Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Dược 730
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG MÔ HÌNH DOCKING VÀ 2D-QSAR 
TRÊN CÁC DẪN CHẤT ỨC CHẾ TELOMERASE 
Lê Minh Trí*, Thái Khắc Minh* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Telomere là cấu trúc đặc thù gồm những trình tự lặp của các base nitơ để tạo thành mũ bảo 
vệ ở đầu mút nhiễm sắc thể (NST) của sinh vật nhân thực. Một đoạn Telomere bị mất đi trong mỗi lần 
nhân đôi DNA giúp bảo tồn bộ gen qua các lần phân bào. Telomerase là một enzym phiên mã ngược dùng 
để tổng hợp lại phần telomere bị mất đi trong quá trình phân bào. Hầu hết tế bào ung thư có lượng lớn 
telomerase giúp bảo tồn telomere trên NST dẫn đến khả năng phân chia vô hạn của tế bào, vì vậy telomerase 
hiện đang là một đích tác động đầy tiềm năng của các thuốc chống ung thư thế hệ mới. 
Mục tiêu: Xây dựng các mô hình 2D-QSAR và sử dụng mô hình docking để khảo sát khả năng gắn kết 
của dẫn chất oxadiazol và pyrazol với telomerase. Từ đó dự đoán khả năng ức chế telomerase của các thuốc 
sẵn có trên thị trường và định hướng thiết kế tìm ra những chất mới có khả năng ức chế telomerase. 
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Mô hình 2D-QSAR được xây dựng dựa trên thuật toán bình 
phương tối thiểu từng phần PLS (MOE), trên cơ sở dữ liệu gồm 41 dẫn xuất của oxadiazol và 48 chất dẫn xuất 
của pyrazol với giá trị IC50, nhằm dự đoán liên quan giữa cấu trúc và tác dụng sinh học. Mô hình docking sử 
dụng phần mềm FlexX/LeadIT để sàng lọc các cấu trúc có khả năng ức chế telomerase (pdb 3du6) trên cơ sở dữ 
liệu gồm 110 dẫn chất thuộc 3 nhóm cấu trúc khác nhau 1,3,4 – oxadiazol; pyrazol; flavonoid. 
Kết quả: Nghiên cứu đã xây dựng được mô hình 2D-QSAR từ 41 chất nhóm 1,3,4-oxadiazol và 48 
chất nhóm pyrazol với cùng một phương pháp xác định IC50. Kết quả đã thu được 2 mô hình đều đạt yêu 
cầu và sai số giữa giá trị dự đoán và giá trị thực nghiệm thấp. Mô hình docking 3 nhóm dẫn chất cho thấy 
các acid amin Lys189, Phe193 và Asp254 đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết. Fla–3d và Pyr–p16a 
là các chất có điểm số docking tốt nhất, phù hợp với giá trị hoạt tính thực nghiệm. Kết hợp QSAR với 
docking dự đoán một số cấu trúc có khả năng ức chế telomerase cao thuộc 2 nhóm cấu trúc trên. 
Kết luận: Mô hình docking xây dựng dựa trên telomerase có chất lượng tốt và độ tin cậy. Hoạt tính ức 
chế telomerase có thể là do khả năng gắn kết với khe kị nước phía trên vị trí gắn kết của ATP với enzym. Khả 
năng dự đoán của mô hình docking và mô hình 2D–QSAR trong nghiên cứu có sự tương quan với nhau. 
Từ khóa: Telomerase, oxadiazol, pyrazol, docking, 2D-QSAR, ung thư 
ABSTRACT 
2D-QSAR AND MOLECULAR DOCKING STUDIES ON TELOMERASE INHIBITORS 
Le Minh Tri, Thai Khac Minh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 730-735 
Background - Objectives: Telomere are distinctive structures consisting of the same repeated 
sequences of nitrogenous bases, which forms a protective cap at Eukaryotic chromosomes ends. A section of 
telomere is lost during chromosome replication which allow cells to divide without losing 
genes. Telomerase is a reverse transcriptase enzyme which elongates and replenishes shorterned telomeres. 
