Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 108
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH TRẠNG SINH NHẸ CÂN: 
NGHIÊN CỨU BỆNH CHỨNG THỰC HIỆN TRẺ SƠ SINH 
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH ĐẮK LẮK 
Trương Ngô Ngọc Lan*, Hoàng Ngọc Anh Tuấn**, Đoàn Sỹ Hoàng**, Tăng Kim Hồng*** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Trẻ sơ sinh nhẹ cân là nguyên nhân tử vong trực tiếp hay gián tiếp tới 60-80% tỷ lệ tử vong 
chu sinh. Những yếu tố liên quan đến trẻ nhẹ cân lúc sinh thay đổi theo từng quốc gia, theo sự phát triển về kinh 
tế, xã hội. Vì vậy, việc tìm ra các yếu tố liên quan đến thai nhẹ cân cho từng vùng miền khác nhau là quan trọng 
để hạn chế tỷ lệ thai nhẹ cân cho từng vùng miền đó nói riêng và cho quốc gia nói chung. 
Mục tiêu nghiên cứu là: Xác định một số yếu tố liên quan thuộc về mẹ, con, và chăm sóc y tế ảnh hưởng 
đến cân nặng thấp lúc sinh của trẻ tại bệnh viện đa khoa Tỉnh Đắk Lắk. 
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu bệnh - chứng không bắt cặp thực hiện tại bệnh viện trên 117 bà mẹ 
và trẻ sơ sinh nhẹ cân cùng117 bà mẹ và trẻ sơ sinh có cân nặng bình thường được sinh ra tại khoa Sản Bệnh viện 
Tỉnh Đắk Lắk trong thời gian từ 02/2016 đến 06/2016. 
Kết quả: Bà mẹ sinh con từ lần thứ 3 trở đi khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 19 lần các bà mẹ sinh con lần 
đầu hoặc lần thứ 2. Giới tính của con lần này cùng giới với con lần trước làm tăng khả năng sinh con nhẹ cân gấp 
5,01 lần so với giới tính của con lần này khác giới với con lần trước. Bà mẹ nghén nhiều trong thai kỳ tăng khả 
năng sinh con nhẹ cân cao gấp 8,78 lần bà mẹ không nghén, nghén ít hoặc trung bình. Bà mẹ mắc bệnh trong 6 
tháng cuối của thai kỳ có khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 4,7 lần các bà mẹ không mắc bệnh trong 6 tháng cuối. 
Kết luận: Các yếu tô liên quan đến tình trạng sinh nhẹ cân bao gồm: số con đã có trong gia đình ≥ 2 con; con 
lần này cùng giới với con đã sinh; bà mẹ bị nghén nhiều; bà mẹ mắc bệnh trong 6 tháng cuối của thai kỳ. 
Từ khóa: sơ sinh nhẹ cân, các yếu tố liên quan. 
ABSTRACT 
FACTORS RELATED TO LOW BIRTH WEIGHT: A CASE-CONTROL STUDY CONDUCTED 
ON NEWBORN CHILDREN AT DAK LAK PROVINCE HOSPITAL 
Ngo Truong Ngoc Lan, Hoang Ngoc Tuan, Doan Sy Hoang, Tang Kim Hong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 108 - 114 
Background: Low birth weight (LBW) is a cause directly or indirectly leading to 60% to 80% perinatal 
death. Factors related to LBW vary by country, according to the economic and social development. Thus exploring 
the factors related to underweight during pregnancy for different regions is important in order to reduce low birth 
weight rates in each region and in the whole country in general. 
Objectives: To define related factors including maternal, child and health care factors affecting low birth 
weight in children born in Dark Lack Province Hospital. 
Methods: A hospital-based unmatched case – control study was conducted on 117 mothers and newborns 
with normal birth weight and 117 mothers and newborns with low birth weight at Obstetrics Department of Dark 
Lack Province Hospital from 02/2016 to 06/2016. 
** Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Đắk Lắk. *** Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: BSCKII. Nguyễn Thị Bảo Chi ĐT: 0909 082 833 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 109
Results: Mothers of high parity (three children or more) had odds of giving LBW babies 19 times higher than 
those of low parity (one or two children). The similarity of children sex (this time and previous time) increased the 
odds of LBW 5.01 times higher compared to the oppositeness of children sex. Mothers with heavy morning sick 
during pregnancy had odds of LBW 8.78 times higher than those mothers having low or medium morning sick. 
Mothers with infection in the last 6 months of pregnancy is increased the odds of low birth weight 4.7 times higher 
than those without infection. 
Conclusions: Factors related to low birth weight include: high parity (2 children or more), similarity of child 
sex this time and previous time, mothers with heavy morning sick, and mothers with infection in the last 6 
months of pregnancy. 
