Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 14
NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ NGẮN HẠN CỦA PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP 
ĐỘNG MẠCH VÀNH QUA DA Ở BỆNH NHÂN 
HỘI CHỨNG MẠCH VÀNH CẤP RẤT CAO TUỔI 
Nguyễn Văn Tân*, Phạm Thị Thanh Tâm** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Những dữ liệu cho đối tượng bệnh nhân rất cao tuổi được can thiệp mạch vành qua da 
(CTMVQD) cho đến nay còn hạn chế và ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về kết quả của phương pháp 
CTMVQD trên bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp (HCMVC) rất cao tuổi. Tiên lượng ngắn hạn ở bệnh nhân 
HCMVC rất cao tuổi được CTMVQD vẫn còn chưa rõ. 
Mục tiêu: Xác định kết quả ngắn hạn ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp từ 80 tuổi trở lên được can 
thiệp động mạch vành qua da. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 6 năm 2015, chúng tôi đã tiến 
hành nghiên cứu 180 bệnh nhân HCMVC cao tuổi điều trị nội trú được CTMVQD tại khoa Tim mạch Cấp cứu 
và Can thiệp, Bệnh viện Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh. Các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu được chia 
thành hai nhóm: nhóm ≥80 tuổi (nhóm rất cao tuổi) có 79 bệnh nhân (43,9%), nhóm 60-79 tuổi (nhóm cao tuổi) 
có 101 bệnh nhân (56,1%). Nghiên cứu được thực hiện bằng phương pháp cắt ngang mô tả và theo dõi dọc. 
Kết quả: Các yếu tố nguy cơ bệnh mạch vành như tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, hút 
thuốc lá, tiền căn gia đình có bệnh mạch vành, tiền căn có can thiệp mạch vành trước đó không khác biệt có ý 
nghĩa thống kê giữa 2 nhóm, trong khi đó tỷ lệ bệnh thận mạn ở nhóm bệnh nhân rất cao tuổi cao hơn nhóm bệnh 
nhân cao tuổi (49,4% so với 28,7% với p<0,005). Tỷ lệ thành công về mặt thủ thuật, thành công về mặt lâm sàng 
của phương pháp CTMVQD ở nhóm bệnh nhân rất cao tuổi lần lượt là 93,7% và 87,3%, sự khác biệt giữa 2 
nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ tử vong nội viện, các biến cố tim mạch nặng trong thời gian nằm viện 
cũng khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm tuổi. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong sau 30 ngày CTMVQD ở 
nhóm bệnh nhân rất cao tuổi nhiều hơn nhóm cao tuổi (8,9% so với 1%) và tỷ lệ biến chứng xuất huyết, suy tim 
trái cấp và tỷ lệ bệnh thận do thuốc cản quang sau can thiệp lần lượt là 13,9%; 19% và 12,7%, cao hơn có ý nghĩa 
thống kê so với nhóm cao tuổi. 
Kết luận: CTMVQD ở bệnh nhân rất cao tuổi có tỷ lệ thành công cao, kết quả ngắn hạn khả quan, tuy nhiên 
biến chứng xuất huyết, suy tim trái cấp và biến chứng bệnh thận do thuốc cản quang sau CTMVQD nhiều hơn 
nhóm cao tuổi. 
Từ khóa: kết quả ngắn hạn, hội chứng mạch vành cấp, can thiệp mạch vành qua da, rất cao tuổi 
ABSTRACT 
SHORT-TERM RESULTS OF PERCUTANEOUS CORONARY INTERVENTION IN VERY ELDERLY 
PATIENTS WITH ACUTE CORONARY SYNDROME 
Nguyen Van Tan, Pham Thi Thanh Tam 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 14 - 21 
Background: Until now, the data of percutaneous coronary intervention (PCI) in very elderly patients with 
acute coronary syndrome is rare. There is no study about the PCI in very elderly Vietnamese patients. Short-term 
* Bộ môn Lão khoa – Đại học Y Dược TP.HCM, ** Bệnh viện 30-4 TP.HCM 
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Văn Tân ĐT: 0903739273 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 15
results of percutaneous coronary intervention in very elderly patients with acute coronary syndrome is not clear. 
Objective: To identify short-term results of percutaneous coronary intervention in very elderly patients with 
acute coronary syndrome. 
Subjects and methods: From January 2014 to June 2015, we have enrolled 180 elderly in-patients with 
acute coronary syndrome treated at the Department of Emergency and Cardiovascular Intervention, Thong Nhat 
hospital in Ho Chi Minh City. The patients were categoried into two groups: the group ≥80 years old (very elderly 
group) comprised 79 patients (43.9%), the group 60-79 years old (older group) comprised 101 patients (56.1%). 
This was descriptive, cross sectional and longitudinal research. 