Telomerase is also found in high levels in cancer cells, which enables cancer cells to be immortal and 
*Khoa Dược - Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Thái Khắc Minh ĐT: 09096 80385 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược 731
continue dividing uncontrollably to form tumors. Therefore, Telomerase has become a significant 
therapeutic target in various cancer treatment. This study aims at development the 2D-QSAR and docking 
modellings in order to find out the featured of structures of a potential telomerase inhibitor as well as to 
predict the telomerase inhibitory activity in drug databases. 
Method: The 2D-QSAR model was built by the PLS method based on the dataset containing 41 
oxadiazol derivatives and 48 pyrazol derivatives along with their IC50 values. The FlexX/LeadIT software 
was used to conduct the docking process on 110 compounds belong to three different chemical derivatives 
1,3,4 – oxadiazol, pyrazol. 
Results: In this study, 2D-QSAR model was developed from the dataset of 41 oxadiazol derivatives 
and 48 pyrazol derivatives. The error between the predicted value and the experimental one was acceptable. 
The docking modellings on 3 chemical groups showed that the amino acids as Lys189, Phe193 and Asp254 
played an important role in binding capacity. The docking models showed that Fla-3d and Pyr-p16a were 
two structures with the best docking scores. The combination of QSAR and docking were used to predict the 
potential telomerase inhibitors. 
Conclusion: The docking modellings of telomerase were performed. Telomerase inhibitory activity and 
binding ability is related to the hydrophobic area on the ATP binding site of telomerase. The information 
obtained from the docking modelling and predictability of the 2D-QSAR model in the study were correlated. 
Keywords: Telomerase, oxadiazol, pyrazol, docking, 2D-QSAR, cancer 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư là một bệnh ác tính của tế bào 
trong đó khối tế bào ung thư mất sự điều 
khiển bình thường nên tăng sinh hỗn loạn, 
mất sự biệt hóa, xâm lấn các mô xung quanh 
rồi lan tràn trong cơ thể thông qua hệ bạch 
huyết và máu. Telomere là cấu trúc đặc thù 
nằm ở đầu mút NST của sinh vật nhân thực 
giúp ổn định hệ gen và bảo vệ NST(2). Vì 
enzym ADN polymerase không thể tổng hợp 
bù đoạn mồi ở hai đầu mút NST khi nhân đôi 
ADN nên telomere sẽ ngắn dần đi sau mỗi lần 
phân bào, và khi đầu mút NST quá ngắn, 
chạm vào đoạn gen chức năng quan trọng, thì 
tế bào sẽ dần bị già hóa và chết. Trong các 
khối u, tiến trình lão hoá tự nhiên này bị 
phong tỏa, tế bào ung thư phân chia nhanh 
hơn và telomere trở nên rất ngắn (khoảng 2,8 
kb) và để thoát khỏi cái chết, tế bào ung thư 
kích hoạt enzym phiên mã ngược telomerase 
để tổng hợp lại phần telomere bị mất đi trong 
quá trình phân bào. Hầu hết tế bào ung thư có 
lượng lớn telomerase, vì vậy telomerase hiện 
đang là một đích tác động đầy tiềm năng của 
các thuốc chống ung thư thế hệ mới(1,2). 
Nghiên cứu xây dựng mô hình docking và 2D-
QSAR trên các dẫn chất ức chế telomerase để 
dự đoán và phân loại các hoạt chất có khả 
năng ức chế telomerase, qua đó nhằm tìm 
kiếm những chất có hoạt tính tốt phục vụ cho 
các nghiên cứu tiếp theo. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Các mô hình nghiên cứu in silico được 
xây dựng bao gồm mô hình 2D-QSAR và mô 
hình mô tả phân tử docking. Sử dụng 
phương pháp 2D-QSAR để xây dựng mô 
hình dự đoán liên quan giữa cấu trúc và tác 
dụng sinh học của một số dẫn chất 
oxadiazol, pyrazol(1,3-5,8-10). Bên cạnh đó sử 
dụng docking để sàng lọc và tìm kiếm các 
ức chế telomerase mạnh dùng trong điều trị 
ung thư. 