Keywords: low birth weight, maternal risk factors. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cân nặng sơ sinh là một tiêu chí tốt để 
đánh giá tình trạng sức khoẻ và tình trạng 
dinh dưỡng của người mẹ, đồng thời thể hiện 
cơ hội sống sót, trưởng thành, phát triển trong 
thời gian dài và tâm lý xã hội của trẻ em mới 
sinh(1,3).Theo WHO (2011), tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ 
cân toàn cầu là 15,5%, tương ứng khoảng 20,6 
triệu trẻ đẻ mỗi năm bị nhẹ cân, trong đó 
96,5% là những trẻ sinh ra ở các nước đang 
phát triển(10). Các yếu tố về phía mẹ liên quan 
đến việc sanh con nhẹ cân có thể xuất hiện từ 
lúc còn nhỏ, trước khi mang thai, trong quá 
trình mang thai. Ngoài ra những yếu tố liên 
quan đến trẻ nhẹ cân lúc sinh thay đổi theo 
từng quốc gia, theo sự phát triển về kinh tế, xã 
hội. Vì vậy, việc tìm ra các yếu tố liên quan 
đến thai nhẹ cân cho từng vùng miền khác 
nhau là quan trọng để hạn chế tỷ lệ thai nhẹ 
cân cho từng vùng miền đó nói riêng và cho 
quốc gia nói chung(9). 
Đắk Lắk là một tỉnh miền núi nằm ở trung 
tâm vùng Tây Nguyên, có 47/54 dân tộc, trong 
đó dân tộc thiểu số như Ê Đê, M'nông, Thái, Tày, 
Nùng... chiếm 30% dân số(2). Trong những năm 
gần đây, dân số của Đắk Lắk có biến động do 
tăng cơ học, chủ yếu là di dân tự do, điều này đã 
gây nên sức ép lớn cho tỉnh về giải quyết đất ở, 
đất sản xuất và các vấn đề đời sống xã hội, an 
ninh trật tự và môi trường sinh thái. Bên cạnh đó 
cũng gây nên sức ép không nhỏ lên ngành Y tế 
trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho 
người dân đặc biệt là nạn tảo hôn đang tăng lên 
một cách đáng kể. Mục tiêu của nghiên cứu này 
làm nhằm xác định một số yếu tố liên quan 
thuộc về mẹ, con, và chăm sóc y tế ảnh hưởng 
đến cân nặng thấp lúc sinh của trẻ tại bệnh viện 
đa khoa Tỉnh Đắk Lắk. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đây là một nghiên cứu bệnh-chứng không 
bắt cặp thực hiện tại bệnh viện, với tiêu chuẩn 
chọn mẫu bao gồm những trẻ sinh ra tại Khoa 
sản Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk từ tháng 
02/2016 đến tháng 06/2016 và có cân nặng lúc 
sinh chính xác; bà mẹ phải biết được chính xác 
tuần tuổi thai của mình dựa trên sổ khám thai 
hoặc siêu âm 3 tháng đầu; và trẻ sau sinh sống 
của những bà mẹ trên. Tiêu chuẩn loại trừ là 
những sản phụ có rối loạn hành vi, bệnh tâm 
thần, thiểu năng trí tuệ...; sản phụ không hiểu 
hoặc không thể trả lời hoàn tất bản câu hỏi. 
Cỡ mẫu của nghiên cứu tính dựa vào công 
thức nhằm kiểm định tỷ số chênh OR, với tỷ số 
bệnh chứng là 1: 1; với p0 (tỷ lệ bà mẹ không 
khám thai hoặc chỉ khám thai 1 lần trong thai kỳ) 
là 10,04%. Theo một nghiên cứu trước đây, bà 
mẹ không khám thai hay chỉ đi khám thai 1 lần 
có khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 3,2 lần các 
bà mẹ khám thai đầy đủ (6). 
Với những thông tin trên, cỡ mẫu cần thiết 
là: 100 trẻ thuộc nhóm sinh nhẹ cân, và 100 trẻ 
thuộc nhóm có cân nặng bình thường. Cỡ mẫu 
tối thiểu được tăng lên thành 110 trẻ có cân nặng 
lúc sinh bình thường và 110 trẻ sinh nhẹ cân để 
dự phòng việc điền thiếu thông tin trong quá 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 110
trình thu thập mẫu nghiên cứu. Tổng số trẻ cần 
nghiên cứu là 220 trẻ. 
Quá trình thu thập số liệu dựa vào sổ sinh 
của phòng sinh khoa sản bệnh viện tỉnh Đắk 
Lắk, hồ sơ bệnh án của bà mẹ tại bệnh viện, sổ 
khám thai và các giấy tờ liên quan, và phiếu trả 
lời câu hỏi. 
