Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 275
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP 
TẮC TĨNH MẠCH THẬN GHÉP XẢY RA MUỘN SAU GHÉP THẬN 
Hoàng Khắc Chuẩn*, Trần Anh Vũ*, Lý Hoài Tâm*, Nguyễn Duy Điền*, Thái Minh Sâm, 
Trịnh Vũ Nghĩa**, Phạm Minh Ánh** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Tắc tĩnh mạch thận ghép là một biến chứng ít gặp, hầu hết các trường hợp thường xảy ra vài 
tuần sau ghép, tuy nhiên đã có những báo cáo tắc mạch thận ghép xảy ra muộn vài năm sau ghép. Mất thận ghép 
là hậu quả thường gặp. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi báo cáo một trường hợp tắc tĩnh mạch thận ghép và 
tĩnh mạch chậu đùi khoeo chân phải xảy ra 8 tháng sau ghép. Bệnh nhân được điều trị thành công bằng phương 
pháp can thiệp nội mạch bơm thuốc tiêu sợi huyết. 
Kết quả: Bệnh nhân được can thiệp nội mạch phục hồi lưu thông tĩnh mạch thận ghép bằng thuốc tiêu sợi 
huyết tại chỗ qua ống thông đặt vào tĩnh mạch chậu đùi phải và tĩnh mạch thận ghép. Siêu âm vào hậu phẫu ngày 
thứ 5 ghi nhận: thận ghép tưới máu tốt, RI: 0,71, lưu lượng máu qua tĩnh mạch thận 25cm/s, crea/HT giảm từ 
4,3mg/dL lúc nhập viện xuống 1,43 mg/dL. 
Kết luận: Chẩn đoán sớm và can thiệp nội mạch bơm thuốc tiêu sợi huyết là phương pháp hiệu quả trong 
điều trị tắc tĩnh mạch thận ghép xảy ra muộn. 
Từ khóa: thuyên tắc tĩnh mạch thận ghép, ghép thận 
ABSTRACT 
LATE ALLOGRAFT RENAL VEIN THROMBOSIS: A CASE REPORT 
Hoang Khac Chuan, Tran Anh Vu, Ly Hoai Tam, Nguyen Duy Dien, Thai Minh Sam, 
Trinh Vu Nghia, Pham Minh Anh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 275 – 280 
Background: Allograft renal vein thrombosis is a rare phenomenon, most of cases occur in the first week, 
however some cases have been described many years after transplantation surgery. Allograft renal loss is the usual 
outcome. 
Methods: We describe a renal transplantation recipient with allograft renal vein thrombosis associated with 
deep venous thrombosis of right lower limb, 8 months after transplantation. He was successfully treated by 
percutaneous catheter directed thrombolysis. 
Result: The patient was treated with percutaneous catheter directly thrombolysis inside femoral iliac vein 
and renal allograft vein. Five days later, the doppler ultrasound was done and revealed complete re-
permeabilization of allograft renal vein, RI: 0.71, with maximal velocity of 25 cm/s, the serum creatinine was 
reduced from 4.3mg/dL to 1.43mg/dL. 
Conclusion: Early diagnosis and prompt endovascular treatment of the thrombosis might be able to promote 
total recovery of allograft renal function after late venous thrombosis. 
Keywords: allograft vein thrombosis, kidney transplantation 
* Khoa Ngoại Tiết Niệu, BV Chợ Rẫy **Khoa Phẫu thuât mạch máu, BV Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: BS Hoàng Khắc Chuẩn ĐT: 0913846817 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 276
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ghép thận là một trong các phương pháp 
điều trị thay thế thận được ưa chuộng cho bệnh 
nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối. Cho đến 
nay mặc dù sống còn của mảnh ghép được cải 
thiện rất nhiều trong những thập niên qua do 
các kỹ thuật ngoại khoa trong ghép thận đã 
được gần như hoàn thiện, thuốc ức chế miễn 
dịch có những bước cải tiến và đột phá mạnh 
mẽ, song các biến chứng sau ghép thận vẫn xảy 
ra, trong đó biến chứng về mạch máu là một 
trong những biến chứng nguy hiểm nhất có thể 
gây mất thận ghép. 
