Tài liệu Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 592
MỐI LIÊN QUAN GIỮA YẾU TỐ CÁ NHÂN, MÔI TRƯỜNG GIA ĐÌNH,
MÔI TRƯỜNG NHÀ TRƯỜNG VỚI VẤN ĐỀ SỨC KHỎE
TÂM THẦN HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Chu Văn Thăng*, Nguyễn Thị Hồng Diễm**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chăm sóc sức khỏe đặc biệt là sức khỏe tâm thần học sinh cần có sự quan tâm, phối hợp giữa
gia đình, nhà trường và ngành y tế mới mong mang lại hiệu quả cao cho sự hình thành, phát triển trí tuệ, nhân
cách và thể lực của học sinh. Tìm hiểu mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường
trường học đến tình trạng sức khỏe tâm thần của học sinh là rất cần thiết.
Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường trường học đến
tình trạng sức khỏe tâm thần (SKTT) của học sinh trung học cơ sở (THCS) tại 5 tỉnh thuộc miền Bắc, Trung,
Nam và Tây Nguyên năm học 2015 - 2016.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô t...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường nhà trường với vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 592
MỐI LIÊN QUAN GIỮA YẾU TỐ CÁ NHÂN, MÔI TRƯỜNG GIA ĐÌNH,
MÔI TRƯỜNG NHÀ TRƯỜNG VỚI VẤN ĐỀ SỨC KHỎE
TÂM THẦN HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Chu Văn Thăng*, Nguyễn Thị Hồng Diễm**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chăm sóc sức khỏe đặc biệt là sức khỏe tâm thần học sinh cần có sự quan tâm, phối hợp giữa
gia đình, nhà trường và ngành y tế mới mong mang lại hiệu quả cao cho sự hình thành, phát triển trí tuệ, nhân
cách và thể lực của học sinh. Tìm hiểu mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường
trường học đến tình trạng sức khỏe tâm thần của học sinh là rất cần thiết.
Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, môi trường gia đình, môi trường trường học đến
tình trạng sức khỏe tâm thần (SKTT) của học sinh trung học cơ sở (THCS) tại 5 tỉnh thuộc miền Bắc, Trung,
Nam và Tây Nguyên năm học 2015 - 2016.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên với 6.639 học sinh của 20 trường
THCS tại Vĩnh Phúc, Hà Nam, Bình Định, An Giang, Gia Lai. Sử dụng bộ câu hỏi tự điền SDQ cho học sinh để
tự đánh giá các câu hỏi liên quan đến vấn đề SKTT; học sinh tự điền theo bộ câu hỏi có sẵn về các đặc điểm cá
nhân, môi trường gia đình và môi trường trường học.
Kết quả: Học sinh nam, học lực kém/trung bình, hạnh kiểm kém/trung bình, có sử dụng máy vi tính, có đi
học thêm có tỉ lệ có vấn đề về sức khỏe sức khỏe tâm thần cao hơn so với học sinh nữ, học lực khá/giỏi, hạnh kiểm
khá/tốt, không sử dụng máy tính và không đi học thêm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001 (test χ2); học
sinh chứng kiến người lớn đánh nhau, bị người thân trong gia đình đánh và không được gia đình yêu mến có tỉ lệ
có vấn đề sức khỏe tâm thần chung cao hơn so với học sinh sống trong gia đình hòa thuận không đánh nhau,
không bị người thân đánh và được gia đình yêu mến sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (test χ2); học
sinh không thích đi học, bị bắt nạt, bị thầy cô phạt và bị thầy cô đánh có tỉ lệ có vấn đề sức khỏe tâm thần cao hơn
so với học sinh thích đi học, không bị bắt nạt, không bị thầy cô phạt và không bị thầy cô đánh, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,001 (test χ2).
Kết luận: Có sự liên quan giữa yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình và nhà trường đến tình hình sức khỏe tâm
thần học sinh.
Từ khóa: vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh
ABSTRACT
THE RELATIONSHIP BETWEEN INDIVIDUAL FACTORS, FAMILY AND SCHOOL
ENVIRONMENT WITH MENTAL HEALTH OF SECONDARY SCHOOL STUDENTS
Chu Van Thang, Nguyen Thi Hong Diem
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 592 – 598
Background: Health care, especially student’s mental health needs to pay attention and coordination
between families, schools and the health sector to bring high efficiency for the formation and development of
students' wisdom, personality and physical health. Understanding the relationship between personal factors, the
family and school environment to the mental health status of students are very essential.