Results: Risk factors for coronary disease consisted of hypertension, diabetes, dyslipidemia, smoking, history 
of coronary disease and PCI were not different between the two groups. The percentages of chronic kidney disease 
in very elderly patient group was higher (49.4% in comparision with 28.7%, p<0.005). Procedure and clinical 
success rates of PCI method in very elderly patients were 93.7% and 87.3%. In-hospital mortality and major 
adverse cardiac events (MACE) rates of very eldely patients were higher in comparision with older patients but 
this differences bettween two groups have no statistical significance. However, 30- day mortality after PCI in very 
elderly was higher than the older patient group (8.9% vs. 1%) and the rate of bleeding complications, acute heart 
failure and contrast induced nephropathy after PCI (13.9%; 19% and 12.7%, respectively) were higher than the 
older patient group statistically. 
Conclusions: PCI in the very elderly patients had a high success rate and short-term results was so good. 
However, the rate of bleeding, acute heart failure and contrast induced nephropathy complications after PCI were 
more than in the very elderly patient group. 
Key words: short-term results, acute coronary syndrome, percutaneous coronary intervention, very elderly 
MỞ ĐẦU 
Bệnh mạch vành rất phổ biến ở người cao 
tuổi, đặc biệt ở dân số rất cao tuổi. Theo thống kê 
tại Hoa Kỳ cho thấy 20 - 40% bệnh mạch vành ở 
người từ 80 tuổi trở lên. Các nghiên cứu gần đây 
trên thế giới chỉ ra xu hướng bệnh nhân rất cao 
tuổi bị HCMVC ngày được can thiệp mạch vành 
qua da nhiều hơn(9). Một số nghiên cứu nước 
ngoài đã cho thấy lợi ích của can thiệp mạch 
vành qua da trên bệnh nhân rất cao tuổi bị 
HCMVC, nhưng phần lớn các chứng cứ ở mức 
độ thấp(8). Tuy nhiên, các thử nghiệm lâm sàng 
lớn lại có xu hướng thu nhận ít hay không thu 
nhận bệnh nhân rất cao tuổi. Vì thế những chỉ 
định can thiệp cho bệnh nhân rất cao tuổi hiện 
nay còn thiếu các cơ sở dữ liệu từ các thử 
nghiệm lớn. Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu 
nào về tiên lượng sau CTMVQD trên bệnh nhân 
HCMVC rất cao tuổi. Do đó, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của 
phương pháp CTMVQD ở bệnh nhân hội chứng 
mạch vành cấp từ 80 tuổi trở lên. Từ đó rút ra 
kinh nghiệm thực tiễn trong can thiệp động 
mạch vành qua da ở nhóm bệnh nhân này. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 6 năm 2015 
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu 180 bệnh 
nhân HCMVC cao tuổi điều trị nội trú được can 
thiệp mạch vành qua da tại khoa Tim mạch Cấp 
cứu và Can thiệp - bệnh viện Thống Nhất thành 
phố Hồ Chí Minh. Các bệnh nhân trong mẫu 
nghiên cứu được chia thành hai nhóm: nhóm 
≥80 tuổi (nhóm rất cao tuổi) có 79 bệnh nhân 
(43,9%), nhóm 60-79 tuổi (nhóm cao tuổi) có 101 
bệnh nhân (56,1%). 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện bằng phương 
pháp nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang mô tả và 
theo dõi dọc. 
Các bước tiến hành nghiên cứu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 16
Thăm khám lâm sàng và làm đầy đủ các xét 
nghiệm cơ bản (ECG, siêu âm tim, lipid máu, 
chức năng thận, chức năng đông máu). Chụp và 
can thiệp động mạch vành tại phòng thông tim 
bệnh viện Thống Nhất bằng máy chụp mạch 
máu số xóa nền AXIOM của hãng Siemen (Đức) 
với kỹ thuật chọc mạch qua da SELDINGER ở 
động mạch đùi hoặc quay. Tổng kết các số liệu 
về đặc điểm lâm sàng, hình ảnh tổn thương, kỹ 
thuật can thiệp, kết quả và biến chứng theo mẫu 
được thiết kế sẵn sau mỗi trường hợp chụp và 
can thiệp mạch vành qua da. 
Qui trình theo dõi sau thủ thuật 
Bệnh nhân được lưu tại phòng săn sóc đặc 
biệt của khoa Tim mạch trong vòng 24 giờ sau 
thủ thuật. Các xét nghiệm men tim và ECG được 
làm ngay sau tiến hành thủ thuật vào giờ thứ 6 
và giớ thứ 24. Các xét nghiệm công thức máu và 
chức năng thận được làm ngày hôm sau. 
Định nghĩa các biến số 
Cách tính tổn thương động mạch vành 
(ĐMV) bằng phần mềm QCA cài đặt sẳn trong 
máy. Được gọi là tổn thương có ý nghĩa khi hẹp 
≥ 50% đường kính thân chung ĐMV trái hoặc ≥ 
70% đường kính của 3 nhánh chính ĐMV (động 
mạch xuống trước trái, động mạch vành mũ, 
động mạch vành phải). Các tiêu chuẩn chẩn 
đoán nhồi máu cơ tim cấp, các biến số khác như 
tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh thận mạn, 
suy tim trái cấp, bệnh thận do thuốc cản quang 
đều dựa theo các tiêu chuẩn chẩn đoán mới nhất 
hiện nay. 