Xây dựng mô hình 2D-QSAR 
Mô hình này được xây dựng dựa vào các 
công cụ là MOE 2008.10 
(www.chemcomp.com), RapidMiner 5.3.013 
(rapidminer.com), Weka3.6 
(www.cs.waikato.ac.nz/ml/weka) và Microsoft 
Excel 2010 trên một cơ sở dữ liệu gồm 41 chất 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Dược 732
nhóm 1,3,4-oxadiazol và 48 chất nhóm 
pyrazol(1,3-5,8-10) với cùng một phương pháp xác 
định IC50. Sau khi tính toán giá trị của 7 nhóm 
thông số mô tả cấu trúc phân tử 2D bằng MOE 
nhờ công cụ Energy minimize, có thể lựa chọn 
các thông số cần thiết để xây dựng phương 
trình QSAR bằng phương pháp: phân tích 
ngẫu nhiên, lựa chọn phản hồi với chiến thuật 
lấy thêm hay đánh giá chéo k lần mô hình dự 
đoán Tập dữ liệu ban đầu được chia thành 
tập xây dựng mô hình và tập kiểm tra. Các 
thông số mô tả được chia tỷ lệ trong khoảng 
[0, 1] và được lọc thô bằng MS Excel hay 
RapidMiner. Tập xây dựng được loại nhiễu 
bằng phương pháp phân tích thành phần 
chính (PCA).Thuật toán bình phương tối thiểu 
từng phần (PLS) được sử dụng để xây dựng 
mô hình 2D-QSAR với các giá trị RMSE và R2 
được hiển thị và mô hình được thẩm định 
bằng đánh giá nội và đánh giá ngoại. Tập 
kiểm tra được tách riêng đầu tiên, không tham 
gia vào quy trình xây dựng mô hình để đảm 
bảo tính khách quan cho việc đánh giá khả 
năng dự đoán của mô hình. Ứng dụng tập 
kiểm tra vào mô hình xây dựng bằng công cụ 
Model evaluation của MOE. Phần lớn các giá trị 
dự đoán của tập kiểm tra phải nằm trong 
khoảng tin cậy 95% dự đoán đúng của mô 
hình. Thông số đánh giá (hay ) 
(đánh giá bỏ-1-ra) và RMSE giữa giá trị dự 
đoán và giá trị thực nghiệm của các chất trong 
tập kiểm tra. Mô hình được chấp nhận khi 
> 0,5. Dựa vào mô hình 2D-QSAR vừa 
xây dựng, có thể dự đoán hoạt tính sinh học 
của các chất có thông số mô tả phù hợp với 
phương trình. Đây là cơ sở để sàng lọc và thiết 
kế các hợp chất mới có cấu trúc phù hợp với 
mục tiêu tác động, rút ngắn thời gian nghiên 
cứu so với các phương pháp cổ điển. 
