Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 265
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP SỬ DỤNG MESH SÁU NHÁNH 
ĐỂ ĐIỀU TRỊ SA BÀNG QUANG, SA TỬ CUNG VÀ TIỂU KHÔNG TỰ CHỦ 
Phạm Huy Vũ*, Nguyễn Văn Ân*, Đậu Trường Toàn** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Áp dụng phẫu thuật qua ngả âm đạo với mesh prolene 6 nhánh cho trường hợp vừa sa bàng 
quang vừa sa tử cung mức độ nặng 
Đối tượng và phương pháp: Đây là báo cáo trường hợp lâm sàng. Bệnh nhân nữ, 69 tuổi, bị sa tạng chậu 
nặng độ III, chủ yếu là sa thành trước và sa vùng đỉnh âm đạo, khiến bệnh nhân khó chịu, kèm theo có tiểu không 
tự chủ do áp lực. BN nằm thế phụ khoa, được rạch mở 1 đường ở thành trước âm đạo, rồi dùng các loại kim 
chuyên dụng xuyên thích 6 vị trí để đặt mesh 6 nhánh, vừa để nâng đỡ bàng quang, vừa để nâng đỡ tử cung. 
Kết quả: Cuộc mổ kéo dài ~ 60 phút. Lượng máu mất ~ 100 mL. Thông tiểu được rút sau 2 ngày, rồi cho 
BN xuất viện. Theo dõi sau mổ 1 tháng: tình trạng sa tạng chậu hầu như được giải quyết triệt để, cả sa bàng 
quang, sa tử cung và tiểu không tự chủ. 
Kết luận: Sử dụng mesh prolene 6 nhánh cùng với các kim chuyên dụng để xuyên thích qua một đường 
rạch ngả trước âm đạo, cho phép sửa chữa cả sa khoang trước và khoang giữa của sa tạng chậu. Phương pháp 
này giúp cho phẫu thuật viên niệu phụ khoa thao tác dễ dàng hơn mà vẫn đem lại kết quả tốt và an toàn. 
Từ khóa: sa tạng chậu, mesh âm đạo 6 nhánh 
ABSTRACT 
APPLICATION SIX ARMS VAGINAL MESH FOR TREATMENT OF SEVERE ANTERIOR AND 
APICAL UROGENITAL PROLAPSES - OUR INITIAL EXPERIENCE 
Pham Huy Vu, Nguyen Van An, Dau Truong Toan 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 265 - 269 
Objective: We report a transvaginal surgery using 6 arms mesh for treatment of a women with severe 
anterior and apical urogenital prolapse. 
Methods: A woman, 69 years old, suffered from cystocele and hysterocele grade III combined with stress 
urinary incontinence. She was operated to repair these defects, using 6 arms prolene mesh with special needles 
through a single anterior vaginal incision. 
Results: The operation time was ~ 60 minutes. Blood lost was ~ 100 mL. Post-op day 2: removed urines 
catheter and discharged. Following up after 1 month: her complaints have been cured, not only urogenital 
prolapse but also urinary incontinence. 
Conclusion: Application of 6 arms prolene mesh with special needles through a single anterior vaginal 
incision allows concomitant correction of anterior and apical prolapses. This procedure can help urogynecologists 
more advantage but effective and safe. 
Key words: pelvic organs prolapse; 6 arms vaginal mesh 
*Khoa Niệu học chức năng, BV Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
**Bộ môn Niệu, Khoa Y, ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS.TS Nguyễn Văn Ân ĐT: 0908163284 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Thận – Niệu 266
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo trào lưu của thế giới, từ hơn 15 năm 
qua, việc sử dụng mesh để nâng đỡ các bệnh lý 
sa tạng chậu đã bắt đầu được áp dụng ở trong 
nước. Khởi đầu là việc sử dụng các loại mesh 2 
nhánh để điều trị tiểu không tự chủ do áp lực 
với các phẫu thuật TVT và TOT(4,6,7,9,11). Sau đó, 
mesh 4 nhánh được áp dụng để điêu trị sa bàng 
quang(3,8). Các báo cáo trên đây đều ghi nhận 
hiệu quả điều trị rất tốt, ít bị biến chứng. 