Theo dõi bệnh nhân sau khi xuất viện 
Tất cả bệnh nhân sau khi xuất viện sẽ được 
theo dõi tại phòng khám bệnh viện Thống Nhất. 
Nếu bệnh nhân không tái khám thì chúng tôi sẽ 
liên hệ trực tiếp qua điện thoại. Toàn bộ bệnh 
nhân trong mẫu nghiên cứu sẽ được chúng tôi 
trực tiếp gọi điện thoại để biết được tình trạng 
sống còn, lý do tái nhập viện và tử vong trong 
thời gian 30 ngày sau CTMVQD. 
Phân tích thống kê 
Các số liệu được trình bày dưới dạng tỷ lệ 
đối với biến định tính và trung bình ± độ lệch 
chuẩn, nếu phân bố không chuẩn: trung vị, giá 
trị tương ứng với 25% và 75% đối với biến định 
lượng. Dùng phép kiểm định chi bình phương 
(có hiệu chỉnh Fisher) để kiểm định sự khác biệt 
tỷ lệ giữa 2 nhóm của biến số định tính và phép 
kiểm định t-student cho 2 giá trị trung bình giữa 
2 nhóm của biến số định lượng. Tất cả các phép 
kiểm đều được thực hiện bằng phần mềm SPSS 
16.0 for Window. 
Y đức nghiên cứu 
Đây là nghiên cứu quan sát, không can thiệp 
vào quá trình điều trị, tất cả thông tin của bệnh 
nhân được giữ kín chỉ để phục vụ cho mục đích 
nghiên cứu và đề tài đã được thông qua Hội 
đồng Y đức của bệnh viện Thống Nhất. 
KẾT QUẢ 
Tăng huyết áp là YTNC thường gặp nhất ở 
cả 2 nhóm tuổi và chiếm tỷ lệ cao nhất (83,5% và 
83,2%). Sự khác biệt về YTNC tim mạch của 
nhóm rất cao tuổi và nhóm cao tuổi không có ý 
nghĩa thống kê. Bệnh thận mạn là bệnh đi kèm 
thường gặp nhất ở cả 2 nhóm tuổi. Tỷ lệ bệnh 
thận mạn ở nhóm bệnh nhân rất cao tuổi cao 
hơn nhóm bệnh nhân cao tuổi (49,4% so với 
28,7%), có ý nghĩa thống kê với p=0,005. 
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng và các yếu tố nguy cơ 
(YTNC) tim mạch 
Đặc điểm Nhóm rất cao 
tuổi (n=79) 
Nhóm cao tuổi 
(n=101) 
Giá trị p 
Tuổi trung bình 
(TB± SD) 
83,1± 2,7 70,6± 5,0 <0,0001 
Nam, n (%) 64 (45,7) 76 (75,2) 0,356 
Béo phì (BMI>25), 
n (%) 
12 (15,2) 27 (26,7) 0,062 
Tăng huyết áp, 
n (%) 
66 (83,5) 84 (83,2) 0,946 
Đái tháo đường, 
n (%) 
31 (39,2) 28 (83,2) 0,102 
Hút thuốc lá, n (%) 17 (21,5) 26 (25,7) 0,108 
Rối loạn lipid máu, 
n (%) 
17 (21,5) 26 (25,7) 0,108 
Bệnh thận mạn 
gđ 3-5, n (%) 
39 (49,4) 29 (28,7) 0,005 
COPD, n (%) 13 (16,5) 5 (5,6) 0,220 
Tiền sử đột qụy, 
n (%) 
10 (12,7) 9 (8,9) 0,417 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 17
Tiền sử NMCT, 
n (%) 
12 (15,2) 9 (8,9) 0,193 
Tiền sử 
CTMVQD, n (%) 
10 (12,7) 8 (7,9) 0,293 
Bảng 2. Tỷ lệ thành công về mặt thủ thuật và lâm 
sàng của phương pháp CTMVQD 
CTMVQD Nhóm rất cao 
tuổi n = 79 
Nhóm cao tuổi 
n = 101 
Giá trị p 
Có Không Có Không 
Thành công về 
mặt thủ thuật (%) 
93,7 6,3 95,0 5,0 0,471 
Thành công về 
mặt lâm sàng (%) 
87,3 12,7 92,1 7,9 0,293 
Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhóm rất cao 
tuổi có tỷ lệ thành công về mặt thủ thuật và lâm 
sàng của phương pháp CTMVQD cao, lần lượt là 
93,7% và 87,3%. So sánh với nhóm cao tuổi, tỷ lệ 
thành công thủ thuật và lâm sàng ở nhóm rất cao 
tuổi thấp hơn (93,7% so với 95% và 87,3% so với 
92,1%), tuy nhiên sự khác biệt này không có ý 
nghĩa thống kê. 
