Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
905 
NGHIÊN CỨU DIỄN BIẾN MẬT ĐỘ RUỒI ĐỤC QUẢ PHƯƠNG ĐÔNG 
(BACTROCERA DORSALIS H.) VÀ RUỒI ỔI (Bactrocera correcta B.) TẠI TỈNH 
BÌNH THUẬN 
 Nguyễn Thị Thanh Hiền, Lê Đức Khánh, Hà Thị Kim Liên, 
 Vũ Văn Thanh, Vũ Thị Thùy Trang 
TÓM TẮT 
Ruồi đục quả B. dorsalis và B. correcta là hai loài được xác định là gây hại cho quả thanh long 
tỉnh Bình thuận. Số liệu điều tra cho thấy cả hai loài ruồi này luôn có mặt trên vườn quả với mật độ cá 
thể trên vườn dao động dưới 200 con/tháng. Riêng năm 2010 đã có sự biến thiên nhanh với đỉnh cao 
thiết lập trong tháng 6 của loài B. dorsalis là 518 con và loài B. correcta là 352 con. Trong năm sự 
xuất hiện và gia tăng mật độ của hai loài ruồi này thường từ tháng 5 cho đến tháng 8 và chịu chi phối 
bởi mùa chín của các loại quả ký chủ khác có trong vùng. 
Từ khóa: Ruồi đục quả, thanh long, bẫy pheromone 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ruồi hại quả (Diptera:Tephritidae) được 
ghi nhận là loài dịch hại mang tính toàn cầu. 
Chúng có mặt ở hầu hết các vùng sản xuất 
nông nghiệp và được xem như là đối tượng gây 
hại nguy hiểm nhất cho sản xuất rau - quả các 
nước từ vùng Đông Nam Á đến vùng Thái 
Bình Dương. Những nghiên cứu về diễn biến 
và sự phân bố đã chỉ ra được mối liên quan khá 
mật thiết giữa sự xuất hiện của ruồi hại quả với 
môi trường sống. Theo dõi về diễn biến của 
loài trên đồng ruộng giúp phán đoán được loài 
ruồi đó là do di cư tới hay xuất phát từ nội tại 
và đã được đề cập trong các công trình nghiên 
cứu của Yuan Meng et al. (2008), Zhou et al. 
(2008), Hollingsworth et al. (1996),... Ở nước 
ta đã có một số nghiên cứu về diễn biến phát 
sinh của một số loài ruồi như B. dorsalis, B. 
correcta, B. tau, B. cucurbitae, B. prifoliae 
được thực hiện tại Mộc Châu (Sơn La), Bình 
Thuận, Hà Nội, Tiền Giang (Drew và nnk., 
2001, Lê Đức Khánh và nnk., 2008, 2010, 
Đặng Xuân Kỳ và nnk., 2008, Lê Thị Điểu và 
Nguyễn Văn Huỳnh, 2009, Nguyễn Thị Thanh 
Hiền và nnk., 2012). 
Bài viết này cung cấp dẫn liệu về diễn 
biến mật độ của hai loài ruồi gây hại quả thanh 
long tại một số tiểu vùng sinh thái thuộc vùng 
trồng cây thanh long của tỉnh Bình Thuận. 
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Vật liệu nghiên cứu 
Chất có hoạt tính sinh học cao Methyl 
eugenol (sau đây viết tắt là ME), bẫy dẫn dụ 
kiểu Steiner, thuốc hóa học Regent 800 WG và 
các dụng cụ để mẫu ruồi.
