Một số thuận lợi, khó khăn trong công tác đi buồng thường quy ở điều dưỡng/hộ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, năm 2017

Tài liệu Một số thuận lợi, khó khăn trong công tác đi buồng thường quy ở điều dưỡng/hộ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, năm 2017: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 115 MỘT SỐ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC ĐI BUỒNG THƯỜNG QUY Ở ĐIỀU DƯỠNG/HỘ SINH TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI, NĂM 2017 Phạm Thu Hiền*, Đỗ Mạnh Hùng*, Trương Thị Mỹ Hà** TÓM TẮT Mục tiêu: Tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi và giải pháp công tác đi buồng thường qui ở điều dưỡng, hộ sinh tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2017. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang nghiên cứu định lượng, kết hợp định tính 66 điều dưỡng và cán bộ quản lý điều dưỡng tại 04 khoa lâm sàng: A3, A4, D4, D5 tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội, từ tháng 5/2017 đến tháng 10/2017. Kết quả: ĐD/HS không đủ kiến thức 30,3%, người bệnh quá đông không đủ thời gian tư vấn 75,7%, do người bệnh không hỏi ĐD/HS chỉ hỏi bác sỹ 36,3%, thiếu tài liệu và nội dung đi buồng 60,6%; quy định giám sát chưa chặt chẽ 45,4%; nội dung đi buồng quá dài không thực hiện được 56,1%. Kết luận: Đi buồng th...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 158 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số thuận lợi, khó khăn trong công tác đi buồng thường quy ở điều dưỡng/hộ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 115 MỘT SỐ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC ĐI BUỒNG THƯỜNG QUY Ở ĐIỀU DƯỠNG/HỘ SINH TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI, NĂM 2017 Phạm Thu Hiền*, Đỗ Mạnh Hùng*, Trương Thị Mỹ Hà** TÓM TẮT Mục tiêu: Tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi và giải pháp công tác đi buồng thường qui ở điều dưỡng, hộ sinh tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2017. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang nghiên cứu định lượng, kết hợp định tính 66 điều dưỡng và cán bộ quản lý điều dưỡng tại 04 khoa lâm sàng: A3, A4, D4, D5 tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội, từ tháng 5/2017 đến tháng 10/2017. Kết quả: ĐD/HS không đủ kiến thức 30,3%, người bệnh quá đông không đủ thời gian tư vấn 75,7%, do người bệnh không hỏi ĐD/HS chỉ hỏi bác sỹ 36,3%, thiếu tài liệu và nội dung đi buồng 60,6%; quy định giám sát chưa chặt chẽ 45,4%; nội dung đi buồng quá dài không thực hiện được 56,1%. Kết luận: Đi buồng thường qui tại bệnh viện còn mang tính hình thức, nội dung đi buồng dài, thời gian đi buồng chưa hợp lý, tỷ lệ cao điều dưỡng, hộ sinh thiếu kiến thức, thiếu tài liệu. Từ khóa: Yếu tố ảnh hưởng, thực hành đi buồng, điều dưỡng/hộ sinh. ABSTRACT SOME FACTORS AFFECTING WARD AROUND PRACTICES OF NURSES/MIDWIVES AT HANOI HOSPITAL OF OBSTETRICS AND GYNECOLOGY, IN 2017 Truong Thi My Ha, Do Manh Hung, Pham Thu Hien * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 6- 2018: 115 - 120 Objectives: To find out some factors affecting ward around practice of nurses/midwives at Hanoi Obstetrics and Gynecology hospital in 2017. Methodology: A cross – sectional study was conducted on 66 nurses at 4 clinical departments: A3, A4, D4, D5, Hanoi Obstetrics and Gynecology hospital from May 2017 