Tài liệu Nghiên cứu chế tạo Oligochitosan bằng phương pháp chiếu xạ Gamma Co-60 dung dịch Chitosan/H2O2 và khảo sát hiệu ứng gia tăng số lượng hoa trên cây dâu tây (Fragaria Vesca L.): TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017 
49 
Nghiên cứu chế tạo Oligochitosan bằng phương pháp 
chiếu xạ Gamma Co-60 dung dịch Chitosan/H2O2 và 
khảo sát hiệu ứng gia tăng số lượng hoa trên cây dâu tây 
(Fragaria Vesca L.) 
A study on preparation of Oligochitosan by Gamma irradiation onto Chitosan/H2O2 
solution and examining effects of increase in the number of flowers on strawberry 
(Fragaria Vesca L.) 
TS. Đặng Xuân Dự, 
Trường Đại học Sài Gòn 
Dang Xuan Du, Ph.D., 
Saigon University 
Tóm tắt 
Trong nghiên cứu này, chitosan đã được cắt mạch trong dung dịch chitosan/H2O2 bằng phương pháp 
chiếu xạ gamma Co-60. Khối lượng phân tử (Mw) và độ đề axetyl (ĐĐA) của chitosan lần lượt được 
xác định bằng phương pháp sắc ký gel thấm qua (GPC) và phương pháp phổ hồng ngoại (IR). Kết quả 
cho thấy oligochitosan khối lượng phân tử Mw < 10 kDa đã được chế tạo một cách hiệu quả bằng 
phương pháp chiếu xạ gamma Co-60 dung dịch chitosan/H2O2 ở liều xạ ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 602 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chế tạo Oligochitosan bằng phương pháp chiếu xạ Gamma Co-60 dung dịch Chitosan/H2O2 và khảo sát hiệu ứng gia tăng số lượng hoa trên cây dâu tây (Fragaria Vesca L.), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017 
49 
Nghiên cứu chế tạo Oligochitosan bằng phương pháp 
chiếu xạ Gamma Co-60 dung dịch Chitosan/H2O2 và 
khảo sát hiệu ứng gia tăng số lượng hoa trên cây dâu tây 
(Fragaria Vesca L.) 
A study on preparation of Oligochitosan by Gamma irradiation onto Chitosan/H2O2 
solution and examining effects of increase in the number of flowers on strawberry 
(Fragaria Vesca L.) 
TS. Đặng Xuân Dự, 
Trường Đại học Sài Gòn 
Dang Xuan Du, Ph.D., 
Saigon University 
Tóm tắt 
Trong nghiên cứu này, chitosan đã được cắt mạch trong dung dịch chitosan/H2O2 bằng phương pháp 
chiếu xạ gamma Co-60. Khối lượng phân tử (Mw) và độ đề axetyl (ĐĐA) của chitosan lần lượt được 
xác định bằng phương pháp sắc ký gel thấm qua (GPC) và phương pháp phổ hồng ngoại (IR). Kết quả 
cho thấy oligochitosan khối lượng phân tử Mw < 10 kDa đã được chế tạo một cách hiệu quả bằng 
phương pháp chiếu xạ gamma Co-60 dung dịch chitosan/H2O2 ở liều xạ thấp, khoảng 8 kGy. 
Oligochitosan chế tạo được có hiệu ứng gia tăng số lượng hoa của cây dâu tây. Nồng độ phù hợp của 
oligochitosan để phun lên cây dâu tây là khoảng 50 ppm. 
Từ khóa: Oligochitosan, bức xạ Gamma, dâu tây. 
Abstract 
In this study, the degradation of chitosan in the presence of H2O2 solution by gamma irradiation was 
investigated. The molecular weight and the degree of deacetylation of chitosan were determined by gel 
permeation chromatography (GPC) and infrared spectra (IR), respectively. Results showed that 
oligochitosan with molecular weight Mw < 10 kDa were preparared efficiently by gamma irradiation in 
small doses, ~8 kGy. The obtained oligochitosan imposes effects of increase in the size of leaves of 
fracaria vesca L. The appropriate concentration of oligochitosan used to spray onto fracaria vesca L. 
trees was 50 ppm. 
