Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Khoa học Cơ bản 53
NGHIÊN CỨU TÍNH TƯƠNG HỢP SINH HỌC CỦA KEO HA/PVPA 
TRÊN MÔ HÌNH CHUỘT 
Hồ Văn Hai*, Nguyễn Thị Hiệp*, Lê Quốc Tuấn**, Nguyễn Thị Lệ**, Bùi Chí Bảo**, Võ Văn Tới* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Kiểm tra tính tương hợp sinh học của keo sinh học được tổng hợp từ Hyaluronan (HA) và 
polyvinyl phosphonic acid (PVPA). 
Phương pháp: Bằng phương pháp este hóa keo HA/PVPA được tạo ra theo nhiều nồng độ khác nhau, sau đó 
keo được làm khô phương pháp đông khô lạnh. Keo được gia công thành hình tròn đường kính 1cm và độ dày 
1mm. Mẫu keo sau khi tạo hình được cấy lên trên lưng chuột sau đó khả năng làm lành vết thương được quan sát 
bằng dữ liệu bằng hình ảnh vết thương qua từng ngày (cho đến ngày thứ 14 sau khi cấy mẫu). Khu vực da được 
cấy vật liệu sẽ được tách ra khỏi vật chủ sau 14 ngày và sử dụng phương pháp cắt lát và nhuộm H&E để xác định 
mức độ phát triển của mô bên trong khu vực đã được xử lý bằng keo. 
Kết quả: Kết quả cho thấy keo có khả năng kết dính và hỗ trợ hồi phục vết thương cao ngay tuần đầu tiên. 
Ngoài ra, kết quả nhuộm H&E cho thấy có mạch máu phát triển và mô mới hình thành. Tuy nhiên, tế bào phát 
triển tập trung dày ở khu vực được cấy mẫu và cấu trúc mô chưa ổn định. Có thể kết luận rằng, keo tính tương 
hợp sinh học cao. 
Kết luận: Kết quả từ những thí nghiệm trên đã chỉ ra rằng vật liệu nền tạo ra từ keo HA/PVPA có khả năng 
hỗ trợ hồi phục vết thương và có độ tương hợp sinh học cao, thích hợp cho tế bào phát triển khi sử dụng cho vết 
thương trên da. 
Từ khóa: Hyaluronan (HA), Polyvinyl Phosphonic acid (PVPA). 
ABSTRACT 
IN-VIVO STUDIES OF HA/PVPA GEL USING MICE MODEL 
Ho Van Hai, Nguyen Thi Hiep, Le Quoc Tuan, Nguyen Thi Le, Bui Chi Bao, Vo Van Toi 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - Supplement of No 1 - 2016: 53 - 58 
Objective: To investigate the biocompatibility of hyaluronan (HA) and polyvinyl phosphonic acid (PVPA) 
hydrogel. 
Method: HA/PVPA was fabricated by cross-linking between HA with PVPA in various PVPA 
concentration, then the gel was hydrated by using freeze-drying method in order to make scaffolds. Scaffolds were 
shaping by surgery blade with 1cm diameter and 1mm thickness. Scaffolds were implanted on mouse dorsal and 
monitored for 14 day. The implanted zoneswere extracted after implanting 14 days and stained by H&E staining 
method to observe tissue formation. 
Result: The results showed that scaffolds were adhesive with skin wound and accelerate the wound healing 
process. H&E staining results showed that scaffolds were excellent biocompatible materials and provided a matrix 
for cell regeneration. 
Conclusion: HA/PVPA hydrogel can be used as bioglue because it’s adhesive properties and excellent 
biocompatibility. 
Key words: Hyaluronan (HA), Polyvinyl Phosphonic acid (PVPA). 
* Đại Học Quốc Tế - Đại Học Quốc Gia Tp. Hồ Chí Minh ** Đại Học Y Dược TP.HCM 
Địa chỉ liên hệ : TS. Nguyễn Thị Hiệp ĐT: 0983888700 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 54
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cho đến thời điểm hiện tại, nhu cầu y tế đối 
với các loại vật liệu và thuốc để chữa trị các bệnh 
mãn tính gây tổn thương sâu hoặc khiếm khuyết 
da, các tai nạn gây tổn thương sâu cho da như 
bỏng nhiệt, bỏng hóa chất, mất da do tai nạn 
hoặc do lấy da để cấy ghép cho các phần khác, 
đang rất cao(1,2). Hiện đã có nhiều biện pháp để 
chữa trị cho những tổn thương đã kể ra ở trên ví 
dụ như: cấy ghép da từ những bộ phận khác, tế 
bào gốc, thuốc mỡ trị bỏng Tuy nhiên những 
biện pháp trên vẫn còn tồn tại nhiều điểm hạn 
chế như sự hạn hẹp của da ở nguồn bộ phận lấy 
da để cấy ghép và dễ bị đào thải hoặc hoại tử, tế 
bào gốc thường không ổn định và chi phí cao do 
khó bảo quản và qui trình chiết tách phức 
tạp.Do đó, nhu cầu đối với 1 loại vật liệu sinh 
học có đầy đủ những ưu điểm cần thiết và dễ sử 
dụng, tính tương hợp sinh học cao là rất cao(3). 