Xử lý và phân tích số liệu 
Sau khi thu thập các số liệu được mã hóa và 
nhập vào phần mềm STATA 12.0 để xử lý và 
phân tích số liệu. Biến số phụ thuộc bao gồm: 
cân nặng của trẻ sơ sinh. Các biến số độc lập bao 
gồm: giới tính trẻ, phương pháp sinh, dân tộc bố, 
dân tộc mẹ, nghề nghiệp bố, nghề nghiệp mẹ, 
trình độ học vấn của bố mẹ, tiền sử sản khoa của 
mẹ, số lần đi khám thai, dinh dưỡng trong thai 
kỳ, tình trạng ốm nghén của bà mẹ trong thai kỳ. 
Hồi quy logistics được sử dụng để xác định 
các yêu tố liên quan theo các bước sau: Đầu tiền, 
phân tích đơn biến được thực hiện để chọn ra 
các yếu tố giữa các biến số độc lập « có khả năng 
liên quan » đến tình trạng sinh con nhẹ cân với p 
< 0,25. Sau đó, dùng hồi quy đa biến logistic 
được áp dụng để kiểm soát các yếu tố gây nhiễu 
và phát hiện các yếu tố thay đổi tương quan (p 
<0,05) là các yếu tố tương quan thực sự. 
KẾT QUẢ 
Tổng cộng có 117 bà mẹ và trẻ sơ sinh có cân 
nặng thấp và 117 bà mẹ và trẻ sơ sinh có cân 
nặng bình thường được đưa và nghiên cứu. 
Bảng 1. Đặc điểm của trẻ sơ sinh trong nghiên cứu: 
Giá trị Nhóm 
bệnh 
Nhóm 
chứng 
Cân nặng của trẻ sơ sinh (gram) 
(Cân nặng trung bình ± Độ lệch 
chuẩn) 
1938 ± 
467 
3118 ± 
354 
Chung: 2528 ± 722 
Tuổi thai của trẻ (tuần) 
(Tuổi thai trung bình ± Độ lệch chuẩn) 
33,5 ± 3,7 38,9 ± 1,5 
Chung: 36,2 ± 3,9 
Mức độ nhẹ 
cân 
< 1000 gram 5,1% 
1000 – 1499 gram 7,7% 
1500 – 2499 gram 87,2% 
Ở nhóm trẻ nhẹ cân, đa số có cân nặng từ 
1500 – 2499 gram (82,7%), tuy nhiên số sơ sinh 
cực nhẹ cân < 1000 gram cũng chiếm gần 5%. 
Tuần tuần tuổi thai của trẻ đưa vào nghiên cứu 
phân bố từ 24 đến 42 tuần, đa số trẻ nhẹ cân tập 
trung ở nhóm 32 – 36 tuần tuổi thai. 
Bảng 2. Tổng hợp các yếu tố thuộc về mẹ liên quan 
đến tình trạng trẻ nhẹ cân lúc sinh (TNCLS): 
Các yếu tố liên quan OR KTC 
95% P 
Khu vực sống 
Thành thị 1 1,44 – 
4,38 0,001 ở nông thôn 2,51 
Nghề nghiệp 
Không làm nông 1 
2,2 – 6,6 <0,001 
Làm nông 3,82 
Dân tộc 
Kinh 1 
Ê đê 2,29 
1,15 – 
4,56 0,018 
khác 3,49 
1,65 – 
7,36 
0,001 
Học vấn 
>cấp 3 1 2,19 – 
6,72 < 0,001 dưới cấp 3 3,84 
Tình trạng hôn 
nhân 
Có chồng 1 1,84 – 
22,69 0,004 Không có chồng 6,46 
Cân nặng 
trước mang thai 
< 45kg. 2,44 1,35 – 
4,42 0,03 ≥ 45 kg 1 
Tiền sử sinh 
con nhẹ cân 
Không 1 2,83 – 
59,1 0,004 Có 12,93 
Kinh tế gia đình 
Nghèo 3,26 1,45 – 
7,34 0,004 Không nghèo 1 
Bố và mẹ cùng 
là đồng bào dân 
tộc thiểu số 
Có 3,08 
1,64 – 
5,77 < 0,001 Không 1 
Trong các yếu tố liên quan đến tình trạng 
sinh trẻ nhẹ cân qua phân tích logistic đơn 
biến (bảng 2) cho thấy: bà mẹ sống ở khu vực 
nông thôn, làm nghề nông có khả năng sinh 
con nhẹ cân cao gấp 2,51 lần và 3,82 lần so với 
các bà mẹ khác. Bà mẹ là người đồng bào dân 
tộc Ê đê hoặc người đồng bào dân tộc thiểu số 
khác thì khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 
2,29 lần và 3,49 lần so với bà mẹ là người đồng 
bào dân tộc Kinh. Bà mẹ không có chồng 
(chưa kết hôn hoặc góa chồng) thì khả năng 
sinh con nhẹ cân cao gấp 6,46 lần so với các bà 
mẹ đã kết hôn (KTC 95%= 1,84 – 22,69;p = 
0,004). Bố và mẹ cùng là người đồng bào dân 
tộc thiểu số thì khả năng sinh con nhẹ cân cao 
gấp 3,08 lần so với con của bố mẹ khác đồng 
bào dân tộc (KTC 95%= 1,64 – 5,77; p < 0,001). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 111