Keywords: Oligochitosan, Gamma irradiation, fracaria vesca L. 
1. Mở đầu 
Chitosan là polyme có nguốn gốc tự 
nhiên, là sản phẩm biến tính từ chitin bằng 
cách loại các nhóm axetyl. Oligochitosan là 
dẫn xuất của chitosan được chế tạo bằng 
phản ứng cắt mạch. Oligochitosan tự phân 
hủy sinh học, là prebiotic có độc tính thấp, 
có khả năng kháng khuẩn [8], [7] và kháng 
nấm [6]. Ngoài ra, oligochitosan còn làm 
tăng sinh tế bào, tăng cường miễn dịch của 
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO OLIGOCHITOSAN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾU XẠ GAMMA CO-60 
50 
cơ thể động vật bằng cách kích thích sản 
sinh bạch cầu, giảm cholesterol trong máu 
và có tác dụng làm lành các vết thương, vết 
bỏng [11]. Hoạt tính của oligochitosan 
thường được quyết định bởi khối lượng 
phân tử (KLPT, Mw) và độ đề axetyl 
(ĐĐA). Do có nhiều hoạt tính sinh học độc 
đáo, oligochitosan được ứng dụng khá đa 
dạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như 
làm chất điều hòa sinh trưởng, phòng trị 
nấm bệnh thực vật và gia tăng khả năng 
miễn dịch trên động vật... 
Các phương pháp cắt mạch chitosan để 
chế tạo oligochitosan đã được phổ biến bao 
gồm: phương pháp hóa học, phương pháp 
enzym và phương pháp chiếu xạ. Ưu điểm 
của phương pháp hóa học là dễ dàng tiến 
hành với quy mô lớn do điều kiện phản 
ứng đơn giản. Tuy nhiên, hạn chế của 
phương pháp này là cho hiệu suất thấp và 
có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. 
Phương pháp enzym cho hiệu suất cao 
nhưng chi phí đắt. Trong khi đó, phương 
pháp chiếu xạ có lợi thế là có thể tiến hành 
dễ dàng với quy mô lớn nhưng để chế tạo 
được oligochitosan đòi hỏi phải sử dụng 
liều xạ cao [2]. Điều này dẫn đến khả năng 
sản phẩm tạo thành dễ bị cắt mạch nhóm 
amin và phá vỡ vòng glucopyranose [5], 
làm giảm hoạt tính của oligochitosan. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi trình 
bày kết quả chế tạo oligochitosan dựa trên 
sự kết hợp đồng thời giữa bức xạ gamma 
Co-60 và H2O2. Ưu điểm của phương pháp 
là có thể tiến hành ở nhiệt độ phòng, giảm 
thời gian và liều xạ, có thể chế tạo được 
sản phẩm với quy mô lớn ở dạng lỏng hay 
dạng rắn đáp ứng yêu cầu sử dụng. Ngoài 
ra, tác nhân cắt mạch là H2O2 và bức xạ 
gamma Co-60 là những tác nhân được cho 
là khá thân thiện với môi trường. Sản phẩm 
cắt mạch được nghiên cứu ứng dụng làm 
chất gia tăng số lượng hoa của cây dâu tây 
(Fragaria vesca L), loại cây cho hiệu quả 
kinh tế cao, được trồng phổ biến ở cao 
nguyên Lâm Đồng. Kết quả nghiên cứu 
hướng đến cung cấp các chất kích thích 
tăng trưởng trong nông nghiệp có nguồn 
gốc tự nhiên góp phần phát triển nền nông 
nghiệp sinh thái bền vững. 
2. Thực nghiệm 
2.1. Nguyên vật liệu, hóa chất 
α - chitosan được chế tạo từ vỏ tôm có 
ĐĐA khoảng 90%, Mw khoảng 50 kDa. 
