơn 3bn 
Nhiều hơn 3bn 
Nhiều hơn 4bn 
Nhiều hơn 5bn 
BÀN LUẬN 
-Bệnh lý sỏi đường mật của chúng ta thường 
phức tạp: thời gian mắc bệnh lâu dài (trung bình 5,4 
năm), bệnh thường tái phát nhiều lần (73,20%) và 
gần phân nữa (41,50%) số bệnh nhân có tiền sữ phẫu 
thuật vì sỏi đường mật. Do đó vấn đề chẩn đoán sỏi 
thường gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa đa số trường 
hợp là sỏi trong gan (80,55%, trong đó 52,77% sỏi 
trong lẫn ngòai gan) do đó vấn đề chẩn đoán hình 
ảnh chính xác càng phải được đặt ra. 
 51
Sỏi ở gan 
Với tiêu chuẩn chẩn đoán của CLVT và SA là 
bóng cản quang trên CLVT hoặc bóng phản âm dầy 
nằm trong đường mật trong hoặc ngòai gan dãn thì 
SA và CLVT có độ đặc hiệu rất cao (91,66% đối với 
SA và 100% đối với CLVT). Tuy nhiên độ nhạy của 
siêu âm và cắt lớp vi tính không cao trong phát hiện 
sỏi gan (86,20% và 82,75%)(độ nhạy của SA 68% 
theo Amouyal 94, Kaokpessi 2001, độ nhạy của 
CLVT là 63-81% theo Lim 91) nên dễ bỏ sót sỏi gan 
(10/36 thuỳ gan # 27,80% đối với siêu âm và 9/36 
thuỳ gan 25% đối với cắt lớp vi tính). Độ nhạy này 
còn thấp hơn nhiều trong chẩn đoán sỏi ở vị trí chi 
tiết hơn ở cấp độ thùy hay phân thùy gan (độ nhạy 
tương ứng của SA và CLVT trong chẩn đoán sỏi 
phân thùy gan là 54,77% và 68,08%). Do đó nếu chỉ 
dựa trên CLVT và SA để làm căn cứ hướng dẫn phẫu 
thuật thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ làm sạch 
sỏi trong gan vỉ CLVT và SA bỏ sót rất nhiều (20/47 
sỏi phân thuỳ gan không phát hiện trên siêu âm # 
42,55% và 15/47 sỏi phân thuỳ gan không phát hiện 
sỏi trên CLVT# 31,90%). Vì vậy CLVT cũng như SA 
chỉ nên dùng như phương pháp bổ xunh cho nhan 
trong chẩn đoán bước đầu bổ xung cho sỏi đường 
mật chính. 
Sỏi ống mật chủ 
CLVT và SA đều có độ nhạy không cao trong 
phát hiện sỏi ống mật chủ (độ nhạy tương ứng của 
CLVT và SA là 70,07% và 76,92%) (CLVT có độ 
nhạy 75% theo Pavone, độ nhạy của SA là 55% 
theo Barone) (2,1) nên chắc chắn sẽ bỏ sót rất nhiều 
trường hợp sỏi ống mật chủ (6/26 sỏi ống mật chủ 
# 23,07% không phát hiện được trên siêu âm và 
7/26 sỏi ống mật chủ bỏ sót trên CLVT # 26,92%). 
Tuy nhiên độ đặc hiệu của CLVT rất cao 100% so 
với SA chỉ có 80%. Vì vậy ở bn có triệu chứng lâm 
sàng nghi ngờ sỏi đường mật chính mà trên CLVT 
có bóng cản quang nằm trong ống mật chủ thì 
chẩn đoán sỏi gần như chắc chắn trong khi hình 
ảnh phản âm dầy trong ống mật chủ thì có thể lầm 
với nguyên nhân khác (độ đặc hiệu của SA và 
CLVT không khác nhau có ý nghĩa thống kê). 
Các yếu tố ảnh hưởng đến viêc chẩn 
đoán sỏi mật của CLVT và SA 
Dãn đường mật trong và ngòai gan 
Sỏi sắc tố cản quang nằm trong các ống mật 
trong gan dãn hay ống mật chủ dãn là lý tưởng 
nhất để khảo sát trên CLVT cũng như trên siêu âm 
(phép kiểm X2, P<0,01). Khi đường mật không 
dãn thì rất dễ bỏ sót sỏi trên SA hoặc CLVT (1,2,3). 
Theo Itai(3) độ nhạy của CLVT trong khảo sát sỏi 
thấp trong trường hợp sỏi hỗn hợp, trong trường 
hợp ống mật không giãn hoặc giãn ít vì khi đó sỏi 
và dịch mật có thể cùng đậm độ. 
Hơi đường tiêu hoá 
Hơi trong đường tiêu hoá cản trỡ sự khảo sát 
sỏi ống mật chủ trên siêu âm (P<0,01 với tỷ số 
khả năng >1), nhất là khi có mổ đường mật trước 
đó, mà không cản trỡ CLVT. Tuy nhiên độ nhạy 
của CLVT không cao hơn SA trong việc chẩn đoán 
sỏi ống mật chủ như các tác giả khác(1,2,3). Điều 
này có lẽ do phát hiện sỏi trên CLVT không bị cản 
trỡ bởi hơi trong đường ruột nhưng lại phụ thuộc 
vào mật độ canxi trong viên sỏi. Ngoài ra chúng tôi 
còn ghi nhận hơi trong đường tiêu hoá cũng cản 
trở sự khảo sát đường mật gan trái của siêu âm. 