Polymer sinh học nguồn tự nhiên hoặc tổng hợp 
là 1 lĩnh vực nghiên cứu nhiều hứa hẹn để có thể 
thỏa mãn tất cả những yêu cầu y tế ở trên đối với 
chữa trị tổn thương da, thậm chí còn có thể tốt 
hơn mong đợi. Do đó 1 loại keo sinh học đã được 
tạo ra từ Hyaluronan (HA) và polyvinyl 
phosphonic axit (PVPA) với tính cơ lí, tương hợp 
sinh học, hỗ trợ cho sự phát triển tế bào đã được 
tạo ra nhằm ứng dụng để chữa trị những tổn 
thương trên da, kết dính tốt với khu vực tổn 
thương và tạo thành 1 lớp bảo vệ ngăn cách bụi 
bẩn/vi khuẩn tiếp xúc với vết thương và 1 mặt 
hỗ trợ cho tế bào mới phát triển và làm lành vết 
thương nhan(4). 
Hyaluronan có chứa glycosaminoglycan 
(GAG) và glucuronic axit là các thành phần 
chính của tổ hợp ma trận ngoại bào có trong liên 
kết của hầu hết biểu mô, các mô thần kinh. HA 
là nonsulfated glycosaminoglycans duy nhất 
được hình thành ở màng tế bào thay vì Golgi, 
với khối lượng phân tử rất lớn. Là một trong 
những thành phần chính của ma trận ngoại bào, 
hyaluronan góp phần đáng kể vào sự chuyển 
dời tế bào và tăng sinh tế bào(5). Trong da, 
hyaluronan chiếm thành phần cao. Do đó, HA là 
1 polyme nhiều tiềm năng với những tính chất 
thích hợp để tái tạo mô mềm, đặc biệt là tái tạo 
da(6). 
Polyvinyl phosphonic axit (PVPA) là 1 
phosphonate tổng hợp thường được dùng trong 
tái tạo xương. Trong nghiên cứu này, PVPA đã 
được kết hợp với HA nhằm tạo ra keo HA-
PVPA có tương hợp sinh học cao và có lỗ xốp 
rộng cho phép tế bào di chuyển vào và phát triển 
trên chúng(7). Quá trình tạo keo cũng như các 
tính chất tương hợp tế bào đã được nghiên cứu 
trong một nghiên cứu trước đây của chúng tôi. 
Trong bài này, chúng tôi sẽ khảo sát khả năng 
tương thích keo HA-PVPA trên mô hình chuột. 
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu tính tương hợp sinh học của keo 
sinh học HA/PVPA trên mô hình da chuột. Vì 
muốn xem tính chất tương hợp của hỗn hợp keo 
cho nên keo dùng trong thí nghiệm này là keo đã 
được lấy nước hoàn toàn bằng phương pháp 
đông khô. 
Thiết kế nghiên cứu 
Keo sinh học được tạo ra bằng cách trộn đều 
dung dịch HA 0,1% với PVPA 30% sau đó trung 
hòa tính acid của hỗn hợp keo sinh học bằng 
NaOH, chuẩn độ sao cho pH của keo vào 
khoảng 7,0-7,04 nhằm tạo môi trường trung tính, 
không gây độc cho tế bào. Trong thí nghiệm này, 
có 5 mẫu đợc tạo ra bằng cách thay đổi nồng độ 
PVPA. Cụ thể hơn như thể tích của PVPA 30% 
được tăng dần từ 10, 20, 30, 40, 50µL vào từng 
ống nghiệm có chứa 0,1 mL HA 0,1%. Các ống 
nghiệm có chứa keo sinh học sau đó được chuẩn 
độ để điều chỉnh pH về mức 7-7,04 bằng NaOH 
0,1 M. Các ống nghiệm chứa mẫu sau đó được 
đánh số từ 1-5 tương ứng với từng tỉ lệ nồng độ 
PVPA (Xem bảng 1). 