Dâu tây Labiang (Fragaria vesca L.) được 
mua ở tại vườn giống Dâu tây xã An Phú, 
thành phố Pleiku, Gia Lai. Hydro peroxit 
(H2O2) là sản phẩm tinh khiết của Merck, 
Đức. Các hóa chất axit lactic, etanol, 
amoniac được dùng ở dạng tinh khiết 
phân tích. Nước cất một lần được sử dụng 
cho toàn bộ thí nghiệm. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Phương pháp chế tạo oligochitosan 
Trong nghiên cứu này, oligochitosan 
được chế tạo bằng cách hòa tan 5 g 
chitosan trong dung dịch axit lactic 3%, 
thêm một lượng H2O2 30% và định mức 
đến 100 mL để thu được dung dịch chiếu 
xạ chứa 5% chitosan và 1% H2O2. Tiến 
hành chiếu xạ trên nguồn SVST Co-60/B 
tại trung tâm Nghiên cứu và Triển khai 
Công nghệ Bức xạ VINAGAMMA, Viện 
Năng lượng Nguyên tử Việt Nam với suất 
liều 1,33 kGy/h, khoảng liều đến 15 kGy 
[5]. Dung dịch sau khi chiếu xạ được trung 
hòa bằng NH4OH 5%, thêm một lượng cồn 
bằng 6 lần thể tích dung dịch mẫu, khuấy 
đều, sau đó lọc kết tủa và rửa sạch bằng 
cồn [1]. Mẫu sau khi rửa sạch, để khô tự 
nhiên rồi sấy ở nhiệt độ 60°C trong 2 giờ. 
2.2.2. Xác định khối lượng phân tử và 
độ đề axetyl của chitosan 
Khối lượng phân tử của các mẫu 
chitosan được xác định bằng phương pháp 
sắc kí gel (GPC), trên máy LC-20AB 
ĐẶNG XUÂN DỰ 
51 
Shimadzu, Nhật, sử dụng detector RID - 
10A và cột Ultrahydrogel 250 của hãng 
Water, Mỹ, nhiệt độ vận hành cột là 40°C, 
pha động là đệm axetat CH3COOH 
0,25M/CH3COONa 0,25M, tốc độ dòng là 
1mL/phút. Chất chuẩn được sử dụng là 
polysacarit Pullulan có khối lượng phân tử 
khác nhau từ 738 đến 380 000 Da [1]. Mẫu 
chitosan được chuẩn bị bằng cách hòa tan 
trong axit axetic 0,25M với nồng độ 0,3% 
đến khi tan hoàn toàn, thêm muối 
CH3COONa 0,25M sau đó lọc dung dịch 
qua màng 0,45μm (Millipore filters). Mẫu 
chitosan được tiêm vào cột sắc kí với thể 
tích khoảng 50 μl. Dựa vào thời gian lưu và 
so sánh với đường chuẩn xác định được 
KLPT chitosan. 
Độ đề axetyl của chitosan được xác 
định bằng phương pháp hồng ngoại trên 
máy FT – IR 8400S, Shimadzu, Nhật. 
ĐĐA được tính dựa theo phương trình [3]: 
ĐĐA,% = 100 – ([31,92 × 
(A1320/A1420)] -12,00). Trong đó, A1320 và 
A1420 lần lượt là mật độ quang tương ứng 
tại các đỉnh 1320 và 1420 cm-1. 
2.2.3. Khảo sát hiệu ứng gia tăng số 
lượng hoa của oligochitosan đối với dâu tây 
Chuẩn bị 4 lô thí nghiệm được đánh số 
từ 1 đến 4 mỗi lô gồm có 40 cây. Tiến hành 
phun oligochitosan có KLPT khoảng 7,5 
kDa với các nồng độ 50 ppm, 100 ppm, 150 
ppm từ lô 2 đến lô 4. Lô 1 không phun 
oligochitosan để làm đối chứng. Thời điểm 
bắt đầu phun oligochitosan là sau khi cây 
giống được trồng khoảng 1 tuần. Sau đó, 
oligochitosan được phun bổ sung vào ngày 
thứ 30 và 60 kể từ lần phun đầu tiên. Cây 
được chăm sóc theo quy trình thông thường 
được canh tác tại địa phương, xã An Phú, 
thành phố Pleiku, Gia Lai. Số hoa dâu tây 
được đếm vào các ngày thứ 120, 130 và 
140 kể từ khi trồng. Kết quả được tính 
trung bình cho một cây trên mỗi lô. Sau 
140 ngày tuổi, mỗi lô thí nghiệm được chia 
làm 5 nhóm, mỗi nhóm 8 cây được đếm số 
hoa lặp lại để phân tích thống kê, đánh giá 
sự khác biệt giữa các lô nghiên cứu. 