Trong quá trình phẫu thuật, chúng tôi đã 
gặp một số trường hợp vừa sa bàng quang nhiều 
(độ III, IV), vừa sa tử cung ít (độ I, II). Cho rằng 
mức độ sa tử cung không đáng kể và chưa có chỉ 
định mổ, nên chúng tôi chỉ dung mesh 4 nhánh 
để sửa chữa sa bàng quang. Về sau một số bệnh 
nhân tái khám và phát hiện sa tử cung nặng hơn 
(~ độ III), mặc dù tình trạng sa bàng quang vẫn 
ổn (độ I, II). Chúng tôi đã phải phẫu thuật nội soi 
treo âm đạo vào mỏm nhô để điều trị những 
bệnh nhân này. Sau đó, chúng tôi có hướng giải 
quyết khác cho những bệnh nhân vừa sa bàng 
quang, vừa sa tử cung, bằng cách dung lưới 4 
nhánh nâng đỡ dưới bàng quang, đồng thời 
khâu cố định cổ tử cung vào dây chằng cùng 
gai(10). Kết quả điều trị của biện pháp này cũng 
rất khả quan, nhưng trong khi phẫu thuật, 
chúng tôi nhận thấy việc bộc lộ dây chằng cùng 
gai và khâu mũi các chỉ prolene nhằm cố định 
với cổ tử cung khá khó khăn. 
Theo dõi y văn nước ngoài, chúng tôi nhận 
thấy đã có nhiều sáng kiến dùng dụng cụ để 
giúp cho việc khâu cố định vào dây chằng cùng 
gai dễ dàng hơn. Một trong những biện pháp đó 
là dung mesh 6 nhánh, với 4 nhánh trước sử 
dụng để nâng đỡ bàng quang, còn 2 nhánh sau 
sử dụng để xuyên qua dây chằng cùng gai 2 bên 
để cố định cổ tử cung – tất cả 6 nhánh đều dung 
kim chuyên dụng để xuyên thích. 
Đầu tháng 2/2019, bác sĩ E. Delorme(2) đến 
TP. Hồ Chí Minh mở 2 cuộc hội thảo tại BV Từ 
Dũ và BV Bình Dân để giới thiệu phương pháp 
đặt mesh 6 nhánh qua ngả âm đạo. Y văn ghi 
nhận, Mourtialon & Delorme là 2 tác giả có báo 
cáo đầu tiên về phương pháp này năm 2009(10). 
Chúng tôi đã áp dụng thành công phương pháp 
dung mesh 6 nhánh để điều trị cho 1 trường hợp 
sa bàng quang và sa tử cung độ III, có kèm tiểu 
không tự chủ do áp lực. Bài viết này nhằm trình 
bày một số kinh nghiệm ban đầu của chúng tôi 
về phương pháp phẫu thuật này. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Bệnh nhân nữ, 69 tuổi, đến khám bệnh tại 
bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 
tháng 3/2019. Bà cụ than phiền phát hiện khối 
sa qua âm đạo từ 3 năm nay, nhưng vài tháng 
nay sa nhiều làm cho khó chịu nhiều trong 
sinh hoạt, kèm theo són tiểu khi ho, không bị 
rối loạn đi cầu. 
Tiền căn: PARA 3013, sinh 3 lần ngả tự 
nhiên. Mổ cắt u nang buồng trứng năm 2014. 
Khám lâm sàng chúng tôi ghi nhận có tăng 
động niệu đạo, sa bàng quang độ III, sa tử cung 
độ III, sa nhẹ thành sau âm đạo. Test ho (+), test 
Bonney (+) (Hình 1). 
Hình 1. Hình ảnh sa bàng quang và sa tử cung 
Khám phụ khoa ghi nhận có viêm cổ tử cung 
và không xử trí. 
MRI bụng chậu ghi nhận mức độ sa tạng 
chậu nhẹ hơn: mức độ II (không phù hợp với 
lâm sàng). 
Đo áp lực bàng quang cho kết quả bình 
thường. 
Bênh nhân được chỉ định mổ để sửa chữa sa 
tạng chậu. Do có vết mổ cũ nên chúng tôi ngại 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 267
ngả nội soi ổ bụng và quyết định phẫu thuật qua 
ngả âm đạo. 
Vật liệu được sử dụng là mesh prolene 6 
nhánh trọng lượng nhẹ của hãng Abiss (Pháp) 
(Hình 2). 
Hình 2. Mesh 6 nhánh 
Bệnh nhân được tê tủy, nằm thế phụ khoa. 
Tiêm nước cất pha adrenaline tráng ống để bóc 
tách thành trước âm đạo. Rạch dọc thành trước 
âm đạo từ cách miệng niệu đạo ~ 3cm đến cách 
cổ tử cung ~ 2cm. Sau đó bóc tách thành âm đạo 
qua 2 bên về phía ngành ngồi mu. Bộc lộ khoang 
cạnh bàng quang để tiếp cận dây chằng cùng gai 
2 bên với điểm mốc là mỏm gai. 
