37KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
NÂNG CAO VỐN TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT
CHO HỌC VIÊN QUÂN SỰ LÀO
THÔNG QUA DẠY HỌC THEO ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
TÓM TẮT
Từ vựng là nền móng vững chắc của một ngôn ngữ. Bất cứ ai khi học ngôn ngữ cũng đều mong 
muốn sẽ chiếm lĩnh được một vốn từ vựng phong phú, có chức năng hành dụng. Vì vậy, để làm 
đầy kho từ vựng tiếng Việt cho học viên quân sự Lào, trong quá trình dạy học, giáo viên cần phải 
chú trọng dạy từ ngữ theo định hướng phát triển năng lực.
Từ khóa: dạy học, định hướng, học viên quân sự Lào, năng lực, từ vựng.
NGUYỄN THỊ YẾN*
*Học viện Khoa học Quân sự, ✉ 
[email protected]
1. MỞ ĐẦU
Bất cứ người nào khi học một ngôn ngữ đều 
bắt đầu bằng việc học từ. Trẻ em học tiếng mẹ 
đẻ hay việc học ngoại ngữ của mỗi cá nhân cũng 
đều có chung một khởi đầu như vậy! Thực tế 
cho thấy, sự phát triển năng lực giao tiếp của 
mỗi người tỉ lệ thuận với việc mở rộng vốn từ 
ngữ của họ. Ai có vốn từ vựng càng phong phú, 
đa dạng thì người đó càng dễ dàng tiếp thu các 
kiến thức khoa học và tiến hành tổ chức giao 
tiếp thuận lợi, nhanh chóng, đạt hiệu quả cao. 
Tuy nhiên, kho tàng ngôn ngữ của một dân tộc 
là vô cùng đồ sộ, nhà trường không thể dạy hết 
và học viên cũng không thể học hết vốn từ đó ở 
các giờ học trên lớp. Lúc này, cần phải lựa chọn 
một phương pháp dạy học sao cho trong thời 
gian ngắn nhất, người học có thể tiếp thu được 
một vốn từ vựng phong phú và hữu dụng nhất. 
Chính vì vậy, để nâng cao trình độ tiếng Việt cho 
học viên quân sự (HVQS) Lào, trong quá trình 
dạy học, giáo viên cần phải chú trọng dạy học từ 
vựng theo định hướng phát triển năng lực. 
2. NỘI DUNG
2.1. Vai trò của việc dạy học từ vựng
Việc dạy học từ vựng đóng một vai trò vô 
cùng quan trọng trong quá trình dạy học ngoại 
ngữ nói chung và dạy học tiếng Việt với tư cách 
là một ngoại ngữ nói riêng. Từ vựng không chỉ 
là công cụ giúp người học có thể tiến hành giao 
tiếp thành công, mà còn là nền tảng để phát triển 
các kỹ năng ngôn ngữ khác như nghe, nói, đọc, 
viết. Thiếu vốn từ, người nói có thể diễn đạt 
38 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
thiếu hoặc sai lệch ý so với chủ ý của bản thân. 
Ở góc độ của người tiếp nhận, vốn từ nghèo 
nàn cùng với sự non yếu về ngữ pháp cũng sẽ 
là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng người đọc/
người nghe hiểu không đầy đủ, thậm chí hiểu sai 
hoặc không thể hiểu được ý đồ mà người viết/
người nói muốn biểu đạt.
Không ai có thể phủ nhận vai trò của từ vựng 
trong hệ thống ngôn ngữ. Với người học ngoại 
ngữ, chiếm lĩnh được vốn từ vựng càng phong 
phú thì khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ 
đó càng cao; biết cách cảm nhận và diễn đạt một 
vấn đề nào đó không chỉ chính xác mà còn tinh 
tế, sâu sắc và nhanh. Chẳng hạn, khi vốn từ tiếng 
Việt còn ít, gặp một người phụ nữ có vẻ đẹp sang 
trọng, HVQS Lào chỉ có thể dùng từ “đẹp” để 
miêu tả một cách chung chung, khái quát (Cô 
ấy đẹp). Nhưng khi vốn từ phong phú, họ có thể 
sử dụng nhiều từ ngữ khác để miêu tả vẻ đẹp đó 
một cách chính xác, cụ thể hơn (Cô ấy thật lộng 
lẫy/Cô ấy thật đài các/Cô ấy thật kiêu sa,). 