Cản quang của viên sỏi và đậm độ của 
dịch mật 
Chỉ có 70,03%(19/26) sỏi ống mật chủ và 
68,08% (32/47) sỏi ở các phân thuỳ gan là có mật 
độ canxi đũ thấy được trên CLVT. 
Theo Itai(3) độ nhạy của CLVT trong khảo sát 
sỏi thấp trong trường hợp sỏi hỗn hợp, trong 
trường hợp ống mật không giãn hoặc giãn ít vì khi 
đó sỏi và dịch mật có thể cùng đậm độ. 
Khí đường mật 
Khí đường mật cản trở sự khảo sát trên SA, đến 
nổi không phải tất cả các vùng của cây đường mật 
đều có thể khảo sát được bằng phương pháp này (3), 
tuy nhiên chúng tôi không ghi nhận điều này (phép 
kiểm X 2). 
Mổ cũ của đường mật 
Hơi trong đường tiêu hoá trong trường hợp mổ 
 52 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
cũ đường mật cản trỡ khảo sát ống mật chủ của SA, 
vì vậy độ nhạy của CLVT trong khảo sát sỏi ống chủ 
cao hơn SA (1,2,3), tuy nhiên chúng tôi không ghi nhận 
điều này và mổ củ đường mật cản trở khảo sát sỏi gan 
trái trên SA hơn là sỏi ống mật chủ, có lẽ do bn có mổ 
cũ ở đường mật hơi ống tiêu hoá như dạ dày cản trỡ 
nhiều siêu âm khảo sát đường mật gan trái hơn là 
ống mật chủ. 
-Qua việc so sánh, chúng tôi nhận thấy CLVT 
không cung cấp thêm được các thông tin hơn hẳn 
SA trong chẩn đoán sỏi mật. Tuy nhiên nếuy kết 
hợp kết quả cùa SA va CLVT thì ta thấy độ nhạy 
trong việc phát hiện sỏi gan, chẩn đoán sỏi ở vị trí 
thuỳ và phân thuỳ gan, phát hiện sỏi ống mật chủ 
được cải thiện đáng kể mặc dù độ đặc hiệu có giảm 
đôi chút. 
KẾT LUẬN 
Chụp cắt lớp vi tính chưa thấy có vai trò nổi 
bật hơn siêu âm bụng trong việc chẩn đoán sỏi 
đường mật chính trong và ngoài gan như mong đợi 
vì độ nhạy không cao, độ nhạy này còn thấp hơn 
nữa khi chẩn đoán sỏi trong gan ở vị trí phân thuỳ 
gan. Điều này có lẽ CLVT không bị ảnh hưởng bởi 
hơi đường tiêu hoá trong việc chẩn đoán nhưng lại 
phụ thuộc nhiều vào tình trạng dãn đường mật và 
nhất là mật độ canxi trong viên sỏi. Tuy nhiên độ 
đặc hiệu của CLVT rất cao trong chẩn đoán sỏi 
trong gan và sỏi ống mật chủ, dường như cao hơn 
hẳn siêu âm trong việc chẩn đoán sỏi ống mật chủ 
mặc dù cần phải nghiên cứu với cở mẫu lớn hơn. 
Độ đặc hiệu cao của CLVT trong chẩn đoán sỏi có 
thể làm cho các thầy thuốc chuyên khoa gan mật 
yên tâm trong việc chỉ định can thiệp lấy sỏi tránh 
bớt nhầm lẫn hơn là chỉ dựa đơn thuần vào siêu 
âm bụng. Sự kết hợp siêu âm và cắt lớp vi tính làm 
tăng đáng kể độ nhạy trong chẩn đoán sỏi đường 
mật chính. Do đó CLVT xoắn ốc có thể được dùng 
như một phương pháp chẩn đoán ban đầu bổ xung 
cho siêu âm trong chẩn đoán sỏi đường mật chính 
vì giá thành có thể chấp nhận được của phương 
pháp này.. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Baron RL (1987), Common bile duct stones. 
Reassessement of criteria for CT diagnosis, Radiology, 
162, pp. 419. 
2. Pavone. P, Laghi. A, Lomanto. D, Fiocco. F, 
Panebianco. V et al (1997), MRC in the evaluation of 
CBD stones before laparoscopic cholecystectomie, Surg 
Endosc, 11, pp. 982-985. 
3. Yuji Itai, Tsutomu Araki, Shigeru Furui, Akira Tasaka, 
Yutaka Atomi (1980), Computed Tomography and 
Ultrasound in the diagnosis of intrahepatic calculi, 
Radiology, 136, pp 399-405. 
 53
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nhan_xet_gia_tri_chan_doan_cua_chup_cat_lop_vi_tinh_xoan_oc.pdf nhan_xet_gia_tri_chan_doan_cua_chup_cat_lop_vi_tinh_xoan_oc.pdf