Bùi Thị Bình và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 3 - 7 
3 
MỘT SỐ HỢP CHẤT GLUCOSIDE-FLAVONOID ĐƯỢC PHÂN LẬP 
TỪ LÁ XẠ CAN BELAMCANDA CHINENSIS (L.) DC. TẠI VIỆT NAM 
Bùi Thị Bình1, Lê Công Huân1,*, Khổng Thị Hoa1, Nguyễn Thị Hồng1, 
Đặng Thu Hằng1, Nguyễn Thị Hồng Hạnh2, Đỗ Thị Hà3 
1Trường Đại học Y Dược Thái Bình, 2Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên, 
3Viện Dược liệu 
TÓM TẮT 
Xạ can là một loại dược liệu được dùng làm thuốc chữa ho, tiêu đờm, viêm họng, viêm amidan có 
nhiều đờm, khản tiếng. Bộ phận dùng là thân rễ hoặc lá dưới dạng thuốc sắc, bột làm viên ngậm 
hoặc dùng tươi. Trong bài báo này tập trung vào phân lập và xác định cấu trúc của một số hợp chất 
glucoside -flavonoid từ lá của cây Belamcada chinensis (L.) DC. Kết quả đã phân lập ba hợp chất: 
embinin (1), swertisin (2) và embigenin (3). Cấu trúc của chúng được xác định nhờ các phép phân 
tích phổ IR, NMR, MS và so sánh với các dữ liệu phổ đã công bố (Mingchuan Liu và cs. (2012)). 
Từ khóa: Xạ can, lá, embinin, swertisin, embigenin. 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Xạ can có tên khoa học là Belamcanda 
chinensis (L.) DC. thuộc chi Belamcada 
Adans họ Lay ơn (Iridaceae). Cây phân bố ở 
Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Philipin... Ở 
Việt Nam, xạ can mọc hoang và được trồng ở 
nhiều nơi để làm cây cảnh và làm thuốc [2]. 
Nghiên cứu thành phần hóa học của thân rễ 
xạ can cho thấy có mặt của các nhóm chất 
như iridal triterpenoid, isoflavonoid và 
flavonoid, các nhóm hợp chất stillben, các 
hợp chất phenolic và các triterpen [7]. Trong 
nước, một số tác giả nghiên cứu thành phần 
hóa học của rễ xạ can, bước đầu nghiên cứu 
thấy sự có mặt của các hợp chất flavonoid và 
triterpenoid [3]. Tuy nhiên, tại Việt Nam vẫn 
chưa có nhiều công trình nghiên cứu thành 
phần hóa học xạ can trên bộ phận lá. 
Trong các công bố gần đây, chúng tôi đã phát 
hiện sự có mặt của các hợp chất 
iristectorigenin A, irisflorentin, iridin D, 
tertoigenin, 9-methoxy-dehydrodiconiferyl 
alcol, neoligan trong phân đoạn dịch chiết 
ethyl acetat của thân rễ xạ can [1]. Trong bài 
báo này, chúng tôi tiếp tục báo cáo những kết 
quả nghiên cứu mới về chiết tách, phân lập và 
xác định cấu trúc hóa học chất chính trên bộ 
phận lá xạ can. 
*
 Email: 
[email protected] 
NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Nguyên liệu 
Nguyên liệu dùng trong nghiên cứu là lá xạ 
can (Belamcada chinensis (L.)DC.) được thu 
hái tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình tháng 
11/ 2016. Tên khoa học được ThS. Nguyễn 
Quỳnh Nga, Khoa Tài nguyên - Viện Dược 
liệu giám định bằng phương pháp so sánh 
hình thái. Tiêu bản mẫu hiện được lưu tại Khoa 
Tài nguyên - Viện Dược liệu. Toàn bộ lá xạ can 
chất lượng tốt được lựa chọn, sấy ở 50oC đến độ 
ẩm còn dưới 2%, xay thành bột làm nguyên liệu 
nghiên cứu thành phần hóa học. 
