Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 468
NHÂN 8 TRƯỜNG HỢP PHẪU THUẬT CẮT MỘT PHẦN THẬN 
QUA NGÃ NỘI SOI TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ BƯỚU THẬN 
GIAI ĐOẠN T1b TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN 
Phạm Phú Phát*, Trang Võ Anh Vinh*, Đinh Quốc Đạt* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Cắt một phần thận qua ngã nội soi là can thiệp ít xâm hại đang phát triển trong giai đoạn hiện 
nay. Chúng tôi mô tả quá trình thực hiện cắt một phần thận nội soi qua ngã sau phúc mạc có khống chế mạch 
máu thận tại Bệnh viện Bình Dân. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt trường hợp, chúng tôi đã thực hiện phẫu phuật cắt 
một phần thận qua ngã nội soi sau phúc mạc cho 8 bệnh nhân có kích thước bướu từ 4-7cm. Số lượng trocar sử 
dụng là từ 3 đến 4 cái. Động mạch thận được khống chế bởi dây thun. Bướu được cắt ra khỏi thận bằng kéo lạnh. 
Đài bể thận được khâu lại bằng Vicryl 3-0 hoặc 4-0 khi có gây thương tổn và chủ mô thận được khâu lại bằng 
Vicryl1-0, có sử dụng gối độn Surgicel bên dưới nếu chủ mô thận bị khiếm khuyết lớn. Toàn bộ các đường khâu 
được chốt lại bằng kẹp kim loại và Hem-O-lock. 
Kết quả: Kích thước trung bình của bướu 48,9 ± 6,8mm (42mm-60mm). Thời gian mổ và thời gian thiếu 
máu nóng lần lượt là 181 ± 49 phút (120 phút – 255 phút) và 27,7 ± 9,6 phút (20 phút – 45 phút). Lượng máu 
mất trung bình là 100ml (10ml – 500ml). Có 8 (100%) bệnh nhân được khâu lại đài bể thận do có xâm phạm 
trong quá trình cắt bướu. Không bệnh nhân nào cần phải truyền máu. 1 trường hợp mổ hở với lý do chảy máu. 
Kết luận: Tại các nước phát triển, phẫu thuật cắt một phần thận qua ngã nội soi được áp dụng ngày càng 
nhiều và dần thay thế mổ hở trong điều trị bướu thận nhỏ. Phẫu thuật cắt một phần thận qua ngả nội soi là một 
lựa chọn khả thi cho khối bướu thận cT1b. Để đạt được kết quả tốt về bảo tồn chức năng thận và ung thư với các 
biến chứng ngoại khoa tối thiểu, cần có một bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm với trợ lý được đào tạo tốt. Trong 
điều kiện hiện nay tại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy có thể thực hiện kỹ thuật này tương đối an toàn đối với 
phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nội soi. 
Từ khóa: Cắt một phần thận, bướu thận giai đoạn T1b. 
ABSTRACT 
A REPORT WITH 8 CASES: LAPAROSCOPIC PARTIAL NEPHRECTOMY FOR RENAL TUMOR 
T1b IN BINH DAN HOSPITAL 
Pham Phu Phat, Trang Vo Anh Vinh, Dinh Quoc Dat 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 468 - 473 
Objective: Laparoscopic partial nephrectomy is an emerging minimally invasive, nephron sparing approach 
for renal tumor. We describe our technique of single center with purely retroperitoneal laparoscopic partial 
nephrectomy with controling of renal vessel in Binh Dan Hospital. 
Material and technique: A report case series, the retroperitoneal approache for laparoscopic partial 
nephrectomy has been performed in 8 patients with size tumor: 4-7mm. This procedure was realized by 3 or 4 
ports. The renal artery was controlled by the elastic string. The tumor was removed by the cold cisor. The 
collecting system was closed by Vicryl 3-0 or 4-0, and renal parenchyma was closed by Vicryl 1-0 over Surgicel 
* Bệnh viện Bình Dân. 
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Phú Phát ĐT: 0913903232 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 469
bolster for large defects. All sutures were locked by clip and Hem-O-Lock. 