Xây dựng mô hình mô tả phân tử docking 
Mô hình mô tả phân tử docking để giải 
thích khả năng gắn kết của các phân tử hóa 
học và vùng tác động của telomerase. Các acid 
amin trong túi gắn kết sẽ được giữ lại biểu 
hiện trên màn hình, còn các phần tử còn lại sẽ 
được che dấu đi. Quá trình này cho biết acid 
amin nào sẽ tạo liên kết với ligand. Trong 
trường hợp chưa có thông tin thì cần phân tích 
để tìm ra trung tâm có khả năng liên kết quan 
trọng: trung tâm cho hay nhận liên kết hydro, 
acid, base, các trung tâm tích điện, hệ thống 
vòng thơm được lựa chọn sử dụng cho 
nghiên cứu này. Trong nghiên cứu này, cấu 
trúc telomerase của loài Tribolium castaneum 
được sử dụng cho nghiên cứu và được tải về từ 
ngân hàng cơ sở dữ liệu protein (Protein Data 
Bank www.rcsb.org - mã 3DU6). Quy trình 
docking được tiến hành bằng phần mềm 
FlexX/LeadIT (www.capterra.com) với các 
thông số lựa chọn: số lượng các cấu dạng liên 
kết (pose) giữ lại là 10; số bước lặp tối đa là 
1000 và số lần phân mảnh là 200; các thông số 
còn lại có giá trị mặc định. Điểm số docking 
(kJ.mol-1) được đánh giá dựa trên các liên kết 
tạo thành giữa ligand và protein bao gồm: liên 
kết ion, liên kết π- π, liên kết van der Waals, liên 
kết hydro Kết quả docking cho biết ái lực gắn 
kết của ligand với protein và tương tác giữa 
ligand với các acid amin xung quanh. Kết quả 
docking này được sử dụng để phân tích khả 
năng gắn kết của các ligand lên telomerase. 
KẾT QUẢ 
Mô hình 2D-QSAR I 
Sau quá trình thử xây dựng các mô hình 
bằng cách tổ hợp các thông số mô tả, 2 mô 
hình tối ưu cuối cùng đã được lựa chọn. Các 
mô hình này đều có độ chính xác cao về khả 
năng dự đoán hoạt tính ức chế telomerase bởi 
các dẫn chất tiềm năng. Mô hình 2D QSAR I 
đánh giá hoạt tính ức chế telomerase trên tập 
dữ liệu ban đầu gồm 41 dẫn chất chứa nhân 
oxadiazol, được tiến hành khảo sát sơ bộ và 
loại 6 chất gây nhiễu. Tập hợp còn lại gồm 35 
dẫn chất được phân chia ngẫu nhiên bằng 
hàm RANDOM trong phần mềm MOE thành 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược 733
2 tập chất theo tỉ lệ 80:20 trong đó tập xây 
dựng (tập huấn luyện) gồm 28 chất và tập 
kiểm tra (tập đánh giá) gồm 7 chất. Có 95 
thông số mô tả 2D được giữ lại sau khi tiến 
hành sàng lọc từ 184 thông số bằng phần mềm 
RapidMiner. Tiếp tục dùng phương pháp 
BestFirst của phần mềm Weka để sàng lọc ra 5 
thông số có liên quan với pIC50. Dựa trên giá 
trị “độ quan trọng tương đối của thông số mô 
tả” được đề nghị bởi phần mềm MOE, chỉ có 3 
thông số có giá trị “độ quan trọng” cao được 
sử dụng để đưa ra mô hình QSAR cuối cùng 
và kết quả trình bày ở Bảng 1 và hình 1. 
Hình 1: Mối tương quan giữa giá trị hoạt tính 
sinh học thực nghiệm và giá trị hoạt tính sinh học 
dự đoán từ phương trình (I). 
Bảng 1: Mô hình QSAR hoàn chỉnh từ toàn tập dữ 
liệu và các giá trị đánh giá 
pIC50 = 3,88112 – 5,21023 GCUT_SLOGP_1 - 
0,01441 PEOE_VSA-5 + 0,01025 SMR_VSA3 
Mô hình I Số 
chất 
RMS
E 
R
2
 Q
2
Tập xây 
dựng 
28 
0,20 0,59 0,68 0,68 0,42 0,55 0,26 
Tập kiểm 
tra 
7 
0,09 0,73 - 0,81 0,85 0,83 0,04 
Mô hình 2D-QSAR II 
Mô hình này đánh giá hoạt tính ức chế 
telomerase trên tập dữ liệu ban đầu gồm 48 dẫn 
chất chứa nhân pyrazol, được tiến hành khảo 
sát sơ bộ và loại 5 chất gây nhiễu. Tập hợp còn 
lại gồm 43 dẫn chất được phân chia ngẫu nhiên 
bằng hàm RANDOM trong phần mềm MOE 
thành 2 tập chất theo tỉ lệ 80:20 trong đó tập xây 
dựng (tập huấn luyện) gồm 35 chất và tập kiểm 
tra (tập đánh giá) gồm 8 chất. Có 101 thông số 
mô tả 2D được giữ lại sau khi tiến hành sàng 
lọc từ 184 thông số bằng phần mềm 
RapidMiner. Tiếp tục dùng phương pháp 
BestFirst của phần mềm Weka để sàng lọc được 
5 thông số có liên quan với pIC50. Dựa trên giá 
trị “độ quan trọng tương đối của thông số mô 
tả” được đề nghị bởi phần mềm MOE, chỉ có 3 
thông số có giá trị “độ quan trọng” cao được sử 
dụng để đưa ra mô hình QSAR cuối cùng trình 
bày ở Bảng 2 và hình 2. 