Bảng 3. Biến cố tim mạch nặng trong thời gian nằm 
viện 
Biến cố Nhóm rất 
cao tuổi 
Nhóm 
cao tuổi 
p 
Tử vong, n (%) 5 (6,3) 1 (1,0) 0,880 
NMCT sau PCI, n (%) 2 (2,5) 1 (1,0) 0,583 
Đột quỵ não, n (%) 2 (2,5) 1 (1,0) 0,583 
Tỷ lệ biến chứng tim mạch nặng của nhóm 
rất cao tuổi cao hơn nhóm cao tuổi. Tỷ lệ tử vong 
trong thời gian nằm viện (tỷ lệ tử vong nội viện) 
bao gồm các trường hợp tử vong trong thời gian 
nằm viện và những trường hợp bệnh nặng xin 
về (xem như tử vong) của nhóm rất cao tuổi cao 
hơn nhóm cao tuổi (6,3% so với 1,0%), nguyên 
nhân tử vong trong thời gian nằm viện của 
nhóm bệnh nhân rất cao tuổi phần lớn là do sốc 
tim không hồi phục (bảng 3). 
Tỷ lệ tử vong ở nhóm bệnh nhân NMCT cấp 
STCL cao hơn so với nhóm HCMV cấp KSTCL 
(12,1% so với 2,2%). Về biến chứng đột qụy, 
NMCT sau can thiệp chúng tôi ghi nhận có 2 
trường hợp (2,5%). Tuy nhiên, sự khác biệt về tỷ 
lệ mắc những biến chứng này giữa 2 nhóm tuổi 
không có ý nghĩa thống kê. Chúng tôi không ghi 
nhân trường hợp nào phải phẫu thuật bắc cầu 
mạch vành (PTBCMV) cấp cứu vì biến chứng 
của CTMVQD ở cả 2 nhóm tuổi. 
Tỷ lệ biến cố tim mạch nặng (MACE) 30 
ngày đầu CTMVQD ở nhóm rất cao tuổi cao hơn 
nhóm cao tuổi (13,9% so với 4,0%) với p = 0,016. 
Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận tử vong trong 30 
ngày sau CTMVQD ở nhóm rất cao tuổi là 7 
trường hợp (8,9%), nhóm cao tuổi là 1 trường 
hợp (1%). Tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân NMCT cấp 
STCL rất cao tuổi cao hơn nhóm HCMV cấp 
KSTCL (12,1% so với 6,5%), nhưng sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (bảng 4). 
Bảng 4. Biến cố tim mạch nặng trong 30 ngày sau 
CTMVQD 
Biến cố Nhóm rất cao 
tuổi n = 79 
Nhóm cao 
tuổi n = 101 
P 
Tử vong, n (%) 7 (8,9) 1 (1,0) 0,022 
NMCT sau PCI, n (%) 5 (5,3) 2 (2,0) 0,243 
Đột qụy, n (%) 2 (2,5) 1 (1,0) 0,583 
PTBCMV, n (%) 0 (0) 0 (0) - 
MACE, n (%) 11 (13,9) 4 (4,0) 0,016 
Bảng 5. Biến chứng mạch máu do CTMVQD 
Biến chứng Nhóm rất cao 
tuổi n = 79 
Nhóm cao 
tuổi n = 101 
p 
Bóc tách ĐMV, n (%) 1 (1,3) 0 (0,0) 0,439 
Thủng ĐMV 0 (0) 0 (0) - 
Tụ máu nơi chọc kim, 
n (%) 
9 (11,4) 5 (5,0) 0,109 
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ghi nhận 1 
trường hợp tử vong ở nhóm bệnh nhân rất cao 
tuổi do biến chứng bóc tách mạch vành trong 
quá trình CTMVQD, chiếm tỷ lệ 1,3%. Tỷ lệ tụ 
máu nơi chọc kim ở nhóm rất cao tuổi cao hơn so 
với nhóm cao tuổi (10,1% so với 5,0%). So sánh 
với nhóm cao tuổi, sự khác biệt này không có ý 
nghĩa thống kê. 
Bảng 6. Biến chứng nội khoa 
Biến chứng Nhóm rất cao 
tuổi n = 79 
Nhóm cao 
tuổi n = 101 
p 
Suy tim trái cấp, n (%) 1 (19) 0 (7,9) 0,027 
Biến chứng xuất huyết, 
n(%) 
0 (13,9) 0 (5,0) 0,036 
Bệnh thận do thuốc 
cản quang,n(%) 
9 (12,7) 5 (3,0) 0,013 
Tỷ lệ biến chứng suy tim trái cấp, xuất huyết 
và biến chứng bệnh thận do thuốc cản quang sau 
CTMVQD ở nhóm rất cao tuổi lần lượt là 19%, 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 18
13,9% và 12,7%, cao hơn so với nhóm cao tuổi có 
ý nghĩa thống kê. 
