Phạm Thị Thanh Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 81 - 86 
81 
NGHIÊN CỨU CHUYỂN GEN GmDREB2 VÀO GIỐNG ĐẬU TƯƠNG ĐT12 
Phạm Thị Thanh Nhàn*, Phạm Minh Hảo, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Chu Hoàng Mậu 
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Đậu tương (Glycine max (L.) Merrill) là cây trồng có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, đây là cây mẫn 
cảm với điều kiện ngoại cảnh và chịu hạn kém. Đặc tính chịu hạn ở cây đậu tương là tính trạng đa 
gen, sản phẩm của các gen này liên quan trực tiếp đến sự biểu hiện của đặc tính chịu hạn hoặc có 
chức năng điều hòa nhóm gen chịu hạn. Gen mã hóa nhân tố phiên mã DREB ở cây đậu tương có 
chức năng kích hoạt sự phiên mã của nhóm gen chịu hạn, lạnh và mặn. Bài báo này trình bày kết quả 
chuyển cấu trúc mang gen GmDREB2 vào giống đậu tương ĐT12 phục vụ tạo dòng cây đậu tương 
chuyển gen chịu hạn. Cấu trúc pBI121-GmDREB2 đã được biến nạp thành công vào giống đậu 
tương ĐT12 qua mô nách lá mầm thông qua chủng A. tumefaciens. Các mẫu biến nạp được tái sinh 
in vitro, chọn lọc bằng kháng sinh và tạo cây đậu tương chuyển gen. Kết quả có 203/300 mẫu biến 
nạp tạo đa chồi, 197 chồi chọn lọc trong môi trường kéo dài chồi và số chồi được cho ra rễ là 60. 
Số cây chuyển gen trồng trên giá thể là 20 cây và có 5 cây sống sót ở điều kiện nhà lưới, hiệu suất 
chuyển gen ở giai đoạn này là 1,67% (5/300). Trong số 5 dòng cây chuyển gen ở thế hệ T0, 4 cây 
chuyển gen dương tính với PCR, hiệu suất chuyển gen đạt 1,33% (4/300). 
Keywords: Hạn, Glycine max (L.) Merrill, GmDREB2, A. tumefaciens, hiệu suất chuyển gen 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Đậu tương (Glycine max (L.) Merrill) là một 
cây trồng cạn ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. 
Ở Việt Nam, việc trồng đậu tương có ba mục 
đích là giải quyết vấn đề thiếu protein cho con 
người và gia súc, xuất khẩu và cải tạo đất. 
Tuy nhiên, đây là cây mẫn cảm với điều kiện 
ngoại cảnh và chịu hạn kém nên sản lượng 
còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu 
dùng. Đặc tính chịu hạn ở cây đậu tương là 
tính trạng đa gen, sản phẩm của các gen này 
liên quan trực tiếp đến sự biểu hiện của đặc 
tính chịu hạn hoặc có chức năng điều hòa 
nhóm gen chịu hạn. Để chống lại điều kiện 
bất lợi của ngoại cảnh, đặc biệt là hạn hán, cơ 
thể thực vật đã sản xuất ra nhiều loại protein, 
trong đó có DREB (Dehydration- Responsive 
Element Binding). DREB có vai trò kích hoạt 
nhóm gen chịu hạn phiên mã. Họ protein này 
có chứa vùng bảo thủ duy nhất để gắn với 
trình tự DNA đặc hiệu là 
APETALA2/Ethylene Responsive Factor 
(AP2/ERF), cho phép chúng tương tác với 
một loạt các gen phía sau theo hình thức 
không phụ thuộc axit abscisic. Các miền 
AP2/ERF có khoảng 60 amino acid [50], [6], 
*
 Tel: 0989 516346; Email: 
[email protected] 
[7]. Phân họ gen DREB có 10 thành viên 
được xác định trong hệ gen cây đậu tương 
(GmDREBa, GmDREBb, GmDREBc, 
GmDREB1, GmDREB2, GmDREB3, 
GmDREB5, GmDREB6, GmDREB7) [10]. 