3. Kết quả và thảo luận 
Sự thay đổi KLPT của chitosan theo 
liều xạ được thể hiện trên hình 1. Kết quả 
cho thấy KLPT giảm nhanh trong khoảng 
thời gian đầu chiếu xạ, khoảng liều từ 0 
đến 5 kGy. Sau khoảng liều trên, KLPT 
của chitosan suy giảm khá chậm theo liều 
xạ. Điều này là do nồng độ H2O2 trong 
khoảng thời gian đầu chiếu xạ còn ở mức 
cao. Ngoài ra, quá trình chiếu xạ hình 
thành nên gốc tự do hydroxyl đã làm phân 
hủy nhanh H2O2 [4]. Do đó, gần như quá 
trình cắt mạch chủ yếu xảy ra ở giai đoạn 
đầu của quá trình chiếu xạ. Khi liều xạ lớn 
hơn 5 kGy, phần lớn H2O2 đã bị phân hủy, 
nồng độ giảm mạnh nên hiệu quả cắt mạch 
cũng giảm theo. 
Hình 1. Sự thay đổi KLPT của chitosan theo liều xạ 
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO OLIGOCHITOSAN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾU XẠ GAMMA CO-60 
52 
Cơ chế cắt mạch khi có mặt đồng thời 
H2O2 và tia γ đã được Ulanski và các cộng 
sự đề nghị [12]. Theo đó, gốc tự do 
hydroxyl (
•OH) được hình thành nhờ quá 
trình phân ly bức xạ nước và H2O2 đã đóng 
vai trò như là tác nhân oxy hóa mạnh cắt 
mạch chitosan: 
γ ray - • • +
2 aq 2 2 2 3
γ ray •
2 2
H O e , H , OH, H O , H , H O (1)
H O 2 OH (2) 
Hơn nữa, sản phẩm của quá trình phân ly 
bức xạ là e-aq và H
•
 có thể phản ứng với 
H2O2 để gia tăng gốc hydroxyl 
•
OH [9]: 
- • -
aq 2 2
• •
2 2 2
e + H O OH + OH
H + H O OH + H O
Theo Ulanski và cộng sự [12], gốc 
•
OH bắt hydro, làm đứt liên kết C – H hình 
thành gốc cacbohydrat R•, dẫn đến quá 
trình chuyển vị và cuối cùng liên kết 
glycoside bị cắt, tạo thành phân tử CTS có 
KLPT thấp hơn. Hằng số tốc độ của phản 
ứng (3) và (4) lần lượt là k3 = 1,1×1010 
l.mol
-1
.s
-1
 và k4 = 9×107 l.mol
-1
.s
-1
 [4]. 
Điều này giải thích tại sao nồng độ H2O2 
giảm nhanh và quá trình cắt mạch chitosan 
xảy ra có hiệu quả trong khoảng thời gian 
đầu chiếu xạ. Hình 1 cũng cho thấy 
oligochitosan, KLPT < 10 kDa, có thể chế 
tạo được ở liều xạ khá thấp, khoảng 8 
kGy, tương ứng với độ suy giảm KLPT 
khoảng 80%. Giá trị này được nội suy từ 
bảng 1. Nguyễn Quốc Hiến và cộng sự đã 
chế tạo oligochitosan bằng kỹ thuật chiếu 
xạ. Kết quả cho thấy để chế tạo được 
oligochitosan có KLPT < 10 kDa phải sử 
dụng liều xạ cao hơn 100 kGy [2]. Điều 
này cho thấy sự có mặt H2O2 chỉ ở nồng 
độ thấp khoảng 1% trong nghiên cứu của 
chúng tôi cũng làm giảm đáng kể liều xạ 
cần thiết để chế tạo oligochitosan. Nguyên 
nhân của hiện tượng này được giải thích 
bằng hiệu ứng đồng vận (synergistic 
effect) của các tác nhân cắt mạch. Hiệu 
ứng đồng vận được định nghĩa là sự tương 
tác đồng thời của hai tác nhân phản ứng 
lớn hơn tổng tương tác của các thành phần 
riêng lẻ [5]. Duy và cộng sự đã nghiên 
cứu hiệu ứng đồng vận của tia γ và H2O2 
để chế tạo oligochitsan trong dung dịch. 