to October 2017. Result: Practice under standard in unachieved knowledge group is 4.7 times higher than that of achieved knowledge group (95% CI 1.2 - 17.6), Practice under standard in unachieved attitude group is 28.6 times higher than that in achieved attitude group (95%CI 5.6 - 159.6). Conclusion: Knowledge and attitude are factors affecting ward around practices of nurses and midwives. Keywords: Factors affecting, ward around practice, nurses/midwives. ĐẶT VẤN ĐỀ Việc thực hiện các thường qui được qui định tại Thông tư 07/2011/TT - BYT ngày 26/1/2011 của Bộ Y tế hướng dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện(3). Đi buồng thường quy là công việc thường xuyên hàng ngày của điều dưỡng, hộ sinh; là một trong những chăm sóc thể chất và tinh thần hiệu quả nhằm phát hiện sớm những diễn biến bất thường của người bệnh. Đồng thời, thông qua hoạt động đi buồng, nhân viên y tế sẽ tư vấn, hướng dẫn, truyền thông phổ biến kiến thức * Bệnh viện Nhi Trung Ương. Tác giả liên lạc: TS. Đỗ Mạnh Hùng, ĐT: 0913 304075, Email: hungdm.nip@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 116 giáo dục sức khỏe cho người bệnh và người nhà người bệnh. Đây là quy trình chăm sóc người bệnh chiếm nhiều thời gian hơn các quy trình chuyên môn khác, đòi hỏi điều dưỡng, hộ sinh phải có kỹ năng, kiến thức và thái độ thực hành tốt(1,7). Để đảm bảo chất lượng chăm sóc toàn diện người bệnh, đội ngũ điều dưỡng, hộ sinh luôn phải quan tâm, theo dõi diễn biến bệnh trạng của người bệnh nhằm phát hiện sớm những dấu hiệu bất thường và có kế hoạch chăm sóc kịp thời, điều này chỉ có thể thực hiện tốt khi đội ngũ điều dưỡng, hộ sinh có đầy đủ kiến thức, có thái độ thực hành tốt và tuân thủ đầy đủ qui trình đi buồng thường qui hàng ngày tại bệnh viện(4,5). Xác định những khó khăn, thuận lợi và đề xuất các giải pháp trong việc thực hiện công tác đi buồng là nhiệm vụ trọng tậm trong công tác chăm sóc người bệnh tại tất cả các bệnh viện, trong đó có bệnh viện phụ sản Hà Nội. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu với đề tài: “Một số thuận lợi, khó khăntrong công tác đi buồng thường quy ở điều dưỡng, hộ sinh tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội, năm 2017” Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi và giải pháp công tác đi buồng thường qui ở điều dưỡng, hộ sinh tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2017. Tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi và giải pháp công tác đi buồng thường qui ở điều dưỡng, hộ sinh tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2017. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang, nghiên cứu định lượng có phân tích. Đối tượng nghiên cứu ĐD, HS trtực tiếp chăm sóc NB tại 04 khoa: A3, A4, D4, D5. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 5/2017 đến tháng 10/2017. Cỡ mẫu phát vấn ĐD, HS Chúng tôi chọn mẫu toàn bộ 66 ĐD, HS tham gia đi butồng thường quy tại 04 khoa lâm sàng: A3, A4, D4, D5 thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên cứu. Công cụ đánh giá Bộ câu hỏi nghiên cứu được xây dựng dựa theo qui định đi buồng thường qui của ĐD, HS do bệnh viện Phụ sản Hà Nội ban hành, áp dụng tại bệnh viện. KẾT QUẢ Bảng 1. Khó khăn trong công tác đi buồng Khó khăn Số lượng (n=66) Tỷ lệ % Không đủ kiến thức 20 30,3 Không được đào tạo, tập huấn 16 24,2 Do người bệnh quá đông nên không đủ thời gian tư