Các từ lộng lẫy, đài các, kiêu sa không chỉ thể 
hiện được vẻ đẹp mà còn toát lên được cả thần 
thái, phong cách của người phụ nữ đó.
Bên cạnh đó, nắm vững từ ngữ, học viên 
sẽ hiểu đúng khái niệm. Khái niệm là cơ sở để 
người học khám phá hiện thực khách quan và 
mở rộng tư duy. Vì vậy, khi dạy tiếng Việt với tư 
cách là một ngoại ngữ, giảng viên cần phải chú 
trọng làm thế nào để học viên nắm vững các lớp 
nghĩa của từ, tránh hiện tượng người học chưa 
hiểu hoặc hiểu chưa hết sẽ dẫn đến hiện tượng 
nói sai, viết sai hay hiểu sai nội dung.
Ví dụ, khi dạy cho học viên từ “đỉnh” với 
nét nghĩa chỉ “phần cao nhất”, giảng viên có thể 
liên hệ đến các từ như đỉnh núi, đỉnh đồi, đỉnh 
đầu, đỉnh dốc. Nhưng đồng thời cũng cần 
phân biệt cho học viên thấy được sự khác nhau 
giữa từ “đỉnh” với các từ khác cũng cùng chung 
nét nghĩa chỉ “phần cao nhất” như “nóc” (nóc 
nhà), “ngọn” (ngọn cây), “chóp” (chóp nón); 
hoặc khi dạy về từ “tái”, giảng viên cần giảng 
giải cho học viên nắm vững các lớp nghĩa của từ 
này; tránh hiện tượng nhầm lẫn giữa nghĩa của 
từ “tái” (thức ăn, thịt chưa chín: thịt tái, rau tái) 
với từ “tái” (từ Hán Việt, nghĩa là hai lần, lần 
nữa, thêm vào: tái hôn, tái thành lập),. 
Như vậy, có thể khẳng định rằng, không chỉ 
khi dạy tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ mẹ 
đẻ mà cả khi dạy tiếng Việt với tư cách là một 
ngoại ngữ, giảng viên cũng cần phải đặc biệt 
chú trọng đến khâu dạy từ vựng. Từ vựng là 
chất liệu quan trọng để làm nên một ngôn ngữ, 
giống như mỗi viên gạch là chất liệu quan trọng 
để làm nên một ngôi nhà vậy. Vì thế, tuy chương 
trình dạy học tiếng Việt cho HVQS Lào hiện 
nay về cơ bản là dạy giao tiếp, dạy từ được lồng 
ghép trong quá trình dạy ngữ âm, dạy ngữ pháp 
và được thực hiện trong các giờ rèn luyện kỹ 
năng nghe, nói, đọc, viết dưới dạng thực hành, 
chứ không phân tách ra thành các bài học cụ 
thể giống với chương trình dạy học tiếng Việt 
ở bậc phổ thông trong nhà trường Việt Nam, 
nhưng không vì thế mà việc dạy từ ở đây bị coi 
nhẹ. Sau khi hoàn thành khóa học, HVQS Lào 
sẽ được trang bị một lượng từ cơ bản, đảm bảo 
có thể tham gia vào hoạt động giao tiếp – tùy 
theo trình độ (cơ sở hoặc nâng cao). 