BÀN LUẬN 
Yếu tố nguy cơ tim mạch và các bệnh lý đi kèm 
Bệnh nhân HCMVC rất cao tuổi với YTNC 
tim mạch cao và thường có nhiều bệnh lý đi kèm 
ảnh hưởng tới chỉ định thông tim cũng như kết 
quả điều trị. Trong nghiên cứu của chúng tôi 
bệnh lý đi kèm thường gặp nhất ở nhóm cao tuổi 
và rất cao tuổi là bệnh thận mạn. Tỷ lệ bệnh 
nhân rất cao tuổi có bệnh thận mạn cao hơn 
nhóm cao tuổi (49,4% so với 28,7% với p< 0,005). 
Tỷ lệ bệnh nhân rất cao tuổi có bệnh thận mạn 
trong nghiên cứu của chúng tôi tương tự như 
trong nghiên cứu của tác giả Oduncu V(9) ở Hà 
Lan nhưng khác với tỷ lệ bệnh thận mạn trong 
nghiên cứu của tác giả Moonen L và Ki HL(7) 
(2,1% và 4,1%) do tiêu chuẩn đánh giá bệnh thận 
mạn (dựa trên nồng độ creatinine > 2,1mg%), 
khác với nghiên cứu của chúng tôi. 
Trong thực hành lâm sàng, bệnh nhân rất 
cao tuổi thường bị từ chối can thiệp do có nhiều 
bệnh lý đi kèm vì đó là yếu tố dự báo kết cục xấu 
trong NMCT cấp ST chênh lên. Tuy nhiên, bệnh 
nhân rất cao tuổi với nhiều YTNC tim mạch lại 
nhận được lợi ích cao từ phương pháp 
CTMVQD. Vì vậy, khi bệnh nhân HCMVC rất 
cao tuổi nhập viện, cần được nhận biết và phân 
biệt rõ tình trạng có thể điều chỉnh được (đau 
ngực kéo dài, mức độ nặng của bệnh mạch vành, 
rối loạn huyết động cấp tính) và những nguy cơ 
không điều chỉnh được (rất cao tuổi, tổn thương 
cơ tim trước đó, rối loạn chức năng thận mạn 
tính, các bệnh lý đi kèm khác) để lựa chọn chiến 
lược điều trị thích hợp cho mỗi bệnh nhân. 
Tỷ lệ thành công (thủ thuật, lâm sàng) và biến 
chứng của phương pháp CTMVQD 
Trong thời gian 10 năm gần đây, với sự ra 
đời của nhiều stent mạch vành thế hệ mới, kỹ 
thuật can thiệp qua đường động mạch quay phổ 
biến hơn và những tiến bộ trong thuốc điều trị 
đã làm tăng tỷ lệ thành công và giảm tỷ lệ biến 
chứng của CTMVQD. Các nghiên cứu về 
CTMVQD ở bệnh nhân rất cao tuổi cho rằng 
những lợi ích đem lại nhờ những tiến bộ này 
thậm chí cao hơn ở bệnh nhân rất cao tuổi do họ 
có yếu tố nguy cơ nền cao(6). 
Tỷ lệ thành công về mặt thủ thuật và lâm 
sàng của phương pháp CTMVQD ở nhóm 
bệnh nhân rất cao tuổi trong nghiên cứu của 
chúng tôi là khá cao. So với nhóm cao tuổi, tỷ 
lệ thành công thủ thuật và lâm sàng ở nhóm 
bệnh nhân rất cao tuổi thấp hơn (93,7% so với 
95% và 87,3% so với 92,1%), nhưng sự khác 
biệt này không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ 
thành công của chúng tôi cũng gần tương tự 
với các tác giả khác như Behan M(1) là 94%, 
Poorhosseini H(5) là 93,6%, Ertan O(4) là 93,2%. 
Như vậy: “rất cao tuổi” không là yếu tố để 
quyết định không CTMVQD và chúng tôi ủng 
hộ cho quan điểm CTMVQD không nên bị từ 
chối vì lý do “rất cao tuổi” đơn thuần. 
Biến chứng nội viện của phương pháp 
CTMVQD ở bệnh nhân rất cao tuổi 
Mặc dù cao tuổi không là chống chỉ định của 
CTMVQD ở bệnh nhân bị HCMV cấp, tuy nhiên 
trong các hướng dẫn thực hành hiện nay đều 
cảnh báo bệnh nhân rất cao tuổi có nhiều nguy 
cơ biến chứng thủ thuật hơn. Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi về tỷ lệ tử vong nội viện bao 
gồm các trường hợp tử vong và những trường 
hợp bệnh nặng xin về (xem như tử vong) của 
nghiên cứu chúng tôi là 6,3% (5 bệnh nhân). Tỷ 
lệ tử vong ở nhóm NMCT cấp STCL trong 
nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự một số 
tác giả khác như Ki HL(6) ở Hàn Quốc là 11,4 %, 
tác giả Vecih Oduncu(11) ở Thổ Nhĩ Kỳ là 14,5 %. 