Results: Mean tumor size was 48,9 ± 6,8mm (range: 42mm to 60mm). The mean operating time and warm 
ischemia time was 181 ± 49 min (range: 120min to 255min) and 27,7 ± 9,6 min (range: 20min to 45min). The 
median estimated blood loss was 100ml (range: 10ml to 500ml). The pelvicaliceal system was entered and repaired 
in 8 patients (100%). Transfusion was required in 0 patients. 1 case was convert cause hemorragie. 
Conclusion: Laparoscopic partial nephrectomy, in the developped country, is an attractive alternative to 
open partial nephrectomy for traitment of small renal tumor. Laparoscopic partial nephrectomy is aviable option 
for performing minimally invasive surgical extirpation of cT1b renal masses. In order to achieve excellent 
functional and oncologic outcomes with minimal perioperative complications an experienced surgeon with 
assistant are important. In Viet Nam condition, this technique is feasible and safety by the hands of experienced 
laparoscopic surgeon. 
Key works: Laparoscopic partial nephrectomy, cT1b renal masses. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật cắt một phần thận được Cremyz 
mô tả lần đầu tiên vào năm 1890. Sau đó, do gây 
ra quá nhiều tỷ lệ thương tật nên phẫu thuật này 
đã bị hạn chế. Đến năm 1950, Vermooten đưa ra 
đề nghị áp dụng phẫu thuật này cho các bướu 
nằm phía ngoại vi thận và còn khu trú trong vỏ 
bọc với mặt cắt bướu chứa mô lành cho kết quả 
khả quan hơn(1). Và nhờ vào phát triển của hình 
ảnh học, kỹ thuật mổ, các dụng cụ khống chế 
mạch máu. Phẫu thuật cắt một phần thận dần 
dần được chỉ định rộng rãi(12). 
Cắt một phần thận qua ngả nội soi, hiện nay 
được xem như là xu hướng mới tại các nước 
phát triển đối với bệnh lý ung thư tế bào thận 
giai đoạn sớm(3,11). Các kết quả của phương pháp 
này qua theo dõi lâu dài 5-10 năm về phương 
diện ung thư học đã cho thấy tương đương với 
cắt thận tận gốc và có lợi thế hơn cắt một phần 
thận qua ngả mổ hở do ít gây thương tật, khả 
năng hồi phục của người bệnh sớm hơn...(8,10). 
Trên thế giới, cắt một phần thận qua ngả nội 
soi đã được chỉ định rộng rãi tại các trung tâm 
lớn, đặc biệt là ở những bướu thận có kích thước 
< 4cm giai đoạn T1a, do đã có những nghiên cứu 
theo dõi trong thời gian dài. Với sự hỗ trợ của 
các phương tiện nội soi hiện đại, đã tiến hành 
nhiều nghiên cứu chứng minh tính hiệu quả và 
an toàn của phẫu thuật này trong bướu thận giai 
đoạn T1b(2,5,6). 
Tại Việt Nam, theo hướng dẫn của VUNA 
(2013), phẫu thuật cắt một phần thận được lựa 
chọn thường quy cho những trường hợp ung 
thư tế bào thận T1a và xem xét chỉ định trong 
trường hợp T1b. 
Tại bệnh viện Bình Dân với những kinh 
nghiệm về phẫu thuật cắt một phần thận qua 
ngã nội soi với bướu thận nhỏ gia đoạn T1a, 
chúng tôi tiếp tục tiến hành thực hiện phẫu thuật 
này với những bướu thận có kích thước lớn hơn 
T1b với mong muốn mang lại lợi ích lớn hơn cho 
bệnh nhân. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả 
loạt trường hợp. 
Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân được 
phẫu thuật cắt một phần thận quan nội soi ngoài 
phúc mạc tại Bệnh viện Bình Dân. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh: 
-Bướu thận còn khu trú trong thận có kích 
thước 4-7cm. 
-Vị trí nằm cách rốn thận ít nhất 1cm. 
Tiêu chuẩn loại trừ: 
-Bướu thận còn khu trú trong thận có kích 
thước <= 4cm. 
Các bước phẫu thuật nội soi ngoài phúc mạc cắt 
bán phần thận 
+ Tạo khoang sau phúc mạc. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 470
+ Vén phúc mạc và mỡ, lấy cơ thắt lưng 
chậu làm chuẩn. Bộc lộ mặt sau thận tách rời 
thận ra khỏi cơ thắt lưng chậu. Bóc tách thẳng 
trực tiếp vào rốn thận có thể tìm thấy động 
mạch nhờ vào mạch đập. Tìm rốn thận bóc 
tách bộc lộ động mạch. 
