Kết quả phẫu thuật nội soi điều trị áp xe ruột thừa

Tài liệu Kết quả phẫu thuật nội soi điều trị áp xe ruột thừa: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 232 KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ ÁP XE RUỘT THỪA Phan Thanh Nguyên*, Nguyễn Ngọc Thao*, Nguyễn Tuấn*, Nguyễn Văn Hải** TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tính an toàn và hiệu quả của phẫu thuật nội soi trong điều trị áp xe ruột thừa. Phương pháp: Hồi cứu tất cả bệnh nhân (BN) được điều trị áp xe ruột thừa bằng phẫu thuật nội soi tại bệnh viện Hoàn Mỹ Sài gòn từ 1/2009 đến 12/2013. Chẩn đoán áp xe ruột thừa dựa vào lâm sàng, siêu âm hay CT scan bụng, thương tổn trong mổ và kết quả giải phẫu bệnh. Kết cục của nghiên cứu tập trung vào tỉ lệ thành công của phẫu thuật nội soi, tai biến trong mổ, thời gian mổ, biến chứng và ngày nằm viện trung bình sau mổ. Kết quả: Có 62 bệnh nhân trong nghiên cứu với tuổi trung bình là 44,6 tuổi (12 – 75 tuổi). Xuất độ áp xe ruột thừa sau hồi tràng, sau manh tràng, tiểu khung, dưới gan lần lượt là 45,2%, 38,7%, 12,9% và 3,2%. Tỉ lệ thành công của ...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả phẫu thuật nội soi điều trị áp xe ruột thừa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 232 KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ ÁP XE RUỘT THỪA Phan Thanh Nguyên*, Nguyễn Ngọc Thao*, Nguyễn Tuấn*, Nguyễn Văn Hải** TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tính an toàn và hiệu quả của phẫu thuật nội soi trong điều trị áp xe ruột thừa. Phương pháp: Hồi cứu tất cả bệnh nhân (BN) được điều trị áp xe ruột thừa bằng phẫu thuật nội soi tại bệnh viện Hoàn Mỹ Sài gòn từ 1/2009 đến 12/2013. Chẩn đoán áp xe ruột thừa dựa vào lâm sàng, siêu âm hay CT scan bụng, thương tổn trong mổ và kết quả giải phẫu bệnh. Kết cục của nghiên cứu tập trung vào tỉ lệ thành công của phẫu thuật nội soi, tai biến trong mổ, thời gian mổ, biến chứng và ngày nằm viện trung bình sau mổ. Kết quả: Có 62 bệnh nhân trong nghiên cứu với tuổi trung bình là 44,6 tuổi (12 – 75 tuổi). Xuất độ áp xe ruột thừa sau hồi tràng, sau manh tràng, tiểu khung, dưới gan lần lượt là 45,2%, 38,7%, 12,9% và 3,2%. Tỉ lệ thành công của phẫu thuật nội soi (PTNS) là 100%, trong đó 98,3% kiểm soát được gốc ruột thừa. Chỉ có 2 BN (3,2%) bị trầy sát thành hồi tràng nhiều trong mổ. Không có trường họp nào chuyển mổ mở. Thời gian mổ trung bình là 90 phút (45-160 phút). Biến chứng sau mổ gặp ở 17% BN, gồm: tụ dịch sau mổ (4,8%), bán tắc ruột non sớm (3,2%), nhiễm trùng vết mổ (9,7%). Không có tử vong. Thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 6 ngày (3- 8 ngày). Kết luận: Phẫu thuật nội soi có tỉ lệ thành công cao và biến chứng thấp ngay cả trong áp xe ruột thừa. Từ khóa: viêm ruột thừa cấp, áp xe ruột thừa, cắt ruột thừa nội soi ABSTRACT THE RESULTS OF LAPAROSCOPIC SURGERY IN TREATMENT OF APPENDICEAL ABSCESS Phan Thanh Nguyen, Nguyen Ngoc Thao, Nguyen Tuan, Nguyen Van Hai * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 232 - 237 Background: To identify safety and efficacy of laparoscopic surgery in treatment of appendiceal abscesses. Methods: This is retropective study including all patients (pts) who were treated for appendiceal abscess by laparoscopic surgery at Hoan My Sai Gon’s hospital from 1/2009 to 12/2013. The diagnosis of appendiceal abscess was based on