Trong nghiên cứu sổ bộ CTMVQD rút ra từ 
dữ liệu tim mạch quốc gia (National 
Cardiovascular Data registry - CathPCI registry) 
giữa năm 2001 và 2006, Singh và cộng sự cho 
thấy xu hướng tỷ lệ tử vong nội viện giảm ở 
nhóm bệnh nhân rất cao tuổi từ năm 2001 và 
2006. Sự giảm tỷ lệ tử vong này có thể do sự kết 
hợp của việc chọn bệnh nhân được cải thiện, 
những tiến bộ của kỹ thuật can thiệp và sử dụng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 19
rộng rãi hơn các thuốc quanh thủ thuật dựa trên 
bằng chứng giúp cân bằng tốt hơn các nguy cơ 
của huyết khối và chảy máu. 
Tỷ lệ NMCT sau can thiệp, đột quỵ ở nhóm 
bệnh nhân rất cao tuổi không khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với nhóm cao tuổi. So sánh với 
kết quả nghiên cứu của tác giả Gerard Devlin(3) 
nghiên cứu trên 620 bệnh nhân rất cao tuổi thì tỷ 
lệ NMCT cấp và đột quỵ sau CTMVQD lần lượt 
là 0,8% và 0,9%, thì tỷ lệ NMCT do can thiệp và 
đột quỵ chúng tôi thấp hơn có lẽ do mẫu nghiên 
cứu của chúng tôi ít hơn. 
Bệnh nhân rất cao tuổi có tỷ lệ xuất huyết cao 
hơn so với nhóm cao tuổi (13,9% so với 5%), có ý 
nghĩa thống kê với p = 0,036. Tuy nhiên, sự khác 
biệt về tỷ lệ xuất huyết nặng giữa 2 nhóm không 
có ý nghĩa thống kê. So sánh với tác giả Gerard 
Devlin(3) nghiên cứu trên 620 bệnh nhân rất cao 
tuổi thì tỷ lệ xuất huyết nặng của chúng tôi thấp 
hơn (2,5% so với 7%), có lẽ do mẫu nghiên cứu 
của chúng tôi chưa đủ lớn. Ngược lại, so sánh 
với tác giả Ki HL(6) tại Hàn Quốc, thì tỷ lệ xuất 
huyết nặng của chúng tôi lại cao hơn (2,5% so 
với 0,3%). Sở dĩ có sự khác biệt này là do trong 
nghiên cứu của chúng tôi và nghiên cứu của tác 
giả Ki HL sử dụng định nghĩa về mức độ xuất 
huyết khác nhau(6) và trong nghiên cứu của 
chúng tôi có ít bệnh nhân NMCT cấp STCL hơn. 
Xuất huyết sau CTMVQD là biến chứng 
thường gặp nhất trên bệnh nhân rất cao tuổi do 
bệnh nhân có nhiều bệnh đi kèm, bao gồm bệnh 
lý xơ vữa nhiều cơ quan, tăng huyết áp, suy 
giảm chức năng thận và đường vào mạch máu 
thường từ động mạch đùi vì tình trạng huyết 
động không ổn định hoặc sốc khi nhập viện. Gần 
như toàn bộ các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, vị trí 
đường vào động mạch liên quan đến biến chứng 
thủ thuật, đặc biệt là biến chứng xuất huyết ở 
bệnh nhân rất cao tuổi. Bệnh nhân rất cao tuổi 
dường như có nguy cơ xuất huyết cao hơn, thậm 
chí cả khi can thiệp chương trình. Sử dụng 
đường vào động mạch quay, đánh giá nguy cơ 
xuất huyết trước thủ thuật và có chiến lược sử 
dụng kháng đông theo hướng dẫn giúp làm 
giảm nguy cơ biến chứng xuất huyết ở bệnh 
nhân rất cao tuổi(12). 