+ Để sẵn dây khống chế mạch máu thận. 
+ Bóc tách mỡ Gerota quanh bướu bảo đảm 
sau khi cắt bướu có thể thao tác khâu dễ dàng. 
Nếu cần có thể bóc tách toàn bộ mỡ quanh thận 
để làm di động thận nhằm bộc lộ rõ ràng vị trí 
bướu. 
+ Đánh dấu đường cắt quanh bướu cách 1cm 
bảo đảm đường cắt chứa mô lành bằng dao điện. 
+ Kéo dây cao su để khống chế mạch máu, 
thời điểm bắt đầu tính thời gian thiếu máu nóng. 
+ Tiến hành cắt bỏ bướu bằng kéo theo 
đường đã đánh dấu. 
+ Dùng chỉ Vicryl 4.0 khâu đài bể thận nếu có 
cắt đi 1 phần. Khâu tiếp lớp thứ 2 chủ mô thận 
bằng Vicryl 1.0 có sử dụng gối độn Surgicel (nếu 
chủ mô thận bị khuyết nhiều) và khóa chỉ phía 
ngoài chủ mô thận bằng Hem-O-Lok. 
+ Ngưng khống chế mạch máu bằng cách thả 
lỏng dây cao su, thời điểm kết thúc tính thời gian 
thiếu máu nóng. 
+ Ghi nhận lại thời gian thiếu máu nóng. 
+ Kiểm tra lại mặt cắt khâu tăng cường bằng 
Vicryl 1.0 nếu cần. 
+ Sau khi bảo đảm cầm máu tốt tháo dây 
thun ra khỏi rốn thận. 
+ Cho bướu vào bao đựng bệnh phẩm rồi lấy 
ra khỏi cơ thể. 
+ Kiểm tra bờ phẫu thuật 
+ Đặt ống dẫn lưu. 
+ Đóng bụng khâu da cố định ống dẫn lưu. 
+Gởi bệnh phẩm cho giải phẫu bệnh lý 2 
mẫu riêng biệt để kiểm tra: 1 mẫu là khối bướu, 
1 mẫu còn lại là các mẫu mô bờ phẫu thuật. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 5 năm 2012 
chúng tôi có 8 trường hợp thỏa tiêu chuẩn nhận 
bệnh và sau phẫu thuật các trường hợp này 
được theo dõi đến tháng 5 năm 2015. 
Dịch tễ 
-Tuổi: trung bình 56,4 ± 11,4 tuổi; nhỏ nhất: 
35 tuổi, lớn nhất 71 tuổi. Những trường hợp 
bướu có kích thước thường gặp ở nhóm người 
cao tuổi. 
-Giới tính: Nam 75%, Nữ 25%; về mặt giới 
tính, nam chiếm ưu thế hơn nữ. 
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng 
Triệu chứng lâm sàng: Đau hông là triệu 
chứng chiếm đa số 8/8 trường hợp (TH) (100%); 
Bản chất: chẩn đoán hình ảnh bướu trước 
mổ: Có 4/8 TH (50%) được chẩn đoán bằng hình 
ảnh học trước mổ là RCC. Phần còn lại là nghi 
ngờ hoặc không loại trừ được bướu ác (4/8; 50%). 
Kich thước bướu: trung bình 48,9 ± 6,8mm, 
lớn nhất 60mm, nhỏ nhất 42mm. 
Các số liệu về kết quả trong khi phẫu thuật 
Thời gian mổ (phút) 
- Nhanh nhất: 120 phút; Lâu nhất: 255 phút; 
trung bình: 181 ± 49 phút. 
Thời gian thiếu máu nóng (phút) 
- Ít nhất: 20 phút; nhiều nhất: 45 phút. Trung 
bình: 27,7 ± 9,6 phút. 
Với thời gian thiếu máu nóng trung bình 27,7 
± 9,6 phút, có thể chấp nhận được so với tiêu 
chuẩn ≤ 30 phút của đa số tác giả trên thế giới. 
Máu mất (ml) 
- Ít nhất: 10 ml; nhiều nhất: 500 ml; trung vị: 
100 (27,5-375,5)ml. 