clinical, imaging, operative findings and then was confirmed by anapathology. The outcomes of study were focused on success rate of laparoscopic surgery, intra- and post operative complications, average operative time and hospital stay. Results: There were 62 patients with the mean age of 44.6 years (range 12 – 75 years). Incidence of post- ileal, retrocecal, pelvic and subhepatic appendiceal abscesses were respectively 45.2%, 38.7%, 12.9% and 3.2%. Success rate of laparoscopic surgery was 100%, with the rate of controlled appendiceal base was 98.3%. Two patients (3.2%) had intraoperative significant laceration of ileal wall. There was no conversion to open surgery. The average operative time was 90 minutes (range 45 – 160 minutes). Postoperative complications occurred in 17.7% of cases, including fluid collection (4.8%), early postoperative incomplete SBO (3.2%), wound infection (9.7%). There was no death. The average hospital stay was 6 days (range 4-8 days). Conclusion: Laparoscopic surgery has high success rate and low postoperative complications even in appendiceal abscesses. Keyword: acute appendicitis, appendiceal abscess/mass, laparoscopic appendectomy Khoa Ngoại, Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn, BM Ngoại, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Văn Hải, ĐT: 0903602989. Email: bsvanhai@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 233 ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm ruột thừa (VRT) cấp là một cấp cứu ngoại khoa về bụng thường gặp nhất trên toàn thế giới. Khoảng 10% VRT diễn tiến đến các biến chứng như thủng gây viêm phúc mạc, áp xe ruột thừa (AXRT) hay đám quánh ruột thừa. Nhiều nghiên cứu ghi nhận đám quánh và AXRT chiếm từ 2 – 7 % trong số bệnh nhân nhập viện vì VRT cấp(8). Điều trị AXRT hiện nay còn nhiều bàn cãi, trong đó có cả phương pháp phẫu thuật và không phẫu thuật. Gần đây, trên Y văn thế giới, điều trị phẫu thuật AXRT ít được nghiên cứu riêng mà thường là một phần trong các nghiên cứu về lựa chọn cách xử trí đối với một khối viêm vùng ruột thừa (appendiceal mass, appendicular mass) bao gồm cả đám quánh (phlegmon) và AXRT. Tại Việt nam, hiện nay có nhiều bệnh viện thực hiện phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa ngay để điều trị AXRT như Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh, Bệnh viện Bình Dân, Bệnh viện Thống Nhất, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định nhưng báo cáo chính thức chưa nhiều. Đối với những AXRT đã được thành hóa, tức là dính áp vào thành bụng trước bên ở hố chậu phải, cách điều trị kinh điển là rạch tháo mủ tại chỗ hay gần đây là chọc hút kết hợp với kháng sinh đã được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, đối với những AXRT không được thành hóa như vậy, tạm gọi là AXRT trong ổ bụng, thì hiện nay phẫu thuật nội soi có khả thi, an toàn không? và có nên được chấp nhận như một cách tiếp cận điều trị? Để góp phần giải đáp câu hỏi đó, chúng tôi đã tiến hành thực hiện nghiên cứu này. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Đây là báo cáo loạt ca, hồi cứu tại Khoa Ngoại, bệnh viện Hoàn Mỹ Sài gòn từ 01/2009 đến 12/2013. Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn chọn bệnh Tất cả bệnh nhân (BN) được chẩn đoán AXRT và được phẫu thuật nội soi để điều trị. Chẩn đoán AXRT dựa vào: Đau hố chậu phải hay bụng phải đã vài ngày, có thể kèm sốt. Khám bụng ấn đau và có thể sờ được khối viêm vùng này. Siêu âm và/hoặc CT bụng xác định có ổ mủ kèm dấu hiệu gợi ý VRT cấp. Trong mổ xác định ổ mủ có liên quan đến VRT cấp. Trường hợp (TH) mổ cắt được ruột thừa, kết quả GPB sau mổ phù hợp VRT. Tiêu chuẩn loại trừ AXRT được điều trị nội hoàn toàn hay mổ mở ngay từ đầu. AXRT ở hố chậu phải đã thành hóa, được điều trị điều trị nội kết hợp chọc hút hay dẫn lưu tại chỗ. Áp xe vùng hố chậu phải hay lân cận, được mổ nội soi, kết quả giải phẫu bệnh (GPB) sau mổ không phù hợp VRT. Các bước thực hiện PTNS trong điều trị AXRT Dụng cụ phẫu thuật Dàn máy mổ nội soi Màn hình, nguồn sáng, máy bơm CO2, máy cắt đốt (có chức năng đốt lưỡng cực và đơn cực) Các dụng cụ nội soi Ống kính soi nhìn nghiêng 30o, trocar 10 mm, trocar 5 mm, kẹp ruột, kéo, móc, kềm phẫu tích nội soi, dụng cụ hút rửa, túi đựng bệnh phẩm, kẹp mang kim, chỉ khâu Vicryl 1-0, 2-0 Vô cảm và tư thế Tất cả BN được gây mê toàn thể, nằm ngửa, đầu hơi thấp, nghiêng trái 10-15o. Phẫu thuật Các bước phẫu thuật tương tự như trong phẫu thuật cắt ruột thừa nội soi điều trị viêm Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 234 ruột thừa cấp chưa có biến chứng nhưng có một số chú ý: Trước khi bóc tách vào ổ áp xe phải dùng gạc nội soi che chắn kỹ lưỡng, cô lập ổ áp xe để hạn chế tối đa việc dây nhiễm lan rộng trong ổ bụng. Phải có máy hút tốt, sử dụng ống hút để vừa tách vừa chủ động hút mủ (suction-dissection), không để trào mủ ra xung quanh. Hình 1: Tách và hút bằng ống hút (mũi tên) Kết hợp gỡ với cắt (blunt and sharp dissection) khi tách mạc nối lớn và các quai ruột khỏi ổ mủ, sử dụng kẹp không sang chấn khi cầm nắm để tránh làm tổn thương ruột và các mạch máu mạc treo, mạc nối. Sử dụng đốt lưỡng cực và kéo để cắt mạc treo ruột. Hình 2: Tách và tìm ruột thừa hoại tử trong ổ áp xe Cố gắng tìm và kiểm soát gốc ruột thừa. Nếu gốc ruột thừa còn tốt thì cột gốc ruột thừa bằng chỉ Vicryl 1-0 trước khi cắt. Nếu hoại tử ngay gốc ruột thừa thì khâu gốc ruột thừa bằng mũi khâu vòng (purse-string) hay mũi chữ X với chỉ Vicryl 2-0. Cho bệnh phẩm vào bao nhựa (Hình 3). Hút rửa tại chỗ kỹ. Kiểm tra cầm máu và kiểm tra ruột có tổn thương không. Lấy gạc ra đủ. Đặt 1 ống dẫn lưu tại chỗ hay nếu cần có thể đặt thêm dẫn lưu Douglas hay dưới gan. Lấy bệnh phẩm trong bao nhựa ra ngoài qua lỗ trocar rốn 10mm. Hình 3: Khâu cột gốc ruột thừa qua nội soi Phẫu thuật nội soi điều trị AXRT được gọi là thành công khi toàn bộ quá trình phẫu thuật được thực hiện hoàn toàn qua nội soi, giải quyết được ổ áp xe, cắt được hay kiểm soát được gốc ruột thừa; hay nếu không cắt được ruột thừa (do ruột thừa đã vỡ nát, không còn gốc) thì cũng không phải mổ lại. Phẫu thuật nội soi điều trị AXRT được coi là thất bại khi không thể giải quyết được ổ áp xe hay có tai biến, biến chứng trong mổ, phải chuyển mổ mở. Thu thập số liệu dựa vào hồ sơ bệnh án theo mẫu xây dựng sẵn, xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong thời gian từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 12 năm 2013, tại Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn, chúng tôi đã áp dụng phẫu thuật nội soi điều trị cho 62 bệnh nhân AXRT. Nam chiếm tỉ lệ cao hơn nữ (59,7% so với 40,3%), tỉ số nam/nữ = 1,48. Tuổi trung bình: 44,6 ± 16 (nhỏ nhất: 12 tuổi; lớn nhất: 75 tuổi). Tất cả 62 trường hợp (100%) vào viện với lý do đau bụng vùng hố chậu phải hay bụng phải. Thời gian từ lúc khởi đau đến nhập viện ngắn nhất là 2 ngày, dài nhất là 14 ngày, trung bình: 5,1 ± 2,8 ngày. Hồ sơ ghi nhận có 18 trường hợp (29%) đã được dùng kháng sinh từ lúc khởi đau, đến khi không đỡ mới vào viện, nhưng chúng tôi không có đầy đủ thông tin chi tiết về loại, đường dùng và số ngày dùng kháng sinh. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 235 Trong số các triệu chứng cơ năng và toàn thân, đau bụng luôn luôn có, sốt gặp ở 74,2% trường hợp, các rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, nôn, tiêu chảy ít gặp. Trong số các triệu chứng thực thể, 67,7% trường hợp có ấn đau ở bụng dưới phải, khối u ở bụng dưới phải chỉ sờ rõ được ở 50% trường hợp. Siêu âm bụng có dấu hiệu rõ của AXRT ở 58,1% trường hợp. Ở 41,9% trường hợp còn lại, dù sau này khi mổ thấy có tụ mủ vùng quanh ruột thừa viêm nhưng siêu âm bụng trước mổ chỉ đọc được là đám quánh ruột thừa hay VRT cấp. Trên CT scan bụng trước mổ, 85,5% trường hợp thấy được AXRT và 82,3% trường hợp thấy được hình ảnh ruột thừa viêm. Đo trên CT scan, kích thước (chọn chiều có kích thước lớn nhất) của ổ áp xe nhỏ nhất là 2cm, lớn nhất là 6cm, trung bình 3,9 ± 1,2 cm. Phần lớn bệnh nhân (80,6%) có số lượng bạch cầu/máu ≥ 10.000/ mm3. Liên quan đến PTNS Ở 44 trường hợp (71%), chúng tôi chỉ sử dụng 3 trocar gồm 1 trocar 10mm và 2 trocar 5mm. Có 18 trường hợp (29%) phải sử dụng thêm trocar thứ 4. Bảng 1: Số trocar sử dụng Số trocar Số lượng BN Tỷ lệ % 3 trocar 44 71,0 4 trocar 18 29,0 Tổng số 62 100 Trong mổ ghi nhận AXRT sau hồi tràng gặp nhiều nhất (45,2%), kế đến là AXRT sau manh tràng (38,7%), AXRT tiểu khung (12,9%). Chỉ có 2 trường hợp (3,2%) AXRT dưới gan. 49 trường hợp (79%) ruột thừa đều đã hoại tử ở thân hay đầu. Có 12 trường hợp (19,4%) ruột thừa đã hoại tử mủn nát nhưng còn tìm thấy và kiểm soát được gốc ruột thừa. Chỉ có 1 trường hợp (1,6%) không còn tìm thấy ruột thừa trong ổ áp xe. Ở 51 trường hợp (82,2%) gốc ruột thừa không bị hoại tử, chúng tôi xử trí bằng cách cột 1 nơ Roeder với chỉ Vicryl 1.0; 10 trường hợp (16,1%), ruột thừa bị hoại tử ngay gốc, chúng tôi khâu gốc ruột thừa bằng mũi khâu vòng (purse- string) hay mũi khâu chữ X với chỉ Vicryl 2.0; 1 trường hợp không thể tìm thấy để kiểm soát gốc ruột thừa, chúng tôi chỉ dẫn lưu tại chỗ. Chúng tôi ghi nhận có 2 trường hợp (3,2%) bị trầy xát nhiều ở thành hồi tràng, nhưng không có trường hợp nào bị thủng ruột trong mổ. Không có trường hợp nào phải chuyển mổ mở. Thời gian mổ nhanh nhất là 45 phút, lâu nhất là 160 phút, trung bình: 90,2 ± 22,6 phút. Ở 34 trường hợp (54,8%) chúng tôi chỉ đặt 1 ống dẫn lưu tại chỗ. Các trường hợp còn lại (45,2%) chúng tôi phải đặt thêm ống dẫn lưu thứ 2 ở túi cùng Douglas hay dưới gan để tránh tụ dịch sau mổ. Thời gian lưu ống dẫn lưu ngắn nhất là 3 ngày, dài nhất là 8 ngày, trung bình 4,7 ± 1,2 ngày (Biểu đồ 1). Biểu đồ 1. Thời gian lưu ống dẫn lưu Trong 62 trường hợp, có 6 trường hợp (9,7%) bị nhiễm trùng vết đặt trocar, được xử trí bằng kháng sinh kết hợp cắt chỉ khâu da và chăm sóc tại chỗ, diễn tiến tốt. Hai trường hợp (3,2%) có dấu hiệu bán tắc ruột sớm sau mổ, đáp ứng tốt với điều trị nội. Ngoài ra, có 3 trường hợp (4,8%) bị tụ dịch ổ bụng sau mổ, phát hiện bằng siêu âm bụng kiểm tra, được điều trị nội ổn định và xuât viện. Không có trường hợp nào phải mổ lại. Không có tử vong. Bảng 2: Biến chứng sau mổ Biến chứng sau