Dung môi, hóa chất 
Các dung môi dùng cho chiết xuất và phân 
lập hoạt chất: ethanol, n-hexan, ethylacetat, 
methanol, n-butanol... Dung môi, hóa chất sử 
dụng trong nghiên cứu đều đạt tiêu chuẩn tinh 
khiết phân tích (PA). 
Thiết bị, dụng cụ 
Các chất được phân lập bởi các cột sắc ký 
(cột thủy tinh) với hạt silica-gel 160 cỡ hạt 
0,04 - 0,063 mm (Merck). Sắc ký lớp mỏng 
sử dụng bản mỏng nhôm tráng sẵn silica-gel 
GF254. Nhiệt độ nóng chảy được đo bằng máy 
đo điểm chảy nhiệt điện Gallenkamp (Sanyo 
electrothermal digital). Phổ hồng ngoại (IR) 
được ghi bằng máy Impac 410-Nicolet FT-IR. 
Bùi Thị Bình và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 3 - 7 
4 
Phổ khối lượng (MS) được ghi bằng máy khối 
phổ phun mù điện tử (MS) Hewlett Packard 
HP 5890. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) 
được ghi bằng máy Bruker AV-500 dùng 
DMSO-d6 làm dung môi. Độ chuyển dịch hóa 
học () được biểu thị bằng đơn vị phần triệu 
(ppm), lấy mốc là pic của chất chuẩn nội 
tetramethylsilan (TMS). 
Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp phân lập các hợp chất 
Phân lập các hợp chất từ lá xạ can bằng sắc 
ký lớp mỏng và sắc ký cột. 
Sắc ký lớp mỏng (TLC): Phát hiện chất bằng 
đèn tử ngoại bước sóng 254 và 365 nm hoặc 
dùng thuốc thử hiện màu H2SO410% được 
phun đều khi hiện màu hoặc dung dịch 
FeCl3/ethanol 5%. 
Phương pháp xác định các cấu trúc hóa học 
các hợp chất 
Bằng cách đo nhiệt độ nóng chảy, các phương 
pháp phổ (phổ hồng ngoại IR, phổ khối lượng 
MS, phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR và 
13
C-NMR). 
THỰC NGHIỆM 
Lá xạ can khô nghiền nhỏ (2,5 kg) được chiết 
hồi lưu với ethanol 96% (3 lần x 3 h). Lọc, 
gộp dịch chiết và cất thu hồi dung môi dưới 
áp suất giảm thu được cao ethanol (420,6 g). 
Cao thu được đem phân tán trong nước và lắc 
phân đoạn lần lượt với n-hexan (3 × 1,5 L) và 
EtOAc (3 × 1,5 L). Các phân đoạn lần lượt 
cất thu hồi dung môi dưới áp suất giảm thu 
được cắn n-hexan (30,5 g), cắn EtOAc (18,6 
g) và cắn nước (271,5 g). 
Cắn nước được đưa qua cột diaion LH-20, rửa 
giải theo gradient với dung môi ethanol - 
nước (0:100%, 1:3, 1:1, 3:1, 100%:0). Cất thu 
hồi dung môi dưới áp suất giảm thu được 5 
cao phân đoạn, ký hiệu H1BC1A ~ H1BC1E. 