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Điều tra diễn biến mật độ ruồi vào bẫy 
dẫn dụ 
Thí nghiệm được tiến hành tại một số 
vùng trồng thanh long của tỉnh Bình thuận dựa 
theo phân vùng của tác giả Nguyễn Thơ 
(2006). Theo đó, địa điểm cụ thể là xã Xã Đức 
Thuận (Tánh linh), xã Hàm Hiệp (Hàm Thuận 
Bắc), xã Tân Hải (Lagi), xã Hồng Thái (Bắc 
Bình), xã Hàm Cường (Hàm Thuận Nam) 
Phương pháp đặt bẫy: Treo bẫy ở độ cao 
2/3 chiều cao trụ, thu mẫu ruồi 2 tuần/ lần và 
1,5 tháng thay mới bông tẩm chất dẫn. Xử lý 
mẫu theo phương pháp của Viện BVTV (1997) 
đối với bộ hai cánh. 
2.2.2. Nghiên cứu diễn biến mật độ ruồi hại 
quả trong quả thanh long bị hại 
Nghiên cứu tại xã Hàm Minh, Hàm Thạnh 
(Hàm Thuận Nam), xã Hàm Hiệp (Hàm Thuận 
Bắc) 
 Thu quả chín già 10 quả/ lô/ vườn của 
3 lứa quả chính vụ trong năm trên một lô cố 
định của một vườn cố định tại mỗi vùng. Mẫu 
thu về phòng thí nghiệm từng đợt đặt riêng mỗi 
hộp để nuôi thu ruồi trưởng thành. 
Mẫu ruồi được định danh tại Viện Bảo vệ 
Thực vật theo phương pháp so với mẫu chuẩn 
và đĩa phân loại Lucid của trường đại học 
Griffith- Úc (Drew và ctv.,1999). 
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 
906 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Nghiên cứu diễn biến mật độ ruồi hại 
quả tại Bình Thuận vào bẫy dẫn dụ 
3.1.1. Nghiên cứu diễn biến mật độ ruồi 
chung trong toàn tỉnh 
 Theo dõi diễn biến mật độ ruồi đực vào 
bẫy dẫn dụ trong toàn tỉnh cho thấy ruồi xuất 
hiện quanh năm trên vườn quả và thường đỉnh 
cao mật độ của năm tăng trùng với thời điểm 
mùa quả ký chủ chín là từ tháng 4 đến 8, không 
phụ thuộc vào lượng mưa trong năm (hình 1). 
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
Th
án
g 4
 5
 6 7 8 9 10 11 12 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 2 3
TS
 R
uồ
i (
co
n)
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
1800
TL
 m
ư
a 
(m
m
)
TS TL mưa 
Hình 1. Biến động số lượng trưởng thành ruồi hại quả họ Tephritidae bắt trong bẫy dẫn dụ tại 5 
tiểu vùng sinh thái ở Bình Thuận (4/2009 - 4/2011) 
3.1.2. Nghiên cứu diễn biến ruồi hại quả vào 
bẫy dẫn dụ của từng điểm nghiên cứu 
 Nghiên cứu và so sánh các kết quả thu 
được tại mỗi điểm điều tra nhận thấy yếu tố 
tiểu vùng khí hậu và thành phần cây ký chủ của 
ruồi trên địa bàn có ảnh hưởng khá rõ đến diễn 
biến mật độ và tần xuất bắt gặp ruồi trên vườn. 