Mỗi gen trong họ DREB có trình tự, độ dài 
khác nhau nhưng đều được biểu hiện nhiều 
khi cây gặp hạn. Nhóm DREB1 điều khiển 
tính chịu hạn, mặn và lạnh, trong khi nhóm 
DREB2 điều khiển tính chịu hạn. 
Phân nhóm DREB2 gồm 8 thành viên trong cây 
Arabidopsis [11] và 5 thành viên trong lúa gạo 
[8]. Chen và cộng sự (2007) [6] đã phân lập 
gen GmDREB2 từ đậu tương và dựa trên sự 
giống nhau về miền AP2, gen GmDREB2 xếp 
vào phân họ A-5 trong phân họ DREB. Sự biểu 
hiện của GmDREB2 ở cây thuốc lá chuyển gen 
thể hiện ở sự tích lũy hàm lượng proline cao. 
Sản phẩm biểu hiện của gen GmDREB2 được 
tìm thấy khi cây đậu tương gặp hạn, lạnh và 
mặn [6], [8]. Bài báo này trình bày kết quả 
chuyển cấu trúc mang gen GmDREB2 vào 
giống đậu tương ĐT12 phục vụ tạo dòng cây 
đậu tương chuyển gen chịu hạn. 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Vật liệu và hóa chất 
Hạt giống đậu tương ĐT12 do Trung tâm 
Nghiên cứu và Phát triển đậu đỗ cung cấp. 
Phạm Thị Thanh Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 81 - 86 
82 
Chủng A. tumefaciens chứa cấu trúc pBI121-GmDREB2 do Bộ môn Sinh học hiện đại & Giáo 
dục sinh học, Khoa Sinh học, trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên cung cấp. Cấu 
trúc vector chuyển gen được trình bày ở hình 1. 
Hình 1. Sơ đồ cấu trúc vector chuyển gen pBI121 mang gen GmDREB2 (pBI121-GmDREB2). (LB: Bờ trái 
của T-DNA; RB: Bờ phải của T-DNA; KanR: trình tự kháng kanamycin; 35S: Promoter 35S; GmDREB2: 
Trình tự gen GmDREB2; Cmyc: Trình tự nucleotide mã hóa kháng nguyên Cmyc; NOS (Nos ter): Nopaline 
synthase terminator (đoạn kết thúc) 
Các hóa chất được sản xuất bởi các hãng 
Fermentas, Invitrogen, Merck, Sigma, 
Amersham Pharmacia Biotech, như: Yeast 
extract, trypton, tris HCl, EDTA, glycerol, 
kanamycin, rifamicine, cefotaxime... 
Các thiết bị chính dùng trong nghiên cứu gồm 
có: Máy PCR System 9700 (Appied 
Biosystem, Mỹ), máy điện di Powerpac300 
(Bio-Rad, Mỹ), máy xung điện Gen Plulser... 
Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp chuyển gen thông qua nách lá 
mầm nhờ A.tumefaciens được tiến hành dựa 
trên nghiên cứu của Olhoft và cộng sự (2006) 
[9] và Nguyễn Thị Thúy Hường (2011) [2]. 
Các thí nghiệm được thực hiện trong phòng 
nuôi cấy với điều kiện chiếu sáng theo quang 
chu kì 16 giờ sáng và 8 giờ tối, nhiệt độ phòng 
25
oC ± 2, cường độ chiếu sáng 2000 lux. 
Phương pháp tách chiết DNA tổng số từ các 
mẫu lá non được thực hiện theo phương pháp 
của Saghai Maroof và cộng sự (1984) [12]. 