Objectives: Identify the relationship between individual factors, the family environment, the school
*Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế **Trường Đại học Y Hà Nội
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Thị Hồng Diễm ĐT: 0905165239 Email: hongdiemmoh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 593
environment to the mental health status of secondary school students in 5 provinces in the North, Central, South
and Central Highlands in school year 2015 - 2016.
Methods: A cross-descriptive study was conducted on 6.639 students of 20 secondary schools in Vinh Phuc,
Ha Nam, Binh Dinh, An Giang and Gia Lai provinces. Using the Strengths and Difficulties Questionnaire (SDQ)
and the self-administered questionnaire for students about questions related to mental health problems, personal
characteristics, family environment and school environment.
Results: Students who were male, have poor/average learning results, poor/average behavior, use computer,
did not have a separate learning corner, participate extra classes had a higher rate of mental health problems than
students who were female, had good/fair learning results, good/fair behavior, no use computer and did not go to
extra classes, the difference was statistically significant with p <0.001 (test χ2); students who witnessed adults
fighting, were beaten by family members and were not loved by their families had a higher prevalence of common
mental health problems than students living in harmony families, not beaten by loved ones and loved by the
family, the difference was statistically significant with p <0.05 (test χ2); students who did not like to go to school,
were bullied, were punished and beaten by teachers had a higher rate of mental health problems than students
who liked to go to school, were not bullied, and were not punished and beaten by teachers by teachers, the
difference was statistically with p <0.001 (test χ2).
Conclusions: There is the relationship between personal factors, family and school environment to the
mental health situation of students.
Keywords: mental health problems for students
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội ngày càng phát triển thì việc nhận
thức về giá trị sức khỏe của con người ngày càng
được nâng cao. Chăm sóc sức khỏe (CSSK) đã
trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn xã
hội, đặc biệt CSSK cho lứa tuổi học sinh. Học
sinh là tương lai của đất nước, sức khỏe của học
sinh hôm nay quyết định đến khuynh hướng
sức khỏe dân tộc ta trong tương lai. Để tương lai
được bền vững thì chúng ta phải tạo điều kiện
cho các em phát triển hài hòa, toàn diện về cả thể
chất lẫn tâm thần. Chăm sóc sức khỏe thể chất
tạo điều kiện cho trẻ em phát triển thể lực, chiều
cao, cân nặng, hoàn thiện dần các chức năng của
cơ thể, giảm khả năng mắc bệnh tật và tránh
được nguy cơ tử vong do bệnh tật. CSSK tâm
thần tạo điều kiện cho việc phát triển trí tuệ, tăng
cường khả năng cân bằng tâm lý, tình cảm, thích
nghi với môi trường sống, với các mối quan hệ
gia đình, bạn bè và xã hội. Hơn nữa CSSK tâm
thần còn giúp tạo cho trẻ phát triển tính tự lập,
tự tin trong cuộc sống, phát triển nhân cách,
mang giá trị đạo đức căn bản của con người. Sức
khỏe tâm thần có vấn đề sẽ dẫn đến rối loạn
hành vi, mất kiểm soát và có những hành vi sai
lệch gây ảnh hưởng đến cá nhân, gia đình và xã
hội. Chính vì vậy việc CSSK tâm thần đóng một
vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển
của trẻ.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới và trong
nước cho thấy tỷ lệ tổn thương sức khỏe tâm
thần (SKTT) ở lứa tuổi trẻ em chiếm từ 8-21%.
Các vấn đề về sức khỏe tâm thần đang chiếm
một tỷ lệ cao trong cơ cấu bệnh lý cũng như
chăm sóc sức khỏe ban đầu ở cộng đồng. Các tổn
thương về tâm thần luôn là một trong những
gánh nặng bệnh tật cho xã hội.