Tắc tĩnh mạch thận ghép hiếm gặp và hầu 
hết các trường hợp thường xảy ra sớm vài tuần 
sau ghép, tuy nhiên có một số trường hợp báo 
cáo tắc tĩnh mạch thận ghép xảy ra muộn vài 
năm sau ghép đã được báo cáo trên y văn và mất 
thận ghép là hậu quả thường gặp. Chúng tôi báo 
cáo một trường hợp tắc tĩnh mạch thận ghép và 
tĩnh mạch chậu đùi khoeo chân phải xảy ra 8 
tháng sau ghép thận và được điều trị thành công 
bằng phương pháp can thiệp nội mạch bơm 
thuốc tiêu sợi huyết. 
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG 
Bệnh nhân (BN): NGUYỄN SỸ N, nam, sinh 
năm 1983. 
Địa chỉ: Krông Năng, Đắc Lắc. 
Nhập viện: 27/6/2017. Số nhập viện: 
23170061836. 
Tháng 07/2014 bệnh nhân mệt mỏi ăn uống 
kém, đi khám bệnh được chẩn đoán bệnh thận 
mạn. Tháng 05/2015 bệnh nhân chẩn đoán bệnh 
thận mạn giai đoạn cuối và được chạy thận nhân 
tạo định kỳ bằng catheter tĩnh mạch đùi phải 6 
tuần, sau đó sử dụng tĩnh mạch đầu cẳng tay 
trái. Tháng 10/2016 bệnh nhân được ghép thận 
từ người hiến là em ruột, không tương hợp HLA 
1/6, PRA (-). Thận ghép được lấy từ bên trái có 1 
động mạch và 1 tĩnh mạch được nối ghép với 
động mạch và tĩnh mạch chậu ngoài. Mạch máu 
vùng chậu không ghi nhận bất thường. Cuộc mổ 
diễn tiến thuận lợi, thời gian thiếu máu nóng 5 
phút, thời gian thiếu máu lạnh 91 phút. Bệnh 
nhân có nước tiểu tại bàn, chức năng thận cải 
thiện tốt và xuất viện với creatinine huyết thanh 
(crea/HT) 1,3 mg/dL. Bệnh nhân được sử dụng 
thuốc ức chế miễn dịch dẫn nhập với Simulect 
và thuốc ức chế miễn dịch duy trì: Neoral, 
Cellcept và Prednisone. 
Bệnh nhân theo dõi sau ghép định kỳ với 
crea/HT 1,3-1,5 mg/dL. Siêu âm Doppler thận 
ghép tại thời điểm 1 tháng sau ghép thận 
(11/2016) không phát hiện bất thường. 
Cách nhập viện 2 ngày, bệnh nhân thấy phù 
nhẹ chân phải, nước tiểu giảm dần, thiểu niệu 
sau đó vô niệu vào tối 26/7/2017, kèm với đau 
vùng thận ghép, không tiểu máu, nên đã nhập 
viện (tại thời điểm 8 tháng sau ghép). 
Khám lúc nhập viện (27/6/2017): mạch 90 
l/phút, huyết áp 140/70 mmHg, nhiệt độ 370C. 
Phù mềm chân phải. Mạch mu chân (+). 
Thận ghép ở hố chậu phải, căng to, đau. 
Crea/HT: 4,3 mg/dL. 
Hồng cầu: 4,7 T/L, hemoglobin: 121 G/L, Hct 
39,3%; bạch cầu 14,1 x 109 G/l; tiểu cầu: 235 x 
109G/L; Fibrinogen: 2,9 g/L; APTT: 26,2 s; PT: 
12,6 s, INR: 1,14; Dimer: >10.000 ng/mL 
Các yếu tố đông máu: II: 93,3 (50-150); V: 
92,6 (50-150); VII: 122 (50-150); VIII: 114,2 (50-
150); IX: 199,2 (50-150); X: 101,4 (50-150); PAI-1: 
6,14 (0,3-3,5). 