Hình 2: Mối tương quan giữa giá trị hoạt tính 
sinh học thực nghiệm và giá trị hoạt tính sinh học 
dự đoán từ phương trình (II) 
Bảng 2: Mô hình QSAR hoàn chỉnh từ toàn tập dữ 
liệu và các giá trị đánh giá 
pIC50 =3,88112 – 5,21023 GCUT_SLOGP_1 - 
0,01441 PEOE_VSA-5 + 0,01025 SMR_VSA3 
Mô hình II Số 
chất 
RMS
E 
R
2
 Q
2
Tập xây 
dựng 
35 
0,33 0,57 0,64 0,64 0,36 0,50 0,29 
Tập kiểm 
tra 
8 
0,27 0,63 - 0,50 0,72 0,61 0,22 
Mô hình mô tả phân tử docking 
Telomerase với mã pdb 3DU6 được sử 
dụng cho nghiên cứu. Công cụ Site Finder 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Dược 734
trong MOE được dùng để xác định khoang 
gắn kết của ligand trên protein telomerase. 
Tổng cộng 110 chất thuộc 3 nhóm cấu trúc là 
1,3,4-oxadiazol, pyrazol và flavonoid đều dock 
thành công vào khoang gắn kết là vùng kị 
nước phía trên bộ 3 xúc tác của telomerase 
nhưng chỉ có 66 chất có điểm số docking tốt 
(dưới -20 kJ/mol), có 30 chất có hoạt tính tốt 
rất tốt khi thử nghiệm IC50. Đa số cấu trúc này 
đều tương tác với ba acid amin Lys189, Phe193 
và Asp254, cho thấy vai trò quan trọng của các 
acid amin này trong khoang trung tâm của 
telomerase. Các acid amin Met168, Tyr170, 
Lys189, Asp191, Asn192, Phe193, Arg194, 
Ala195, Asp251, Ile252, Arg253, Asp254, 
Ala255, Tyr256, His304, Gln308, Asp343, 
Gln367,Asn369 (19 acid amin) tập trung vùng 
gắn kết và vận chuyển chất nền. Điều này cho 
thấy khả năng cạnh tranh gắn kết của các hợp 
chất nghiên cứu với chất nền – dẫn đến ức chế 
hoạt động của telomerase. Trong đa số các mô 
hình tương tác, Lys189 và Asp254 đóng vài trò 
tạo liên kết hydro với dị vòng hoặc nhóm thế của 
cấu trúc ligand. Trong khi đó Phe193 tạo liên kết 
stacking và liên kết van der Waals với hệ vòng 
thơm. Các liên kết này góp phần định hình cấu 
dạng và tương tác của ligand với protein. 