Sức khỏe tâm thần học đường hiện nay ở
Việt Nam vẫn là chủ đề mới, sự quan tâm mới
chỉ là bước đầu. CSSK tâm thần cho học sinh cần
có sự quan tâm phối hợp giữa gia đình, nhà
trường và ngành y tế mới mong mang lại hiệu
quả cao cho sự hình thành, phát tiển trí tuệ, nhân
cách và thể lực cho các em. Do vậy nghiên cứu
về mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, môi
trường gia đình, môi trường trường học đến tình
trạng sức khỏe tâm thần của học sinh là rất cần
thiết, từ đó góp phần đề xuất các biện pháp can
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 594
thiệp thích hợp, kịp thời.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định mối liên quan giữa các yếu tố cá
nhân, môi trường gia đình, môi trường trường
học đến tình trạng sức khỏe tâm thần của học
sinh trung học cơ sở (THCS) tại 5 tỉnh thuộc
miền Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên năm học
2015 - 2016.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Học sinh trung học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9)
tại các trường học được lựa chọn vào nghiên cứu
từ tháng 6/2015 đến tháng 12/2015. Nghiên cứu
đã lựa chọn chủ đích 5 tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Nam,
Bình Định, An Giang, Gia Lai thuộc miền Bắc,
miền Trung, miền Nam và Tây Nguyên để tiến
hành nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu điều tra
Đơn vị chọn mẫu là học sinh. Số học sinh
mỗi tỉnh được nghiên cứu được tính theo công
thức tính cỡ mẫu ước tính một tỷ lệ trong quần
thể là:
n= Z2(1-/2)
Trong đó: với độ tin cậy 95% thì Z (1-/2) = 1,96;
p= 0,1 (tỷ lệ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm
thần từ nghiên cứu của Trần Tuấn và cs)(7) , =0,2.
Số học sinh cần được điều tra mỗi tỉnh,
thành phố là 865, chọn hệ số chọn mẫu là 1,5 , cỡ
mẫu học sinh mỗi tỉnh tính được là 1.300 học
sinh. Tổng số học sinh 5 tỉnh điều tra là 1.300 x 5
= 6.500 học sinh.
Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu theo nhiều bậc. Tại mỗi tỉnh, số
học sinh được lựa chọn vào nghiên cứu theo các
bước sau:
Bước 1: tại mỗi khu vực nghiên cứu, chọn
chủ đích 1 tỉnh, miền Bắc lựa chọn 02 tỉnh.
Bước 2: Tại mỗi tỉnh nghiên cứu, chọn 1
quận và 1 huyện đại diện cho tỉnh nghiên cứu.
Tổng cộng có 10 quận, huyện trong 5 tỉnh cần
nghiên cứu.
Bước 3: Tại mỗi quận, huyện lựa chọn, chọn
ngẫu nhiên 02 trường trung học cơ sở, tổng cộng
có 20 trường trong 5 tỉnh cần điều tra.
Bước 4: Tại mỗi trường chọn ngẫu nhiên đơn
mỗi khối lớp 02 lớp, ước tính mỗi lớp có 40-45
học sinh, điều tra toàn bộ học sinh của các lớp
được chọn. Thực tế đã điều tra 6.639 học sinh.
Kỹ thuật thu thập số liệu
Sử dụng bộ câu hỏi tự điền SDQ cho học
sinh để tự đánh giá các câu hỏi liên quan đến
vấn đề SKTT; học sinh tự điền theo bộ câu hỏi có
sẵn về các đặc điểm cá nhân, môi trường gia
đình và môi trường trường học.
Công cụ thu thập số liệu
Sử dụng bộ câu hỏi tự điền SDQ cho học
sinh để tự đánh giá các câu hỏi liên quan đến
vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em.
Bảng hỏi SDQ25 (Strengths and Difficulties
Questionnaire 25 items) do Robert Goodman
thuộc Viện Tâm thần London xây dựng(6). Tại
Việt Nam bộ câu hỏi SDQ cũng được sử dụng
rộng rãi trong các nghiên cứu như nghiên cứu
“Khảo sát sức khỏe tâm thần học sinh trường
học Hà Nội” do Ngô Thanh Hồi bệnh viện Tâm
thần Ban ngày Mai Hương thực hiện(4) và nhiều
nghiên cứu khác.
Cách đánh giá cụ thể như sau:
Đánh giá kết quả theo thang điểm SDQ có 3
cách lựa chọn:
Không đúng = 0 điểm.
Đúng một phần = 1 điểm. Các câu đúng một
phần đều được cho 1 điểm, riêng câu 7, 11, 14,
21, 25 trên thang SDQ sẽ thay đổi: không đúng =
2 điểm, chắc chắn đúng = 0 điểm.