Ở tất cả các xã giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 4 
mật độ ruồi trung bình chỉ dao động quanh 50-
100 con/tháng, nhưng từ tháng 5 đến tháng 8 
khi vào mùa chín của các loại quả ký chủ ruồi 
như mận (gioi), sơ ri, chôm chôm, xoài thì mật 
độ ruồi tăng lên rất nhanh, trung bình trên là 
100 con/tháng và sau đó lại giảm nhanh (hình 2, 
3, 4, 5, 6) 
38
98
2
207
373
0
50
100
150
200
250
300
350
400
T4
/20
09 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/10 T4 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/11 T4
Tháng
TS
 r
uồ
i (
co
n)
10
187
52
148
122
57
2
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
T4
/09 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/20
10 T4 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/20
11 T4
Tháng
T
S 
ru
ồi
 (c
on
)
Hình 2. Diễn biến mật độ ruồi hại quả bắt 
trong bẫy dẫn dụ tại xã Hàm Hiệp 
Hình 3. Diễn biến mật độ ruồi hại quả bắt 
trong bẫy dẫn dụ tại xã Hàm Thạnh 
106
14
446
57
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
T4
/20
09 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/20
10 T4 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/20
11 T4
Tháng
T
S 
ru
ồi
 (c
on
)
Hình 4. Diễn biến mật độ ruồi đực bắt trong 
bẫy dẫn dụ tại xã Đức Thuận 
Mùa quả chín Mùa quả chín 
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
907 
266
121
0
50
100
150
200
250
300
T4
/09 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/20
10 T4 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/20
11 T4
Tháng
T
S 
ru
ồi
 (c
on
) 330
16
456
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
T4
/09 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/20
10 T4 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/20
11 T4
Tháng
T
S 
ru
ồi
 (c
on
)
Hình 5. Diễn biến mật độ ruồi đực bắt 
trong bẫy dẫn dụ từ tại xã Hồng Thái 
Hình 6. Diễn biến mật độ ruồi đực bắt trong 
bẫy dẫn dụ tại xã Tân Hải 
3.2. Nghiên cứu diễn biến số lượng của 2 loài 
ruồi gây hại cho quả Thanh long 
3.2.1. Diễn biến số lượng chung toàn tỉnh 
Bằng phương pháp thu quả Thanh long 
bị ruồi gây hại và theo dõi trong phòng thí 
nghiệm đã xác định được hai loài ruồi 
Bactrocera dorsalis và Bactrocera correcta 
gây hại cho quả Thanh long của tỉnh Bình 
Thuận. Số liệu điều tra cho thấy cả hai loài ruồi 
này luôn có mặt trên vườn quả, nhưng mật độ 
cá thể trên vườn quả năm 2009 và 2011 dao 
động dưới 200 con/tháng, còn năm 2010 biến 
thiên nhanh với đỉnh cao thiết lập trong tháng 
6 của loài B. dorsalis là 518 con, loài 
B.correcta là 352 con. 
BDO, 518
BCO, 352
0
100
200
300
400
500
600
T4
/2
00
9
T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/2
01
0
T4 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/2
01
1
T4
Tháng
T
S 
ru
ồi
 ( 
co
n)
Hình 7: Diễn biến tổng số lượng ruồi trưởng thành hai loài gây hại quả Thanh long (Bình Thuận, 
tháng 4/2009 – 4/2011) 
3.2.2. Diễn biến số lượng ruồi vào bẫy dẫn 
dụ của mỗi điểm điều tra 
So sánh diễn biến tổng số lượng cá thể 
hai loài B.dorsalis và B.correcta bắt trong bẫy 
dẫn dụ đặt trên vườn quả của 5 điểm trong 24 
tháng điều tra nhận thấy có sự khác nhau khá 
rõ. Trong khi hai xã Hàm Thạnh và Hàm Hiệp 
có diễn biến số lượng biến thiên liên tục, cả hai 
loài B. correcta và B. dorsalis có 4 đỉnh cao và 
các đỉnh cao này đều rơi vào khoảng thời gian 
từ tháng 4-6 và 10 - 12 hàng năm. Ba xã còn lại 
là xã Tân Hải, Hồng Thái và Đức Thuận chỉ có 
một đỉnh cao tăng vọt số lượng cá thể trên 
vườn vào tháng 6-8 năm 2011 đạt xấp xỉ 500 
cá thể (hình 8, 9). 
Tuy nhiên ở cả 5 xã điều tra thì loài 
B.correcta luôn có số lượng cá thể bắt được 
trong bẫy nhiều hơn loài B.dorsalis (hình 8, 9). 
