Thực trạng tự điều trị thuốc tân dược và các yếu tố liên quan: Nghiên cứu cắt ngang dựa vào cộng đồng

Tài liệu Thực trạng tự điều trị thuốc tân dược và các yếu tố liên quan: Nghiên cứu cắt ngang dựa vào cộng đồng: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 272 THỰC TRẠNG TỰ ĐIỀU TRỊ THUỐC TÂN DƯỢC VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN: NGHIÊN CỨU CẮT NGANG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Trương Thị Lê Huyền*, Hoàng Đình Đông**, Nguyễn Thị Ngọc Diễm*** TÓM TẮT Mở Đầu: Ngày nay, thực hành tự điều trị thuốc tân dược ngày càng được quan tâm bởi vì các nhóm thuốc bắt buộc kê đơn như kháng sinh, kháng viêm non-steroid, thuốc ngủ được bán ngày càng nhiều mà không tham khảo ý kiến bác sĩ, y sĩ. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định thực trạng tự điều trị thuốc tân dược và các yếu tố liên quan đến thực hành tự điều trị thuốc tân dược. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược và các yếu tố liên quan đến tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược. Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn, thực hiện phỏng vấn mặt đối mặt kết hợp với quan sát và mô tả thuốc tân dược tự điều trị trong v...

pdf8 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 155 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng tự điều trị thuốc tân dược và các yếu tố liên quan: Nghiên cứu cắt ngang dựa vào cộng đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 272 THỰC TRẠNG TỰ ĐIỀU TRỊ THUỐC TÂN DƯỢC VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN: NGHIÊN CỨU CẮT NGANG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Trương Thị Lê Huyền*, Hoàng Đình Đông**, Nguyễn Thị Ngọc Diễm*** TÓM TẮT Mở Đầu: Ngày nay, thực hành tự điều trị thuốc tân dược ngày càng được quan tâm bởi vì các nhóm thuốc bắt buộc kê đơn như kháng sinh, kháng viêm non-steroid, thuốc ngủ được bán ngày càng nhiều mà không tham khảo ý kiến bác sĩ, y sĩ. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định thực trạng tự điều trị thuốc tân dược và các yếu tố liên quan đến thực hành tự điều trị thuốc tân dược. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược và các yếu tố liên quan đến tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược. Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn, thực hiện phỏng vấn mặt đối mặt kết hợp với quan sát và mô tả thuốc tân dược tự điều trị trong vòng 6 tháng trước thời điểm khảo sát của 291 người dân từ 18 tuổi trở lên đang sinh sống tại xã Bình Phục, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam được chọn vào nghiên cứu một cách ngẫu nhiên hệ thống. Kết quả: Có đến 65,8% đối tượng tham gia tự điều trị thuốc tân dược và có đến 90% thuốc tân dược được tự sử dụng hoàn toàn không có nhãn. Trong đó kháng sinh và kháng viêm non-steroid chiếm tỷ lệ lần lượt là 47,6% và 35,3%. Các triệu chứng mà người dân tự điều trị là đau đầu (37,5%), cảm cúm (33,1%), ho khan (27,5%), sốt (20%), đau họng (19,4%), đau dạ dày (13,1%) và các triệu chứng khác (đau cơ, trật chân, chóng mặt, ngứa, mỏi tay chân) chiếm 45,4%. Có đến 88,2% đối tượng tự điều trị thuốc vì nghĩ bệnh nhẹ, 48,8% vì sự tiện lợi và 16,9% tin tưởng nhân viên nhà thuốc. Nữ (PR = 1,5, KTC 95% 1,2 – 1,8, p <0,001), thu nhập bình quân đầu người trong 12 tháng cao hơn (PR = 0,98, KTC 95% 0,97 - 0,99, p=0,029) và bệnh mạn tính kèm theo (PR= 1,3, KTC 95% 1,1 - 1,6, p = 0,041) có mối liên quan đáng kể với tỷ lệ tự điều trị. Không tìm thấy mối liên quan giữa tuổi, tôn giáo, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, số