Phương pháp PCR xác định sự có mặt của 
gen chuyển GmDREB2 bằng cặp mồi 
GmDREB2-BamHI/Cmyc-SacI (sản phẩm dự 
kiến có kích thước 543 bp), và vector pBI121-
GmDREB2 bằng cặp mồi 35S-F/35S-R (sản 
phẩm dự kiến có kích thước 314 bp) trong cây 
đậu tương chuyển gen ở thế hệ T0. Trình tự 
nucleotide của cặp mồi GmDREB2-
BamHI/Cmyc-SacI và 35S-F/35S-R như sau: 
GmDREB2-BamHI: 5’ – 
CGGATCCGATGGAAGAAGCGGGTTTA
GG – 3’ 
GmDREB2-Cmyc-SacI: 5’ – 
CGAGCTCGTCAATTCAGATCCTCTTCTG 
– 3’ 
35S-F: 5’ – 
CACGACACACTTGTCTAC – 3’ 
35S-R: 5’ – 
TCACATCAATCCACTTGCT – 3’ 
Phản ứng PCR được thực hiện theo chu trình 
nhiệt: 94oC trong 3 phút; (94oC trong 1 phút; 
56
o
C trong 1 phút; 72
o
C trong 1 phút) lặp lại 30 
chu kỳ; 72oC trong 10 phút; bảo quản ở 4oC. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Lây nhiễm và tái sinh cây đậu tương 
chuyển gen 
Hạt đậu tương nảy mầm trên môi trường GM, 
sau khoảng 5 ngày, kích thước mầm đạt 
khoảng 5 cm và lá mầm xanh (Hình 2A). Các 
mảnh lá mầm được thu, gây tổn thương ở 
nách lá mầm để sử dụng làm mẫu biến nạp 
(Hình 2B). Lá mầm đã gây tổn thương được 
ngâm trong dịch huyền phù chứa 
A.tumefaciens mang cấu trúc chứa gen 
GmDREB2 có OD600 đạt 0,8 trong thời gian 
30 phút (Hình 2C). Sau thời gian nhiễm 
khuẩn, mẫu được chuyển sang môi trường 
đồng nuôi cấy CCM ở 25oC trong tối 5 ngày 
(Hình 2D). 
Sau thời gian đồng nuôi cấy, mẫu biến nạp 
được rửa khuẩn ngoại vi bằng cefotaxim 500 
mg/l, sau đó thấm khô bằng giấy thấm khử 
trùng. Cắt lấy các mảnh lá mầm và cấy mẫu 
lên môi trường tạo cụm chồi có bổ sung 
cefotaxim 500 mg/l. Sau 2 tuần, mẫu được 
chuyển sang môi trường SIM có bổ sung 
cefotaxim 500 mg/l và kháng sinh thích hợp. 
Hình 3 trình bày kết quả cảm ứng tạo đa chồi 
trên môi trường SIM bổ sung BAP 2 mg/l và 
kanamycine (Hình 3A và 3B), sau đó chuyển 
sang môi trường kéo dài chồi SEM (Hình 3C 
và 3D). 
Phạm Thị Thanh Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 81 - 86 
83 
A B
C D
Nách lá mầm
Hình 2. Hình ảnh gây tổn thương nách lá mầm và 
biến nạp. A: Hạt đậu tương ĐT12 nảy mầm trên 
môi trường GM; B: Gây tổn thương nách lá mầm; 
C: Mảnh lá mầm được nhiễm khuẩn; D: Mẫu biến 
nạp chuyển sang môi trường đồng nuôi cấy CCM 
A B
C D 
Hình 3. Hình ảnh đa chồi và kéo dài chồi. A: 
Cảm ứng tạo đa chồi trên SIM bổ sung BAP 2 
mg/l và kanamycine trong 1 tuần; B: Cảm ứng 
tạo đa chồi trên SIM bổ sung BAP 2 mg/l và 
kanamycine trong 2 tuần; C: Kéo dài chồi SEM 
(bổ sung GA3 0,5 mg/l + IAA 0,1 mg/l + 
kanamycine 50 mg/l) trong 1 tuần; D: Kéo dài 
chồi SEM (bổ sung GA3 0,5 mg/l + IAA 0,1 mg/l 
+ kanamycine 50 mg/l) trong 2 tuần 
Hình 4. Giai đoạn ra rễ và trồng cây đậu tương 
chuyển gen ĐT12 trên giá thể 
Khi các chồi phát triển đạt kích thước từ 3 - 5 
cm sẽ được chuyển sang môi trường ra rễ 
(RM) có bổ sung cefotaxim 250 mg/l để tạo 
cây hoàn chỉnh (Hình 4). 