Các yếu tố chống đông máu trong giới hạn 
bình thường: Protein C: 113,8 (70-135); Protein S: 
159,5 (62-145); Anti Thrombin: 142 (80-130). 
Các xét nghiệm miễn dịch học: kháng thể 
kháng nhân, ANCA, các kháng thể màng đáy 
cầu thận, kháng thể kháng phospholipid đều 
âm tính. 
CMV-PCR âm tính. 
Siêu âm Doppler ngày 27/6: 
Thận ghép nằm ở hố chậu phải kích thước: 
65 x 127 x 78 mm, tĩnh mạch thận ghép có huyết 
khối gần hoàn toàn, tăng kháng lực động mạch 
thận ghép RI: 0,71. 
Tĩnh mạch chậu-đùi sâu-khoeo chân phải 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 277
dãn to, đè không xẹp, có huyết khối. Tắc gần 
hoàn toàn hệ tĩnh mạch chậu-đùi-khoeo chân 
phải do huyết khối. 
Bệnh nhân được chẩn đoán: Suy thận cấp, 
tắc tĩnh mạch chậu chung, đùi sâu, khoeo chân 
phải. Tắc tĩnh mạch thận ghép/ ghép thận. 
Bệnh nhân được nhập viện cấp cứu và sử 
dụng Heparin bolus tĩnh mạch 5000 UI + 
Heparin 10.000 UI SE 5 mL/giờ. Bệnh nhân 
được chỉ định can thiệp đặt catheter tĩnh mạch 
chậu đùi khoeo phải và tĩnh mạch thận ghép. 
Dưới hướng dẫn của siêu âm chọc kim vào 
tĩnh mạch khoeo, chụp kiểm tra thấy tĩnh 
mạch chậu đùi khoeo phải tắc hoàn toàn, tĩnh 
mạch thận ghép tắc hoàn toàn. Bệnh nhân 
được đặt catheter bơm thuốc tiêu sợi huyết 
Urokinase 180.000 UI vào tĩnh mạch chậu đùi 
khoeo phải và tĩnh mạch thận ghép, hút ra 
nhiều huyết khối và được duy trì Urokinase 
liều 1.000 UI/kg/giờ và Heparin 600 UI/kg/24 
giờ. Trong mổ sử dụng 100 ml thuốc cản 
quang Xenetix. 
Ngay sau can thiệp bệnh nhân có nước tiểu 
trở lại, lượng nước tiểu dao động từ 100 – 150 
mL/giờ. 
Thời gian sử dụng Urokinase trong 60 giờ. 
Liều sử dụng 940 UI/kg/giờ. 
Biểu đồ 1: Sự thay đổi crea/HT theo diễn biến bệnh 
Bảng 1. Kết quả diễn tiến siêu âm Doppler thận ghép và tĩnh mạch chậu đùi khoeo phải 
Ngày Kích thước thận ghép (mm) Tĩnh mạchchậu đùi khoeo Tĩnh mạch thận ghép RI 
27/6 65 x 127 x 78 Tắc hoàn toàn Tắc hoàn toàn 0,74 
29/6 56 x 118 x60 
Tắc gần hoàn toàn hệ TM chậu đùi khoeo 
chân phải do huyết khối 
Hẹp 78% do huyết khối 0,61 
30/6 60 x 117 x 56 Bình thường Hẹp 50% tại miệng nối 0,63 
3/7 55 x 127 x 62 Bình thường Bình thường 0,54 
Bệnh nhân được xuất viện sau 6 ngày nằm 
viện với crea/HT 1,43 mg/dL và được sử dụng 
kháng đông rivaroxaban (Xarelto) 20 mg/ngày. 
Sau 9 tháng theo dõi, không xảy ra huyết khối và 
chảy máu, crea/HT của bệnh nhân vẫn ổn định 
1,4-1,6 mg/dL. Bệnh nhân vẫn duy trì thuốc 
chống đông máu dạng uống Xarelto 20 mg/ngày 
(Bảng 1, Biểu đồ 1). 