Do khống chế mạch máu không phải là 
tuyệt đối nên chảy máu là điều không thể 
tránh khỏi, có 1 TH mất máu nhiều nhất là 500 
ml, không có trường hợp nào phải truyền máu 
trong lúc phẫu thuật. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 471
Kỹ thuật cắt và khâu 
Dụng cụ cắt: Cắt bằng kéo lạnh: 8/8 TH (100). 
Cắt vào đài bể thận: Có 8/8 TH (100%) buộc 
phải cắt đài bể thận. 
Khâu có sử dụng gối độn Surgicel: Surgicel 
làm gối độn (8/8; 100%) do khiếm khuyết của 
chủ mô thận khá lớn sau khi đã cắt bướu. 
Biến chứng 
- Biến chứng nhẹ không can thiệp phẫu 
thuật: Tụ dịch: 1/8 TH (12,5%). 
- Biến chứng có can thiệp phẫu thuật: 
+ Chuyển mổ mở khâu cầm máu: 1/8 TH 
(12,5%). 
+ Nội soi đặt JJ: 1/8 TH (12,5%). (trường hợp 
này BN suy thận đặt ra yêu cầu cần cắt một 
phần thận, có bướu thận và sỏi niệu quản hai 
bên. BN được cắt một phần thận và mở niệu 
quản lấy sỏi). 
Ung thư học 
Bảng 1. Kết quả GPB bản chất của bướu 
Bướu ác tính Số BN Tỷ lệ (%) 
Có 6 75 
Không 2 25 
Tổng 8 100.0 
Bảng 2. Kết quả GPB của bờ biên phẫu thuật 
Bờ biên phẫu thuật có chứa 
tế bào bướu 
Số BN Tỷ lệ (%) 
Có 2 25 
Không 6 75 
Tổng 8 100.0 
Nhận xét: ghi nhận 2 TH (25%) còn tế bào 
bướu ở bờ biên phẫu thuật khi kiểm tra kết quả 
của giải phẫu bệnh (GPB). Tuy nhiên hai trường 
hợp này theo dõi đến nay vẫn chưa ghi nhận 
bướu tái phát khi theo dõi qua MSCT. 
Theo dõi hậu phẫu 
Thời gian dùng thuốc giảm đau 
- Ít nhất: 5 ngày. Nhiều nhất: 13 ngày, trung 
vị: 6 (5-7,75) ngày. 
Thời gian có trung tiện 
- Ít nhất: 1 ngày. Nhiều nhất: 3 ngày, trung 
bình: 2 (2-2,75) ngày. 
Thời gian rút ống dẫn lưu 
- Ít nhất: 4 ngày. Nhiều nhất: 12 ngày, trung 
bình: 5 (4-7,25) ngày. 
Thời gian nằm viện 
- Ít nhất: 4 ngày. Nhiều nhất: 13 ngày, trung 
bình: 5 (4-7,25) ngày. 
BÀN LUẬN 
Về phương diện can thiệp qua ngả nội soi, 
theo Hội Niệu Khoa Châu Âu thì đây là phẫu 
thuật có thể thực hiện được. Cắt một phần thận 
mổ hở vẫn là tiêu chuẩn của điều trị theo hướng 
dẫn năm 2008, và phẫu thuật cắt một phần thận 
nội soi nên được thực hiện ở các trung tâm lớn 
có nhiều kinh nghiệm. Đến năm 2014, Hiệp Hội 
này đã nhìn nhận phẫu thuật nội soi đang thay 
thế dần mổ hở ở những trung tâm y khoa lớn có 
nhiều kinh nghiệm, chỉ định tối ưu cho cắt một 
phần thận nội soi là những bướu thận có kích 
thước tương đối và ở ngoại vi(4). 
Hiện nay theo quan điểm của AUA 2014, 
bướu ở giai đoạn T1a (bệnh nhân khỏe mạnh) 
chỉ định ưu tiên là cắt thận một phần, nội soi 
có thể thực hiện ở những trường hợp bướu 
đơn giản(1,9). 