Phân đoạn H1BC1E (6,0 g) được đưa lên cột 
pha thường, rửa giải bằng hệ D-M-W 
(6:1:0,1, v/v/v) thu được 4 phân đoạn 
H1BC2A~H1BC2D. Tiếp tục phân lập phân 
đoạn H1BC2B (1,3 g) bằng sắc ký cột pha 
thường hệ dung môi rửa giải D-M-W (6:1:0,1, 
v/v/v) thu được phân đoạn H1BC3A và 
H1BC3B. Phân đoạn H1BC3B (0,9 g) được 
phân tách trên sắc ký cột pha đảo với hệ dung 
môi rửa giải M-W (1:1,v/v) thu được hợp chất 
1 (BCL1 370 mg). Phân đoạn 
H1BC1B+H1BC1C (1,0 g) được phân lập 
trên sắc ký cột pha thường rửa giải theo 
gradient với hệ dung môi D-M-W (10:1:0,1; 
7:1:0,1; 5:1:0,1, v/v/v) thu được 2 phân đoạn 
H1BC9A và H1BC9B. Phân đoạn H1BC9B 
(71 mg) được phân tách trên sắc ký cột pha 
thường hệ D-M (7:1, 6:1, 5:1, v/v) thu được 
hợp chất 2 (BCL2, 27,4 mg) và hợp chất 3 
(BCL3, 17,3 mg) được tinh chế bằng sắc ký 
cột pha thường hệ D-M (8:1, v/v). 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Từ các kết quả phổ của các hợp chất phân lập 
từ lá xạ can, nhóm nghiên cứu thu được kết 
quả như sau: 
Hình 1. Cấu trúc của các hợp chất 1, 2, 3 
Bùi Thị Bình và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 3 - 7 
5 
Hợp chất 1: Chất rắn, màu vàng nhạt; tonc: 
217-219
o
C; Rf = 0,67 (DCM : MeOH = 7:2); 
IR (KBr, cm
-1
): 3309 (OH), 3060 (CH), 1728/ 
1610 (C=O), 1509, 1471, 1426 (C=C); 1240 
(C-O); ESI-MS (m/z): 607,5 [M+H]
+
; 
1
H-
NMR (500 MHz, CD3OD, ppm): δ 6,71 (1H, 
s, H-3); 6,72 (1H, s, H-8); 7,95 (2H, d, J = 8,5 
Hz, H-2', 6'); 7,10 (2H, d, J = 8,5 Hz, H-3', 
5'); 4,96 (1H, d, J = 10 Hz, H-1''); 4,41 (1H, 
d, J = 8,5 Hz, H-2''); 3,86 (1H, m, H-3''); 3,43 
(1H, m, H-4''); 3,45 (1H, m, H-5''); 3,67 (1H, 
dd, J = 10,5; 5,5 Hz, Hb-6''); 3,53 (1H, m, 
Ha-6''); 5,13 (1H, d, J = 1,5 Hz, H-1'''); 3,88 
(1H, m, H-2'''); 0,75 (1H, d, J = 6,5 Hz, H-
6'''); 3,97 (1H, s, 7-OMe); 3,91 (3H, s, 4’-
OMe); 
13
C-NMR (125 MHz, CD3OD, ppm): δ 
166,0 (C-2); 104,9 (C-3); 183,9 (C-4); 164,5 
(C-5); 110,8 (C-6); 161,7 (C-7); 92,7 (C-8); 
159,3 (C-9); 105,9 (C-10); 124,3 (C-1'); 129,4 
(C-2', 6'); 115,7 (C-3', 5'); 161,2 (C-4'); 56,1 
(7-OMe); 49,1 (4’-OMe); 78,9 (C-1''); 82,4 (C-
2''); 72,2 (C-3''); 72,2 (C-4''); 81,4 (C-5''); 63,4 
(C-6''); 102,9 (C-1'''); 71,9 (C-2'''); 72,8 (C-3'''); 
73,4 (C-4'''); 69,8 (C-5'''); 18,2 (C-6'''). 
Hợp chất 1 được phân lập dưới dạng bột màu 
vàng nhạt. Phổ ESI-MS của chất 1 cho pic ion 
ở m/z 607,5 ([M+H]+) phù hợp với khối lượng 
phân tử 607 (C29H34O14). Phổ 
1H-NMR của 
hợp chất 1 là đặc trưng của các tín hiệu 
proton trong hai vòng thơm của một flavon. 