BÀN LUẬN 
Ghép thận làm tăng chất lượng cuộc sống và 
cải thiện sống còn của bệnh nhân bệnh thận mạn 
giai đoạn cuối. Tuy nhiên, chúng ta cần theo dõi 
sát bệnh nhân sau ghép thận do có thể xảy ra các 
biến chứng nội khoa và ngoại khoa, biến chứng 
sớm và muộn, trong đó, tắc tĩnh mạch thận ghép 
là một biến chứng hiếm gặp nhưng đáng sợ 
trong ghép thận vì thường dẫn tới mất thận 
ghép(12). Tắc tĩnh mạch thận ghép giai đoạn sớm 
trong vòng hai tuần đầu tiên sau khi mổ ghép 
thận với tỷ lệ 0,4-6%(12). Tắc tĩnh mạch thận ghép 
giai đoạn trễ sau ngày thứ mười bốn trong ngày 
phẫu thuật hiếm gặp hơn với tỷ lệ 0,5-4%(4). Tỉ lệ 
huyết khối tĩnh mạch sâu ở bệnh nhân ghép 
thận là 2,9/1000(5). Mặc dù biến chứng này có tỉ lệ 
rất thấp nhưng có thể xảy ra bất cứ lúc nào sau 
ghép thận, trong đó phổ biến nhất là trong tháng 
đầu tiên sau phẫu thuật với tần suất 80%, so 
sánh với tần suất trong năm đầu tiên là 93%(11). 
Tỷ lệ tắc tĩnh mạch thận ghép của chúng tôi 
2/675 trường hợp, một trường hợp xảy ra sớm 
Crea/HT (mg/dL) 
Thời gian (ngày) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 278
trong tuần đầu và một trường hợp xảy ra muộn 
sau mổ ghép thận 8 tháng. 
Bệnh nhân ghép thận có các nguy cơ bị 
huyết khối tắc mạch cao hơn, ngoài các yếu tố 
nguy cơ thông thường (đái tháo đường, béo phì, 
các biến cố huyết khối trước đây) còn có các 
yếu tố liên quan đến quá trình suy thận, ghép 
thận như: phẫu thuật, sử dụng thuốc ức chế 
miễn dịch, bệnh thận nguyên phát, phương 
pháp lọc máu trước đây (bệnh nhân thẩm phân 
phúc mạc có nguy cơ cao hơn bệnh nhân lọc 
máu), tình trạng đa hồng cầu và nhiễm trùng(3,11). 
Các nguyên nhân phổ biến nhất của huyết 
khối tĩnh mạch thận ghép giai đoạn sớm thường 
liên quan đến lỗi kỹ thuật: xoắn tĩnh mạch thận, 
hẹp miệng nối tĩnh mạch, giảm dòng chảy do 
giảm thể tích tuần hoàn và tình trạng tăng đông 
máu sau mổ(13). Tắc tĩnh mạch thận ghép giai 
đoạn muộn ít gặp hơn, có thể là kết quả của tình 
trạng tăng đông, bị chèn ép bên ngoài từ nang 
bạch mạch, nang giả niệu, máu tụ, khối u hay 
huyết khối tĩnh mạch chậu đùi sâu lan lên tĩnh 
mạch thận ghép(3). 
Số trường hợp báo cáo điều trị thành công 
tắc tĩnh mạch thận ghép được ghi nhận trong y 
văn rất ít(1). 
Melamed ML (2005) báo cáo hai trường hợp 
huyết khối tĩnh mạch thận trễ do bệnh cầu thận 
màng de novo xảy ra sau 5 và 26 tháng sau ghép 
thận. Siêu âm không phát hiện được tắc mạch do 
huyết khối mà chẩn đoán dựa trên hình ảnh của 
cộng hưởng từ. Cả hai trường hợp đều được 
điều trị bằng hút lấy huyết khối qua da và sử 
dụng thuốc tiêu sợi huyết. Chức năng thận sau 
can thiệp có cải thiện. Một bệnh nhân do đến trễ 
nên crea/HT tăng từ 1,9 mg/dL lên 3,5 mg/dL và 
chạy thận nhân tạo sau 1 năm(8). 