Theo hiệp hội ung thư Hoa Kỳ (NCCN) 2015, 
đối với bướu thận giai đoạn T1b thì có thể cân 
nhắc cắt một phần thận thay dần cho cắt toàn bộ 
thận. Có thể thực hiện phẫu thuật này qua ngả 
nội soi hoặc mở tùy lựa chọn của phẫu thuật 
viên hoặc điều kiện của bệnh nhân cũng như tại 
bệnh viện (4,7). Dưới sự hỗ trơn của các phương 
tiện trong phẫu thuật nội soi và trình độ tay 
nghề của phẫu thuật viên ngày một nâng cao thì 
việc lựa chọn phẫu thuật nội soi trong tình 
huống này có thể mang lại lợi ích về phẫu thuật 
cho bệnh nhân như: tính thẫm mỹ, ít sang chấn 
và hồi phục nhanh sau mổ. Trong nghiên cứu 
này chúng tôi chọn đường ngoài phúc mạc vì 
phù hợp với giải phẩu học của niệu khoa cơ 
quan ngoài phúc mạc, không ảnh hưởng các 
tạng trong ổ bụng và đồng thời tiếp cận động 
mạch thận nhanh chóng hơn. Tuy nhiên đối với 
can thiệp cắt một phần thận qua soi ngã nội là 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 472
phẫu thuật tương đối phức tạp bởi vì thận là 
tạng đặc chứa nhiều máu, lượng máu đến 2 thận 
chiếm đến 20% cung lượng tim mặc dù trọng 
lượng 2 quả thận chiếm không quá 1% trọng 
lượng cơ thể. 
Trong điều kiện hiện nay không có đầy đủ 
phương tiện kỹ thuật, nhằm an toàn cho bệnh 
nhân và cũng là một trong những thử nghiệm 
đầu tiên nên chúng tôi lựa chọn phương án có 
khống chế mạch máu, bằng kỹ thuật khống 
chế động mạch thận riêng rẽ với dụng cụ là 
dây thun chuyên dùng của chuyên khoa mạch 
máu. Với kết quả đạt được thời gian thiếu máu 
nóng trung bình là 27,7 ± 9,6 phút, kích thước 
trung bình bướu 48,9 ± 6,8cm, thực hiện trên 8 
TH. Kết quả này chúng tôi tạm hài lòng vì so 
với các nghiên cứu khác của các đồng nghiệp 
trên thế giới. Tuy nhiên chúng tôi vẫn còn mối 
băng khoăn trong giai đoạn cắt bướu bảo đảm 
bờ mặt cắt chứa mô lành chúng tôi thường 
xuyên phải cắt rộng hơn dự tính nên nhiều 
trường hợp phải xâm phạm vào đài bể thận. 
Trong khi trên thế giới 1 số nơi đã bắt đầu ứng 
dụng kỹ thuật đánh dấu mô bướu nhằm bảo 
đảm mô bướu được cắt trọn vẹn. 
Tiểu máu sau mổ là triệu chứng được ghi 
nhận nhiều nhất. Thông thường những trường 
hợp có cắt vào đài bể thận gần như chắc chắn 
sau mổ nước tiểu có lẫn máu nhưng hầu hết sẽ 
trong lại sau 24 giờ. Nguyên nhân chính của tiểu 
máu chúng tôi nhận định là do loạt trường hợp 
này đều thực hiện trên bướu lớn và đều cắt vào 
hệ thống đài bể thận và được khâu lại đài bể 
thận và tiểu má có thể do mũi khâu của đài bể 
thận không kín. 
Chúng tôi ghi nhận được gồm 1 trường hợp 
tụ dịch tự khỏi. Đây là biến chứng nhẹ không 
cần can thiệp phẫu thuật. 
Nhóm biến chứng chảy máu chuyển mổ mở 
để cầm máu chúng tôi có 1/8 TH. Trong quá 
trình nội soi phải chuyển mổ hở cầm máu nhưng 
vẫn bảo tồn được thận. Bệnh nhân (BN) này có 
kích thước bướu là 5,5 cm, thời gian mổ là 255 
phút, thời gian thiếu máu nóng là 45 phút, lượng 
máu mất là 500 ml. Vị trí chảy máu là do có tổn 
thương nhánh nhỏ động mạch trong rốn thận 
không kiểm soát được bằng các mũi khâu theo 
quy ước. Nhìn các chỉ số nêu trên chúng ta nhận 
thấy bướu lớn có thể là yếu tố bất lợi cho cắt thận 
một phần qua ngả nội soi, điều này sẽ được xác 
nhận trong các phép kiểm ở phần sau. 