Những ống nghiệm chứa mẫu keo sinh học 
sau đó được cho vào máy đông khô nhằm loại 
bỏ tất cả các phân tử nước có trong keo trước khi 
tiến hành cấy trên da chuột. Hình 1 là hình ảnh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Khoa học Cơ bản 55
keo sau 48 giờ xử lí bằng phương pháp đông 
khô. Keo dạng khô có dạng trụ tròn xốp có 
đường kính 1cm. Các hình trụ này sẽ được cắt 
thành khoanh tròn có độ dày 2 mm cho quá trình 
cấy mẫu lên động vật. 
15 con chuột bạch (20-26 g) dùng trong thí 
nghiệm được mua về từ viện Pasteur sẽ được 
nuôi 1 tuần trước khi phân thành 5 nhóm dùng 
trong thí nghiệm. Lông chuột ở khu vực lưng 
được làm sạch, sau đó 1 vết thương hình tròn 
đường kính 1cm tương đương được tạo ra bằng 
dao mổ. Vùng khuyết do bị cắt da sẽ được thay 
thế bằng mẫu keo. Quá trình vết thương lành 
được theo dõi từng ngày cho tới ngày thứ 14. 
Bảng 1: Tỉ lệ nồng độ của từng mẫu keo sinh học và 
độ pH tương ứng của các mẫu. 
Mẫu HA 1%(mL) PVPA 30% 
(mL) 
NaOH 2M 
(uL) 
pH 
1 0,1 0,01 15 6,5 
2 0,1 0,02 35 6,5-7 
3 0,1 0,03 50 7 
4 0,1 0,04 60 7 
5 0,1 0,05 70 7 
Hình 1: A) Hình dạng mẫu keo khô, B) vết thương nhân tạo trên lưng chuột, C) vết thương được cấy mẫu. 
Mẫu da quanh khu vực được cấy mẫu sẽ 
được cắt ra khỏi cơ thể chuột và xử lí phọc-môn 
trước khi nhuộm H&E để quan sát sự phát triển 
của tế bào bên trong mẫu. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Độ kết dính của mẫu và vết thương ngay 
sau khi cấy 
Nhằm khảo sát khả năng bám dính mô, keo 
khô được phủ lên vết thương. Theo như kết quả 
thu được sau thí nghiệm cấy mẫu lên vết 
thương, chỉ có mẫu số 2 và số 5 dính tốt với toàn 
bộ khu vực vết thương, mẫu số 0 và mẫu số 1 bị 
vỡ và rã thành những mảnh nhỏ nên không bám 
dính lên trên khu vực vết thương. Mẫu số 3 và số 
4 có độ chắc và cứng nhưng không đủ độ dẻo để 
kết dính hoàn toàn với vết thương nên đã bị rơi 
ra ngay sau khi cấy. Việc bám dính tốt của mẫu 2 
và mẫu 5 có thể giải thích rằng: mẫu 2 là mẫu tốt 
nhất, có phản ứng vừa đủ giúp cho mẫu bám 
dính tốt vào mô, trong khi mẫu 5 dính vào vết 
thương là nhờ vào lỗ xốp rộng, đủ để hút thấm 
máu và dính vào vết thương. 
Độ hồi phục của vết thương cho đến ngày 
thứ 7 sau khi cấy mẫu 
Qua kết quả quan sát các vết thương cho 
thấy ngay ngày thứ nhất và thứ hai sau khi cấy 
mẫu không có hiện tượng loại thải xảy ra, không 
gây kích ứng và không quan sát thấy ửng đỏ 
xung quanh vết thương. 
Qua quan sát nhóm vết thương không qua 
xử lí bằng keo cho thấy, cho đến ngày thứ 7 sau 
khi cấy, vết thương vẫn chưa ổn định dễ bị rách. 
Với nhóm chuột có vết thương được xử lí với 
keo sinh học mẫu số 2 và số 5 cho thấy vết 
thương khô nhanh và không còn chảy nước hay 
máu sau ngày thứ 2 sau khi cấy, vết thương thu 
hẹp nhanh hơn khi so sánh với vết thương chưa 
qua xử lí bằng keo. Từ ngày thứ 3 trở đi vết 
A B C 
1cm 
1cm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 56
thương khô và không có hiện tượng viêm hay 
mưng mủ, mẫu keo được cấy đã liên kết chắc 
chắn và tạo thành lớp vỏ bọc ngăn cách tốt vết 
thương với bụi bẩn và môi trường bên ngoài. 