Theo nghiên cứu hồi cứu của Rihal và cộng 
sự(12) tại Mayo Clinic gồm 7.586 bệnh nhân, tỷ lệ 
bệnh thận do thuốc cản quang mắc phải sau 
CTMVQD trong dân số chung là 3,3% và chạy 
thận nhân tạo là 0,3%. Tuy nhiên ở đối tượng 
nguy cơ cao (rất cao tuổi) thì tỷ lệ này lên đến 
20%. Bệnh nhân rất cao tuổi có nguy cơ cao bị 
bệnh thận do thuốc cản quang sau CTMVQD, 
nhưng lý do thực sự chưa rõ ràng. Các nhà 
nghiên cứu cho rằng bệnh thận do thuốc cản 
quang hay gặp ở người cao tuổi do đa yếu tố, 
bao gồm chức năng lọc cầu thận, chức năng ống 
thận suy giảm do tích tuổi. Thêm vào đó, bệnh 
nhân cao tuổi nói chung và đặc biệt ở bệnh nhân 
rất cao tuổi có nguy cơ cao bị bệnh thận cản 
quang sau CTMVQD do tổn thương mạch vành 
phức tạp nên thường cần lượng cản quang nhiều 
hơn trong thủ thuật làm tăng nguy cơ bệnh thận 
do thuốc cản quang sau CTMVQD. Bệnh thận 
cản quang đã được biết là yếu tố tiên lượng tử 
vong ngắn hạn và cả tử vong dài hạn. Can thiệp 
cấp cứu và cao tuổi là những yếu tố nguy cơ của 
bệnh thận do thuốc cản quang. Nếu chủ động 
dùng ít thuốc cản quang hoặc kỹ thuật can thiệp 
tốt thì lượng thuốc cản quang sẽ ít hơn. Việc dự 
phòng bệnh thận do thuốc cản quang, đặc biệt 
cho bệnh nhân rất cao tuổi khi CTMVQD là cần 
thiết bao gồm bù đủ dịch, dùng lượng cản quang 
thấp nhất có thể, ngưng thuốc metformin, 
nonsteroide 
Trong nghiên cứu chúng tôi, tỷ lệ bệnh thận 
do thuốc cản quang ở bệnh nhân rất cao tuổi cao 
hơn nhóm cao tuổi (12,7% so với 3%) có ý nghĩa 
thống kê, với p = 0,013. So sánh với các tác giả 
khác như Vecih Oduncu ở Thổ Nhĩ Kỳ thì tỷ lệ 
bệnh thận do thuốc cản quang trong nghiên cứu 
của chúng tôi thấp hơn (12,7% so với 31%). Sự 
khác biệt này do trong nghiên cứu của Vecih 
Oduncu(9) phần lớn đối tượng can thiêp cấp cứu 
NMCT cấp STCL, còn trong nghiên cứu chúng 
tôi loại can thiệp chương trình chiếm tỷ lệ cao 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 20
hơn nên bệnh nhân được dự phòng biến chứng 
tốt hơn. 
Tỷ lệ biến cố tim mạch nặng (tử vong, NMCT, 
đột quỵ) trong 30 ngày sau CTMVQD 
Tỷ lệ tử vong 30 ngày sau CTMVQD ở 
bệnh nhân rất cao tuổi cao hơn nhóm cao tuổi 
(8,9% so với 1%, với p = 0,022). Lý giải một 
phần cho kết quả này là do bệnh nhân rất cao 
tuổi có tỷ lệ sốc tim khi nhập viện cao hơn 
(7,6% so với 3%). Trong nghiên cứu của tác giả 
L. Monen tại Hà Lan cho thấy tỷ lệ tử vong 
trong 30 ngày sau CTMVQD ở nhóm ≥ 80 tuổi 
cao hơn nhóm < 80 tuổi. Tuy nhiên, khi hiệu 
chỉnh theo tuổi thì tỷ lệ tử vong trong 30 ngày 
sau CTMVQD của nhóm rất cao tuổi không 
cao hơn nhóm trẻ tuổi hơn. Năm 2013, Tác giả 
Antonsen L và cộng sự đánh giá kết quả sau 
CTMVQD trên bệnh nhân HCMV cấp STCL 
rất cao tuổi qua nghiên cứu sổ bộ cho thấy tỉ lệ 
tử vong trong 30 ngày sau CTMVQD là 17,9%, 
trong khi đó tỷ lệ tử vong 1 năm sau 
CTMVQD là 27,2% và 5 năm sau CTMVQD là 
41,1%. Bệnh nhân NMCT cấp STCL rất cao 
tuổi có tỷ lệ tử vong 30 ngày và 1 năm sau 
CTMVQD cao hơn so với bệnh nhân ở nhóm 
tuổi trẻ hơn, có lẽ do bệnh nhân rất cao tuổi có 
nhiều bệnh lý đi kèm và phần lớn có tiền sử 
bệnh tim thiếu máu cục bộ có rối loạn chức 
năng thất trái. Chính điều này dẫn đến tiên 
lượng kém hơn ở bệnh nhân NMCT cấp STCL 
được CTMVQD. 
Trong NMCT cấp STCL, so sánh với điều trị 
tiêu sợi huyết hoặc điều trị nội khoa bảo tồn, 
CTMVQD đã được chứng minh làm giảm tử 
vong cũng như biến chứng. Bệnh nhân NMCT 
cấp STCL rất cao tuổi thường có nhiều nguy cơ 
dẫn đến chống chỉ định với tiêu sợi huyết. Chỉ 
định tiêu sợi huyết trên bệnh nhân NMCT cấp 
STCL giảm dần theo tích tuổi. CTMVQD làm 
giảm tái thiếu máu cơ tim hơn so với tiêu sợi 
huyết 1 năm sau can thiệp và trong những năm 
theo dõi tiếp theo. Tỷ số nguy cơ - lợi ích của 
CTMVQD vượt trội hơn so với điều trị bằng tiêu 
sợi huyết ở bệnh nhân rất cao tuổi. Vì vậy, 
CTMVQD là lựa chọn phù hợp nhất cho chiến 
lược tái thông mạch máu ở bệnh nhân NMCT 
cấp STCL rất cao tuổi(2). 