Bảng 3. Tổng hợp các yếu tố thuộc về chăm sóc và 
quản lý thai liên quan đến tình trạng TNCLS: 
Các yếu tố liên quan OR KTC 95% p 
Tăng cân < 8 kg 5,47 2,83 – 10,6 < 0,001 
Khám thai 
< 3 lần 2,49 0,97 – 6,38 0,057 
3 – 5 lần 1 
> 5 lần 0,56 0,31 – 1 0,051 
Dinh dưỡng 
Kém 2,63 0,98 – 7,05 0,055 
Bình thường 1 
Tốt 0,48 0,27 – 0,84 0,01 
Mắc bệnh 6 tháng cuối 2,36 1,09 – 5,09 0,029 
Trong thời gian mang thai, bà mẹ tăng cân < 
8kg trong thai kỳ có khả năng sinh nhẹ cân cao 
gấp 5,47 lần các bà mẹ tăng cân 8 – 12kg (KTC 
95%= 2,83 – 10,6, p < 0,001). Bà mẹ khám thai 
dưới 3 lần có khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 
2,49 lần so với bà mẹ khám thai từ 3 – 5 lần trong 
thai kỳ, tuy nhiên điều này không có ý nghĩa 
thống kê với p > 0,05. Bà mẹ có dinh dưỡng tốt 
trong thời gian mang thai là giảm khả năng sinh 
con nhẹ cân ít hơn 0,48 lần so với các bà mẹ có 
dinh dưỡng bình thường (KTC 95%: 0,27 – 0,84, 
p = 0,01) (bảng 3). 
Bảng 4: Mối liên quan giữa các yếu tố thuộc về mẹ, 
con, chăm sóc y tế trong thời gian mang thai với tình 
trạng sinh con nhẹ cân qua phân tích đa biến: 
Yếu tố liên quan OR 
thô 
KTC 95% OR 
hiệuchỉnh 
KTC 95% 
hc 
Số con đã có trong gia 
đình ≥2 con. 2,16 0,89 – 5,26 19 
1,71 – 
209,6 
Con lần này cùng giới 
với con đã sinh 1,8 0,76 – 4,26 5,01 1,3 – 19 
Nghén nhiều 1,46 0,87 – 2,45 8,78 1,6 – 48,3 
Mắc bệnh 6 tháng cuối 2,36 1,09 – 5,09 4,7 0,9 – 25 
Trong các yếu tố liên quan, sau khi thực hiên 
mô hình hồi quy logistics đa biến (bảng 4) thì chỉ 
còn lại 4 yếu tố thực sự liên quan đến tình trạng 
sinh nhẹ cân của trẻ: số con đã có trong gia đình 
≥ 2 con làm tăng khả năng sinh con nhẹ cân ở các 
đứa con sau lên 19 lần (KTC 95% = 1,71 – 209,6). 
Con lần này cùng giới với con đã sinh trước đó 
thì khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 5,01 lần so 
với con lần này khác giới với con đã sinh (KTC 
95% = 1,3 – 19). Bà mẹ bị nghén nhiều trong thời 
gian mang thai làm tăng khả năng sinh con nhẹ 
cân lên gấp 8,78 lần so với các bà mẹ không bị 
nghén hoặc nghén ít (KTC 95% = 1,6 – 48,3). Bà 
mẹ mắc bệnh trong suốt 6 tháng cuối của thai kỳ 
sẽ làm tăng nguy cơ sinh con nhẹ cân lên gấp 4,7 
lần so với các bà mẹ khỏe mạnh hoặc chỉ mắc 
bệnh trong 3 tháng đầu mang thai (KTC 95% = 
0,9 – 25). 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm của trẻ sơ sinh trong nghiên cứu 
Ở nhóm trẻ nhẹ cân, đa số có cân nặng từ 
1500 – 2499 gram (82,7%), tuy nhiên số sơ sinh 
cực nhẹ cân < 1000 gram cũng chiếm gần 5%. 
Nghiên cứu của Trần Thanh Nhàn và cộng sự 
cho thấy, khi tiến hành phân tích trên 590 cặp bà 
mẹ - trẻ sơ sinh: Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân (SSNC) 
nhóm có trọng lượng lúc sinh (TLLS) từ 2.000 - 
2.499g là 84,6% (33/39), nhóm 1.500 - 1.999g là 
10,3% (4/39) và nhóm 1.000 - 1.499 là 5,1% 
(2/39)(14). Nghiên cứu của Phạm Thị Kim Thủy và 
cộng sự cho thấy khi tiến hành nghiên cứu trên 
390 trẻ sơ sinh thi có 1,28% trẻ có TLLS từ 1000 – 
1499g, 98,72% trẻ có TLLS từ 1500 – 2499g. So với 
các nghiên cứu trên: Tỷ lệ trẻ nhẹ cân chiếm khá 
cao so với các nhóm rất nhẹ cân và cực nhẹ cân, 
tương ứng với tuần tuần thai tập trung ở nhóm 
sinh non (32 – 36 tuần) nhiều. 