Có hai tín hiệu singlet của proton trong vòng 
A [δH 6,71 (1H, s, H-3) và 6,72 (1H, s, H-8)], 
hai tín hiệu doublet của proton vòng B tương 
tác ortho với nhau [δH 7,95 (2H, d, J = 8,5 Hz, 
H-2', 6'); 7,10 (2H, d, J = 8,5 Hz, H-3', 5')]; 
tín hiệu singlet của nhóm OH δH 13.44 (1H, s, 
5-OH); tín hiệu singlet của 2 nhóm methoxy 
δH 3,96 (3H, s, 7-OMe) và 3,91 (3H, s, 4’-
OMe). Các tín hiệu NMR cho thấy chất 1 
chứa 2 phân tử đường. Trên phổ còn xuất hiện 
tín hiệu của gốc đường glucose liên kết với 
aglycon bằng liên kết β-C-glycosid đặc trưng 
bởi proton anomeric ở [δH 4,96 (1H, d, J = 10 
Hz, H-1'')] và các tín hiệu khác 4,41 (1H, d, J 
= 8,5 Hz, H-2''); 3,86 (1H, m, H-3''); 3,43 
(1H, m, H-4''); 3,45 (1H, m, H-5''); 3,67 (1H, 
dd, J = 10,5; 5,5 Hz, Hb-6''); 3,53 (1H, m, 
Ha-6''); δC 78,9 (C-1''); 82,4 (C-2''); 72,2 (C-
3''); 72,2 (C-4''); 81,4 (C-5''); 63,4 (C-6''). 
Trên phổ còn xuất hiện tín hiệu của gốc 
đường rhamnose liên kết với phân tử đường 
glucose với các tín hiệu đặc trưng δH 5,13 
(1H, d, J = 1,5 Hz, H-1'''); 3,88 (1H, m, H-
2'''); 0,75 (1H, d, J = 6,5 Hz, H-6'''); δC 102,9 
(C-1'''); 71,9 (C-2'''); 72,8 (C-3'''); 73,4 (C-
4'''); 69,8 (C-5'''); 18,2 (C-6'''). Từ dữ liệu phổ 
thu được ở trên và so sánh với dữ liệu phổ 
embinin đã công bố trong tài liệu [7], có thể 
kết luận hợp chất 1 là embinin. 
Hợp chất 2: Chất rắn, màu vàng nhạt; tonc: 
243-244
o
C; Rf = 0,47 (DCM : MeOH = 7:2); 
IR (KBr, cm
-1
): 3310 (OH), 3066 (CH), 1730/ 
1615 (C=O), 1519, 1470, 1425 (C=C); 1230 
(C-O); ESI-MS (m/z): 469,0 [M+Na]
+
; 
1
H-
NMR (500 MHz, CD3OD, ppm): δ 6,67 (1H, 
s, H-3); 6,76 (1H, s, H-8); 7,90 (2H, d, J = 8,5 
Hz, H-2', 6'); 6,95 (2H, d, J = 8,5 Hz, H-3', 
5'); 4,80 (1H, d, J = 10 Hz, H-1''); 3,90 (1H, t, 
J = 8 Hz, H-2''); 3,47 (1H, m, H-3''); 3,41 
(1H, m, H-4''); 3,46 (1H, m, H-5''); 3,68 (1H, 
dd, J = 10,5; 5,5 Hz, H-6''b); 3,53 (1H, m, H-
6''a); 3,96 (3H, s, 7-OMe); 
13
C-NMR (125 
MHz, CD3OD, ppm): δ 166,4 (C-2); 102,8 
(C-3); 184,3 (C-4); 159,6 (C-5); 109,7 (C-6); 
166,4 (C-7); 91,9 (C-8); 154,7 (C-9); 104,2 
(C-10); 122,9 (C-1'); 129,6 (C-2', 6'); 117,1 
(C-3', 5'); 162,9 (C-4'); 56,5 (7-OMe); 73,9 
(C-1''); 73,9 (C-2''); 80,5 (C-3''); 71,6 (C-4''); 
82,6 (C-5''); 64,4 (C-6''). 