Kết quả cho thấy để chế tạo oligochitosan 
có KLPT < 10 kDa thì liều xạ cần thiết 
cũng chỉ khoảng 10 kGy [5]. Tuy nhiên, 
nghiên cứu của Duy và cộng sự được thực 
hiện trên β – chitosan, loại chitosan dễ cắt 
mạch hơn α – chitosan, nồng độ áp dụng 
là 3%, thấp hơn so với nghiên cứu của 
chúng tôi. Như vậy, việc áp dụng hiệu ứng 
đồng vận của bức xạ γ và H2O2 cho phép 
giảm đáng kể năng lượng chiếu xạ, tăng 
hiệu quả chế tạo oligochitosan. 
Bảng 1: Sự thay đổi KLPT và ĐĐA của chitosan theo liều xạ 
 Liều xạ(*), kGy 0 2,7 6,7 11,0 15 
Thời gian, giờ 0 2 5 8 11 
KLPT, kDa 50 20,5 12,5 7,5 5,5 
Độ giảm KLPT, % 0 59 75 85 89 
ĐĐA, % 90 87 87 86 83 
(*)
 Suất liều 1,33 kGy/h 
(3) 
(4) 
ĐẶNG XUÂN DỰ 
53 
Hình 2. Phổ FT - IR của chitosan ban đầu (a) và chitosan được chiếu xạ ở liều 6,7 
kGy (b); 11 kGy (c); 15 kGy (d) 
Phổ FT- IR của mẫu chitosan ban đầu 
và các mẫu chitosan sau khi chiếu xạ ở các 
liều khác nhau được thể hiện trên hình 2. 
Kết quả cho thấy cấu trúc chính của 
oligochitosan thu được (hình 2b, c, d) hầu 
như không thay đổi so với chitosan ban đầu 
(hình 2a). Các đỉnh đặc trưng tiêu biểu cho 
các nhóm liên kết trong chitosan đều xuất 
hiện trong các mẫu oligochitosan. Đỉnh 
phổ nằm trong vùng 3200 – 3500 cm-1 đặc 
trưng cho dao động kéo giãn của liên kết 
N–H trong nhóm amine và liên kết O–H. 
Đỉnh ở 1655 và 1595 cm-1 đặc trưng cho 
dao động kéo giãn của liên kết C=O trong 
nhóm –CONH– (amide I) và dao động uốn 
của –NH trong nhóm –CONH– (amide II). 
Các đỉnh ở 1072, 1028, 1153 và 893 cm-1 
lần lượt đặc trưng cho dao động kéo giãn 
của liên kết C–O, dao động kéo giãn của 
C–O–C trong vòng glucopyranose và các 
dao động của liên kết β – 1,4 glycoside 
[10]. Các đỉnh ở 1320 và 1420 cm-1 tương 
ứng đặc trưng cho dao động kéo giãn của 
liên kết C–N trong nhóm CH3CONH– 
(amide III) và dao động biến dạng của liên 
kết C–H, đây là hai đỉnh đặc trưng được sử 
dụng để tính toán sự thay đổi ĐĐA của 
chitosan [3]. Kết quả xác định cho thấy 
oligochitosan KLPT khoảng 5,5 kDa, thu 
được tại liều xạ 15 kGy, có ĐĐA giảm 
khoảng 8% so với chitosan ban đầu (bảng 
1). Kết quả này khá phù hợp với nghiên 
cứu của Duy và cộng sự khi cắt mạch 
chitosan trong dung dịch chứa 3% chitosan 
bằng tia γ và H2O2 với độ giảm ĐĐA 
khoảng 10% [5]. Như vậy, sử dụng H2O2 ở 
nồng độ thấp khoảng 1% kết hợp đồng thời 
với tia γ cho phép chế tạo hiệu quả 
oligochitosan ở liều xạ khá thấp khoảng 8 
kGy. Oligochitosan thu được có cấu trúc 
hầu như không thay đổi so với chitosan 
ban đầu. 