vấn 50 75,7 Do người bệnh không hỏi ĐD/HS, chỉ hỏi bác sỹ 24 36,3 Do thiếu tài liệu về chuyên môn và các nội dung trong mỗi lần đi buồng 40 60,6 Giám sát chưa chặt chẽ nên ĐD/ HS lơ là không thực hiện 30 45,4 Nội dung mỗi lần đi buồng quá dài nên không thực hiện được 37 56,1% Đa số ĐD/HS cho rằng sự khó khăn trong công tác đi buồng là do thiếu tài liệu chuyên môn nội dung thực tế cho mỗi lần đi buồng với 60,6%; 3/4 ĐD/HS cho rằng khó khăn hiện nay là do bệnh nhân đông không đủ thời gian thực hiện. Nghiên cứu định tính cũng cho thấy đi buồng gây ra những trở ngại trong việc bố trí ĐD/HS thực hiện các công việc khác, đặc biệt trong những ngày quá tải bệnh nhân: “Nếu đi 03 lần trong ngày thì sẽ chiếm nhiều thời gian dành cho công tác chuyên môn chăm sóc người bệnh” (ĐD khoa D4). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 117 Đi buồng đôi khi mang tính hình thức và không thực tế vì mỗi bệnh nhân có những nhu cầu về thông tin là khác nhau, ngoài ra cần lưu ý đến tình trạng sức khỏe của người bệnh “Từ số lượt nhân viên y tế ra vào phòng bệnh như vậy chúng ta cũng nhận thấy số lần ra vào phòng bệnh quá nhiều, gây cho NB cảm thấy sự mệt mỏi khi không dc nghỉ ngơi sau những ca đẻ hoặc ca mổ mệt mỏi mất nhiều sức lực. Do vậy chúng ta nên giảm bớt số lần đi buồng. Chỉ cần tập trung vào 1 lần đi buồng chính là buổi sáng, còn những lần sau chúng ta có thể lồng ghép vào các công việc khác của ĐD/HS” (ĐDT khoa). Công tác đi buồng cũng gặp khó khăn trong các mối quan hệ giữa ĐD/HS với bác sỹ, và với bệnh nhân như sự phản ánh của một ĐD/HS “Chưa có sự phối hợp thường xuyên đi buồng giữa BS và ĐD/HS, thực tế ĐD phải thực hiện các y lệnh chăm sóc người bệnh theo bác sỹ, do vậy bố trí đi buồng nhiều khi gặp khó khăn” (ĐD/HS khoa A3). Mối quan tâm giữa giao tiếp giữa ĐD/HS và NB vẫn còn biểu hiện chưa tốt ở một số ĐD/HS. “Chưa thật sự tạo được thành nếp về sự thân thiện của NVYT đối với NB và người nhà NB” (ĐD khoa A4). “Vẫn còn đâu đó có sự vô tâm, thờ ơ của NVYT đối với NB và người nhà NB (cười đùa trong phòng đẻ khi sản phụ chuyển dạ đau đớn, chưa có sự động viên kịp thời.” (ĐD khoa A3). Công tác đi buồng thường quy đã là quy định bằng văn bản quy phạm pháp luật với Thông tư số 07/2011/TT-BYT.Theo quy định, bệnh viện cũng đã ban hành quy chế đi buồng tại bệnh viện. Đi buồng là một phần của chăm sóc tại bệnh viện. Tổ chức công tác đi buồng đã được xây dựng và có sự quản lý phân cấp từ Ban Giám đốc bệnh viện, phòng Điều dưỡng, Điều dưỡng trưởng khoa, Điều dưỡng phụ trách các ca trực. “Các quy định rất cụ thể về việc đi buồng của ĐD/HS đã được Hội đồng Khoa học, Hội đồng Điều dưỡng phê duyệt và chỉnh sửa hàng năm, qua đó chị em ĐD/HS căn cứ để thực hiện, đó cũng là hành lang pháp lý giúp cho ĐD/ HS làm đúng công việc hàng ngày. Chị em ĐD/HS có được nền tảng tương đối vững về chuyên môn” (VPS PGĐ Bệnh viện) Kế hoạch công tác điều dưỡng của khoa được ĐDT khoa phổ biến trong các buổi giao ban ĐD/HS, phân công thực hiện, đánh giá kết quả thực hiện triển khai qua giao ban hàng tuần, hàng ngày với sự tham gia đầy đủ của các cán bộ tại các khoa phòng: “Hàng ngày vào các buổi giao ban đầu giờ sáng, các ĐD/HS đều hội ý và phân công phụ trách chăm sóc các giường bệnh trong đó có việc thực hiện các nội dung đi buồng” (HS khoa D5). Công tác đi buồng là một nhu cầu của người bệnh vì đáp ứng được những thắc mắc, kiến thức