Thí nghiệm biến nạp cấu trúc chứa gen 
GmDREB2 qua nách lá mầm nhờ 
A.tumefaciens được thực hiện lặp lại 3 lần. 
Kết quả thí nghiệm chuyển gen và đối chứng 
được trình bày ở bảng 1. Trong 300 mẫu được 
biến nạp cấu trúc chứa gen GmDREB2, 203 
mẫu tạo được đa chồi, trong đó có 393 chồi 
sống sót, 197 chồi được kéo dài. Số chồi ra rễ 
là 60, số cây được trồng trên giá thể là 20 cây 
và có 5 cây sống sót. Đối với lô đối chứng 
ĐC0, với 30 mẫu biến nạp và kết quả không 
có chồi nào được tạo thành, vì thế cũng không 
có chồi được kéo dài, ra rễ và ra giá thể. Đối 
với lô đối chứng ĐC1, 20 mẫu được tạo đa 
chồi, 35 chồi sống sót, 20 chồi được kéo dài 
và 15 chồi được chuyển vào môi trường ra rễ. 
Số cây được đưa ra giá thể là 15 cây, trong đó 
có 10 cây sống sót. Như vậy ở giai đoạn tái sinh 
và chọn lọc in vitro, chúng tôi thu được 5 cây 
đậu tương được chuyển gen ở thế hệ T0 (ký 
hiệu là ĐT12-01, ĐT12-02, ĐT12-03, ĐT12-
04, ĐT12-05). Hiệu suất chuyển gen ở giai đoạn 
chọn lọc bằng kháng sinh là 1,67% (5/300). 
Cũng theo phương pháp chuyển gen này, Lò 
Thị Mai Thu (2014) [4] chuyển cấu trúc CPi 
(SMV- BYMV) vào hai giống đậu tương 
ĐT12 và DT2008 có hiệu suất lần lượt là 
4,32% và 3,76%; Lò Thanh Sơn (2015) [3] 
chuyển cấu trúc mang gen GmEXP1 vào 
giống đậu tương DT84 với hiệu suất 2,37%; 
Nguyễn Thu Hiền (2011) [1] chuyển gen HA1 
vào giống đậu tương ĐT12 với hiệu suất 
2,37%; Nguyễn Thúy Hường (2011) [2] chuyển 
gen vào giống đậu tương DT84 với hiệu suất là 
2,22%. Như vậy, hiệu suất chuyển gen ở giai 
đoạn này của chúng tôi thấp hơn hiệu suất 
chuyển gen của các tác giả trước. 
Lá non của cây đậu tương không chuyển gen 
và 5 cây đậu tương chuyển gen sống sót trên 
giá thể ở thế hệ T0 được thu nhận để tách 
chiết DNA tổng số, kiểm tra sự có mặt của 
cấu trúc mang gen chuyển pBI121-
GmDREB2. 
Phạm Thị Thanh Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 81 - 86 
84 
Bảng 1. Kết quả biến nạp gen GmDREB2 vào giống đậu tương ĐT12 
Lô đối chứng và 
thí nghiệm 
Số mẫu 
biến nạp 
Số mẫu tạo 
đa chồi 
Số chồi 
sống sót 
Số chồi 
kéo dài 
Số chồi 
ra rễ 
Số cây trồng 
trên giá thể 
Số cây 
sống sót 
ĐC0 30 0 0 0 0 0 0 
ĐC1 30 20 35 20 15 15 10 
1 100 68 136 67 20 7 1 
2 100 55 109 45 15 5 2 
3 100 80 148 85 25 8 2 
Tổng số (1+2+3) 300 203 393 197 60 20 5 
Ghi chú: ĐC0*: Lá mầm đậu tương không chuyển gen được cấy trên môi trường tái sinh có bổ sung kháng sinh; 
ĐC1*: Lá mầm đậu tương không chuyển gen được cấy trên môi trường tái sinh không bổ sung kháng sinh. 