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO OLIGOCHITOSAN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾU XẠ GAMMA CO-60 
54 
Hình 3. Cây dâu tây 140 ngày tuổi ở lô đối chứng 1 (a) và lô 2, được phun 
oligochitosan nồng độ 50 ppm (b) 
Hình 3 cho thấy sự khác nhau về số 
lượng cuống hoa và quả của dâu tây sau 
140 ngày tuổi. Ở lô đối chứng (hình 3a) số 
lượng cuống hoa thu được tương đối ít hơn 
so với lô có phun oligochitosan ở nồng độ 
50 ppm (hình 3b). Trong quá trình theo 
dõi, chúng tôi nhận thấy dâu tây bắt đầu ra 
hoa ở 120 ngày tuổi trên các lô 1, 2, 3, 
riêng lô 4 thì vẫn chưa quan sát thấy hoa 
sau thời gian trên. Nguyên nhân của vấn đề 
này vẫn chưa rõ cần được nghiên cứu 
thêm. Tuy nhiên, theo nhận định của chúng 
tôi có thể do oligochitosan là kháng sinh 
thực vật [9] khi được sử dụng ở liều cao 
(150 ppm) có thể gây ngộ độc cho cây dẫn 
đến ức chế khả năng ra hoa. Ảnh hưởng 
của oligochitosan đến khả năng cho hoa 
của cây dâu tây theo ngày tuổi được thể 
hiện trên hình 4. Kết quả cho thấy số lượng 
hoa thu được sau 120, 130 và 140 ngày 
trên các lô 2 và 3 có phun oligochitosan 
tương đối lớn hơn so với lô đối chứng 1. 
Hình 4. Ảnh hưởng của oligochitosan đến khả năng cho hoa của dâu tây 
ĐẶNG XUÂN DỰ 
55 
Bảng 2. Số lượng hoa trung bình của cây dâu tây sau 140 ngày tuổi ở các lô khác nhau 
Nhóm 
(8 
cây/nhóm) 
Lô đối 
chứng 1 
(0 ppm) 
Lô 2 
(50 
ppm) 
Lô 3 
(100 
ppm) 
1 42,8 43,8 43,7 
2 42,7 43,5 43,6 
3 42,7 43,7 43,7 
4 42,9 43,9 43,5 
5 42,7 43,6 43,5 
Trung 
bình 
42,8 ± 0,1 43,7 
± 0,2 
43,6 
± 0,1 
Kết quả phân tích ANOVA một chiều 
và kiểm định LSD bằng chương trình SPSS 
16.0 đối với 5 nhóm lặp lại trên các lô thí 
nghiệm ở 140 ngày tuổi (Bảng 2) cho thấy 
nồng độ 50 và 100 ppm của oligochitosan 
phun lên dâu tây đều cho hiệu quả gia tăng 
số lượng hoa cao hơn so với lô đối chứng 
(p = 0,00). Ngoài ra, số lượng hoa trên các lô 
2 và 3 tương ứng với nồng độ của 
oligochitosan được phun là 50 và 100 ppm 
cũng khác nhau có ý nghĩa thống kê 
(p = 0,002). Điều này chứng tỏ oligochitosan 
ở nồng độ thấp khoảng 50 ppm có khả năng 
kích thích gia tăng số lượng hoa tốt hơn so 
với ở nồng độ 100 ppm. Đối với lô 4, nồng 
độ oligochitosan 150 ppm, cây chỉ cho hoa 
sau 133 ngày tuổi, những quan sát ban đầu 
cho thấy số lượng hoa ít hơn và không đồng 
đều so với các lô 1, 2 và 3. Cơ chế kích thích 
và ức chế khả năng cho hoa của 
oligochitosan lên dâu tây vẫn cần được 
nghiên cứu thêm. Tuy nhiên, việc sử dụng 
oligochitosan phun cho dâu tây theo chúng 
tôi nên tiến hành ở liều thấp, với nồng độ 
nhỏ hơn 100 ppm. 