Nguyên nhân của hiện tượng nêu trên do hàng 
năm trong khoảng từ tháng 5 đến tháng 6 là thời 
điểm chín của nhiều loại quả ký chủ của B. 
correcta như Thanh long, Roi (Mận), Táo, Sơ ri, 
Ổi, trong khi số cây ký chủ của loài B.dorsalis 
vào chín cùng kỳ ít hơn. Mặt khác việc chín và 
thu hoạch quanh năm của các quả ký chủ này 
cộng với công tác phòng trừ ruồi trong nông dân 
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 
908 
chưa đồng loạt và thường xuyên là những 
nguyên nhân cơ bản góp phần duy trì ổn định số 
lượng cá thể ruồi trên vườn quả. 
BDO
BCO
0
50
100
150
200
250
300
T4
/2
00
9
T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/2
01
0
T4 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/2
01
1
T4
Tháng
T
S 
ru
ồi
 (c
on
)
Hình 8: Diễn biến tổng số lượng hai loài gây hại quả thanh long tại xã Hàm Thạnh và Hàm Hiệp 
(Bình Thuận, tháng 4/2009 – 4/2011) 
BDO
BCO
0
100
200
300
400
500
600
T4
/2
00
9
T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/2
01
0
T4 T6 T8 T1
0
T1
2
T2
/2
01
1
T4
Tháng
T
S 
R
uồ
i
Hình 9: Diễn biến tổng số lượng hai loài gây hại quả Thanh Long tại 
Xã Tân Hải, Hồng Thái, Đức Thuận (Bình Thuận, tháng 4/2009 – 4/2011) 
3.2.3. Diễn biến số lượng hai loài ruồi gây hại 
quả Thanh long trong quả bị hại 
Nghiên cứu diễn biến tổng số lượng 2 
loài ruồi gây hại cho lứa quả Thanh long ruột 
trắng chính vụ bằng cách thu quả theo ở hai 
huyện trọng điểm, thấy rằng tổng số lượng hai 
loài B. dorsalis và B. correcta thu từ quả bị hại 
không cao, dưới 5 con/quả, trong khi số lượng 
hai loài này vào bẫy dẫn dụ trên vườn quả rất 
cao tới gần 45 con/bẫy. Như vậy đối chiếu với 
hiện trạng sản xuất của địa phương chúng tôi 
cho rằng nhiều khả năng có hai nguyên nhân 
dẫn tới hiện tượng này. Nguyên nhân thứ nhất là 
do người dân đã sử dụng nhiều chủng loại hóa 
chất phun lên Thanh long cho suốt các lứa quả 
trong năm như: kích thích trái, chất giữ mầu tai 
quả,... điều này đã góp phần xua đuổi ruồi hại 
quả. Nguyên nhân thứ hai có thể do thanh long 
chưa phải loại ký chủ ưa thích của hai loài ruồi 
này. Các ký chủ khác trong vùng sản xuất là ký 
chủ chính, nếu có biện pháp loại bỏ các loại cây 
này cho các vùng sản xuất chuyên thanh long 
xuất khẩu sẽ hạn chế khả năng bùng quần thể, là 
điều kiện tốt để áp dụng một số biện pháp khác 
như sử dụng kỹ thuật triệt sản, tạo vùng không 
có ruồi gây hại. Mặt khác cần quản lý chặt chẽ, 
liên tục mật độ quần thể ruồi tại các vùng sản 
xuất hiện tại, khống chế tỷ lệ thiệt hại do ruồi 
gây ra ở mức thấp nhất. 
IV. KẾT LUẬN 
Diễn biến mật độ cá thể các loài ruồi 
hại quả thanh long trên địa bàn tỉnh Bình 
Thuận có liên quan đến mùa vụ chín của các 
loại quả ký chủ (tháng 5-8), các lứa chín của 
quả thanh long đóng vai trò duy trì nguồn thức 
ăn sau khi một số loại quả kia hết vụ. Ngoài ra 
yếu tố lượng mưa cũng có vai trò nhất định tạo 
ẩm độ thấp là điều kiện tốt cho ruồi sinh trưởng 
trong mùa khô. 