Jill A. Jones (2014) báo cáo 1 trường hợp phụ 
nữ 29 tuổi ghép thận- tụy đồng thời, tắc tĩnh 
mạch thận ghép sau mổ 8 tháng do tĩnh mạch 
thận bị chèn bởi 1 nang buồng trứng lớn bên 
phải. Ban đầu bệnh nhân được phẫu thuật lấy 
huyết khối, đặt stent và dùng kháng đông 
nhưng huyết khối được tái lập lại nên phải can 
thiệp phẫu thuật cắt1 thận ghép(4,6). 
Krishnaswamy SK (2014) báo cáo 1 trường 
hợp bệnh nhân nam, 55 tuổi, ghép thận lần thứ 2 
từ người hiến thận sống, lần ghép đầu mất thận 
ghép do thải ghép kháng steroid, diễn tiến cuộc 
mổ thuận lợi, sau 1 tuần bệnh nhân xuất viện với 
lượng nước tiểu 3,5 lít/24 giờ, crea/HT 0,9 
mg/dL. 4 tuần sau mổ, bệnh nhập viện vô niệu 
và phù chân trái, crea/HT 2,2 mg/dL, siêu âm 
cho thấy có huyết khối tĩnh mạch đùi, chậu 
ngoài trái và tĩnh mạch thận ghép. Bệnh nhân 
được điều trị thành công bằng sử dụng thuốc 
tiêu sợi huyết tại chỗ với streptokinase (250.000 
IU liều tải và liều duy trì 100.000 IU / giờ trong 
12 giờ). Chụp tĩnh mạch sau 12 giờ, thấy còn tắc 
một phần tĩnh mạch thận ghép, tiếp tục điều trị 
thuốc tiêu sợi huyết tại chỗ trong 6 giờ tiếp theo 
sau đó thấy không còn huyết khối tĩnh mạch 
thận. Lượng nước tiểu và creatinine huyết thanh 
cải thiện dần. Bệnh nhân được bắt đầu sử dụng 
thuốc kháng đông uống và aspirin. Crea/HT lúc 
xuất viện 0,8 mg/dL và không phát hiện được 
các bất thường về rối loạn tăng đông(7). 
Ferreira 2016, báo cáo 1 trường hợp tắc tĩnh 
mạch thận ghép xảy ra sau 9 năm do huyết khối 
tĩnh mạch sâu. Bệnh nhân nhập viện với crea/HT 
3,4 mg/dL, vô niệu được chạy thận nhân tạo và 
sử dụng heparine liều kháng đông. Sau 5 ngày 
bệnh nhân có nước tiểu và chức năng thận hồi 
phục dần, crea/HT 2,65 mg/dL và tiếp tục được 
sử dụng warfarin. Sau 30 tháng theo dõi không 
có biến chứng huyết khối và chảy máu, crea/HT 
trong khoảng 1,6 – 1,8 mg/dL. Đây là một trường 
hợp tắc mạch thận rất hiếm gặp và được can 
thiệp thành công. Không có yếu tố nguy cơ nào 
được tìm thấy trên bệnh nhân này(2). 
Chẩn đoán sớm luôn là chìa khóa để giảm 
tình trạng rối loạn chức năng thận và mất thận 
ghép. Triệu chứng lâm sàng điển hình của tắc 
tĩnh mạch thận ghép bao gồm: tiểu máu, thiểu 
niệu rồi vô niệu, đau vùng thận ghép, phù chi 
dưới cùng bên thận ghép và suy thận cấp(1). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 279
Bệnh nhân của chúng tôi có gần đủ các triệu 
chứng này ngoại trừ tiểu máu. 