Hợp chất 2 được phân lập dưới dạng bột màu 
vàng nhạt. Phổ ESI-MS của chất 2 cho pic ion 
ở m/z 469,0 ([M+Na]+) phù hợp với khối 
lượng phân tử 446 (C22H22O10). Phổ 
1H-NMR 
của hợp chất 2 cho thấy sự xuất hiện của các 
tín hiệu proton trong hai vòng thơm của một 
flavon, trong đó có hai tín hiệu singlet của 
proton trong vòng A [δH 6,67 (1H, s, H-3) và 
6,76 (1H, s, H-8)], hai tín hiệu doublet của 
proton vòng B tương tác ortho với nhau [δH 
7,90 (2H, d, J = 8,5 Hz, H-2', 6'); 6,95 (2H, d, 
J = 8,5 Hz, H-3', 5')]; tín hiệu singlet của 
proton nhóm methoxy δH 3,96 (3H, s, 7-
Bùi Thị Bình và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 3 - 7 
6 
OMe). Trên phổ còn xuất hiện tín hiệu của 
gốc đường glucose liên kết với aglycon bằng 
liên kết β-C-glycosid đặc trưng bởi proton 
anomeric ở [δH 4,80 (1H, d, J = 10 Hz, H-1'')] 
và các tín hiệu khác 3,90 (1H, t, J = 8 Hz, H-
2''); 3,47 (1H, m, H-3''); 3,41 (1H, m, H-4''); 
3,46 (1H, m, H-5''); 3,68 (1H, dd, J = 10,5; 
5,5 Hz, Hb-6''); 3,53 (1H, m, Ha-6''). Phổ 13C-
NMR và DEPT cho thấy tín hiệu của 22 
carbon, trong đó có 1 carbon methoxy [δC 
56,5 (7-OMe)]; 15 tín hiệu đặc trưng cho hợp 
chất euflavon gồm 9 carbon bậc 4 [δC 166,4 
(C-2); 184,3 (C-4); 159,6 (C-5); 109,7 (C-6); 
166,4 (C-7); 154,7 (C-9); 104,2 (C-10); 122,9 
(C-1') và 162,9 (C-4')], 6 carbon bậc 3 [δC 
102,8 (C-3); 91,9 (C-8); 129,6 (C-2', 6') và 
117,1 (C-3', 5')] và các tín hiệu của phân tử 
đường [δC 73,9 (C-1''); 73,9 (C-2''); 80,5 (C-
3''); 71,6 (C-4''); 82,6 (C-5'') và 64,4 (C-6'')]. 
Trên cơ sở các dữ kiện phổ của 2 kết hợp với 
tham khảo tài liệu [5], [6], hợp chất 2 được 
xác định là apigenin 6-C-β-D-glucopyranosid 
hay swertisin. 
Hợp chất 3: Chất rắn, màu vàng nhạt; tonc: 
256-258
o
C; Rf = 0,51 (DCM : MeOH = 7:2); 
IR (KBr, cm
-1
): 3319 (OH), 3065 (CH), 1720/ 
1615 (C=O), 1519, 1481, 1436 (C=C); 1245 
(C-O); ESI-MS (m/z): 460,1 [M+H]
+
; 
1
H-
NMR (500 MHz, CD3OD, ppm): δ 6,69 (1H, 
s, H-3); 6,74 (1H, s, H-8); 7,98 (2H, d, J = 9,0 
Hz, H-2', 6'); 7,11 (2H, d, J = 9,0 Hz, H-3', 
5'); 4,84 (1H, d, J = 10 Hz, H-1''); 3,93 (1H, t, 
J = 8 Hz, H-2''); 3,46 (1H, m, H-3''); 3,41 
(1H, m, H-4''); 3,46 (1H, m, H-5''); 3,68 (1H, 
dd, J = 10,5; 5,5 Hz, Hb-6''); 3,53 (1H, m, 
Ha-6''); 3,94 (3H, s, 7-OMe); 3,94 (3H, s, 4’-
OMe); 
13
C-NMR (125 MHz, CD3OD, ppm): δ 
166,0 (C-2); 104,7 (C-3); 184,0 (C-4); 164,5 
(C-5); 124,3 (C-6); 166,0 (C-7); 91,9 (C-8); 
154,3 (C-9); 104,6 (C-10); 124,3 (C-1'); 129,4 
(C-2', 6'); 115,7 (C-3', 5'); 162,7 (C-4'); 56,1 
(7-OMe); 49,5 (4’-OMe); 74,3 (C-1''); 76,6 
(C-2''); 82,6 (C-3''); 73,6 (C-4''); 80,5 (C-5''); 
63,5 (C-6''). 