Chắc chắn đúng = 2 điểm.
Đánh giá sức khỏe tâm thần chung: tính tổng
điểm 20 câu, không tính điểm giao tiếp xã hội.
Tổng điểm được chia làm 3 mức đánh giá:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 595
Bình thường (không gặp khó khăn về SKTT):
0-11 điểm;
Nghi ngờ (nghi ngờ, chưa chắc chắn): 12-15 điểm;
Có vấn đề SKTT (có khó khăn về SKTT): 16-
40 điểm.
Các học sinh có vấn đề SKTT là học sinh có
điểm đánh giá từ 16 - 40 điểm.
Sử dụng bộ câu hỏi tự điền theo bộ câu hỏi
có sẵn về các đặc điểm cá nhân, môi trường gia
đình và môi trường trường học.
Phân tích và xử lý số liệu
Số liệu được nhập và làm sạch bằng phần
mềm Epi data 3.1 và được xử lý trên phần mềm
Stata phiên bản 10.0. Test Khi bình phương (χ2)
được sử dụng để tìm sự khác biệt giữa các
nhóm, giá trị p<0,05 được xem là có ý nghĩa
thống kê.
KẾT QUẢ
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu:
Phân bố học sinh theo giới khá đồng đều,
nam chiếm 48,7% và nữ chiếm 51,3%. Hơn một
nửa số học sinh đạt học lực khá giỏi trong học kỳ
trước (61,9%) và 38,1% đạt học lực kém/trung
bình. Hầu hết học sinh đạt hạnh kiểm khá tốt,
chiếm 95,4%, chỉ có 4,6% học sinh hạnh kiểm
kém/trung bình (Bảng 1).
Bảng 1: Đặc điểm học sinh THCS (từ lớp 6 đến lớp
9) năm học 2015 – 2016 (n= 6.639)
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ %
Giới
Nam 3.233 48,7
Nữ 3.406 51,3
Học lực
Khá/giỏi 4.109 61,9
Kém/trung bình 2.530 38,1
Hạnh kiểm
Khá/tốt 6.333 95,4
Kém/trung bình 306 4,6
Mối liên quan đơn biến giữa các yếu tố cá
nhân, môi trường gia đình và môi trường nhà
trường với vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tình
hình sức khỏe tâm thần chung theo giới, học lực,
hạnh kiểm, sử dụng máy vi tính, tình trạng học
thêm với p<0,001 (test χ2). Học sinh nam, học lực
kém/trung bình, hạnh kiểm kém/trung bình, có
sử dụng máy vi tính, có đi học thêm có tỉ lệ có
vấn đề về sức khỏe sức khỏe tâm thần chung cao
hơn so với nhóm học sinh nữ, học lực khá/giỏi,
hạnh kiểm khá/tốt, không sử dụng máy tính và
không đi học thêm (Bảng 2).
Bảng 2: Tình hình học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần theo đặc điểm cá nhân
Có vấn đề SKTT
Đặc điểm cá nhân
Số lượng Tỷ lệ % Tổng χ
2
(p)
Giới
Nam 563 17,4 3.233
60,10 (< 0,001)
Nữ 368 10,8 3.406
Học lực
Khá/giỏi 386 9,4 4.109
190,57 (< 0,001)
Kém/trung bình 544 21,5 2.530
Hạnh kiểm
Khá/tốt 804 12,7 6.333
89,86 (< 0,001
Kém/trung bình 97 31,9 306
Sử dụng máy vi tính
Có 474 16,7 2.841
32,47 (<0,001)
Không 448 11,8 3.798
Học thêm
Có 361 16,8 2.151
24,64 (< 0,001)
Không 552 12,3 4.488
Bảng 3: Tình hình học sinh có vấn đề SKTT theo môi trường gia đình
Có vấn đề SKTT
Môi trường gia đình
Số lượng Tỷ lệ % Tổng χ
2
(p)
Người lớn đánh nhau
Không 743 13,3 5.583
14,27 (< 0,001)
Có 187 17,7 1.056
Bị người thân trong gia đình
đánh
Không 801 13,4 5.981
17,21 (< 0,001)
Có 127 19,3 658
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 596
Gia đình yêu mến
Có 425 13,1 3.246
4,00 (0,045)
Không 502 14,8 3.393
Bảng 4: Tình trạng sức khỏe tâm thần chung của học sinh theo môi trường nhà trường
Vấn đề SKTT
Môi trường nhà trường
Số lượng Tỷ lệ % Tổng χ
2
(p)
Thích đi học
Có 801 13,5 5.935
12,17 (< 0,001)
Không 129 18,3 704
Bị bắt nạt
Không 665 13,0 5.112
17,89 (< 0,001)
Có 264 17,3 1.527
Bị thầy/cô phạt
Không 352 11,8 2.987
22,01 (< 0,001)
Có 577 15,8 3.652
Bị thầy/cô đánh
Không 391 11,0 3.558
58,00 (< 0,001)
Có 539 17,5 3.081
Học sinh chứng kiến người lớn đánh nhau,
bị người thân trong gia đình đánh và không
được gia đình yêu mến có tỉ lệ có vấn đề sức
khỏe tâm thần chung cao hơn so với học sinh
sống trong gia đình hòa thuận không đánh
nhau, không bị người thân đánh và được gia
đình yêu mến với p<0,05 (test χ2) (Bảng 3).