Mặc dù chụp mạch máu có thuốc cản quang 
là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán tắc mạch máu, 
nhưng các kỹ thuật này xâm lấn và có độc tính 
trên thận. Hầu hết các trường hợp có thể phát 
hiện tắc mạch thận ghép trên siêu âm. Siêu âm 
thường là xét nghiệm thường được sử dụng 
trong đánh giá rối loạn chức năng ghép thận vì 
có thể cho biết đồng thời cả bất thường mạch 
máu cũng như biến chứng nhu mô thận và 
đường tiết niệu. Tắc tĩnh mạch thận ghép có thể 
thấy hình ảnh trên siêu âm thận ghép tăng kích 
thước, phù nề, mất phân biệt giới hạn vỏ - tuỷ, tụ 
dịch quanh thận ghép, hình ảnh giãn tĩnh mạch 
thận và có cấu trúc echo kém trong lòng mạch. 
Siêu âm Doppler không có dòng chảy tĩnh mạch 
và đảo ngược dòng chảy tâm trương ở động 
mạch. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ mạch máu 
không có độc tính trên thận và độ nhạy cao hơn 
siêu âm(2,8). 
Điều trị tắc tĩnh mạch thận ghép nhằm duy 
trì chức năng thận ghép bao gồm phẫu thuật 
và sử dụng thuốc chống đông. Tiên lượng của 
những bệnh nhân tắc tĩnh mạch thận ghép 
thường xấu vì nguy cơ mất thận ghép rất cao(2). 
Hầu hết các trường hợp tắc tĩnh mạch thận 
ghép giai đoạn sớm sau mổ thường được điều 
trị bằng phẫu thuật lấy huyết khối và điều 
chỉnh các biến chứng do lỗi kỹ thuật. Tuy 
nhiên, tắc tĩnh mạch thận ghép trong giai đoạn 
muộn, tỷ lệ điều trị thành công bảo tồn chức 
năng thận ghép thường thấp. Sử dụng thuốc 
tiêu sợi huyết thường được lựa chọn để điều 
trị trong giai đoạn tắc tĩnh mạch thận ghép xảy 
ra trong giai đoạn muộn(7). Can thiệp nội mạch 
qua da và/hoặc sử dụng thuốc tiêu sợi huyết 
tại chỗ với yếu tố hoạt hóa plasminogen 
(streptokinase, urokinase,) có thể có ích 
trong trường hợp huyết khối tĩnh mạch thận 
cấp hoặc huyết khối tĩnh mạch thận một phần 
với mục tiêu tái lập lưu thông lại mạch máu và 
bảo tồn thận ghép. Phẫu thuật lấy huyết khối 
tái lập lưu thông tĩnh mạch thường thất bại. 
Phẫu thuật thám sát và cắt thận ghép là cách 
điều trị phổ biến nhất đối với phần lớn các 
trường hợp chủ yếu để tránh vỡ thận và tử 
vong(9). 
Bệnh nhân của chúng tôi có tắc tĩnh mạch 
thận ghép 8 tháng sau ghép thận, được can thiệp 
nội mạch và sử dụng thuốc tiêu sợi huyết thành 
công. Trên bệnh nhân này chúng tôi chưa tìm 
được yếu tố nào thực sự gây tình trạng huyết 
khối tĩnh mạch thận ghép ngoại trừ bệnh nhân 
có tiền căn sử dụng tĩnh mạch chậu ngoài bên 
phải để chạy thận nhân tạo trong 6 tuần, tuy 
nhiên khi phẫu thuật ghép thận không ghi nhận 
bất thường của tĩnh mạch chậu. Chúng tôi đã 
tầm soát các yếu tố đông máu, yếu tố chống 
đông máu, chỉ ghi nhận tăng PAI-1, gợi ý tình 
trạng tăng đông trong khi các xét nghiệm còn lại 
bình thường. Chúng tôi tiếp tục các xét nghiệm 
miễn dịch của các bệnh lý tự miễn nhằm xác 
định gây tăng đông huyết khối nhưng vẫn chưa 
xác định được nguyên nhân huyết khối. Trong 
trường hợp này chúng tôi chưa xét nghiệm đột 
biến gen yếu tố V Leiden và đột biến gen 
prothrombin. 