Hợp chất 3 được phân lập dưới dạng bột màu 
vàng nhạt. Phổ ESI-MS của chất 3 cho pic ion 
ở m/z 460,1 ([M+H]+) phù hợp với khối lượng 
phân tử 459 (C23H24O10). Cũng tương tự như 
chất 2, phổ 1H-NMR của hợp chất 3 cho thấy 
sự xuất hiện của các tín hiệu proton trong hai 
vòng thơm của một flavon, trong đó có hai tín 
hiệu singlet của proton trong vòng A [δH 6,69 
(1H, s, H-3) và 6,74 (1H, s, H-8)], hai tín hiệu 
doublet của proton vòng B tương tác ortho 
với nhau [δH 7,98 (2H, d, J = 9,0 Hz, H-2', 6'); 
7,11 (2H, d, J = 9,0 Hz, H-3', 5')]; tín hiệu 
singlet của 2 nhóm methoxy δH 3,96 (3H, s, 7-
OMe) và 3,94 (3H, s, 4’-OMe); tín hiệu 
singlet của nhóm OH δH 13.44 (1H, s, 5-OH). 
Trên phổ cũng xuất hiện tín hiệu của gốc 
đường glucose liên kết với aglycon với liên 
kết C-glycosid đặc trưng bởi proton anomeric 
ở [δH 4,80 (1H, d, J = 10 Hz, H-1'')] cùng các 
tín hiệu 4,84 (1H, d, J = 10 Hz, H-1''); 3,93 
(1H, t, J = 8 Hz, H-2''); 3,46 (1H, m, H-3''); 
3,41 (1H, m, H-4''); 3,46 (1H, m, H-5''); 3,68 
(1H, dd, J = 10,5; 5,5 Hz, Hb-6''); 3,53 (1H, 
m, Ha-6''). Phổ 13C-NMR và DEPT cho thấy 
tín hiệu của 23 carbon, trong đó có 2 carbon 
methoxy [δC 56,5 (7-OMe) và 49,5 (4’-
OMe)]; 15 tín hiệu đặc trưng cho hợp chất 
euflavon gồm 9 carbon bậc 4 [δC 166,0 (C-2); 
184,0 (C-4); 164,5 (C-5); 124,3 (C-6); 166,0 
(C-7); 154,4 (C-9); 104,6 (C-10); 124,3 (C-1') 
và 162,7 (C-4')], 6 carbon bậc 3 [δC 104,7 (C-
3); 91,9 (C-8); 129,4 (C-2', 6') và 115,1 (C-3', 
5')] và các tín hiệu của phân tử đường [δC 
74,3 (C-1''); 76,6 (C-2''); 82,6 (C-3''); 73,6 (C-
4''); 80,5 (C-5'') và 63,5 (C-6'')]. Từ dữ liệu 
phổ thu được ở trên, kết hợp với tài liệu đã 
công bố [3], [8] có thể kết luận hợp chất 3 
phân lập được là embigenin. 
KẾT LUẬN 
Bằng các phương pháp sắc ký kết hợp với các 
phương pháp phổ, chúng tôi đã phân lập và 
nhận dạng cấu trúc của 3 hợp chất bằng các 
phương pháp phổ hiện đại (MS, 1H-NMR, 
13
C-NMR, HBMC) từ lá xạ can bao gồm 
embinin, swertisin, embigenin. 