Phân tích sự có mặt của gen chuyển GmDREB2 trong cây đậu tương chuyển gen thế hệ T0 
PCR là phương pháp nhanh, chính xác để đánh giá cây chuyển gen. Do vậy, chúng tôi tiến hành 
phản ứng PCR với cặp mồi 35S-F/35S-R để kiểm tra sự có mặt của promoter 35S trong cấu trúc 
vector pBI121- GmDREB2 ở cây đậu tương chuyển gen. Sản phẩm của phản ứng có kích thước 
theo dự tính 314 bp (Hình 5A). 
 (A) (B) 
Hình 5. Kết quả điện di sản phẩm PCR xác định sự có mặt của đoạn promoter 35S (A) và gen chuyển 
GmDREB2 (B) trong các cây đậu tương chuyển gen ở thế hệ T0. M: Thang DNA 1kb; 1, 2, 3, 4, 5: Sản phẩm 
PCR các cây chuyển gen ĐT12-01, ĐT12-02, ĐT12-03, ĐT12-04, ĐT12-05; (+): Sản phẩm PCR từ vector 
pBI121-GmDREB2; (-): Sản phẩm PCR của cây không chuyển gen. 
Hình 5A cho thấy, băng DNA có kích thước 
khoảng 0,3 kb xuất hiện ở đối chứng dương 
(+) và bốn cây chuyển gen, trong khi đối 
chứng âm (-) không có. Như vậy, cấu trúc 
pBI121-GmDREB2 đã có mặt ở 4 cây chuyển 
gen ĐT12-01, ĐT12-03, ĐT12-04, ĐT12-05 
ở thế hệ T0. 
Kết quả kiểm tra sản phẩm của phản ứng PCR 
nhân gen GmDREB2 ở hình 5B cho thấy đối 
chứng dương và các cây chuyển gen ĐT12-
01, ĐT12-03, ĐT12-04, ĐT12-05 tồn tại băng 
DNA có kích thước khoảng 0,55 kb. Theo 
tính toán lý thuyết, đoạn gen GmDREB2 được 
nhân bản dài 498 bp, đoạn Cmyc và KDEL 
dài 45 bp và dự tính sản phẩm của PCR với 
cặp mồi GmDREB2-BamHI/GmDREB2-
Cmyc-SacI sẽ nhân bản được đoạn DNA có 
kích thước là 543 bp. Như vậy, kết quả PCR 
thu được đoạn DNA có kích thước phù hợp 
với tính toán lý thuyết, là cơ sở để nhận xét 
rằng gen chuyển GmDREB2 đã được chuyển 
thành công vào giống đậu tương ĐT12. Cả 
hai thí nghiệm sử dụng kỹ thuật PCR nhân 
bản đoạn promoter 35S và gen GmDREB2 
đều cho kết quả dương tính ở 4 cây đậu tương 
chuyển gen ĐT12-01, ĐT12-03, ĐT12-04, 
ĐT12-05 ở thế hệ T0. Như vậy, hiệu suất 
chuyển gen ở giai đoạn kiểm tra gen chuyển 
bằng PCR là 4/300 (hay 1,33%). Trong kết 
quả nghiên cứu của Lò Thị Mai Thu (2014) 
[4], hiệu suất chuyển gen đạt 1,35% (với 
giống ĐT12), 2,24% (với giống DT2008); 
của Lò Thanh Sơn (2015) [3], hiệu suất 
chuyển gen đạt 0,27%; của Nguyễn Thu 
Hiền (2011) [1], hiệu suất là 1,23%; của 
Nguyễn Thị Thúy Hường (2011) [2], hiệu 
suất chuyển gen đạt 0,23%. 