Để dự phòng huyết khối trên bệnh nhân có 
tắc mạch máu thận ghép, Claudio Ponticelli đã 
đưa ra chiến lược dự phòng dựa vào có hay 
không có tiền sử hay các yếu tố nguy cơ liên 
quan huyết khối, hoặc tắc tĩnh mạch sâu hay 
thuyên tắc phổi. Nếu có tiền sử hay các yếu tố 
nguy cơ liên quan huyết khối nên tầm soát tình 
trạng tăng đông bao gồm: kháng thể kháng 
phospholipid, thiếu hụt protein C, protein S, yếu 
tố V Leiden, đột biến gen Prothrombin G20210A, 
thiếu hụt antithrombin(10). 
KẾT LUẬN 
Tắc tĩnh mạch thận ghép xảy ra muộn là biến 
chứng rất hiếm gặp sau ghép nhưng thường 
nghiêm trọng và dẫn đến mất thận ghép. Vấn đề 
sống còn là làm sao để chẩn đoán sớm và có 
hướng điều trị kịp thời có thể cứu và duy trì 
chức năng thận ghép. Can thiệp nội mạch, sử 
dụng thuốc tiêu sợi huyết là phương pháp hiệu 
quả trong điều trị tắc tĩnh mạch thận ghép xảy ra 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 280
muộn. Bên cạnh đó, cần tầm soát và ghi nhận các 
yếu tố nguy cơ để dự phòng huyết khối. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abbott KC, Cruess DF, Agodoa LY, et al (2014). Early renal 
insufficiency and late venous thromboembolism after renal 
transplantation in the United States. Am J Kidney Dis; 43:120-130. 
2. Ferreira C et al (2016). Late Allograft Renal Vein Thrombosis 
Treated With Anticoagulation Alone: A Case Report. Transplant 
Proc, 48:3095-3098. 
3. Giustacchini P, Pisanti F, Citterio F, et al (2002). Renal vein 
thrombosis after renal transplantation: an important cause of 
graft loss. Transplant Proc, 34:2126-2127. 
4. Hogan JL, Rosenthal SJ, Yarlagadda SG, Jones JA et al (2015). 
Late-onset renal vein thrombosis: A case report and review of 
the literature. International Journal of Surgery Case Reports, 6:73–
76. 
5. Humar A, Key N, Ramcharan T, et al (2001). Kidney 
retransplants after initial graft loss to vascular thrombosis. Clin 
Transplant, 15:6-10. 
6. Jones JA, Rosenthal SJ (2014). Late Onset of Renal Vein 
Thrombosis After Renal Transplantation. Ultrasound Quarterl; 
30(3):228-229. 
7. Krishnaswamy SK, et al (2014). Successful thrombolysis of renal 
allograft venous thrombosis – A case report. Indian J Transplant, 
8(2):57-59. 
8. Melamed ML, et al (2005). Combined percutaneous mechanical 
and chemical thrombectomy for renal vein thrombosis in 
kidney transplant recipients. Am J Transplant, 5(3):621-626. 
9. Pillot P, Bardonnaud N, Lillaz J, et al (2012). Risk factors for 
surgical complications after renal transplantation and impact on 
patient and graft survival. Transplant Proc, 44:2803 -2808. 
10. Ponticelli C, Moia M, Montagnino G (2009). Renal allograft 
thrombosis. Nephrology Dial Transplant, 24:1388–1393. 
11. Ramirez PJ, Gohh RY, Kestin A, et al (2002). Renal allograft loss 
due to proximal extension of ileo femoral deep venous 
thrombosis. Clin Transplant, 16:310-313. 
12. Ripert T, et al (2009). Preventing graft thrombosis after renal 
transplantation: a multi center survey of clinical practice. 
Transplant Proc, 41(10):4193–4196. 
13. Schwieger J, Reiss R, Cohen JL, et al (1993). Acute renal allograft 
dysfunction in the setting of deep venous thrombosis: a case of 
successful urokinase thrombolysis and a review of the literature. 
Am J Kidney Dis; 22:345-350. 
Ngày nhận bài báo: 01/04/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019