BÀN LUẬN 
Cả hai mô hình QSAR I và II xây dựng 
được đều có Q2 > 0,4 (lần lượt là 0,68 và 0,64) 
cho tập huấn luyện; đều > 0,5 (0,73 và 
0,63) cho tập kiểm tra; RMSE trong khoảng 
0,09 – 0,33, cho thấy cả 2 mô hình đều đạt yêu 
cầu và sai số giữa giá trị dự đoán và giá trị 
thực nghiệm là chấp nhận được (< 0,5). Dựa 
trên cách đánh giá mới của Roy(6), cả hai mô 
hình đều có giá trị > 0,5 cho cả tập xây 
dựng và tập kiểm tra (từ 0,50 đến 0,81). Theo 
Roy, mức độ tin cậy của mô hình sẽ rất cao 
nếu ngoài các điều kiện trên được thỏa mãn, 
mô hình có thêm > 0,5 và < 0,2; như 
vậy cả hai mô hình đều có khả năng dự đoán 
với độ tin cậy tốt. Xét về giá trị RMSE, mô 
hình I có giá trị RMSE thấp hơn hẳn so với mô 
hình II (RMSE cho tập xây dựng và kiểm tra ở 
mô hình I lần lượt là 0,29 và 0,09; trong khi đó 
hai giá trị này ở mô hình II lần lượt là 0,33 và 
0,27)(6). Điều này chứng tỏ khi đưa mô hình 
vào áp dụng thì mô hình I sẽ cho các giá trị dự 
đoán ít bị sai lệch với giá trị thu được trên 
thực nghiệm so với mô hình II. Nói cách khác, 
cả hai mô hình mà nghiên cứu này xây dựng 
được đều cho khả năng dự đoán tốt hoạt tính 
ức chế telomerase của một dẫn chất, tuy nhiên 
mô hình I cho kết quả tốt hơn. 
Tập hợp dữ liệu để xây dựng mô hình 
QSAR I chủ yếu là biến đổi trên cấu trúc 
nhánh bên của nhân 1,3,4 – oxadiazol. Nhìn 
chung cấu trúc thay đổi nhóm chức trên vòng 
benzen của nhánh bên bằng các nhóm thế 
halogen, NO2, và các dây carbon. Với mục tiêu 
là vẫn giữ vững cấu trúc gần giống với 1,3,4-
oxadiazol, mô hình được xậy dựng nhằm giải 
thích về liên quan định lượng giữa cấu trúc và 
tác dụng ức chế hoạt tính của telomerase. Từ 
đó ứng dụng mô hình dự đoán những dẫn 
chất có nhân 1,3,4-oxadiazol hiện đang được 
sử dụng làm thuốc trên thị trường. Các thông 
số mô tả trong mô hình bao gồm 
GCUT_SLOGP_1, PEOE_VSA-5 và 
SMR_VSA3 liên quan tới diện tích bề mặt 
phân tử và điện tích từng phần liên quan đến 
hệ số phân bố Dầu/Nước và chi tiết tham khảo 
tại (www.chemcomp.com). Phân tích cho thấy 
khi đưa thêm những nhóm thế trên nhánh bên 
làm tăng tính thân nước của phân tử (như 
nhóm OH) có thể làm tăng hoạt tính sinh học 
của dẫn chất. Hơn nữa nhóm hydroxy cũng 
tạo ra trung tâm mới cho liên kết hydro và 
điều này tác động đến khả năng liên kết giữa 
dẫn chất và khoang tác động của telomerase. 
Ứng dụng kết hợp mô hình QSAR và 
docking để đề nghị các dẫn chất thuộc 2 nhóm 
cấu trúc 1,3,4-oxadiazol và pyrazol có hoạt 
tính ức chế telomerase dự đoán cao, khả năng 
gắn kết rất tốt với khoang gắn kết. Dựa vào 
kết quả mô hình các dẫn chất 1,3,4-oxadiazol 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược 735
đề nghị có tiềm năng hơn các dẫn pyrazole 
được đề nghị (Bảng 3), tuy nhiên vẫn cần 
được phát triển song song và tiến hành thử 
nghiệm thực tế để tìm ra cấu trúc tối ưu. Dựa 
vào kết quả mô hình QSAR và docking, 
nghiên cứu cũng đã xác định được một số 
thuốc trên thị trường có tiềm năng trở thành 
chất ức chế telomerase trong điều trị ung thư. 