2.2. Mục đích của việc dạy học từ vựng 
Mục đích của việc dạy học từ vựng nói chung 
là nhằm đảm bảo hai nội dung: nhận thức và ứng 
dụng. Với đích nhận thức, người học sẽ được 
trang bị những kiến thức cơ bản về từ vựng, mối 
quan hệ giữa từ vựng với các đơn vị khác như 
ngữ âm, ngữ pháp. Với đích ứng dụng, người 
học sẽ được học cách lựa chọn và sử dụng từ 
ngữ sao cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, 
nội dung giao tiếp, đối tượng giao tiếp nhằm đạt 
được mục đích giao tiếp. Nói cách khác, ứng 
dụng là quá trình “đánh thức” vốn từ vựng mà cá 
nhân đã tích lũy được, là kết dính các từ ngữ rời 
rạc trong “kho lưu trữ” để tạo thành những câu 
mang nội dung thông báo khác nhau. Hiểu như 
vậy, việc dạy học từ vựng không chỉ đơn thuần là 
nhằm cung cấp vốn từ, mở rộng vốn từ, mà quan 
trọng hơn, nó còn hướng đến mục tiêu giúp cho 
người học có thể sử dụng thành thạo vốn từ vựng 
đó vào trong những tình huống giao tiếp cụ thể.
39KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Trên cơ sở mục đích đặt ra, dạy học từ vựng 
được xác định “trước hết là cung cấp vốn từ 
ngày càng mở rộng, chính xác, tinh tế theo trình 
độ tư tưởng, tình cảm, trí tuệ, tri thức khoa học 
và kinh nghiệm xã hội ngày càng được nâng cao, 
đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng lớn của 
sự diễn đạt và giao tiếp mà việc học tập trong 
nhà trường và sinh hoạt xã hội đặt ra cho học 
sinh” (Đỗ Hữu Châu, 1981). 
Để thực hiện được yêu cầu đó, không thể 
không nhắc đến vai trò của người dạy và người 
học. Ở vị trí của người truyền thụ, giảng viên 
cần phải chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong 
hoạt động dạy, từ khâu chuẩn bị bài đến việc 
lựa chọn vận dụng phương pháp sao cho phù 
hợp với nội dung bài học và đối tượng người 
học. Chẳng hạn, khi dạy về chủ đề Lễ hội (bài 
10 – Tiếng Việt B), bên cạnh việc giúp học viên 
nắm vững các từ mới có trong bài học (cả nghĩa 
từ điển và nghĩa ngữ cảnh), giảng viên còn cần 
bám sát trình độ học viên để giúp họ mở rộng 
vốn từ thông qua các bài đọc bổ trợ, giới thiệu 
video về các lễ hội văn hóa đặc sắc của người 
Việt như hội Lim, hội Chùa Hương, hội Đền 
Hùng. Bằng các hình thức này, học viên vừa 
được củng cố vốn từ (như phân biệt được chính 
xác giữa lễ, hội và lễ hội, tìm được điểm tương 
đồng và khác biệt giữa rước và khiêng trong các 
từ rước kiệu và khiêng kiệu;), vừa mở rộng 
được vốn từ (nắm được các từ liên quan đến 
hoạt động lễ hội như: nghi thức lễ, trang phục 
truyền thống, trò chơi dân gian), đồng thời, có 
thể sử dụng từ ngữ một cách linh hoạt trong các 
tình huống giao tiếp cụ thể. Ở vị trí của người 
tiếp nhận cũng vậy! Học viên không thu nạp 
từ ngữ một cách thụ động, máy móc mà cần có 
phương pháp học tập chủ động, tích cực nhằm 
nâng cao vốn từ của bản thân. Ngoài những giờ 
học trên lớp, học viên có thể chủ động làm giàu 
vốn từ thông qua một số hình thức như: học từ 
qua sách báo, qua các phương tiện truyền thông, 
qua bài hát, qua các hoạt động giao tiếp thông 
thường,. Đặc biệt, việc học từ thông qua các 
hoạt động giao tiếp luôn được giảng viên khích 
lệ bởi từ ngữ khi được đưa vào môi trường thực 
hành tiếng đều là những “từ ngữ sống”, chúng 
mang đầy đủ các đặc điểm về nghĩa biểu vật, 
biểu niệm, biểu cảm và ứng với mỗi ngữ cảnh 
khác nhau thì từ lại có những sự kết hợp linh 
hoạt biểu thị những nét nghĩa khác nhau. Chẳng 
hạn, khi nói: “Cô ấy mặt đẹp chưa?” thì rõ ràng 
đó là một câu khen: Cô ấy có khuôn mặt đẹp. 