thành viên trong gia đình, tỷ lệ sở hữu bảo hiểm y tế, tần suất sử dụng bảo hiểm y tế, khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế gần nhất và số lượng bệnh mạn tính kèm theo với tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược ở người dân. Kết luận: Kết quả trong nghiên cứu này cho thấy là hơn 65% cư dân tại xã Bình Phục, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam có nguy cơ lạm dụng thuốc tân dược (90% thuốc hoàn toàn không có nhãn) và đặc biệt tình trạng kháng kháng sinh. Từ khóa: tự điều trị, tự sử dụng thuốc, lạm dụng thuốc. ABSTRACT SEFL-MEDICATION AND RISK FACTORS: A POPULATION-BASED CROSS-SECTIONAL STUDY Truong Thi Le Huyen, Hoang Dinh Dong, Nguyen Thi Ngoc Diem * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 272 - 279 Background: Nowadays, self -medication is more and more noticeable issue because prescription drugs such as antibiotics, non-steroid anti-inflammatory drugs and narcotic drugs are sold without doctor’s * Hội Y Tế Công Cộng TPHCM, ** Khoa YTCC, Đại học Y Dược TPHCM, *** Bệnh viện Mỹ Đức TPHCM Tác giả liên lạc: BS. Trương Thị Lê Huyền ĐT: 01208152221 Email: huyentruong1993@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 273 advice. The purpose of this study was to estimate the prevalence of self-medication and risk factors. Aims: To estimate the rate of self-medication and determine factors associated with self-medication. Objectives – Methodology: This was a cross-sectional study using a structural questionnaire, face- to-face interview and description of drugs used in 6 recent month period. A total of 291 adult residents in Binh Phuc commune, Thang Binh district, Quang Nam province was from a systematic random sample. Results: The prevalence of self -medication was 65.8% and more than 90.0% drugs were bought without any label. Antibiotics and non-steroidal anti- inflammatory drugs accounted for 47.6% and 35.3%, respectively. Common symptoms to self-medication are headache (37.5%), flu (13.1%), dry cough (27.5%), fever (20.0%), sore throat (19.4%), and stomachache (13.1%) and other symptoms (muscle ache, dizziness, itching, tiredness) accounted for 45.4%. The main reasons for the self-medication are mild disease (88.2%), convenience (44.8%) and believing in pharmacy staff (16.9%). The respondents, who were female (PR = 1.5, 95% CI 1.2 - 1.8, p <0.001), had higher per capita income for 12 months (PR = 0.98, 95% CI 0.97 – 0.99, p=0.029) or chronic disease (PR = 1.3, 95% CI 1.1- 1.6, p <0.041), had significantly related with self- medication. There was no significant difference between group of age, religion, education level, marital status, family members, rate of insurance ownership, frequency of using health insurance service, distance from home to a nearest health facility and number of chronic diseases with self-medication. Conclusion: The results in this study indicate that more than 65% of residents in Binh Phuc Commune, Thang Binh District, Quang Nam Province are at risk of misusing drugs (90% drugs with no label) and especially of antibiotic resistance. Keywords: self -medication, over –the-counter drugs, drug misuse. ĐẶT VẤN ĐỀ Trên thế giới hiện có hơn 300.000 loại thuốc tân dược và kết hợp thuốc tân dược được bán trực tiếp cho người dân như là các biện pháp điều trị không cần kê đơn, đây là những thuốc có nguy cơ thấp khi tự điều trị. Mặt khác, xu hướng tự điều trị là một thực tế có thể thấy vấn đề này. Qua nghiên cứu về thực trạng tự điều trị tại Sudan năm 2006 với tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược là 81,8%(4), kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu ở Emirates của Shehnaz năm 2013 (89,1%)(16) và nhiều nghiên cứu khác trên thế giới(5,6,13,14). Tại Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thoa tại Thanh Hóa năm 2014 với 66% các xã vùng đồng bằng và 80,6% các xã vùng miền núi tự điều trị thuốc tân dược(17) và một nghiên cứu khác được thực hiện ở khu vực nông thôn của 4 tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Đồng Tháp và Cần Thơ cho thấy 138/505 hộ gia đình dự trữ thuốc tân dược tại nhà để tự điều trị bệnh trong tương lai(13). Có rất nhiều nguy cơ khi tự điều trị thuốc tân dược không đúng cách như hiện tượng kháng kháng sinh(20), tổn thương gan khi dùng quá liều paracetamol(18), tổn thương thận, tim và xuất huyết tiêu hóa khi sử dụng non-steroid không đúng(12) và nhiều nguy cơ tiềm ẩn khác(15). Theo thống kê năm 2017 của trung Tâm Phòng Chống Độc tại Bệnh viện Bạch Mai số ca ngộ độc do sử dụng thuốc tân dược tại Việt Nam đứng hàng thứ 2 tăng 400% so với năm 1999(9). Bệnh viên Đa Khoa tỉnh Quảng Nam cũng ghi nhận 2 trường hợp ngộ độc quá liều paracetamol do tự điều trị thuốc(18). Bên cạnh đó trong 2 năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, số lượng nhà thuốc tư nhân tăng đáng kể(19) và chúng tôi chưa tìm thấy nghiên cứu nào về thực trạng tự điều trị thuốc tân dược của người dân nơi đây. Mục đích của nghiên cứu này là nhằm xác định tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược cũng như các yếu tố liên quan đến thực hành tự điều trị thuốc tân dược Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 274 để có những biện pháp can thiệp phù hợp, cải thiện sức khỏe cho người dân. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Đây là một nghiên cứu cắt ngang. Các đối tượng được phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2017. Địa bàn nghiên cứu là xã Bình Phục, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Tất cả các đối tượng tự nguyện tham gia vào chương trình nghiên cứu, sau khi được giải thích mục tiêu và các vấn đề liên quan đến nghiên cứu. Đối tượng được chọn ngẫu nhiên từ các hộ gia đình trong xã Bình Phục thông qua danh sách hộ gia đình do xã quản lý và chọn ngẫu nhiên những người nam và nữ từ 18 tuổi trở lên. Những đối tượng có khiếm khuyết về nghe, nói, rối loạn trí tuệ, thần kinh sẽ bị loại ra khỏi nghiên cứu. Số đối tượng nghiên cứu là 291 người được ước tính từ kết quả nghiên cứu của Yuefeng Li năm 2012 (p=0,253)(22). Một bộ câu hỏi được thiết kế để thu thập các dữ kiện liên quan đến các yếu tố đặc điểm dân số - xã hội như tuổi, giới tính, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập trung bình trong 12 tháng, tình trạng bệnh mạn tính, thói quen sử dụng bảo hiểm y tế, khoảng cách từ nhà tới cơ sở chăm sóc sức khỏe gần nhất và những triệu chứng, lý do không tham khảo ý kiến bác sĩ trong vòng 6 tháng trước kết hợp với quan sát và mô tả thuốc. Tự điều trị thuốc được đánh giá dựa theo định nghĩa của tổ chức y tế thế giới là tự chẩn đoán bệnh và tự mua thuốc về điều trị mà không tham khảo ý kiến bác sĩ, y sĩ, sử dụng đơn thuốc cũ cho đợt bệnh mới tương tự và sử dụng thuốc của người khác bất kể người đó được điều trị đúng bệnh, đúng thuốc. Kết quả của nghiên cứu bao gồm tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược, thuốc tân dược nào được sử dụng nhiều nhất, tại sao không tham khảo ý kiến bác sĩ và mối tương quan giữa tự điều trị thuốc với các yếu tố đặc điểm dân số - xã hội, tình trạng bệnh mạn tính và thói quen sử dụng bảo hiểm y