Tổng hợp các yếu tố thuộc về mẹ liên quan 
đến tình trạng TNCLS 
Trong các yếu tố liên quan đến tình trạng 
sinh trẻ nhẹ cân qua phân tích logistics đơn biến 
cho thấy: bà mẹ sống ở khu vực nông thôn, làm 
nghề nông có khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 
2,51 lần và 3,82 lần so với các bà mẹ khác. So 
sánh với nghiên cứu của Đinh Phương Hoà, tỷ lệ 
trẻ SSNC khác nhau từng khu vực. Nhìn chung, 
bà mẹ sống ở khu vực nông thôn đều có tỷ lệ 
sinh con nhẹ cân cao hơn bà mẹ sống ở khu vực 
thành thị. Nghiên cứu của Tô Minh Hương và 
cộng sự đã nghiên cứu ở các tỉnh thuộc đồng 
bằng sông Hồng; nghiên cứu của Hoàng văn 
Tiến (1998) ở huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội 
cũng cho kết quả tương tự (4). Nghiên cứu của 
Trần Thanh Nhàn cùng cộng sự cho thấy, tỷ lệ 
SSNC ở nhóm bà mẹ có nghề nghiệp nông dân 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 112
cao nhất (14,6%), thấp nhất là nhóm bà mẹ là 
công chức nhà nước (5,4%), nghiên cứu cũng cho 
thấy có sự liên quan giữa nghề nghiệp của mẹ và 
tình trạng SSNC với p<0,01(8). Theo nghiên cứu 
của Đinh Thị Phương Hòa, mẹ làm nghề nông có 
nguy cơ sinh con bị SSNC gấp 3,02 lần so với 
nhóm bà mẹ làm nghề khác(4). Theo nghiên cứu 
bệnh chứng các yếu tố nguy cơ sinh con nhẹ cân 
của Termsri Chumijarakij tiến hành tại Thái Lan 
(1988) cho thấy bà mẹ ở khu vực nông thôn có 
nguy cơ sinh nhẹ cân gấp 1,2 lần so với bà mẹ 
sống ở khu vực thành thị, bà mẹ làm nghề nông 
có nguy cơ sinh nhẹ cân gấp 1,5 lần so với bà mẹ 
làm nghề buôn bán, kinh doanh(3). 
Kết quả nghiên cứu của tôi tương tự những 
tác giả vừa nêu, tỷ lệ SSNC tập trung chủ yếu ở 
nhóm bà mẹ là nghề nông. Đối với những bà mẹ 
là nông dân thì phải lao động nặng nhọc, điều 
kiện kinh tế gia đình khó khăn, chế độ dinh 
dưỡng trước và trong khi mang thai thiếu thốn, 
hiểu biết về sức khỏe sinh sản còn kém, thường 
sống ở vùng nông thôn nên việc tiếp cận với các 
dịch vụ y tế còn hạn chế. 
Bà mẹ là người đồng bào dân tộc Ê đê hoặc 
người đồng bào dân tộc thiểu số khác thì khả 
năng sinh con nhẹ cân cao gấp 2,29 lần và 3,49 
lần so với bà mẹ là người đồng bào dân tộc Kinh. 
Đồng thời, nếu trẻ có bố và mẹ cùng là người 
đồng bào dân tộc thiểu số thì khả năng sinh nhẹ 
cân cao gấp 3,08 lần so với trẻ là con của bố mẹ 
khác đồng bào dân tộc (KTC 95%= 1,64 – 5,77; p < 
0,001).Theo Nguyễn Đỗ Huy nghiên cứu trên 
228 trẻ sơ sinh tại 4 xã miền núi thuộc huyện Yên 
Thế - Bắc Giang năm 2003 – 2004 cho thấy không 
có sự khác biệt về tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân giữa 
các nhóm dân tộc Kinh và dân tộc Nùng(6). 
Người đồng bào dân tộc thiểu số thường 
do hạn chế về mặt ngôn ngữ, công việc 
thường là làm nông, điều kiện kinh tế khó 
khăn nên khả năng tiếp xúc với các dịch vụ 
chăm sóc y tế còn kém. Đặc biệt là đồng bào 
dân tộc khác (Tày, Nùng, Mông, M’Nông) 
những năm gần đây di cư vào khu vực Tây 
Nguyên khá nhiều, cuộc sống du canh du cư, 
trình độ văn hóa thấp, phong tục lạc hậu, nạn 
tảo hôn, sinh dày, sinh nhiều con càng làm 
tăng nguy cơ sinh trẻ nhẹ cân. 