Nhưng khi nói: “Cô ấy đẹp mặt chưa!” thì đích 
thị đây lại là một câu mang nghĩa chê bai: Cô 
ấy đã làm điều gì đó không tốt đến nỗi giờ đây 
phải hổ thẹn trước mọi người như vậy. 
2.3. Dạy học từ vựng tiếng Việt cho học 
viên quân sự Lào theo định hướng phát triển 
năng lực
Chương trình giáo dục định hướng phát triển 
năng lực (hay còn gọi là định hướng kết quả đầu 
ra) đã được đề cập nhiều từ những năm 90 của 
thế kỷ XX. Tuy nhiên, mãi đến những năm gần 
đây nó mới thực sự được đón nhận và trở thành 
xu hướng giáo dục quốc tế. 
So sánh với chương trình dạy học truyền 
thống là định hướng nội dung (hay còn gọi là 
định hướng đầu vào), có thể thấy rằng, điểm 
khác biệt lớn nhất đó là chương trình giáo dục 
định hướng nội dung chú trọng việc truyền thụ 
hệ thống tri thức khoa học theo các môn đã được 
quy định trong chương trình dạy học, ít quan 
tâm đến chủ thể người học cũng như khả năng 
ứng dụng tri thức đã học trong những tình huống 
thực tiễn. Trong khi đó, chương trình giáo dục 
định hướng phát triển năng lực không chỉ chú ý 
tích cực hóa người học về hoạt động trí tuệ mà 
còn chú trọng rèn luyện năng lực giải quyết vấn 
đề gắn với những tình huống của cuộc sống và 
nghề nghiệp; đồng thời, gắn hoạt động trí tuệ 
với hoạt động thực hành, thực tiễn. Nói cách 
khác, chương trình giáo dục định hướng phát 
triển năng lực sẽ quan tâm đến việc giáo dục 
hướng tới người học làm được gì? chứ không 
phải hướng tới mục tiêu người học biết gì? 
Soi chiếu mục đích của việc dạy học từ vựng 
với mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học theo 
định hướng phát triển năng lực người học, có 
40 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
thể thấy rằng, ở một góc độ nào đó, việc dạy học 
từ vựng từ trước đến nay ít nhiều cũng đã tiếp 
cận được mục tiêu phát triển năng lực người 
học. Bởi dạy từ vựng, suy cho cùng, là trang bị 
cho người học một vốn từ nhất định, đồng thời, 
giúp họ sử dụng được và sử dụng có hiệu quả 
vốn từ vựng đó vào trong hoạt động giao tiếp. 
Với chương trình dạy học tiếng Việt cho 
HVQS Lào, việc dạy học từ vựng theo định 
hướng phát triển năng lực lại càng cần được 
chú trọng. Học viên quân sự Lào học tiếng Việt, 
thực chất là học ngoại ngữ. Mà dạy học ngoại 
ngữ thì cần phải xuất phát từ chức năng giao 
tiếp và hướng tới việc rèn luyện năng lực giao 
tiếp cho người học. Học viên sẽ không thể tham 
gia được vào hoạt động giao tiếp bằng tiếng 
Việt nếu như bản thân họ không được trang bị 
một vốn từ vựng nhất định, không nắm chắc 
những nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng từ 
ngữ cũng như những quy tắc ngữ pháp của tiếng 
Việt. Vì vậy, muốn HVQS Lào sử dụng thành 
thạo tiếng Việt thì trước tiên cần phải giúp họ 
nâng cao năng lực từ ngữ. 