Bùi Thị Bình và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 3 - 7 
7 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Thị Bình, Đỗ Thị Hà, Nguyễn Thị Bích Thu 
(2014), “Neolignan và các isoflavonoid phân lập 
từ thân rễ xạ can (Belamcanda chinensis (L.) DC, 
Tạp chí Dược học, 4, tr. 54. 
2. Viện Dược liệu (2006), Cây thuốc và động vật 
làm thuốc ở Việt Nam, tập II, Nxb KH&KT, tr. 
1095-1098. 
3. Bakhtiar B., Gleye J., Moules C., (1994), 
“Desorption chemicacl ionization mass 
spectrometry of C-glycosyl flavones”, 
Phytochemical analysis, 5, pp. 8-89. 
4. Bui Thi Binh, Tran Thi Hien, Do Thi Ha, Pham 
Duc Chinh, Le Viet Dung, Nguyen Thi Bich Thu 
(2016), “Anti-Inflammatory Effect of (7R,8S)-
Dehydrodiconiferyl Alcohol-9′Γ-Methyl Ether 
from the Rhizome of Belamcanda Chinensis: Role 
of Mir-146a and Mir-155”, Biomed. Pharmacol, 
9(3), pp. 278-283. 
5. Choo C. Y., Sulong N. Y., Man F., Wong T. W. 
(2012), "Vitexin and isovitexin from the leaves of 
Ficus deltoidea with in-vivo alpha-glucosidase 
inhibition", Journal of ethnopharmacology, 
142(3), pp. 776 - 781. 
6. Mishra B. B., Yadav S. B., Singh R. K., Tripathi 
V. (2007), "A novel flavonoid C-glycoside from 
Sphaeranthus indicus L. (family Compositae)", 
Molecules, 12(10), pp. 2288 - 2291. 
7. Mingchuan Liu, Shengjie Yang, Linhong Jin, 
Deyu Hu, Zhibing Wu and Song Yang (2012), 
“Chemical Constituents of the Ethyl Acetate 
Extract of Belamcanda chinensis (L.) DC Roots 
and Their Antitumor Activities”, Molecules, 17, 
pp. 6156-6169. 
8. Yahan Na, Huan Li, Binbin Lin, Guo Kai Wang 
(2012), “C-glycosyl flavones from the leaves of 
Iris tectorum Maxum”, Acta Pharmaceutica Sinia, 
2(6), pp. 598-601. 
SUMMARY 
DERVATIVES OF GLUCOSIDE-FLAVONOID ISOLATED FROM THE LEAF OF 
BELAMCADA CHINENSIS (L.) DC. IN VIETNAM 
Bui Thi Binh
1
, Le Cong Huan
1*
, Khong Thi Hoa
1
, Nguyen Thi Hong
1
, 
Dang Thu Hang
1
, Nguyen Thi Hong Hanh
2
, Do Thi Ha
3
1Thai Binh University of Medicine and Phamacy, 
2 TNU - University of Medicine and Pharmacy, 
3National Institute of Medicinal Material 
Belamcada chinensis (L.) DC. is a medicinal plant that has been used to treat cough, sputum, 
pharyngitis, tonsillitis, phlegmatic tonsillitis. The stool is a rhizome or leaf in the form of 
decoction, powdered or fresh. In this article, we have focused on the isolation and indentification 
of some glucoside-flavonoid compounds from leaf of Belamcada chinensis (L.) DC. The result 
was isolated three compounds: embinin (1), swertisin (2) and embigenin (3). Their structures were 
indentifed on the basic of physicochemical data and IR, NMR, MS spectral analysis in comparison 
with the pulish data. 
Keywords: Belamcada chinensis, leaf, embinin, swertisin, embigenin. 
Ngày nhận bài: 29/5/2018; Ngày phản biện: 30/6/2018; Ngày duyệt đăng: 31/10/2018 
*
 Email: 
[email protected]