tế. KẾT QUẢ Bảng 1: Đặc điểm dân số - xã hội của đối tượng nghiên cứu (n=243) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Giới Nam 117 48,2 Nữ 126 51,8 Nhóm tuổi 18 – 39 tuổi 114 46,9 40 – 59 tuổi 93 38,3 ≥ 60 tuổi 36 14,8 Tôn giáo Không tôn giáo 207 85,2 Phật giáo 20 8,2 Thiên chúa giáo 16 6,6 Trình độ học vấn Không biết đọc/viết 1 0,4 Biết đọc, viết 6 2,5 Cấp 1 47 19,3 Cấp 2 40 16,5 Cấp 3 58 23,9 Trên cấp 3 91 37,4 Nghề nghiệp Lao động chân tay 162 66,7 Lao động trí óc 73 30,0 Khác 8 3,3 Tình trạng hôn nhân Độc thân 44 18,1 Đã kết hôn 194 79,8 Đã ly hôn 1 0,4 Góa vợ/chồng 4 1,7 Số thành viên 4,0 ± 1,1 Thu nhập bình quân 33,8 ± 12,2 Bảo hiểm y tế (BHYT) Có 213 87,7 Không 30 12,3 Tần suất BHYT 1 (0 – 1) Khoảng cách tới CSSK 2,8 ± 0,9 Bệnh mạn tính Có 29 11,9 Không 214 88,1 Số lượng bệnh mạn tính ≤1 bệnh 23 79,3 >1 bệnh 6 20,7 Trong số những đối tượng có sử dụng thuốc tân dược có 48,2% là nam, độ tuổi từ 18 đến 39 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (46,9%) và có đến 85,2% không có tôn giáo. Trình độ học vấn từ cấp 3 trở lên chiếm tỷ lệ cao (61,3%), lao động chân tay cao hơn gấp 2 lần lao động trí óc. Tỷ lệ sở hữu thẻ bảo hiểm y tế cao (87,7%), trung bình khoảng cách từ nhà đến cở sở y tế Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 275 từ 1,9 đến 3,7 km, tần suất sử dụng bảo hiểm y tế có trung vị 1 lần/ 1 năm và 88,1% đối tượng tham gia không mắc bệnh mạn tính. Bảng 2: Đặc điểm tự điều trị thuốc tân dược của đối tượng nghiên cứu (n=243) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Tự sử dụng thuốc tân dược Có 160 65,8 Không 83 34,2 Tất cả thuốc sử dụng có nhãn Có nhãn 11 7,0 Không lưu giữ thuốc 5 3,0 không 144 90,0 Các loại thuốc tân dược sử dụng (n=77) OTC 9 11,7 OTC và kê toa 48 62,3 Kê toa 20 26,0 Thành phần thuốc kê toa (n=68) KS 32 47,6 NSAID 24 35,3 Thuốc kê toa khác 53 80,0 Trong số 243 đối tượng tham gia có sử dụng thuốc tân dược trong 6 tháng trước thì có 65,8% đối tượng tham gia tự điều trị thuốc tân dược, có đến 90% số thuốc tự điều trị không có nhãn thuốc hoặc không có bất kì thông tin kèm theo tên thuốc, liều dùng, tác dụng phụ hoặc những lưu ý khi sử dụng thuốc và chỉ có 3 đối tượng nhận thông tin thuốc từ nhân viên nhà thuốc. Có đến 88,3% thuốc bắt buộc kê đơn và kháng sinh và kháng viêm non-steroid chiếm tỷ lệ lần lượt là 47,6% và 35,3% trong nhóm tự điều trị. Bảng 3: Đặc điểm triệu chứng khiến đối tượng tự điều trị thuốc tân dược (n=243) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Triệu chứng bệnh Đau đầu 60 37,5 Khác (đau cơ, trật chân, ) 57 35,6 Cảm cúm 53 33,1 Ho 44 27,5 Sốt 32 20,0 Đau họng 31 19,4 Số lượng triệu chứng 2 (1 - 3) Thời gian xảy ra triệu chứng 2 (1 - 2) Kết quả nghiên cứu cho thấy các triệu chứng mà người dân tự điều trị thuốc là đau đầu (37,5%), cảm cúm (33,1%), ho khan (27,5%), sốt (20%), đau họng (19,4%), đau dạ dày (13,1%) và các triệu chứng khác (đau cơ, trật chân, chóng mặt, ngứa, mỏi tay chân) chiếm 45,4%. Số lượng triệu chứng ít nhất là 2 triệu chứng và trung vị số ngày biểu hiện triệu chứng trước khi người dân quyết định tự điều trị thuốc là 2 ngày với khoảng tứ phân vị là từ 1 đến 2 ngày. Có đến 88,2% đối tượng tự điều trị thuốc là vì nghĩ bệnh nhẹ, 48,8% vì tiện lợi, nhanh chóng và 16,9% tin tưởng nhân viên nhà thuốc, tiết kiệm chi phí hơn và sử dụng theo đơn cũ chiếm tỷ lệ lần lượt là 13,1% và 8,8%. Chúng tôi sử dụng phép kiểm định Chi bình phương và hồi quy poison để đánh giá mối liên quan giữa các yếu tố đặc điểm dân số - xã hội với tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược được trình bày trong bảng 4 và bảng 5. Bảng 4: Mối liên quan giữa đặc điểm dân số - xã hội với tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược (n=243) Đặc tính mẫu TĐT Giá trị p PR (KTC 95%) Có n = 160 Không n = 83 Giới Nam 62 (53,0) 55 (47,0) <0,001 a 1,45 (1,19–1,76) Nữ 98 (77,8) 28 (22,2) Nhóm tuổi 18 – 39 71 (62,3) 43 (37,7) 0,155 a 1 40 – 59 68 (73,1) 25 (26,9) 1,17 (0,84–1,63) ≥ 60 21 (58,3) 15 (41,7) 0,96 (0,59–1,56) Tôn giáo Không tôn giáo 133 (64,3) 74 (35,7) 0,455 a 1 Phật giáo 15 (75,0) 5 (25,0) 1,16 (0,68–1,98) Thiên chúa giáo 12 (75,0) 4 (25,0) 1,16 (0,64–2,09) Trình độ học vấn Không biết đọc/viết 1 (100,0) 0 (0,0) 0,389 b 1 Biết đọc, biết viết 4 (66,7) 2 (33,3) 0,66 (0,07–5,96) Tiểu học 28 (59,6) 19 (40,4) 0,59 (0,08–4,38) Trung học cơ sở 30 (75,0) 10 (25,0) 0,77 (0,98–5,64) Trung học phổ thông 42 (72,4) 16 (27,6) 0,72 (0,97–5,26) Từ trung cấp trở lên 55 (60,4) 36 (39,6) 0,62 (0,08–4,36) a: Kiểm định Chi bình phương, b: Kiểm định chính xác Fisher Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 276 Chúng tôi tìm thấy Nữ giới có tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược cao hơn 1,5 lần so với nam giới với p <0,001 và KTC 95% từ 1,2 đến 1,8 (bảng 1.4). Những người có thu nhập bình quân đầu người trong 12 tháng cao hơn thì có tỷ lệ tự điều trị thuốc bằng 0,98 lần so với những người có thu nhập bình quần đầu người trong 12 tháng thấp hơn, với giá trị p= 0,029 và KTC 95% từ 0,97 đến 0,99 và những người có bệnh mạn tính và đang điều trị bệnh mạn tính thì có tỷ lệ điều trị thuốc tân dược cao hơn 1,3 lần so với người không có bệnh mạn tính. Và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với giá trị p = 0,041 và KTC 95% từ 1,1 đến 1,6 (bảng 1.5). Chúng tôi không tìm thấy mối liên quan giữa tuổi, tôn giáo, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân và thu nhập trung bình trong 12 tháng, số thành viên trong gia đình, tỷ lệ sở hữu bảo hiểm y tế, tần suất sử dụng bảo hiểm y tế, khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế gần nhất và số lượng bệnh mạn tính kèm theo với tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược ở người dân. Bảng 5: Mối liên quan giữa đặc điểm dân số - xã hội với tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược (n=243) Đặc tính mẫu TĐT Giá trị p PR (KTC 95%) Có n = 160 Không n = 83 Tình trạng hôn nhân Độc thân 32 (72,7) 12 (27,3) 0,693b 1 Đã kết hôn 124 (63,9) 70 (36,1) 0,88 (0,59–1,31) Đã ly hôn 1 (100,0) 0 (0,0) 1,38 (0,19–10,06) Góa vợ/chồng 3 (75,0) 1 (25,0) 1,03 (0,32–3,37) Nghề nghiệp Lao động chân tay 106 (65,4) 56 (34,6) 0,417a 1 Lao động trí óc 47 (64,4) 26 (35,6) 0,97 (0,69–1,37) Khác 7 (87,5) 1 (12,5) 1,32 (0,62–2,85) Số thành viênd 4,0±1,2 3,9±1,0 0,742c 1,09 (0,86–1,39) Thu nhập bình quând 31,7±11,7 37,9±12,2 0,029c 0,98 (0,97–0,99) BHYT Có 139 (65,3) 74 (34,7) 0,608a 0,93 (0,72–1,15) Không 21 (70,0) 9 (30,0) Tần suất BHYTe 1 (0 – 1) 1(0 – 1) 0,399c 0,84 (0,65–1,08) Khoảng cách CSYTd 2,8 ± 0,8 2,9 ± 0,9 0,665c 0,85 (0,62–1,16) Bệnh mạn tính Có 24 (82,8) 5 (17,2) 0,041a 1,34 (1,12–1,61) Không 136 (63,5) 78 (36,5) Số lượng bệnh mạn tính ≤1 bệnh 19 (82,6) 4 (17,4) 0,967b 1,03 (0,68–1,47) >1 bệnh 5 (83,3) 1 (16,7) a: Kiểm định Chi bình phương, b: Kiểm định chính xác Fisher, c: Hồi quy poison, d: Trung bình ± độ lệch chuẩn, e: Trung vị (khoảng tứ phân vị) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 277 BÀN LUẬN Một giả định tồn tại khá lâu cho rằng các nước có nền kinh tế chậm phát triển thì thực trạng tự điều trị thuốc tân dược không phổ biến. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cho thấy giả định này không đúng, dữ liệu của nghiên cứu chỉ ra có đến 53% nam và 77,8% nữ tự điều trị thuốc tân dược. Tương tự với nghiên cứu của Aqeel tại Pakistan (2014)(3), nghiên cứu của Damaso tại Brazil (2014)(8). Có thể nói “thực trạng tự điều trị thuốc tân dược rất phổ biến ở các nước đang và chưa phát triển”. Nghiên cứu ghi nhận 90% thuốc tân dược tự điều trị không có nhãn. Điều này có thể do sơ suất hoặc nhân viên nhà thuốc không muốn cho người mua biết được tên thuốc vì lý do chủ quan nào đó. Việc thuốc không có nhãn sẽ gây nguy cơ nhầm lẫn thuốc. Đặc biệt, người dân thường để sử dụng dần trong những ngày sau đó hoặc họ giữ phần thuốc còn lại cho những đợt bệnh sau hoặc cho người khác, nguy cơ nhầm lẫm cho người sử dụng càng cao. Tại Hoa Kỳ mỗi năm có hàng ngàn người chết và tiêu tốn hàng triệu đô - la cho những sai sót y khoa có liên quan đến nhãn thuốc(7). Nghiên cứu còn đánh giá được phần thực hành của nhân viên bán thuốc qua việc 91,2% đối tượng đã không được cung cấp bất kì thông tin nào về thuốc trước khi sử dụng, cũng như 90% số thuốc được bán ra không có nhãn. Đồng thời, thuốc thuộc nhóm bắt buộc kê đơn được bán với tỷ lệ khá cao, trong đó kháng sinh và kháng viêm được sử dụng với tỷ lệ lần lượt là 47,6% và 35,3%. Kết quả này cũng được tìm thấy trong một nghiên cứu trước được thực hiện tại 30 nhà thuốc tại Hà Nội của tác giả Đỗ Thị Thúy Nga và công sự cho thấy tỷ lệ thuốc giảm đau kháng viêm non-steroid chiếm 17% và kháng sinh chiếm tỷ lệ cao nhất với 24% tổng số thuốc được bán ra và góp vào 18% tổng doanh thu của tất cả các nhà thuốc(10). Trong nghiên cứu này, nữ có tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược cao hơn nam 1,5 lần (p<0,001, KTC 95%: 1,2 – 1,8) và kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu tại Cộng Hòa Sudan(4). Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu từ Pakistan và Ấn Độ cho thấy tỷ lệ tự điều trị thuốc tân dược ở nam cao hơn nữ. Rất có thể do vai trò và vị thế của nam và nữ khác nhau giữa các nước và thực tế thì trong một đợt bệnh nữ giới thường có nhiều triệu chứng hơn nam giới có thể do sự khác biệt về sinh lý học và sự nhạy cảm với các triệu chứng dẫn đến nữ giới sử dụng thuốc dễ dàng hơn nam giới(21), mặc khác cũng có thể do phụ nữ dành nhiều thời gian cho chăm sóc gia đình, công việc ngoài xã hội, dẫn tới họ không còn thời gian để tìm kiếm sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp hơn(14). Bên cạnh đó, theo hai nghiên cứu được tiến hành ở Ấn Độ và Brazil đồng thời ghi nhận khi có vấn đề sức khỏe thì nữ giới thường đi khám bệnh và có nhu cầu sử dụng thuốc nhiều hơn nam giới(2). Trong nghiên cứu này, những người có thu nhập cao thì có tỷ lệ tự điều trị bằng 0,98 lần so với những người có thu nhập thấp (p < 0,029, KTC 95%: 0,97 – 0,99). Giả thuyết rằng, khi có điều kiện về kinh tế thì phần lớn người dân sẽ quan tâm đến sức khỏe, hướng tới các dịch vụ chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp hơn cũng như họ không phải bận tâm về chi phí điều trị. Một bằng chứng là khoảng 34,2% đối tượng sử dụng thuốc sau khi tham khảo ý kiến bác sĩ có mức thu nhập trung bình trên 5 triệu/ tháng. Trong ba nghiên cứu trước ở Trung Quốc(22), Cộng Hòa Sudan(4), miền bắc Ethiopia(1) ghi nhận những người có thu nhập cao có xu hướng đến các cơ sở y tế tư nhân Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 278 hoặc phòng mạch tư nhiều hơn khi gặp các vấn đề về sức khỏe. Trong nghiên cứu này, người có bệnh mạn tính hoặc đang điều trị bệnh mạn