Từ nền móng vững chắc là từ ngữ, học viên 
sẽ được bồi đắp thêm năng lực nhận thức về các 
quy tắc ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ (gọi tắt là 
năng lực nhận thức) của tiếng Việt như: dùng từ, 
đặt câu, phong cách ngôn ngữ, các biện pháp tu 
từ,. Nắm vững các kiến thức này, HVQS Lào 
có thể tự đối chiếu, so sánh để thấy được những 
điểm tương đồng và khác biệt giữa ngôn ngữ mẹ 
đẻ với tiếng Việt; qua đó biết cách khắc phục 
những lỗi thường gặp do hiện tượng chuyển di 
tiêu cực trong quá trình học tiếng Việt với tư 
cách là một ngoại ngữ. 
Năng lực nhận thức bao gồm hai mảng: nhận 
thức ngôn ngữ và nhận thức văn hóa. Nhận thức 
ngôn ngữ chính là nhận thức về các đơn vị ngôn 
ngữ, các quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ, quy tắc 
kết hợp các đơn vị ngôn ngữ thành những đơn vị 
lớn hơn,. Nhận thức văn hóa là nhận thức về 
các điều kiện sử dụng những đơn vị ngôn ngữ 
đó trong thực tiễn học tập, sinh hoạt và công 
tác. Nếu nhận thức ngôn ngữ giúp cho HVQS 
Lào biết dùng từ, đặt câu đúng với ngữ pháp của 
tiếng Việt thì nhận thức văn hóa sẽ giúp họ biết 
cách sử dụng các câu đặt ra phù hợp với tình 
huống giao tiếp, giúp cho sự giao tiếp diễn ra 
nhanh chóng và thu được hiệu quả cao. 
Thực tế cho thấy, với mỗi đối tượng người 
nước ngoài học tiếng Việt khác nhau lại có những 
yêu cầu về năng lực nhận thức khác nhau. Chẳng 
hạn, người bình thường thì vốn từ cơ bản chỉ 
cần đáp ứng các kỹ năng trong giao tiếp thông 
thường, gắn liền với cuộc sống thường nhật của 
họ; nhưng với những người làm công tác chuyên 
môn (như bác sĩ, quân nhân, luật sư, nhà kinh 
tế học,) thì ngoài vốn từ cơ bản còn cần thêm 
vốn từ chuyên ngành (thuật ngữ) để phục vụ cho 
nhiệm vụ thuộc lĩnh vực chuyên môn. Vì thế, 
với HVQS Lào, năng lực từ ngữ tiếng Việt sẽ là 
khả năng sử dụng thành thạo cả từ ngữ giao tiếp 
lẫn từ ngữ thuộc lĩnh vực quân sự. Học viên sau 
khi tốt nghiệp các khóa học tiếng Việt không chỉ 
có khả năng thực hiện hoạt động giao tiếp bằng 
tiếng Việt mà còn có khả năng làm việc bằng 
tiếng Việt trong các vấn đề liên quan đến lĩnh 
vực quân sự, đối ngoại và an ninh quốc phòng. 
Để đáp ứng yêu cầu đó, dạy học từ vựng cần 
phải chú trọng đến việc làm giàu vốn từ cơ bản 
và vốn từ chuyên ngành cho người học.