Dùng các kim chuyên dụng xuyên thích để 
đặt 6 nhánh của mesh prolene (Hình 3A, B, C), 
lần lượt: 
Xuyên thích đặt 2 nhánh trước qua 2 bên 
cổ bàng quang ra sau xương mu, lên thành 
bụng trước trên xương mu (tương tự phương 
pháp TVT). 
Xuyên thích đặt 2 nhánh giữa qua 2 bên lỗ 
bịt qua góc trước dưới của lỗ bịt, ra da vùng tầng 
sinh môn gần 2 ụ ngồi (tương tự cách đặt 2 
nhánh sau của mesh 4 nhánh trong điều trị sa 
bàng quang). 
Xuyên thích đặt 2 nhánh sau qua dây chằng 
cùng gai 2 bên, cách mỏm gai ~ 2cm, ra da vùng 
tầng sinh môn cạnh 2 bên hậu môn (tương tự 
nguyên tắc của Mourtialon và Delorme). 
A B C 
Hình 3: A: Đặt 2 nhánh trước B: Đặt 2 nhánh giữa C: Đặt đủ 6 nhánh 
Soi bàng quang kiểm tra không ghi nhận tổn 
thương bàng quang khi xuyên kim. 
Thân mesh được khâu cố định với 2 bên cổ 
bàng quang ở phía trước và với cổ tử cung ở 
phía sau. Sau khi kéo 6 nhánh của mesh cho vừa 
đủ căng để nâng đỡ bàng quang và tử cung, 
thành trước âm đạo được khâu lại bằng chỉ 
vicryl 2.0. Khâu da bẹn và tầng sinh môn bằng 
nylon 3.0. Lưu thông tiểu bằng foley 16F. Nhét 
gạc âm đạo hỗ trợ cầm máu hốc chậu sau mổ 
(Hình 4). 
Hình 4. Điều chỉnh độ căng các nhánh mesh và 
khâu lại thành trước âm đạo 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Thận – Niệu 268
KẾT QUẢ 
Thời gian phẫu thuật ~ 60 phút. 
Lượng máu mất ~ 100 mL (đánh giá mức độ 
thấm máu gạc) 
Không gặp tai biến trong mổ. 
Gạc âm đạo được rút ngày hôm sau. 
Ngày hậu phẫu 2: bệnh nhân được rút thông 
tiểu và cho xuất viện. 
Chỉ khâu da được cắt ngày hậu phẫu 7 tại y 
tế địa phương. 
Bệnh nhân tái khám sau 1 tháng: 
Seo mổ lành tốt, 
Không đau hạ vị hay tầng sinh môn, 
Hết bị són tiểu khi ho, 
Khám âm đạo ghi nhận hầu như hết sa bàng 
quang và sa tử cung (sa nhẹ độ 1), 
Người bệnh hài lòng về kết quả phẫu thuật. 
BÀN LUẬN 
Về sự thuận lợi khi thao tác 
Chúng tôi đã từng thực hiện việc phẫu thuật 
cho một số bệnh nhân vừa sa bàng quang, vừa 
sa tử cung qua ngả âm đạo. Sau khi đặt mesh 4 
nhánh nâng đỡ sa bàng quang qua đường rạch 
mở thành trước âm đạo, chúng tôi đã tiếp tục 
rạch mở thành sau âm đạo để khâu cố định cổ tử 
cung vào dây chằng cùng gai một bên phải với 2 
mũi khâu chỉ prolene 1.0. Việc thực hiện 2 mũi 
khâu nêu trên khá khó khăn vả khi phải bộc lộ 
một khoảng đủ rộng để khâu vào dây chằng 
cùng gai khá sâu. 
Khi sử dụng kim xuyên thích để đặt 2 nhánh 
sau của mesh prolene theo phương pháp của 
nhóm Delorme(5,6), chúng tôi thấy những ưu 
điểm sau: 
Thao thác thực hiện dễ dàng hơn nhiều, 
không cần phải bộc lộ quá rộng để thấy rõ dây 
chằng mới khâu được. 
Khâu được cả dây chằng cùng gai 2 bên. 
Chỉ cần một đường rạch mở thành trước 
âm đạo. 
Chúng tôi có vài khác biệt so với phương 
pháp được trình bày bởi Mourtialon & Delorme 
2 nhánh trước chúng tôi hướng lên xương 
mu kiểu TVT, thay vì xuyên qua lỗ bịt trước trên 
2 bên kiểu TOT (Hình 5). 