tự chăm sóc bản thân, kiến thức nuôi con. “Nhờ có sự giải thích của các chị y tá, em cũng đã hiểu hơn cách chăm sóc con sau sinh” (NB khoa A3). “Lần đầu em sinh con, sợ mổ, nhưng nhờ mấy chị giải thích, động viên nên em đã yên tâm hơn khi tiến hành mổ đẻ” (NB khoa D4). Bảng 2. Một số đề xuất giải pháp trong quản lý Giải pháp Số lượng (n=66) Tỷ lệ % Tăng cường tự giám sát, và tính vào bình bầu thi đua cuối năm 32 48,4 Mở lớp tập huấn thực hiện qui trình đi buồng thường qui 45 68,1 Đánh giá việc thực hiện qui trình đi buồng thường qui trong giao ban hàng ngày 48 72,7 Giải pháp khác 12 18,1 Một số giải pháp được ĐD/HS đưa ra chiếm tỷ lệ cao nhất là Đánh giá việc thực hiện qui trình đi buồng thường qui trong giao ban hàng ngày với 72,7% số ĐD/HS được hỏi tiếp đến là giải pháp mở lớp tập huấn ngoài giờ thực hiện qui trình đi buồng thường qui với 68,1%. Quá trình thảo luận nhóm ĐD/HS nhất trí cho rằng một số giải pháp cần thực hiện bao gồm: “Khoa phòng xây dựng chế tài thưởng phạt; Xây dựng tờ rơi; Quy định thời gian đi buồng ngày 1 lần vào 8h15 – 9h sáng (ngày 1 lần), buổi chiều và giờ nhận trực đi kiểm tra và nhắc nhở các phòng bệnh; Nội dung đi buồng trong bảng kiểm cần phân chia riêng cho từng đối tượng người bệnh (BN ngày 1, 2, 3...); Không Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 118 nên cung cấp quá nhiều thông tin cho người bệnh (bảng kiểm hiện tại quá dài); Không cần thiết phải nói đúng quy trình bảng kiểm, chỉ cần giải đáp thắc mắc cho người bệnh họ hiểu và chấp hành” (Kết quả TLN). Các nội dung đi buồng cũng cần cân nhắc và không nên dập khuân, theo ý kiến của nhiều điều dưỡng trong quá trình thảo luận nhóm: “Cung cấp thông tin tư vấn theo ngày điều trị của BN, Ví dụ: BN mổ sau ngày thứ nhất: cung cấp thông tin về nghỉ ngơi theo dõi tình trạng sau mổ như vết mổ, dịch âm đạo, nước tiểu, tình trạng toàn thân có hoa mắt chóng mặt, hay sốt, nôn...Sau mổ ngày thứ hai: tình trạng vết mổ, dịch âm đạo, tiểu tiện, trung tiện, tư vấn ăn uống, đau vết mổ... sử dụng thuốc. Sau mổ ngày thứ 3: Tình trạng vết mổ, ăn uống, nghỉ ngơi dịch âm đạo, vệ sinh âm hộ.... Sau mổ ngày thứ ba nếu được ra viện thì tư vấn thủ tục ra viện... cách chăm sóc cho mẹ và bé khi về nhà và cung cấp số ĐT để hỗ trợ cho bà mẹ nếu có khó khăn)” (Kết quả thảo luận nhóm). BÀN LUẬN Khó khăn Tìm hiểu những khó khăn qua đó khắc phục bằng các giải pháp trong quản lý là hết sức quan trọng, góp phần cải thiện sự hoạt động tổ chức bộ máy một cách hiệu quả, qua đó cải thiện dịch vụ là hết sức cần thiết. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ ĐD nhận thấy không đủ kiến thức chiếm tới 30,3%, điều dưỡng không được tập huấn chiếm tới 24,2%, nguyên nhân do người bệnh đông quá nên không đủ thời gian tư vấn chiếm tới 75,7%, do người bệnh không hỏi ĐD/HS, chỉ hỏi bác sỹ chiếm 36,3%, do thiếu tài liệu về chuyên môn và các nội dung trong mỗi lần đi buồng chiếm 60,6%, do qui định, giám sát chưa chặt chẽ nên ĐD/ HS lơ là không thực hiện chiếm 45,4%, do nội dung mỗi lần đi buồng quá dài nên không thực hiện được chiếm 56%. Thực tế đặc thù từng bệnh viện khác nhau mà đi buồng đòi hỏi khác nhau, do vậy quy chế đi buồng là chưa đủ, bệnh viện Phụ sản Hà Nội cần tổ chức biên soạn một tài liệu chuẩn về quy trình đi buồng ở ĐD/HS. Bên cạnh đó, cần tổ chức tập huấn liên tục về các nội dung trong công tác đi buồng. Việc đi buồng đôi khi cũng