Theo cách hiểu chung nhất, vốn từ cơ bản là 
những từ ngữ được dùng trong giao tiếp hàng 
ngày, được tập hợp và giới thiệu thông qua các 
chủ đề bài học gắn liền với những hoạt động 
của đời sống xã hội như: bản thân, gia đình, nhà 
trường, dịch vụ, giáo dục, y tế, giao thông, 
Nắm được vốn từ cơ bản sẽ giúp cho học viên 
có khả năng thực hiện các hoạt động giao tiếp 
thông thường bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, để sở 
hữu vốn từ cơ bản thì đòi hỏi mỗi cá nhân cần 
phải tích lũy dần dần chứ không thể có ngay 
trong ngày một ngày hai được! Không nhà 
trường nào có thể dạy hết cho học viên tất cả 
vốn từ cơ bản. Vì thế, giảng viên cần phải chỉ ra 
cho người học thấy được việc học từ không chỉ 
dựa vào sách vở, hay phó thác cho nhà trường, 
mà cần phải không ngừng tự học, đa dạng hình 
41KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
thức học tập. Chẳng hạn, để tích lũy và mở rộng 
vốn từ về biển đảo – một trong những nhóm từ 
vựng khá xa lạ với người Lào vì Lào là quốc gia 
không có biển, học viên có thể lựa chọn các hình 
thức như xem video giới thiệu về các vùng biển, 
bãi biển nổi tiếng của Việt Nam; tìm đọc những 
bài báo về du lịch biển, về ngành ngư nghiệp 
Việt Nam hay đón xem các tin, bài về việc hợp 
tác, trao đổi, mạn đàm giữa Hải quân Việt Nam 
với lực lượng Hải quân của các nước khác,.... 
Để củng cố và mở rộng vốn từ thuộc lớp từ địa 
phương, HVQS Lào cũng có thể kết hợp một số 
hình thức như: xem chương trình ti vi trên các 
kênh truyền hình địa phương (ví dụ truyền hình 
Hà Tĩnh, truyền hình Huế, truyền hình Quảng 
Trị, truyền hình Đà Nẵng, truyền hình Cần 
Thơ,); hoặc đón xem các chương trình yêu 
thích được phát sóng trên HTV, VTV9,. Nếu 
có điều kiện, học viên cũng nên tiếp cận thực tế 
bằng cách đi du lịch, tham gia các chuyến tham 
quan dã ngoại hay đơn giản hơn là đến những 
nơi tập trung đông khách du lịch như hồ Hoàn 
Kiếm, hồ Tây, bảo tàng, vườn thú, chợ, để 
nâng cao năng lực thực hành tiếng Việt. Có như 
vậy, vốn từ cơ bản mới thực sự phong phú và 
việc sử dụng vốn từ cơ bản trong hoạt động giao 
tiếp mới đạt được hiệu quả cao. 
Vốn từ chuyên ngành được tích lũy thông qua 
“con đường” hẹp hơn so với vốn từ cơ bản. Với 
thuật ngữ quân sự, con đường đó lại có phần còn 
“gồ ghề”, “khúc khuỷu” hơn. Một phần, từ vựng 
thuộc chuyên ngành quân sự đồ sộ hơn rất nhiều 
so với thuật ngữ của các chuyên ngành khác, 
bao gồm các quân, binh chủng như lục quân, hải 
quân, không quân. Mỗi một quân, binh chủng, 
ngoài những lớp từ chuyên ngành có tính chất 
phổ biến như: vũ khí, khí tài, đại đội, trung đội, 
tiểu đội, súng, cối, lực lượng cơ động, lực lượng 
tại chỗ, sát thương, mục tiêu, đánh giáp lá cà, 
bao vây, chiến dịch, chiến thuật, tiến công, phản 
công thì lại có những từ ngữ chuyên biệt được 
sử dụng riêng như: chiến hạm, hạm đội, tàu khu 
trục, tàu ngầm chống ngầm, tàu ngầm nguyên 
tử, tàu mặt nước, lượng giãn nước, (thuộc 
hải quân); phi đội, tên lửa hành trình, tên lửa 
không đối đất, hệ cánh ngang xòe, máy bay tiêm 
kích, máy bay không người lái, máy bay trinh sát 
vô tuyến tầm xa, tín hiệu phản xạ hiệu dụng, 
(thuộc không quân); vật cản, khu vực cảnh giới, 
khu vực phòng thủ, đánh chiếm đầu cầu, đánh 
chéo sườn, ổ phục kích, điểm tựa, (thuộc lục 
quân). Hơn nữa, trong giao tiếp thông thường, ít 
khi, thậm chí rất hiếm khi các từ ngữ này xuất 
hiện. Vì vậy, trong quá trình học tiếng Việt, cơ 
hội để học viên thực hành tiếng Việt quân sự rất 
hạn chế. Ngoài một lượng từ ít ỏi được học trong 
sách vở, phần lớn, học viên phải tự học thông 
qua từ điển thuật ngữ quân sự hoặc kinh nghiệm 
làm việc của bản thân.