tính có tỷ lệ tự điều trị cao hơn 1,3 lần so với người không có bệnh mạn tính (p < 0,041, KTC 95%: 1,1 – 1,6). Kết quả này cũng được ghi nhận trong một nghiên cứu trước tại Trung Quốc(22). Bên cạnh đó, dữ liệu của nghiên cứu cũng cho thấy đối tượng có bệnh mạn tính chủ yếu thuộc nhóm đối tượng từ 60 tuổi trở lên và sử dụng lại toa thuốc cũ 14/19 đối tượng. Nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa tỷ lệ tự điều trị với các yếu tố khác như tuổi, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, số thành viên trong gia đình, bảo hiểm y tế, và khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế gần nhất. Kết quả này không nhất quán so với hầu hết các nghiên cứu trước. Sự khác nhau này có thể do tính chất của dân số nghiên cứu, tiêu chuẩn chọn mẫu cũng như những mối liên quan mà các nghiên cứu hướng đến. Một yếu tố cần lưu ý rằng, chính phủ Việt Nam đã thi hành một số biện pháp như hợp lý hóa ngành dược, bãi bỏ quy định về kinh doanh nhỏ lẻ đối với dược phẩm. Do đó, hệ thống nhà thuốc bán lẻ ngày càng nhiều với nhiều loại thuốc tân dược. Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên về thực trạng tự điều trị thuốc tân dược tại tỉnh Quảng Nam. Cỡ mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống đại diện cho dân số nghiên cứu, thực hiện mô tả thuốc kèm theo hạn chế được tối đa sai lệch thông tin so với các nghiên cứu trước. Tuy nhiên, một số nhược điểm của nghiên cứu cũng cần phải được ghi nhận ở đây. Trước hết, việc sử dụng đơn vị hộ gia đình và giả thuyết rằng mọi người trong gia đình đều có thói quen sử dụng thuốc tân dược như nhau để hỗ trợ chọn mẫu vì để tìm được đối tượng ngẫu nhiên trong cộng đồng có sử dụng thuốc tân dược là rất khó khăn. Bởi vì nghiên cứu này là một nghiên cứu cắt ngang, cho nên không thể phát biểu về những mối quan hệ nhân quả. Ngoài ra những câu hỏi về thu nhập gia đình, tình trạng hôn nhân có thể trả lời không thật đưa đến sai lệch thông tin, có đến 90% thuốc sử dụng không có nhãn hoặc không còn vỏ thuốc tại thời điểm khảo sát nên có thể tỷ lệ nhóm thuốc không thể hiện đúng thực tế. Một điều cần chỉ ra ở đây là tất cả các đối tượng nghiên cứu đều là cư dân của xã Bình Phục, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, cho nên kết quả này có thể không khái quát hóa cho cư dân sống ở vùng thành thị. Nghiên cứu này, không chỉ ra được số lượng thuốc kém chất lượng, thuốc giả, và những tác dụng phụ của thuốc. KẾT LUẬN Kết quả từ nghiên cứu cho thấy khoảng 53% nam và 77,8% nữ cư dân xã Bình Phục, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam tự điều trị thuốc tân dược. Kết quả này đặt ra nhu cầu cho việc đánh giá kiến thức – thái độ - thực hành sử dụng thuốc tân dược trong cộng đồng và những cá nhân có nguy cơ cao tự điều trị thuốc tân dược. Kết quả của nghiên cứu còn có ý nghĩa là cần phải nâng cao kiến thức – thái độ - thực hành của nhân viên nhà thuốc và các biện pháp nhằm nâng cao sự tuân thủ về qui định bán thuốc kê đơn, đặc biệt kháng sinh do Bộ Y Tế ban hành và cần phải có những nghiên cứu trên qui mô lớn hơn về thực trạng này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abrha S, Molla F, Melkam W (2014). "Self-medication practice: the case of Kolladiba Town, North West Ethiopia". IJPSR, 5 (10): 670-677. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 279 2. Ahmad A, Patel I, Mohanta GP, Balkrishnan R (2014). "Evaluation of Self Medication Practices in Rural Area of Town Sahaswan at Northern India". Annals of Medical and Health Sciences Research, 4 (Suppl 2): 73-78. 