Về phương diện giải phẫu bệnh, 2 TH (25%) 
được xác nhận sau phẫu thuật là bướu lành, hai 
trường hợp này ban đầu đều là nghi RCC. Điều 
này cho thấy chẩn đoán hình ảnh không được 
tin cậy trong việc xác định bản chất của bướu. 
KẾT LUẬN 
Trong xu hướng hiện nay trên thế giới, bảo 
tồn chức năng thận là mục tiêu của bác sĩ ngoại 
tiết niệu nói riêng và ngành y nói chung. Tỷ lệ 
bệnh nhân suy thận ngày càng tăng và số lượng 
BN chờ ghép thận ngày càng nhiều, nhất là ở 
Việt Nam, nơi mà văn hóa Á Đông vẫn còn ảnh 
hưởng nhiều đến việc hiến tạng. Do đó, việc ứng 
dụng kỹ thuật cắt một phần thận là một nhu cầu 
thực tế, và đồng thời nếu thực hiện được qua 
ngả nội soi thì đó là lợi ích lớn cho bệnh nhân. 
Qua ghi nhận từ 8 trường hợp can thiệp cắt 
một phần thận qua ngả nội soi ở những bệnh 
nhân có bướu thận kích thước 4-7cm, chúng tôi 
nhận thấy những kết quả đáng khích lệ trong 
trường hợp bướu thận có kích thước 4-7cm (giai 
đoạn T1b) ở những vị trí thuận lợi việc can thiệp 
bằng phương pháp cắt một phần thận qua ngã 
nội soi. Cần có những nghiên cứu lớn hơn để 
làm rõ hơn vai trò của cắt một phần thận qua 
ngả nội soi tại Việt Nam. Tuy nhiên trong điều 
kiện hiện nay với các phương tiện hỗ trợ ngày 
càng hiện đại cho phẫu thuật nội soi cũng như 
trình độ phẫu thuật viên ngày càng cải thiện thì 
phẫu thuận nội soi cắt một phần thận cần được 
khuyến cáo mở rộng chỉ định nhằm mang lại lợi 
ích cho bệnh nhân. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 473
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Campbell SC, et al (2016). Malignant Renal Tumors. In: 
McDougal W. Campbell’s Urology, vol 10, 11th edition, pp. 
353 - 382. Elsevier, Inc., Newyork. 
2. Canes D. (2008). Long-term oncological outcomes of 
laparoscopic partial nephrectomy. Curr Opin Urol, vol. 18, pp. 
145-149. 
3. Link RE. (2005). Exploring the learning curve, pathological, 
outcomes and perioperative morbidityof laparoscopic partial 
nephrectomy performed for renal mass. J Urol, vol. 173, pp. 
1690-1694. 
4. Ljungberg B, et al (2014). Guidelines on renal cell carcinoma. 
European association of urology. 
5. Moinzadeh A, et al (2006). Laparoscopic partial nephrectomy: 
3-year followup. J Urol, vol. 175, pp. 459-462. 
6. Monish A, et al (2008). Transumbilical single-port laparoscopic 
partial nephrectomy. BJU Inter, vol. 103, pp. 516-521. 
7. NCCN Guidelines Version 3. 2015 Panel Members. Kidney 
Cancer. 
8. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng và cs (2009). Cắt 1 phần thận qua 
nội soi cho bướu ác chủ mô thận: Kinh nghiệm ban đầu tại 
bệnh viện Bình Dân, Y Học Thực Hành, 10 (680), tr. 15-19. 
9. Novick AC et al (2014). Guideline for management of clinical 
stage 1 renal mass, American Urological Association. 
10. Trần Ngọc Sinh và cs (2004). Sổ tay tiết niệu học lâm sàng, Nhà 
xuất bản Y Học, tr. 34-37. 
11. Vũ Lê Chuyên (2007). Áp dụng kỹ thuật cắt bỏ thận qua nội 
soi, Sở khoa học và công nghệ TP.HCM, đề tài nghiên cứu 
khoa học cấp thành phố. 
12. Vũ Lê Chuyên và cs (2002). Niệu học lâm sàng, Nhà xuất bản Y 
Học, tr. 196-228. 
Ngày nhận bài báo: 25/12/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/12/2017 
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018