Đồng bào dân tộc Ê đê là đồng bào dân tộc 
thiểu số tại chỗ ở Đắk Lắk, chiếm tỷ lệ khá cao, 
được chính quyền quan tâm và tạo điều kiện 
rất lớn, vì thế những năm gần đây đời sống 
của đồng bào dân tộc Ê đê được cải thiện rất 
nhiều. Chính vì thế mặc dù nguy cơ sinh con 
nhẹ cân so với đồng bào Kinh còn cao, nhưng 
tỷ lệ này vẫn ít hơn nhiều so với các đồng bào 
dân tộc thiểu số khác. 
Bà mẹ không có chồng (chưa kết hôn hoặc 
góa chồng) thì khả năng sinh con nhẹ cân cao 
gấp 6,46 lần so với các bà mẹ đã kết hôn (KTC 
95%= 1,84 – 22,69;p = 0,004). Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi khá phù hợp với các nghiên 
cưu tại Thái Lan: bà mẹ chưa kết hôn có nguy 
cơ sinh con nhẹ cân cao gấp 1,4 bà mẹ có hôn 
thú. Bà mẹ đã ly thân, ly hôn có nguy cơ sinh 
con nhẹ cân cao hơn nhiều so vơi bà mẹ đang 
có chồng(3); và theo nghiên cứu tại Malaysia 
(2008) cũng cho thấy, tỷ lệ bà mẹ chưa kết hôn 
ở nhóm trẻ sinh ra bị nhẹ cân cao hơn ở nhóm 
trẻ sinh không nhẹ cân. 
Mang thai không có hôn thú thường là ngoài 
ý muốn, thường gặp ở các bà mẹ còn nhỏ tuổi 
nên có tâm lý lo lắng, mặc cảm với bạn bè, người 
thân, chưa có đầy đủ kiến thức chăm sóc sức 
khỏe trong thời gian mang thai đồng thời đa số 
trường hợp này gia đình không được biết nên 
không được gia đình hỗ trợ trong việc chăm sóc 
thai. Đồng thời không được sự quan tâm chăm 
sóc của bố đứa trẻ, bà mẹ thường cô đơn, buồn 
bã, gặp nhiều áp lực về mặt tâm lý và xã hội nên 
việc chăm sóc thai thường ít được quan tâm. 
Các yếu tố thuộc về chăm sóc và quản lý 
thai liên quan đến tình trạng TNCLS 
Nghiên cứu cho thấy: Bà mẹ tăng cân trong 
thai kỳ dưới 8 kg có khả năng sinh nhẹ cân gấp 
5,47 lần so với bà mẹ tăng cân 8 – 12 kg trong 
thai kỳ. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với 
p < 0,001. Theo nghiên cứu của Phạm Thị Kim 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 113
Thủy và Tạ Văn Trầm kết luận: nếu trong thời 
gian mang thai mà bà mẹ tăng cân < 8 kg thì 
nguy cơ bị sinh nhẹ cân tăng gấp 9,3 lần. Theo 
nghiên cứu của Trần Thanh Nhàn và công sự 
cho thấy những bà mẹ có cân nặng tăng ít hơn 
9kg trong suốt quá trình mang thai làm tăng cơ 
sinh con bị SSNC với OR=3,5 (1,5 – 8,0)(8). Nghiên 
cứu tại Thái Lan cũng cho kết luận tương tự: bà 
mẹ tặng < 5 kg hoặc từ 5 – 10 kg trong thời gian 
mang thai có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao gấp 
2,32 lần và 1,94 lần so với bà mẹ tăng > 10 kg 
trong thai kỳ(3). 
Như vậy kết quả nghiên cứu của tôi cũng 
đưa ra kết luận tương tự với các nghiên cứu đã 
nêu trên. Điều này cho thấy rằng cân nặng tăng 
lên trong khi mang thai là một yếu tố liên quan 
rất mật thiết đến nguy cơ SSNC. Theo tác giả Vũ 
Ngọc Ruẩn (2005)(9), cân nặng cơ thể tăng khi 
mang thai phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác 
nhau: trẻ tuổi tăng trọng nhiều hơn người nhiều 
tuổi, có thai lần đầu tăng trọng nhiều hơn thai 
lần sau, thai phụ có BMI thấp sẽ tăng trọng 
nhiều hơn BMI cao. Mặc dù có nhiều yếu tố ảnh 
hưởng nhưng mức tăng trọng trung bình đòi hỏi 
từ 11-12kg. Nếu tăng trọng dưới 9kg, dinh 
dưỡng cần thiết cho thai nhi phải lấy từ nguồn 
mô tồn trữ trong cơ thể mẹ. Nếu mẹ bị suy dinh 
dưỡng hoặc nhẹ cân thì chắc chắn thai sẽ không 
đủ dinh dưỡng để phát triển. 