Học sinh không thích đi học, bị bắt nạt, bị
thầy cô phạt và bị thầy cô đánh có tỉ lệ có vấn đề
sức khỏe tâm thần chung cao hơn so với học sinh
thích đi học, không bị bắt nạt, không bị thầy cô
phạt và không bị thầy cô đánh với p<0,001 (test
χ2) (Bảng 4).
BÀN LUẬN
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên
6.639 học sinh THCS ở 5 tỉnh thuộc 4 vùng
miền. Tỉ lệ học sinh nam và nữ là tương đồng
(48,7% và 51,3%), kết quả này phù hợp với đặc
điểm đối tượng nghiên cứu của các nghiên cứu
trước đây như nghiên cứu Đào Thị Tuyết (nam
51,8%, nữ 48,2%)(1).
Tỉ lệ học sinh khá giỏi trong nghiên cứu
của chúng tôi là 61,9%, tỉ lệ này tương đồng
với tỉ lệ học sinh khá giỏi trong nghiên cứu của
Ngô Thanh Hồi - Bệnh viện Tâm thần Mai
Hương (65,2%)(4).
Mối liên quan đơn biến giữa các yếu tố cá
nhân, môi trường gia đình và môi trường nhà
trường với vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh
Yếu tố đặc điểm cá nhân và vấn đề sức khỏe
tâm thần ở học sinh THCS năm học 2015-2016
Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là giai
đoạn sau vị thành niên và trước khi bước sang
tuổi trưởng thành, vì vậy đây được cho là lứa
tuổi ngang bướng, rất khó để nắm bắt được tâm
lý của trẻ, những biến đổi sinh học cũng ảnh
hưởng đến tâm lý của các em. Tỉ lệ học sinh nam
có vấn đề SKTT là 17,4% và nữ là 10,8% (Bảng 2).
Kết quả nghiên cứu này tương đồng với nghiên
cứu về một số yếu tố ảnh hưởng đến SKTT của
học sinh ở một số trường THCS của Lê Thị Kim
Dung cho thấy vấn đề SKTT ở nam chiếm tỷ lệ
cao hơn nữ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,01)(3). Có thể học sinh nam và nữ ở lứa tuổi
này có thời kì dậy thì khác nhau nên việc phát
triển tâm lý cũng khác nhau(8). Điều này cho thấy
giới tính ở lứa tuổi học sinh THCS có liên quan
đến vấn đề sức khỏe tâm thần của các em.
Hiện nay, việc sử dụng máy vi tính đang rất
phổ biến do sự phát triển không ngừng của xã
hội. Theo kết quả nghiên cứu này (bảng 2) tỉ lệ
học sinh có vấn đề SKTT có sử dụng máy vi tính
có tỷ lệ có vấn đề STTT cao hơn nhóm không sử
dụng máy vi tính (16,7% và 11,8%). Kết quả có ý
nghĩa thống kê, việc sử dụng máy tính là con
dao hai lưỡi, các em có thể bị ảnh hưởng xấu,
những tệ nạn xã hội có thể tác động không nhỏ
đến SKTT các em và dẫn đến những suy nghĩ,
hành động lệch lạc. Việc trẻ em say mê các trò
chơi trực tuyến thâu đêm suốt sáng đến độ bỏ
ăn, quên ngủ và phải đi bệnh viện cấp cứu như
một số trường hợp là hành vi nghiện ngập, là sự
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 597
thiếu khả năng kiểm soát về hành vi, không làm
chủ được hành vi của mình.