gặp những trở ngại như quá tải bệnh nhân, do vậy công tác đi buồng có thể không đạt được như hiệu quả mong đợi. Việc quá tải này có thể sử dụng một số giải pháp như hẹn lịch khám bệnh, làm ngoài giờ hành chính, hoặc huy động nguồn nhân lực từ các khoa ít bệnh nhân hơn sang các khoa quá tải. Việc chấm điểm hay đánh giá đi buồng hiện nay vẫn còn mang tính hình thức, vì như đã bàn luận ở trên, mỗi bệnh nhân đòi hỏi nhu cầu khác nhau, thông tin khác nhau. Do vậy, bệnh viện cần cân nhắc việc đi buồng sao cho hiệu quả chất lượng. Mặt khác, trong nghiên cứu cũng cho thấy quá trình đi buồng đôi khi làm ảnh hưởng đến bệnh nhân và có thể gây ra sự khó chịu đối với bệnh nhân. Các bà mẹ sau khi sinh thường cảm giác mệt mỏi, cần thời gian nghỉ ngơi hơn là được nghe ĐD/HS phổ biến kiến thức. Hơn nữa, nếu phải nghe nhiều lần với cùng một nội dung, NB có thể có phản ứng khó chịu, do vậy phổ biến kiến thức, thông tin về nội quy bệnh viện có thể không đạt hiệu quả. Do đó, cần cần nhắc sử dụng các phương pháp thông tin khác nhau, tránh gây ra sự nhàm chán, khó chịu từ người bệnh. Mối quan hệ giữa ĐD/HS với bác sỹ cũng là một vấn đề trong công tác đi buồng, một mặt ĐD/HS thực hiện chăm sóc người bệnh theo y lệnh từ các bác sỹ, trong khi nếu đi buồng mang tính hình thức thì không mang lại hiệu quả. Cần có sự kết hợp giữa nội dung đi buồng phù hợp với nội dung điều trị, phòng bệnh theo y lệnh của bác sỹ. Quan hệ giữa ĐD/HS với NB cũng có thể là một trở ngại lớn trong công tác đi buồng. Sự quát nạt, to tiếng hay những lời nói không đúng chuẩn mực sẽ làm mất đi hình ảnh của người Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 119 thầy thuốc, mặt khác còn gây ra sự ức chế cản trở việc tuân thủ điều trị từ NB. Do đó, ĐD/HS cần học các kỹ năng giao tiếp với NB, theo Đỗ Mạnh Hùng đối với NB cần có sự cảm thông, chia sẽ và giúp đỡ từ các ĐD(6). Thuận lợi Nhìn chung các hoạt động đi buồng đã được quy định bằng các văn bản quy phạm pháp luật như Thông tư số 07/2011/TT-BYT(3). Mặt khác, các hoạt động giao tiếp, ứng xử, thông tin giáo dục truyền thông là một phần không thể thiếu trong tiêu chuẩn điều dưỡng theo Quyết định số1352/QĐ-BYT(4), Quy tắc ứng xử theo quyết định số 29/2008/QĐ-BYT(2). Do vậy, các kỹ năng đi buồng như giao tiếp, truyền thông giáo dục sức khỏe người bệnh đã được đào tạo ngay từ khi điều dưỡng còn ở trong các trường cao đẳng, đại học. Đó là những mặt thuận lợi, vì đi buồng là một phần của chăm sóc điều dưỡng. Tại mỗi bệnh viện công tác đi buồng nhìn chung cũng đã được xây dựng và hình thành từ nhiều năm nay, mặc dù vậy, ở mỗi bệnh viện khác nhau, ở mỗi khoa khác nhau và mỗi bệnh nhân khác nhau, công tác đi buồng lại đòi hỏi những tính đặc thù riêng. Do vậy, mà ngoài quy chế đi buồng của bệnh viện, thì tại mỗi khoa, mỗi tổ đều phải có những kế hoạch riêng phù hợp với thực tế. Đặc điểm riêng biệt của công tác chăm sóc các ca trước, trong và sau sinh hiện nay là nhiều bà mẹ mong muốn tiếp cận nguồn thông tin trong việc chăm sóc trẻ sau khi sinh. Do vậy, công tác đi buồng cũng là sự đáp ứng với nhu cầu của NB, đó cũng là những thuận lợi cho mỗi ĐD/HS tại bệnh viện phụ sản Hà Nội. Đề xuất giải pháp Theo ĐD/HS thì cần tăng cường tự giám sát, và tính vào bình bầu thi đua cuối năm với tỷ lệ là 48,4%; Mở lớp tập huấn ngoài giờ thực hiện qui trình đi buồng thường qui với tỷ lệ là 68,1%, Đánh giá việc thực hiện