Như vậy, hiệu suất chuyển gen ở đậu tương 
thấp, cần tìm kiếm các biện pháp tăng cường 
hiệu quả chuyển gen ở đối tượng này. Nguyên 
nhân có thể do hóa chất, thời vụ, kĩ thuật thao 
tác Đối với cây đậu tương, thời điểm ra cây 
ngoài nhà lưới tốt nhất là vụ xuân hè. 
Phạm Thị Thanh Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 81 - 86 
85 
KẾT LUẬN 
Cấu trúc pBI121-GmDREB2 đã được biến 
nạp thành công vào giống đậu tương ĐT12 qua 
nách lá mầm thông qua chủng A. tumefaciens. 
Các mẫu biến nạp được tái sinh in vitro, chọn 
lọc bằng kháng sinh và tạo cây đậu tương 
chuyển gen. Kết quả có 203/300 mẫu biến 
nạp tạo đa chồi, 393 chồi sống sót, có 197 
chồi chọn lọc trong môi trường kéo dài chồi 
và số chồi được cho ra rễ là 60. Số cây 
chuyển gen trồng trên giá thể là 20 cây và có 
5 cây sống sót ở điều kiện nhà lưới, hiệu suất 
chuyển gen ở giai đoạn này là 1,67% (5/300). 
Phân tích sự có mặt của gen chuyển 
GmDREB2 trong 5 dòng cây ở thế hệ T0 thu 
được 4 cây chuyển gen dương tính với PCR, 
hiệu suất chuyển gen đạt 1,33% (4/300). 
LỜI CẢM ƠN: Nghiên cứu này được hỗ trợ 
và trong khuôn khổ của Đề tài cấp Bộ Giáo 
dục & Đào tạo, mã số B2017-TNA-38 do 
GS.TS Chu Hoàng Mậu làm chủ nhiệm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thu Hiền (2011), Nghiên cứu chuyển 
gen mã hóa protein bề mặt của virus H5N1 vào 
cây đậu tương phục vụ sản xuất vaccine thực vật, 
Luận án tiến sĩ Sinh học, Đại học Thái Nguyên. 
2. Nguyễn Thị Thuý Hường (2011), Phân lập, 
tạo đột biến điểm ở gen P5CS liên quan đến tính 
chịu hạn và thử nghiệm chuyển vào cây đậu 
tương Việt Nam, Luận án tiến sĩ Sinh học, Đại 
học Thái Nguyên. 
3. Lò Thanh Sơn (2015), Nghiên cứu đặc điểm và 
chuyển gen GmEXP1 liên quan đến sự phát triển 
bộ rễ của cây đậu tương, Luận án tiến sĩ Sinh học, 
Đại học Thái Nguyên. 
4. Lò Thị Mai Thu (2014), Phân lập đoạn gen CP 
từ Soybean mosaic virus và phát triển vector 
chuyển gen mang cấu trúc RNAi phục vụ tạo cây 
đậu tương chuyển gen kháng bệnh, Luận án tiến sĩ 
Sinh học, Đại học Thái Nguyên. 
5. Chen F., Chen S. Y. and Liu Q. (2002), 
“Isolation of a rice cDNA encoding a DREB-like 
protein induced by stresses”, GenBank, Accession 
AY064403. 
6. Chen M., Wang Q. Y., Xu Z. S., Li L. C., Ye X. 
G., Xia L. Q., Ma Y. Z. (2007), “GmDREB2, a 
soybean DRE – binding transcription factor, 
conferred droungt anh high – salt tolerance in 
transgenic plants”, Biochem. Biophys. Res. 
Commun., 353(2), pp. 299 – 305. 
7. Huang B., Jin L. and Liu J. (2007), “Molecular 
cloning and functional characterization of a 
DREB1/CBF-like gene (GhDREB1L) from 
cotton”, Sci. China Life Sci., 50 (1), pp. 7-14. 