Các yếu tố liên quan trong mô hình phân 
tích đa biến 
Qua mô hình phân tích đa biến cho thấy, bà 
mẹ sinh con lần thứ 3 trở lên làm tăng khả năng 
sinh ra trẻ có CNLS thấp cao gấp 19 lần các bà 
mẹ sinh lần đầu hoặc lần hai. Theo nghiên cứu 
tại Thái Lan bà mẹ sinh con từ lần thứ 4 trở lên 
có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao gấp 1,33 lần bà 
mẹ sinh con lần 2 hoặc lần 3, p < 0,05(3). Nguyễn 
thị Diệu Trang khi nghiên cứu về các yếu tố liên 
quan đến trẻ sơ sinh nhẹ cân ở đồng bào dân tộc 
Ê đê tỉnh Đắk Lắk nhận thấy các bà mẹ có tiền sử 
đã sinh từ 2 lần trở lên làm tăng nguy cơ sinh 
con nhẹ cân lên gấp 1,16 lần tuy nhiên không 
thấy có ý nghĩa thống kê(7). Nghiên cứu tại 
Malaysia lại đưa ra kết quả trẻ sinh lần đầu có 
nguy cơ sinh nhẹ cân cao hơn trẻ được sinh ở các 
lần sau. Kết quả mà tôi có được khác với các kết 
luận của các tác giả trên. Trong nghiên cứu của 
tôi, những bà mẹ sinh nhiều con đa số là người 
đồng bào dân tộc thiểu số, có trình độ học vấn 
thấp, làm nghề nông nên ít được tiếp xúc với các 
dịch vụ chăm sóc thai nghén, kế hoạch hóa gia 
đình. Đa số đều có hoàn cảnh kinh tế gia đình 
khó khăn nên dinh dưỡng trong thai kỳ ít được 
bảo đảm. 
Giới tính con lần này cùng giới với con đã 
sinh làm tăng khả năng sinh con nhẹ cân gấp 
5,01 lần so với giới tính của con lần này khác giới 
với con lần trước. Do tâm lý muốn “có nếp có tẻ” 
của các gia đình và tư tưởng “trọng nam khinh 
nữ”, nên các gia đình thường không muốn sinh 
con một bề đặc biệt là sinh con gái. Khi đứa trẻ 
lần này được xác định cùng giới tính với đưa trẻ 
đã sinh trước đó, sự quan tâm chăm sóc dành 
cho bà mẹ cũng giảm đi. Bản thân bà mẹ cũng sẽ 
lơ là trong việc chăm sóc thai nghén của mình. 
Đôi khi vì áp lực sinh con trai mà nhiều bà mẹ 
khi biết giới tính thai nhi thường rơi vào trạng 
thái tinh thần không vui vẻ, thêm vấn đề từ phía 
gia đình chồng nên dẫn đến căng thẳng tâm lý, 
dễ dẫn đến dinh dưỡng trong thai kỳ kém và có 
thể sinh non. 
Bà mẹ nghén nhiều trong thời gian mang 
thai làm tăng khả năng sinh con nhẹ cân cao gấp 
8,8 lần các bà mẹ không bị nghén nhiều. Huxley 
R. khi nghiên cứu về ảnh hưởng của việc nôn 
nghén lên sự khát triển của thai nhi cho thấy: 
Ốm nghén đã được báo cáo là có tác động tích 
cực lên thai kỳ và có liên quan với giảm nguy cơ 
sẩy thai, sinh non, sinh nhẹ cân (LBW), và tử 
vong chu sinh. Các nghiên cứu ở người và động 
vật đã chỉ ra rằng giảm khẩu phần năng lượng 
trong đầu thai kỳ có liên quan với tăng trọng 
lượng nhau thai(5). Trong nghiên cứu này lại cho 
kết quả ngược lại với các tác giả nước ngoài. 
Trong nghiên cứu của tôi các bà mẹ bị nghén 
nhiều thường có thời gian nghén kéo dài qua 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 114
đến > 5 tháng. Việc nôn nghén nhiều làm ảnh 
hưởng đến việc ăn uống của bà mẹ kém, giảm 
hấp thu dinh dưỡng dẫn đến tăng cân ít trong 
thai kỳ thậm chí còn bị giảm cân. Do đó năng 
lượng cung cấp cho thai cũng bị giảm sút, ảnh 
hưởng đến sự phát triển của thai, dễ dẫn đến 
tình trạng suy dinh dưỡng bào thai. 