Tỉ lệ học sinh khá giỏi có vấn đề SKTT chiếm
9,4% trong khi đó học sinh có học lực kém, trung
bình có vấn đề SKTT là 21,5%. Điều này cho thấy
học sinh có học lực kém, trung bình cũng ảnh
hưởng đến vấn đề SKTT của học sinh. Các em có
học lực kém, trung bình thì cảm thấy xấu hổ với
bạn bè, cô giáo và người thân. Các em mặc cảm,
tự ti với kết quả học tập của mình. Tuy nhiên,
các em có học lực khá giỏi cũng có vấn đề SKTT
điều này cho thấy áp lực học tập và những kì
vọng của bố mẹ khiến cho các em căng thẳng.
Tỉ lệ học sinh có vấn đề SKTT có trong
nhóm có hạnh kiểm kém/trung bình là cao hơn
nhóm học sinh có hạnh kiểm khá/tốt (31,9% và
12,7%). Điều này cho thấy hạnh kiểm chính là
thước đo về thái độ hành vi của các em trong
môi trường nhà trường, trong quan hệ bạn bè,
thầy cô giáo. Thời gian gần đây, tỷ lệ học sinh
ngỗ ngược, đánh nhau, đánh lại thầy cô giáo
càng ngày càng tăng. Vấn đề hạnh kiểm của
học sinh có liên quan đến vấn đề sức khỏe tâm
thần của học sinh.
Tỷ lệ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần ở
nhóm có đi học thêm cao hơn nhóm không đi
học thêm (16,8% và 12,3%), sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Có thể lý giải vì áp lực học tập
nặng nề làm cho trẻ em lúc nào cũng căng thẳng,
lo sợ, dẫn đến những rối loạn về cả thế xác lẫn
tâm trí. Vấn đề học thêm với chính thầy cô ở
trường, trẻ phải học ngày học đêm nên không có
thời gian nghỉ ngơi, giải trí, luyện tập thân thể.
Điều này dẫn đến những hành vi bất thường, tác
hại lâu dài đến tư duy sáng tạo học hỏi của trẻ.
Yếu tố môi trường gia đình và vấn đề sức khỏe
tâm thần ở học sinh THCS năm học 2015 -2016
Gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình
hạnh phúc, con cái trưởng thành, sẽ đóng góp
một phần cho sự phát triển một xã hội tốt đẹp,
một đất nước văn minh và giàu mạnh. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực như sự tốt
đẹp của mỗi gia đình, sự hạnh phúc của cha mẹ,
sự trưởng thành của con cái, thì vẫn có những
vấn đề mà mỗi chúng ta đều phải nhìn nhận một
cách xác đáng. Đặc biệt là trẻ sống trong gia đình
có những hoàn cảnh không may như gia đình ly
tán, cha mẹ thường xuyên xung đột, có người
uống rượu, thường xuyên dùng bạo lực, trẻ bị
bạo hành, bị đối xử bất công, bị xúc phạm, giáo
dục lệch lạc dễ bị ảnh hưởng đến hành vi, ứng
xử . Những gia đình có bố mẹ quá bận rộn với
công việc không có thời gian chăm sóc gần gũi
con cái sẽ khiến cho trẻ bị lôi cuốn bởi những tác
động xấu từ xã hội, từ phim ảnh, internet(3).
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ học sinh bị
bố mẹ đánh có vấn đề SKTT là 19,3% cao hơn
nhóm trẻ không bị mắng phạt (13,4%) hoặc học
sinh nhìn thấy người lớn trong gia đình đánh
nhau có tỷ lệ có vấn đề SKTT cao hơn nhóm còn
lại (17,7% và 13,3%), sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê. Gia đình hòa thuận, bố mẹ yêu thương
nhau, yêu thương con cái cũng là yếu tố giúp trẻ
có một môi trường sống hạnh phúc vui vẻ, tránh
được vấn đề SKTT. Theo Hoàng Cẩm Tú, cha
mẹ sống không hạnh phúc, bạo lực gia đình
cùng một số yếu tố khác chiếm đến 2/3 nguyên
nhân rối loạn hành vi, chống đối, trầm cảm, tự
sát, nghiện hút ở trẻ em(2). Trong nghiên cứu của
của chúng tôi tỷ lệ học sinh có vấn đề SKTT
trong nhóm bố mẹ, đánh nhau, cãi nhau cao hơn
nhóm không chứng kiến bố mẹ cãi nhau.