8. Matsukura S., Mizoi J., Yoshida T., Todaka D., 
Ito Y., Maruyama K., Shinozaki K., Yamaguchi-
Shinozaki K. (2010), “Comprehensive analysis of 
rice DREB2-type genes that encode transcription 
factors involved in the expression of abiotic stress-
responsive genes”, Mol. Genet. Genomics, 283, 
pp. 185–196. 
9. Olhoft P. M., Somers D. A. (2001), “L-Cysteine 
increases Agrobacteriummediated T-DNA 
delivery into soybean cotyledonarynode cells”, 
Plant Cell Rep., 20, pp. 706-711. 
10. Ratcliffe O. J., Riechmann J. L. (2002), 
“Arabidopsis transcription factors and the regulation 
of flowering time: a genomic perspective”, Curr. 
Issues Mol. Biol., 4, pp. 77–91. 
11. Riechmann J. L., Heard J., Martin G., Reuber 
L., Jiang C. Z., Keddie J., Adam L., Pineda O., 
Ratcliffe O. J., Samaha R. R., Crelman R., Pilgrim 
M., Broun P., Zhang J. Z., Ghandehari D., 
Sherman B. K., Yu G. L. (2000), “Arabidopsis 
transcription factors: Genome-wide comparative 
analysis among eukaryotes”, Science, 290, pp. 
2105–2110. 
12. Saghai M. M. A., Soliman K. M., Jorgensen R. 
A., Allard R. W. (1984), “Ribosomal DNA spacer 
- length polymorphisms in barley: Mendelian 
inheritance, chromosomal location and population 
dymnamics”, Proc. Natl. Acad. Sci. USA, 81, pp. 
8014-8018. 
Phạm Thị Thanh Nhàn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 81 - 86 
86 
SUMMARY 
STUDYING ON TRANSFERRING A CONSTRUCTION CONTAINING 
GmDREB2 GENE INTO ĐT12 SOYBEAN CULTIVAR 
Pham Thi Thanh Nhan
*
, Pham Minh Hao, 
Nguyen Thi Ngoc Lan, Chu Hoang Mau
TNU - University of Education 
Soybean (Glycine max (L.) Merrill) is one of the most important crop plants with a high economic 
value. However, this is also the plant sensitive to different stresses in the environment and has the 
low drought ability. Their property is a multigene trait whose products directly involve in the drought 
tolerance or regulate the expression of resistant genes. The GmDREB2 gene in soybean plant is 
considered as a necessary factor to activate the transcription of resistant genes in drought, cold and 
salt conditions. This paper presents the results of studying on transformation a construction 
containing GmDREB2 gene into ĐT12 soybean cultivar in order to produce transgenic soybean 
plants with high drought resistant ability. The structure pBI121-GmDREB2 was successfully 
transferred into ĐT12 soybean cultivar by Agrobacterium tumefaciens-mediated transformation via 
cotyledonary axillary nodes. All infected samples were regenerated in vitro and selected by 
antibiotic to creat the transgenic soybean plants. Consequently, from 300 samples, 203 shoots were 
induced on shoot elongation medium supplemented with kanamycin, in which 197 shoots were 
prolonged and 60 elongated shoots were rooted. All 20 rooted plantlets were planted on the pots, 
among which 5 plantlets survived in the greenhouse condition at the T0 generation, thus, the 
transgenic efficiency at this stage was 1.67% (5/300). From them, there were four transgenic soybean 
plantlets with the possitive PCR results, the transgenic efficiency at this stage was 1.33% (4/300). 
Keywords: Drought, Glycine max (L.) Merrill, GmDREB2, A. tumefaciens, transgenic efficiency 
Ngày nhận bài: 28/02/2018; Ngày phản biện: 18/3/2018; Ngày duyệt đăng: 27/4/2018 
*
 Tel: 0989 516346; Email: 
[email protected]