mổ Số BN Tỷ lệ % Tụ dịch ổ bụng 3 4,8 Bán tắc ruột sớm 2 3,2 Nhiễm trùng vết mổ 6 9,7 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 236 Thời gian có trung tiện lại sớm nhất là 1 ngày, chậm nhất là 3 ngày, trung bình 1,5 ± 0,6 ngày. Thời gian bắt đầu ăn lỏng lại sớm nhất là 1 ngày, chậm nhất là 3 ngày, trung bình 1,5 ± 0,6 ngày. Thời gian nằm viện ngắn nhất là 3 ngày, dài nhất là 8 ngày, trung bình 6,3 ± 1,1 ngày. BÀN LUẬN Điều trị AXRT hiện nay thiên về nội khoa đơn thuần hay phối hợp chọc hút/dẫn lưu trừ trường hợp áp xe lớn, áp xe nằm ở vị trí khó chọc hút (ví dụ; sau hồi tràng, giữa các quai ruột). Cách điều trị này có một tỉ lệ thất bại khoảng < 15%, ngoài ra, BN phải mất thời gian (và đương nhiên là chi phí) vào ra bệnh viện nhiều lần để theo dõi sau điều trị, một số BN phải được mổ nguội để cắt ruôt thừa (interval appendectomy). Liệu can thiệp PTNS ngay từ đầu cho AXRT có khả thi không? nguy cơ tai biến, biến chứng ra sao? Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỉ lệ thành công của PTNS trong điều trị AXRT theo định nghĩa trong nghiên cứu là 100%, trong đó 98,3% kiểm soát được gốc ruột thừa. Các loạt nghiên cứu của các tác giả khác, áp dụng phẫu thuật nội soi điều trị đám quánh và AXRT cũng cho tỉ lệ thành công đến 86,4 – 100% trường hợp(1,2,5,6,7,8,9,10,11). Các khó khăn khi phẫu thuật điều trị AXRT (kể cả trong mổ mở) thường được nhắc đến và lo ngại là: khó bóc tách tìm ruột thừa, khó kiểm soát gốc ruột thừa nên có nguy cơ rò phân sau mổ, chảy máu trong mổ, tổn thương tạng (manh tràng, hồi tràng...), dây nhiễm ổ bụng do phá vào ổ mủ đang khu trú. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 1 trường hợp (1,6%) không còn thấy gốc ruột thừa và 2 trường hợp (3,2%) bị trầy xước thành hồi tràng nhiều khi gỡ dính nhưng kiểm tra thì không thấy thủng ruột. Về tai biến chảy máu trong mổ, rất tiếc là do hạn chế của khảo sát hồi cứu, chúng tôi không có đủ thông tin về mức độ chảy máu trong tường trình phẫu thuật ở tất cả BN nên không đánh giá được, chỉ biết là không có bệnh nhân nào phải truyền máu trong hay sau mổ. Các nghiên cứu áp dụng mổ mở khẩn để điều trị đám quánh và AXRT cho thấy biến chứng sau mổ có thể đến 30% trường hợp. Ví dụ nghiên cứu gần đây nhất của Choudahry (2014)(3) ghi nhận nhiễm trùng vết mổ 10,8%, áp xe tồn lưu 4,3%, rò phân 4,3%, tắc ruột do dính 4,3%, biến chứng phổi 6,5%; tổng cộng là 30,2% trường hơp. Chúng tôi có 17,7% trường hơp có biến chứng sớm sau mổ bao gồm: tụ dịch ổ bụng 4,8%, bán tắc ruột 3,2%, nhiễm trùng vết đặt trocar 9,7%. Các biến chứng này đều thuyên giảm với điều trị nội khoa, không cần phải mổ lại. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, khi PTNS điều trị AXRT, nếu chú ý tấn gạc cô lập kỹ vùng bóc tách vào ổ áp xe và chủ động hút tốt, không để mủ chảy tràn lan thì hoàn toàn có thể hạn chế được dây nhiễm trong ổ bụng. Ngoài ra, tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ thấp cũng là một lợi điểm khác của PTNS trong AXRT. Thời gian mổ trung bình của chúng tôi là 90 phút, trong khi của các tác giả khác là 60-103 phút(1,5,10,11). Yau và cộng sự (2007)(12) có 32 bệnh nhân AXRT được mổ nội soi so với 32 bệnh nhân AXRT được mổ mở. Các tác giả nhận thấy nhóm mổ nội soi có thời gian mổ ngắn hơn nhóm mổ mở 13 phút (60 phút so với 73 phút, p=0,003). Kết quả hồi phục sau mổ được đánh giá thông qua thời gian trung tiện lại