Cao tuổi được xem như là 1 yếu tố nguy cơ 
độc lập dự đoán tử vong và biến chứng ở bệnh 
nhân HCMV cấp KSTCL. So với bệnh nhân trẻ 
tuổi hơn, bệnh mạch vành ở bệnh nhân rất cao 
tuổi thường có tổn thương mạch vành phức tạp, 
bệnh nhân có nhiều bệnh lý đi kèm hơn và dễ bị 
biến chứng sau CTMVQD hơn. Một phân tích 
gồm 18.466 bệnh nhân trong nghiên cứu GRACE 
(bệnh nhân rất cao tuổi chiếm 16%), cho thấy tỷ 
lệ biến chứng trong bệnh viện và 30 ngày sau 
CTMVQD (suy tim, tái thiếu máu cơ tim, chảy 
máu nặng và tử vong) thấp hơn ở bệnh nhân rất 
cao tuổi được CTMVQD so với nhóm điều trị nội 
khoa đơn thuần. Theo dõi đến thời điểm 6 tháng, 
tỷ lệ NMCT và biến cố tim mạch nặng thấp hơn 
có ý nghĩa thống kê ở nhóm bệnh nhân rất cao 
tuổi được CTMVQD so với nhóm điều trị nội 
khoa. Phân tích hồi quy đa biến đã khẳng định 
lợi ích của CTMVQD trong các tiêu chí nghiên 
cứu chính (đột quỵ, tử vong và NMCT trong 6 
tháng sau CTMVQD). Như vậy, đối với bệnh 
nhân HCMV cấp KSTCL rất cao tuổi, CTMVQD 
phối hợp với điều trị nội khoa đem lại lợi ích 
vượt trội so với điều trị nội khoa đơn thuần(12). 
KẾT LUẬN 
CTMVQD ở bệnh nhân rất cao tuổi có tỷ lệ 
thành công cao, kết quả ngắn hạn khả quan và tỷ 
lệ biến chứng chấp nhận được, vì thế “rất cao 
tuổi” không phải là yếu tố quyết định không can 
thiệp. Bệnh nhân rất cao tuổi có tổn thương 
mạch vành nặng và phức tạp, biến chứng xuất 
huyết, suy tim trái cấp và bệnh thận do thuốc 
cản quang sau CTMVQD nhiều hơn nhóm cao 
tuổi, do đó cần đặc biệt chú ý việc dự phòng các 
biến chứng này trước và sau CTMVQD. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Behan M, et al (2009), “PCI in octogenarians - our centre ‘real 
world’ experience”, Age and Ageing, 38(4), pp. 469 – 473. 
2. Dangas GD, Singh HS (2010), “Primary percutaneous coronary 
intervention in octogenarians: navigate with caution”, Heart, 96, 
813 – 814. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 21
3. Devlin G, Gore JM, Alliott J anf at al (2008), Management and 6-
month outcomes in elderly and very alderly patients with high-
risk non-ST-elevation acute coronary syndromes: The Global 
Registry of Acute Coronary Events, Eur Heart J 29(10): pp. 1275-
82. 
4. Ertan O (2013). “Primary percutaneous coronary intervention in 
octogenarians”.Türk Kardiyol Dern Ars - Arch Turk Soc Cardiol; 
41(4): 329 – 331. 
5. Hamidreza P (2011), “Success Rate, Procedural Complications 
and Clinical Outcomes of Coronary Interventions in 
Octogenarians: a Case-Control Study”, J Teh Univ Heart Ctr, 6(3): 
126 – 133 
6. Jaber WA, et al (2005), “Application of evidence -based medical 
therapy is associated with improved outcomes after 
percutaneous coronary intervention and is a valid quality 
indicator”, J Am Coll Cardiol, 46m, 1473 – 1478. 
7. Ki HL (2014), “Characteristics, In-Hospital and Long-Term 
Clinical Outcomes of Nonagenarian Compared with 
Octogenarian Acute Myocardial Infarction Patients”, Korean Med 
Sci, 29, 527 - 535. 
8. McKellar SH, Brown ML, Frye RL, Schaff HV, Sundt TM 3rd 
(2008), “Comparison of coronary revascularization procedures 
in octogenarians: a systematic review and meta – analysis”, Nat 
Clin Pract Cardiovasc Med, 5(11), pp. 738 – 746. 
9. Oduncu V, Erkol A and et al (2013), Comparison of early and 
late clinical outcomes in patients≥80 versus<80 years of age after 
successful primary angioplasty for ST segment elevation 
myocardial, Arch Turk Soc Cardiol, 41(4): 319-328. 
10. Rajani R, et al (2011), “Evolving trends in percutaneous coronary 
intervention”, Br J Cardiol, 18, 73–76. 
11. Rajani R, et al (2011), “Evolving trends in percutaneous coronary 
intervention”, Br J Cardiol, 18, 73–76. 
12. Rihal CS, Kashani KB (2011), “Intravascular volume expansion 
before primary angioplasty for prevention of acute kidney 
injury: hydration or dilution? Circ Cardiovasc Interv, 4(5): 
pp.405-6. 
13. Shanmugam VB (2015), “An overview of PCI in the very 
elderly”, Journal of Geriatric Cardiology, 12, 174−184. 
Ngày nhận bài báo: 18/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018