Bảng 3. Các hợp chất đề nghị tổng hợp 
Hợp chất Khung cấu 
trúc 
pIC50 dự 
đoán 
IC50 dự 
đoán (µM) 
Điểm số 
docking 
(kJ/mol) 
HHNLT_1 1,3,4-
oxadiazol 
6,35 0,45 -37,8 
HHNLT_2 Pyrazol 6,22 0,60 -22,0 
HHNLT_3 Pyrazol 6,18 0,66 -20,5 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu 2D-QSAR kết hợp với nghiên 
cứu mô hình mô tả phân tử docking dự đoán 
một số cấu trúc có khả năng ức chế telomerase 
cao thuộc 2 nhóm cấu trúc 1,3,4-oxadiazol và 
pyrazol. Kết quả dự đoán của mô hình QSAR 
với các thuốc có sẵn trên thị trường có cơ chế 
khác với ức chế telomerase cho thấy nhiều thuốc 
có khả năng tác động trên enzym đích này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Dudek AZ, Arodzb T, Gálvez J (2006). Computational 
methods in developing quantitative structure-activity 
relationships – a review. Comb Chem High T Scr, 9: 213-228. 
2. Gillis AJ, Schuller AP, Skordalakes E. (2008). Structure of 
the Tribolium castaneum telomerase catalytic subunit 
TERT. Nature 455: 633-638. 
3. Liu XH, Li J, Shi JB, Song BA, Qi XB (2012). Design and 
synthesis of novel 5-phenyl-Npiperidine ethanone 
containing 4,5-dihydropyrazole derivatives as potential 
antitumor agents. Eur J Med Chem, 51: 294-299. 
4. Luo Y, Zhang S, Qiu KM, Liu ZJ, Yang YS, Fu J, Zhong 
WQ, Zhu HL (2013). Synthesis, biological evaluation 3D-
QSAR studies of novel aryl-2H-pyrazole derivatives as 
telomerase inhibitors. Bioorg Med Chem Lett, 23:1091–1095. 
5. Menichincheri M, Ballinari D, Bargiotti A, Bonomini L, 
Ceccarelli W, D'Alessio R, Fretta A, Moll J, Polucci P, 
Soncini C, Tibolla M, Trosset JY, Vanotti E (2004). 
Catecholic Flavonoids Acting as Telomerase Inhibitors. J 
Med Chem, 47: 6466-6475. 
6. Ojha PK, Mitra I, Das RN, Roy K (2011). Further exploring 
rm2 metrics for validation of QSPR models. Chemomet Intell 
Lab Sys, 107: 194-205. 
7. Sun J, Zhu H, Yang ZM, Zhu HL (2013). Synthesis, 
molecular modeling and biological evaluation of 2-
aminomethyl-5-(quinolin-2-yl)-1,3,4-oxadiazole-2(3H)-
thione quinolone derivatives as novel anticancer agent. Eur 
J Med Chem, 60:23-28. 
8. Wu XQ, Huang C, Jia YM, Song BA, Li J, Liu XH (2013). 
Novel coumarin-dihydropyrazole thio-ethanone 
derivatives: design, synthesis and anticancer activity. Eur J 
Med Chem, 74:717-25. 
9. Zhang F, Wang XL, Shi J, Wang SF, Yin Y, Yang YS, Zhang 
WM, Zhu HLF (2013). Synthesis, molecular modeling & 
biological evaluation of N-benzylidene-2-[(5-(pyridin-4-yl)-
1,3,4-oxadiazol-2-yl)thio] acetohydrazide derivatives as 
potential anticancer agents. Bioorg Med Chem, 11: 468-477. 
10. Zheng QZ, Zhang XM, Xu Y, Cheng K, Jiao QC, Zhu HL. 
(2010). Synthesis, biological evaluation, and molecular 
docking studies of 2-chloropyridine derivatives possessing 
1,3,4-oxadiazole moiety as potential antitumor agents. 
Bioorg Med Chem, 18: 7836–7841. 
Ngày nhận bài báo: 18/10/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/11/2018 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2019