Bà mẹ mắc bệnh trong 6 tháng cuối của 
thai kỳ làm tăng khả năng sinh con nhẹ cân 
cao gấp 4,7 lần các bà mẹ khác. So với nghiên 
cứu của Phạm Thị Kim Thủy và Tạ Văn Trầm 
cho thấy nếu trong thời gian mang thai mà 
những bà mẹ bị bệnh (Tăng huyết áp thai kỳ, 
nhau tiền đạo, nhiễm khuẩn đường sinh dục, 
bướu cổ) thì nguy cơ sinh non tăng gấp 9,7 lần 
(p < 0,001). Theo Nem Yun-Boo khi nghiên cứu 
các yếu tố nguy cơ gây sinh nhẹ cân ở người 
Malaysia cũng cho kết quả tương tự, bà mẹ 
mắc bệnh nhiễm khuẩn cấp tính hoặc các bệnh 
mãn tính không làm tăng nguy cơ sinh trẻ nhẹ 
cân. Bà mẹ có thai kỳ nguy cơ cao: tăng huyết 
áp trong thai kỳ, tiền sản giật làm tăng nguy 
cơ sinh con nhẹ cân. 
Như vậy quả nghiên cứu của tôi phù hợp với 
kết luận của tác giả trên khi phân tích các yếu tố 
liên quan đến SSNC đưa ra. Đó là những bà mẹ 
bị mắc bệnh trong thời gian mang thai là yếu tố 
ảnh hưởng gây nên SSNC. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 117 trường hợp trẻ nhẹ cân 
lúc sinh và 117 trường hợp trẻ có cân nặng từ 
2500gr trở lên tại Bệnh viện Đa Khoa Tỉnh 
ĐăkLăk trong thời gian từ 2/2016 – 6/2016, chúng 
tôi thấy các yếu tố làm tăng khả năng sinh con 
nhẹ cân bao gồm: sinh nhiều con, giới tính của 
con lần này trùng với giới tình của con đã sinh, 
bà mẹ nghén nhiều trong thời gian mang thai và 
mắc bệnh trong 6 tháng cuối của thai kỳ. Các yếu 
tố này không có sự tương quan với nhau. Từ 
nghiên cứu này, chúng tôi đề nghị cấn phải có 
những chính sách khuyến khích những phụ nữ 
khi mang thai nên đi khám thai ít nhất 3 lần 
trong 3 quý, để theo dõi sự phát triển của thai 
đồng thời phát hiện những bất thường cho mẹ 
và thai để can thiệp kịp thời. Đồng thời thực hiện 
tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình, đặc biệt là 
cho đồng bào dân tộc thiểu số ít người đang sinh 
sống tại Tây Nguyên, khuyến khích những cặp 
vợ chồng nên sinh ít con và khoảng cách sinh 
hợp lý (từ 3 – 4 năm) để có điều kiện chăm sóc 
sức khỏe cho mẹ và trẻ tốt hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế - Viện Dinh dưỡng (2012), " Chiến lược quốc gia về 
dinh dưỡng giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030". 
21. 
2. Chi cục Thống kê Tỉnh ĐăkLăk (2014). 
3. CHUMNIJARAKIJ T (1988), "Maternal risk factors for low birth 
weight newborns in ThaiLand". international Development 
Research Center (IDRC) Ottawa, Canada. 
4. Đinh thị Phương Hòa (2000), "Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ 
đối với trẻ thấp cân và tử vong chu sinh ở một số vùng miền 
Bắc Việt Nam". 
5. Huxley RR1 (2000), "Nausea and vomiting in early pregnancy: 
its role in placental development.". PubMed: Obstet Gynecol., 
95(5), 779-782. 
6. Nguyễn Đỗ Huy, Lê Thị Hợp, Lê Danh Tuyên & Nguyễn Đức 
Vinh (2010), "Tình hình cân nặng sơ sinh và một số vấn đề liên 
quan ở Việt Nam hiện nay". Tạp chí Y học thực hành, 5, 88. 
7. Nguyễn Thị Diệu Trang (2015), "Tỷ lệ trẻ nhẹ cân lúc sinh và 
các yếu tố liên quan ở người dân tộc Ê Đê tại Bệnh viên Đa 
khoa Tỉnh Đắk Lắk ". Đại học Y dược TP. Hồ Chí Mình - Luận 
văn Thạc sỹ chuyên ngành Sản Khoa. 
8. Trần Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Từ Vân & Nguyễn Quang 
Vinh (2009), "Tỉ lệ trẻ sinh nhẹ cân và các yếu tố liên quan ở 
huyện củ chi từ 09/2007 đến 2/2008". Tạp chí Y học TP. Hồ Chí 
Minh, 13(1), 1-5. 
9. Vũ Ngọc Ruẩn (2005), "Dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai". 
Nhà xuất bản đại học quốc gia TP. HCM 329-346. 
10. WHO/UNICEF (2011), "State of the World's Children". 
Ngày nhận bài báo: 19/01/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/02/2017 
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2017