Yếu tố môi trường học tập và vấn đề sức khỏe
tâm thần ở học sinh THCS năm học 2015-2016
Một môi trường học đường tốt, ở đó học sinh
được tôn trọng, được giáo viên khuyến khích
động viên và chương trình học phù hợp sẽ giúp
thanh thiếu niên hạn chế tâm lý tiêu cực trong
cuộc sống. Kết quả Điều tra Quốc gia về Vị
thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ 2
của Nguyễn Thanh Hương năm 2010 cho thấy
yếu tố về môi trường trường học có ảnh hưởng
đáng kể đến tâm trạng buồn chán của học sinh.
Chương trình học quá tải (OR=1,25), đôi khi giáo
viên đánh và mắng học sinh (OR=1,33) là những
yếu tố nguy cơ cho SKTT học sinh(5).
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ
học sinh bị thầy cô phạt có vấn đề SKTT cao hơn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 598
nhóm học sinh không bị thầy cô phạt (15,8% và
11,8%). Tỉ lệ học sinh có vấn đề SKTT khi bị thầy
cô giáo đánh cao hơn tỷ lệ học sinh có vấn đề về
SKTT khi không bị thầy cô đánh. Tỉ lệ học sinh
bị bạn bè bắt nạt có vấn đề sức khỏe tâm thần
cao hơn so với học sinh không bị bắt nạt (17,3%
và 13,0%). Nhóm học sinh thích đi học có tỷ lệ về
vấn đề SKTT thấp hơn nhóm không thích đi học.
Điều này cho thấy yếu tố môi trường học tập,
cách ứng xử của thầy cô, quan hệ bạn bè có ảnh
hưởng đến SKTT học sinh.
KẾT LUẬN
Tình trạng vấn đề sức khỏe tâm thần bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố các nhân, môi trường gia
đình và môi trường nhà trường như giới tính,
học lực, hạnh kiểm, tình trạng sử dụng máy vi
tính, tình trạng đi học thêm; học sinh chứng kiến
người lớn đánh nhau, bị người thân trong gia
đình đánh và không được gia đình yêu mến; học
sinh không thích đi học, bị bắt nạt, bị thầy cô
phạt, đánh có tỉ lệ có vấn đề sức khỏe tâm thần
cao hơn so với các nhóm ngược lại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Thị Tuyết (2014). Thực trạng SKTT và các yếu tố liên quan
của học sinh trường Trung học cơ sở Tam Khương, Đống Đa,
Hà Nội năm 2014. Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, Đại học Y tế
công cộng.
2. Hoàng Cẩm Tú (2007). Bảo vệ chăm sóc sức khỏe tâm thần trẻ
em, giáo dục tâm lý sức khỏe tâm thần trẻ em Việt Nam. Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Lê Thị Kim Dung và cộng sự (2005). Nghiên cứu một số yếu tố
ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần học sinh một số trường
Trung học cơ sở. Bộ giáo dục và Đào tạo.
4. Ngô Thanh Hồi, Trần Thị Hồng Thu (2010). Khảo sát sức khỏe
tâm thần học sinh trường học thành phố Hà Nội. Tạp chí Y học
Thực hành, 8(730):44-48.
5. Nguyễn Thanh Hương (2010). Điều tra Quốc gia về Vị thành
niên và Thanh niên Việt Nam. Trường Đại học Y tế công cộng.
6. Robert Goodman (1997). Scoring the Self-Report Strengths and
Difficulties Questionnaire. Institute of Psychiatry London.
7. Tran Tuan, Trudy Harpham and Nguyen Thu Huong (2005).
Measuring social capital and mental health in Viet Nam: A
validity study Young Lives- An International Study on
Childhood Poverty, No. 12. Working Paper, London, UK.
8. Trường Đại học Y Hà Nội (2004). Sức khỏe lứa tuổi. Nhà xuất
bản Y học.
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 592_1891_2212144.pdf