sau mổ, thời gian ăn lỏng trở lại trung bình khoảng 1,5 ngày, và thời gian nằm viện trung bình 6,3 ngày, theo đánh giá của chúng tôi thì sự hồi phục của BN khá nhanh. Tác giả Hồ Hữu Đức(5), ở 35 trường hợp AXRT được mổ nội soi, ghi nhận thời gian có trung tiện lại trung bình là 2,5 ngày, thời gian mang ống dẫn lưu trung bình là 6,3 ngày và thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 9,8 ngày. Trên 22 BN đám quánh và AXRT được mổ nội soi, Goh(4) thấy BN thường ăn lại và vận động vào ngày thứ 2, nằm viện trung bình 6 ngày sau mổ. Peter(10) nhận thấy BN thường ăn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 237 lại được vào khoảng 74 giờ sau mổ và nằm viện trung bình 6,5 ngày. Shindolimath(11) và Yau(12) ghi nhận BN nằm viện trung bình sau mổ khoảng 6 ngày. So sánh với nhóm AXRT được mổ mở, Yau nhận thấy nằm viện sau mổ nội soi ngắn hơn 1 ngày (6 so với 7 ngày, p=0,028). KẾT LUẬN Can thiệp bằng phẫu thuật nội soi trong AXRT có tỉ lệ thành công cao, hầu hết trường hợp giải quyết được ổ mủ và cắt được ruột thừa. Tai biến trong mổ và biến chứng sau mổ thấp. Thời gian mổ trung bình là 90 phút và hồi phục sau mổ có nhiều thuận lợi. Vì vậy, phẫu thuật nội soi trong điều trị AXRT là khả thi, an toàn và hiệu quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Arshad MM, Aziz LA, Qasim M et al (2008). Early appendicectomy in appendicular mass - A Liaquat Univesity Hospital Experience. J Ayub Med Coll Abbottabad; 10(1): pp: 70-72. 2. Arshad MM, Noshad AS (2012). Recent Trends in the Treatment of the Appendicular Mass. In Appendicitis - A Collection of Essays from Around the World. In Tech publisher, pp: 87-94. 3. Choudhary SK (2014). Appendicular mass – early appendicectomy vs interval appendicectomy. Int J Pharm Bio Sci, 5(1): pp.400-404. 4. Goh BKP, Chui CH, Yap TL et al (2005). Is early laparoscopic appendectomy feasible in children with acute appendicitis presenting with an appendiceal mass? A prospective study. J Pediatr Surg, 40: pp. 1134-1137. 5. Hồ Hữu Đức (2011). Phẫu thuật nội soi điều trị viêm phúc mạc ruột thừa và áp xe ruột thừa. Y Học TP. Hồ Chí Minh, tập 15 (Phụ bản của Số 2), tr: 273-275. 6. Jordan JS, Kovalcik PJ, Schwab CW (1981). Appendicitis with a pallable mass. Ann Surg, 193, pp: 227-229. 7. Kaya B, Sana B, Eris C et al (2012). Immediate appendectomy for appendiceal mass. Turkish Journal of Trauma & Emergency Surgery,18(1): pp. 71-74. 8. Kim JK, Ryoo S, Oh HK et al (2010). Management of appendicitis presenting with abscess or mass. J Korean Soc Coloproctol, 26: pp. 413-419. 9. Pandey C, Kesharwani R, Chauhan C et at (2013). Management of appendicular lump: early exploration vs conservative management. Inter J Med Sc Public Health, 2: pp. 1067-1070. 10. Peter SDS, Aguayo P, Fraser JD et al (2010). Initial laparoscopic appendectomy versus initial nonoperative management and interval appendectomy for perforated appendicitis with abscess: a prospective randomized trial. J Pediatr Surg, 45: pp. 236-240. 11. Shindholimath VV, Thinakaran K, Rao TN et al (2011). Laparoscopic management of appendicular mass. J Min Acc Surg, 7: pp. 136-140. 12. Yau KK, Siu WT, Tang CN et al (2007). Laparoscopic Versus Open Appendectomy for Complicated Appendecdicitis. J Am Coll Surg, 205: pp. 60-65. Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_phau_thuat_noi_soi_dieu_tri_ap_xe_ruot_thua.pdf