3. Aqeel T, et al (2014). "Prevalence of self-medication among urban and rural population of Islamabad, Pakistan". Tropical Journal of Pharmaceutical Research, 13 (4): 627-633. 4. Awad I, Abdelmoneim I, Eltayeb K, Idris B, Cappe H, Phillip A (2006). "Self-medication practices in Khartoum state, Sudan". European journal of clinical pharmacology, 62 (4): 317-322. 5. Balamurugan E, Ganese K (2011). "Prevalence and pattern of self medication use in coastal regions of South India". Br J Med Pract, 4 (3): 428 - 447. 6. Banerjee I, et al. (2016). "Self-medication practice among preclinical university students in a medical school from the city of Pokhara, Nepal". Nepal journal of epidemiology, 6 (2):574-578. 7. Berman A. (2004). "Reducing medication errors through naming, labeling, and packaging". Journal of medical systems, 28 (1): 9-29. 8. Bertoldi A, et al (2014). "Self-medication among adolescents aged 18 years: the 1993 Pelotas (Brazil) birth cohort study". Journal of Adolescent Health, 55 (2): 175-181. 9. Bộ Y Tế (2017). Tác nhân gây độc hại tại Trung Tâm Phòng Chống Độc - Bệnh Viện Bạch Mai, ItemID=839, truy cập 2 tháng 7 năm 2017. 10. Do TTN, et al (2014). "Antibiotic sales in rural and urban pharmacies in northern Vietnam: an observational study". BMC Pharmacology and Toxicology, 15 (1):6-8. 11. Gabriel E, Liisa J, Claire B (1991). "Risk for serious gastrointestinal complications related to use of nonsteroidal anti-inflammatory drugsa meta-analysis". Annals of internal medicine, 115 (10):787-796. 12. Klemenc-Ketis Z, Mitrovic D (2017). "Patients' use of and attitudes towards self-medication in rural and remote Slovenian family medicine practices: a cross-sectional multicentre study". Rural Remote Health, 17 (2): 3893-3897. 13. Okumura J, Wakai S, Umenai T (2002). "Drug utilisation and self-medication in rural communities in Vietnam". Soc Sci Med, 54 (2):10-15. 14. Papakosta M, Zavrar D, Niakas D (2014). "Investigating factors of self-care orientation and self-medication use in a Greek rural area". Rural Remote Health, 14 (2): 2349-2363. 15. Ruiz M (2010). "Risks of self-medication practices". Curr Drug Saf, 5 (4):315-323. 16. Shehnaz S, Sreedharan J, Khan N, Issa K, Arifulla M (2013). "Factors associated with self-medication among expatriate high school students: a cross-sectional survey in United Arab Emirates". Epidemiology, Biostatistics and Public Health, 10 (4): 45-52. 17. Trần Thị Thoa , Trương Việt Dũng, Nguyễn Thị Thu , Phạm Quốc Bảo (2014). "Thực trạng tồn trữ thuốc ở các hộ gia đình thuộc hai xã Thiệu Long và Cẩm Bình tỉnh Thanh Hóa". Tạp chí Dược học, 51 (8): 14-18. 18. Trần Vũ Kiệt (2017). Ngộ độc cấp paracetamol (acetaminophen), to-nhan-vien-bv/2166-ng-c-cp-paracetamol- acetaminophen.html, truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2017. 19. Trung Tâm Y Tế Huyện Thăng Bình (2016). Tình hình phân bố nhà thuốc đạt chuẩn GPP trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, Báo cáo định kì, tr. 3-5, cập nhật 15 tháng 5 năm 2017. 20. WHO (2016), Antibiotic resistance, resistance/en/, accessed on 17 May 2017. 21. Wyke S, Kate H, Graeme F (1998). "Gender differences in consulting a general practitioner for common symptoms of minor illness". Social science & medicine, 46 (7): 901-906. 22. Yuefeng L, Rao K, Ren X (2012). "Use of and factors associated with self-treatment in China". BMC Public Health, 12 (1): 995-999. Ngày nhận bài báo: 02/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuc_trang_tu_dieu_tri_thuoc_tan_duoc_va_cac_yeu_to_lien_qua.pdf
Tài liệu liên quan