Tất nhiên, dù theo con đường nào thì đích 
cuối cùng của dạy học tiếng Việt cho HVQS Lào 
theo định hướng phát triển năng lực cũng nhằm 
hướng tới người học làm được gì? chứ không 
phải hướng tới mục tiêu người học biết gì?. Điều 
đó có nghĩa là, vốn từ tiếng Việt, sau khi được 
học viên tiếp nhận sẽ được sử dụng hiệu quả như 
thế nào, hoạt động tích cực ra sao, thể hiện cụ thể 
qua các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, nghĩ và dịch 
thế nào, chứ không đơn thuần chỉ là những từ ngữ 
rời rạc, được xếp gọn ghẽ trong “kho từ chết”. Vì 
thế, trong quá trình dạy học từ vựng tiếng Việt 
cho HVQS Lào, giảng viên cần xây dựng cho học 
viên ý thức làm giàu vốn từ, tích cực hóa vốn từ 
(cả vốn từ cơ bản và vốn từ chuyên ngành), sao 
cho vốn từ vựng đó thực sự hữu dụng khi tham 
gia vào hoạt động giao tiếp thông thường lẫn các 
lĩnh vực khác có liên quan. 
3. KẾT LUẬN
Bám sát nội dung Nghị quyết Hội nghị 
Trung ương 8 khóa XI: “Tiếp tục đổi mới mạnh 
mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện 
đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo 
và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; 
khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi 
nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách 
nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người 
học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, 
phát triển năng lực”, những năm qua, việc 
dạy học tiếng Việt cho HVQS Lào đã có nhiều 
42 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
đổi mới. Hoạt động dạy học theo định hướng 
phát triển năng lực (hay còn gọi là định hướng 
kết quả đầu ra) được nhiều cơ sở giáo dục chú 
trọng, quan tâm. Kết thúc khóa học tiếng Việt, 
HVQS Lào không chỉ được trang bị một vốn từ 
vựng phong phú, mà còn có khả năng sử dụng 
thành thạo kho từ vựng ấy trong các hoạt động 
giao tiếp bằng tiếng Việt, cả trong giao tiếp lẫn 
hoạt động chuyên môn./.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán 
(1997), Phương pháp dạy học tiếng Việt, NXB 
Giáo dục, Hà Nội.
2. Lê A (2001), “Dạy tiếng Việt là dạy một hoạt 
động và bằng hoạt động”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
3. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa 
tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Quế Lai (1978), “Một số đặc trưng của vốn 
từ tiếng Lào”, Tìm hiểu lịch sử văn hóa Lào, NXB 
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Lê Phương Nga (2003), “Phương pháp dạy 
học tiếng Việt ở tiểu học – Một vài hướng nghiên 
cứu và kết quả”, Tạp chí Giáo dục, số 12.
ENRICHING VIETNAMESE VOCABULARY FOR LAOTIAN CADETS THROUGH 
CAPACITY-DEVELOPMENT TEACHING APPROACHES
NGUYEN THI YEN
Abstract: Vocabulary is the foundation of a language. Anyone who learns a language has a 
desire to master a certain amount of vocabulary that can be used for various purpose. Therefore, 
to enrich Vietnamese vocabulary for Laotian cadets of Vietnamese, in the process of teaching, 
teacher should pay attention to the ability oriented teaching.
Keywords: teaching, orient, Laotian cadets, ability, vocabulary.
Received: 03/5/2017; Revised: 28/6/2017; Accepted for publication: 28/6/2017