4. Kết luận 
Oligochitosan có KLPT < 10 kDa đã 
được chế tạo hiệu quả bằng phương pháp 
chiếu xạ dung dịch chitosan 5%, H2O2 1% 
ở liều xạ khá thấp, khoảng 8 kGy. Cấu trúc 
chính của oligochitosan thu được hầu như 
không khác biệt so với chitosan ban đầu. 
ĐĐA của oligochitosan KLPT 5,5 kDa 
giảm khoảng 8%. Oligochitosan KLPT 
khoảng 7,5 kDa có hiệu ứng gia tăng số 
lượng hoa đối với dâu tây. Nồng độ phù 
hợp của oligochitosan để phun lên cây dâu 
tây là khoảng 50 ppm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đặng Xuân Dự, Đinh Quang Khiếu, Diệp 
Khanh, Nguyễn Quốc Hiến. “Nghiên cứu hiệu 
ứng đồng vận dung Co – 60 và H2O2 cắt mạch 
chitosan chế tạo oligochitosan”, Tạp chí Hóa 
Học, 51(2C), 627-631 (2003). 
2. Nguyễn Quốc Hiến, Lê Hải, Lê Quang Luân, 
Trương Thị Hạnh, Phạm Thị Lệ Hà. “Nghiên 
cứu chế tạo oligochitosan bằng kỹ thuật bức 
xạ”, Tạp chí Hóa học, 38(2), 22-44 (2000). 
3. J. Brugnerotto, J. Lizardi, F. M. Goycoolea, 
W. Arguelles – Monal, J. Desbrieres, M. 
Rinaudo. “An infrared investigation in 
relation with chitin and chitosan 
characterization”, Polymer, 42, 3569-3580 
(2001). 
4. G. V. Buxton, C. L. Greenstock, W. P. 
Helman, A. B. Ross. “Critical review of rate 
constants for hydrated electron, hydrogen 
atoms and hydroxyl radical (OH/O-) in 
aqueous”, Journal of Physical and Chemical 
Reference Data, 17(2), 513-886 (1988). 
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO OLIGOCHITOSAN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾU XẠ GAMMA CO-60 
56 
5. N. N. Duy, D. V. Phu, N. T. Anh, N. Q. Hien. 
“Synergistic degradation to prepare 
oligochitosan by  - irradiation of chitosan 
solution in the presence of hydrogen 
peroxide”, Radiation Physical Chemistry, 80, 
848-853 (2011). 
6. S. Hirano, N. Nagao. “Effects of chitosan, 
pectic acid, lysozyme and chitinase on the 
growth of several phytopathogens”. 
Agricultural and Biological Chemistry, 53, 
3065-3066 (1989). 
7. Y. J Jeon, S. K. Kim. “Effect of antimicrobial 
activity by chitosan oligosaccharides N-
conjugated with asparagines”, Journal of 
Microbiology and Biotechnology, 11, 281-286 
(2001). 
8. Y. J. Jeon, P. J. Park, S. K. Kim. 
“Antimicrobial effect of chitooligosaccharides 
produced by bioreactor”, Carbohydrate 
Polymers, 44, 71-76 (2001). 
9. S. K. Kim, N. Rajapakse. “Enzymatic 
production and biological activities of 
chitosan oligosaccharides (COS): A review”, 
Carbohydrate Polymers, 62, 357-368 (2005). 
10. 10.J. Kumirstra, M. Czerwicka, Z. 
Kaczynski, A. Bychowska, K. Brozowski, J. 
Thoming, P. Stepnowski. “Application of 
spectroscopic methods for structural 
analysis of chitin and chitosan”, Marine 
Drugs, 8, 1567-1636 (2010). 
11. J. Shao, Y. Yang, Q. Zhong. “Study on 
preparation of oligoglucosamine by 
oxidative degradation under microwave”, 
Polymer Degradation and Stability, 82, 395-
398 (2003). 
12. P. Ulanski, C. von Sontag. “OH – radical 
induced chain scission of chitosan in the 
absence and present of dioxygen”, Journal 
of the Chemical Society, Perkin Transactions, 
2, 2022-2028 (2000). 
Ngày nhận bài: 28/7/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 26_3248_2215078.pdf 26_3248_2215078.pdf