Hình 5. 2 nhánh trước xuyên qua lỗ bịt (ATO) và 2 
nhánh giữa cũng xuyên qua lỗ bịt (PTO)(*) 
Hình 6. 2 nhánh trước xuyên ra sau xương mu 
lên thành bụng trước trên xương mu kiểu TVT(*) 
Thực ra, cũng đã có tác giả khác như báo cáo 
của de Toledo & cs (2017)(1) áp dụng xuyên thích 
2 nhánh trước kiểu TVT như chúng tôi (Hình 6). 
Sở dĩ chúng tôi chọn cách xuyên thích 2 
nhánh trước kiểu TVT vì muốn điều trị tình 
trạng tiểu không tự chủ do áp lực, và kết quả 
này đem lại hiệu quả tốt vì bệnh nhân đã hết 
són tiểu. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 269
KẾT LUẬN 
Áp dụng mesh prolene 6 nhánh để điều trị 
sa niệu dục khoang trước và khoang giữa, chúng 
tôi đã điều trị thành công cho một bệnh nhân bị 
sa bàng quang và sa tử cung độ III, có kèm tiểu 
không tự chủ do áp lực. Chúng tôi nhận định 
phương pháp của Mourtialon & Delorme có 
nhiều ưu điểm vì dễ thực hiện, khâu được cả 2 
bên dây chằng cùng gai, và với chỉ một đường 
rạch ở thành trước âm đạo. 
Chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện kỹ thuật 
này trên nhiều bệnh nhân khác, và cần thời 
gian theo dõi lâu dài hơn, để rút ra nhiều kinh 
nghiệm hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. de Toledo LGM, Costa-Matos A, Hwang SM, et al (2017). 
Anterior six arms prolene mesh for high stage vaginal prolapse: 
five years follow-up. Int Braz J Urol, 43: 525-32. 
2. Guyomard A, Delorme E (2016). Transvaginal treatment of 
anterior or central urogenital prolapse using six tension-free 
straps and light mesh. Int J Gyn & Obstet, 133:365–369. 
3. Kdous M, Zhioua F (2014). 3-year results of transvaginal 
cystocele repair with transobturator four-arm mesh: A 
prospective study of 105 patients. Arab J Urol,12:275–284. 
4. Le Si Trung (2012). Điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở 
phụ nữ bằng phương pháp Trans-Obsturator-Tape (T.O.T): 
Kinh nghiệm 15 trường hợp đầu tiên. Y học TP. Hồ Chí Minh, 
16(3):249-25. 
5. Mourtialon P, Delorme E (2009). Trans-Sacrospinous in/out 
Tension-Free Passage: Treatment of Cystocele and Uterus or 
Vault Prolapse Using a 6 Arms Mesh. J Min Inv Gyn, 16(6):S150. 
6. Nguyen Ngoc Tien, Nguyen T Vinh (2008). Điều trị tiểu không 
kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ bằng phương pháp ít xâm lấn: 
miếng nâng đỡ dưới niệu đạo TOT và TVT, kết quả ban đầu tại 
bệnh viện FV TP. Hồ Chí Minh. Y học TP. Hồ Chí Minh, 
12(1):335-341. 
7. Nguyen Van An (2004). Nhân 6 trường hợp áp dụng kỹ thuật 
băng treo lỏng âm đạo TVT (Tension-free Vaginal Tape) để điều 
trị tiểu không kiểm soát gắng sức ở phụ nữ. Y học TP. Hồ Chí 
Minh, 8(1):285-288 
8. Nguyen Van An, et al (2011). Điều trị sa bàng quang mức độ 
nặng bằng mảnh ghép dưới bàng quang xuyên lỗ bịt. Tạp chí Y 
học thực hành, 718+719:364-369. 
9. Nguyen Van An, NT Vinh, BV Kiet, VTT Phong (2012). Kết quả 
trung hạn điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ 
bằng phẫu thuật TOT. Y học TP. Hồ Chí Minh, 16(3):233-238. 
10. Nguyen Van An, Pham H Đoan, HĐP Mai (2016). Bước đầu đánh 
giá kết quả phẫu thuật cố định âm đạo vào dây chằng cùng gai trong 
điều trị sa tử cung độ 2 – 3. Báo cáo hội nghị Sàn chậu học TP. Hồ 
Chí Minh lần thứ 11, 12/2016. 
11. Nguyen Vu Khai Ca, Hoang Long, Nguyen Hoai Bac & cs 
(2012). Kết quả lâm sàng và niệu động học của phẫu thuật đặt 
đai niệu đạo qua lỗ bịt điều trị đái rỉ khi gắng sức ở phụ nữ tại 
bệnh viện Việt Đức. Y học TP. Hồ Chí Minh, 16(3):156-159. 
Ngày nhận bài báo: 01/04/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019