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
909 
LỜI CẢM ƠN 
Nhóm tác giả trân trọng cảm ơn Bộ 
Khoa học và Công nghệ đã cấp kinh phí thực 
hiện đề tài theo quyết định số 629/QĐ-BKHCN 
ngày 20/4/2009 và Hợp đồng số 02/2009/HĐ-
ĐTKHCN ngày 22/4/2009 của Bộ trưởng Bộ 
Khoa học và Công nghệ. 
 Liên hệ: 
[email protected] 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Drew, R.A.I., Hà Minh Trung, Lê Đức Khánh, 
2001. Kết quả thực hiện dự án” Quản lý ruồi 
hại quả ở Việt Nam” TCP/VIE 8823(A) 
1999- 2000, trang 43, NXB Nông nghiệp, 
Hà Nội. 
2. Lê Thị Điểu và Nguyễn Văn Huỳnh, (2009), 
“Điều tra thành phần loài sâu hại, thiên địch 
và ruồi đục trái trên cây thanh long tại tỉnh 
Long An, 2009”, Tạp chí Bảo vệ thực vật số 
2, tr. 3-12. 
3. Lê Đức Khánh, Nguyễn Thị Thanh Hiền, Trần 
Thanh Toàn, Vũ Thị Thuỳ Trang, Lê Quang 
Khải, Vũ Văn Thanh, Đặng Đình Thắng, 
Nguyễn Thị Thuý Hằng (2010), “Thành 
phần ruồi hại quả họ Tephritidae và ký chủ 
của chúng tại một số vùng sinh thái nông 
nghiệp ở Việt Nam”. Tạp chí BVTV số 3, tr. 
10-14. 
4. Đặng Xuân Kỳ, Trần Văn Sáng, Nguyễn Văn 
Đĩnh và Vũ Thanh Hải, (2008), “Một số nét 
về sâu bệnh hại bí xanh (Benincasa hispida 
Cogn) và biện pháp phòng chống ở Yên 
Châu, Sơn la”, Tạp chí Bảo vệ thực vật số 5, tr. 
19-24. 
5. Nguyễn Thơ. Dự án phát triển thanh long Bình 
thuận giai đoạn 2006-2010 
6. Drew R.A.I. and M.C.Romig, (2010), “Fruit 
flies biology, biosecurity, pest management 
and taxonomy”, ICMPFF, tr.10-19. 
7. R.G.Hollingsworth, M. Vagalo và F.Tsatsia, 
1996. Biology of Melon Fly, with special 
reference to Solomon Islands. In: 
Management of fruit flies in the Pacific, 
ACIAR proceedings No 76, p.140 - 144 
8. Zhou Wei- chuan, Li Wei-feng, Zhan Kai-rui, 
Zhao Shi-xi, Chen Shou-ling, Ning Shao-
Zhu, Zhang Hui, (2008), Field population 
Dynamics of Oriental fruit fly in Fujian 
province , truy cập tháng 12/2012 từ 
 en.cnki.com.cn. 
9. Yuan Meng et al., (2008), Effect of climate 
factors and Host plants on population 
dynamic of Bactrocera dorsalis (Hendel) in 
SuZhou, truy cập tháng 12/2013 từ http:// 
www. en.cnki.com.cn. 
ABSTRACT 
Seasonal abundance of oriental fruit fly (Bactrocera dorsalis H.) and guava fruit fly 
(Bactrocera correcta B.) in Binh Thuan province 
Oriental fruit fly and guava fruit fly are important pests on fruit trees since larvae feed on and 
cause direct damage to fruits. Survey using pheromone traps and collecting of damaged fruits in some 
locations of Binhthuan province recorded that these pest occurred in dragon fruit growing in Binhthuan. 
Host was in ripening and harvesting stage in May to August. It created a significant increase of B. 
dorsalis and B. correcta populations so that warning and preventing must be done in time. 
Keywords: fruit fly, dragon fruit, pheromone traps. 
Người phản biện: PGS. TS. Nguyễn Văn Viết