Cho đến ngày thứ 7, vết thương được xử lí với 
mẫu keo số 2 và số 5 đã lành, khu vực xung 
quanh vết thương được cấy mẫu mọc nhiều lông 
và gần như có hình thái bình thường so với 
trước khi cạo để tạo vết thương. 
Hình 2: Hình ảnh của vết thương ngay sau khi cấy, và được quan sát sau các ngày thứ 2,3,4 và ngày thứ 7 với 
các mẫu không xử lý bằng keo và các mẫu có xử lý bằng keo. 
Quan sát tiêu bản 
Qua quan sát tiêu bảng mẫu da được xử lí 
với mẫu keo số 2 cho thấy, tế bào đã di chuyển 
và hình thành một lớp mô mới bù vào lớp da đã 
bị cắt đi, hình ảnh cho thấy: mô xung quanh vết 
thương liên kết tốt với mô mới hình thành trong 
vết thương, quan sát kỹ cho thấy có mạch máu 
nhỏ xung quanh khu vực cấy mẫu, các mô đã tái 
tạo có hình thái tương đối hoàn chỉnh. Tuy 
nhiên, khu vực cấy mẫu cho thấy mô chưa tái 
tạohoàn chỉnh, tế bào tập trung dày đặc và phân 
bố đồng đều. Vùng da xung quang vết thương 
đã hình thành lại lỗ chân lông và phân lớp các 
mô hoàn chỉnh. 
Tiêu bản mang mẫu keo số 5 cho kết quả 
quan sát bằng kính hiển vi gần như tương đồng 
với mẫu số 2 nhưng mạch máu bên trong khu 
vực xử lí bằng keo phát triển mạnh hơn và mật 
độ tế bào tập trung nhiều hơn. Tuy nhiên, nhìn 
chung thì mô mới hình thành trong mẫu số 5 
chưa hoàn thiện bằng mẫu số 2. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Khoa học Cơ bản 57
Hình 3: Sự phát triển của tế bào bên trong vết thương đã được xử lí bằng keo số 2(A), và keo số 5(B). 
KẾT LUẬN 
Nhằm tìm ra tỷ lệ thích hợp nhất của các chất 
tham gia trong keo HA/PVPA căn cứ vào kết 
quả khảo sát tính tương hợp sinh học trên mô 
hình chuột, chúng tôi đã cấy các mẫu này trên 
cùng một loại chuột với cùng kích thước. Kết quả 
cho thấy keo số 2 là keo tốt nhất, có thể ứng 
dụng điều trị vết thương da vì keo có tính bám 
dính mô rất tốt, tính bám dính này giúp bảo vệ 
da khỏi sự tấn công của vi khuẩn bên ngoài, 
ngoài ra keo số 2 còn có tính tương hợp sinh học 
caogiúp cho tế bào kết dính và phát triển. Với các 
tính chất trên, keo số 2 thích hợp để ứng dụng 
cho chữa trị vết thương trên da và kích thích vết 
thương da phục hồi nhanh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Burdick JA and Prestwich GD (2011). Hyaluronic acid hydrogels for 
biomedical applications. Advanced Materials, 23, H41-H56. 
2. Nguyen DT, Orgill DP, Murphy GF (2009). Chapter 4: The 
Pathophysiologic Basis for Wound Healing and Cutaneous 
Regeneration. Biomaterials For Treating Skin Loss, p. 32. 
3. Nguyen MK and Lee DS (2010). Injectable biodegradable 
hydrogels. Macromolecular Bioscience, 10, 563-579. 
4. Shah DN, Recktenwall-Work SM and Anseth KS (2008). The 
effect of bioactive hydrogels on the secretion of extracellular 
matrix molecules by valvular interstitial cells. Biomaterials, 29, 
2060-2072. 
A 
B 
500µm 
500µm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 58
5. Nguyen Thi Hiep, Kim YH, Song HY, Lee BT (2011). Nano Ag 
loaded PVA nano-fibrous mats for skin applications. Applied 
Biomaterials, 968(2): p. 8. 
6. Trần Văn Tiến (2011). Đánh giá hiệu quả của thuốc bôi 
DAIVONEX trong điều trị bệnh vảy nến thể thông thường. 
Tạp chí khoa học công nghệ. 89(01/2): 3 - 7 
7. Zheng SX, et al (2004) In situ crosslinkable hyaluronan 
hydrogels for tissue engineering. Biomaterials, 25, 1339-1348. 
Ngày nhận bài báo: 24/11/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2015 
Ngày bài báo được đăng: 15/02/2016