qui trình đi buồng thường qui trong giao ban hàng ngày với tỷ lệ là 72,7%. Các biện pháp như xử phạt đối với những vi phạm thực tế là đã có trong quy chế tại bệnh viện, cán bộ có thể bị xử phạt nếu vi phạm quy chế đạo đức nghề nghiệp và quy trình kỹ thuật. Thực tế thì đi buồng cũng là một phần công việc hàng ngày của ĐD/HS, do vậy các hoạt động xử lý xử phạt nằm trong quy chế riêng. Tập huấn, đánh giá thực hiện đi buồng trong giao ban hàng ngày thực tế là đã có, tuy vậy, việc triển khai đôi khi còn chưa đi với thực tiễn. Chẳng hạn tập huấn thường được lồng ghép vào các lớp trong đó thường thiếu đi việc tập huấn các kỹ năng giao tiếp. Giao ban hàng ngày, thường không đánh giá hoạt động bằng những chỉ số cụ thể. Một số ý kiến cho rằng giải pháp xây dựng đi buồng ngày 1 lần vào buổi sớm, thực tế giải pháp có thể thực hiện nếu kết hợp với việc chuyển tài liệu cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân tự đọc, điều dưỡng đi buồng chỉ cần trả lời các thắc mắc. Các ý kiến trong thảo luận nhóm cũng cho rằng quá trình đi buồng cần thực hiện một cách thực tế, phù hợp với từng đối tượng bệnh nhân, không nên máy móc, hình thức. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Nghiên cứu trên 66 điều dưỡng và hộ sinh tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho thấy thực trạng công tác đi buồng thường hiện nay tại bệnh viện còn mang tính hình thức, nội dung đi buồng dài, thời gian đi buồng chưa hợp lý, tỷ lệ cao điều dưỡng, hộ sinh thiếu kiến thức, thiếu tài liệu. Từ kết quả nghiên cứu bệnh viện cần xem xét, chỉnh sửa các nội dung đi buồng phù hợp, thực hiện tốt việc chủ động nguồn nhân lực nhằm giảm tải khối lượng công việc. Thực hiện các giải pháp nâng cao kiến thức, tăng cường tài liệu cho đi buồng. Thực hiện tốt hoạt động tự giám sát và đánh giá kết quả qua giao ban hàng ngày. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 120 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bệnh viện Phụ sản Hà Nội (2016), “Qui định đi buồng thường qui của ĐD, HS, Quyết định số: 1258 QĐ/PS-TCCB, ngày 03/11/2016 của Giám đốc bệnh viện Phụ sản Hà Nội về việc ban hành bộ tài liệu ‘Quy định công tác Điều dưỡng’. tr. 59-61. 2. Bộ Y tế (2008), “Quy tắc ứng xử của cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp y tế, Ban hành kèm theo Quyết định số 29/2008/QĐ- BYT ngày 18/8/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế”. 3. Bộ Y tế (2011), “Hướng dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện kèm theo Thông tư số 07/2011/TT-BYT”. 4. Bộ Y tế (2012), “Chuẩn năng lực cơ bản của điều dưỡng Việt Nam, Ban hành kèm theo Quyết định số: 1352/QĐ-BYT ngày 21 tháng 4 năm 2012”. 5. Bộ Y tế (2014), “Chuẩn năng lực cơ bản hộ sinh Việt Nam, ban hành kèm theo Quyết định số 342/QĐ-BYT/2014”. 6. Đỗ Mạnh Hùng (2013), “Nghiên cứu thực trạng nhận thức, thực hành y đức của điều dưỡng viên tại bệnh viện Nhi Trung ương và kết quả một số biện pháp can thiệp - Luận án Tiến sỹ Y tế công cộng”. 7. Phạm Thị Xuyến (2015), “Thực trạng công tác đi buồng thường quy của điều dưỡng viên tại bệnh viện đa khoa Hà Đông,” Luận văn Thạc sỹ quản lý bệnh viện, Đại học Y tế công cộng, Hà Nội. Ngày nhận bài báo: 10/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2018 Ngày bài báo được đăng: 10/12/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_thuan_loi_kho_khan_trong_cong_tac_di_buong_thuong_quy.pdf