Luận văn Vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang

Tài liệu Luận văn Vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang: LUẬN VĂN: Vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử của thông tin đã có từ xưa, song mãi đến tận những năm 40 của thế kỷ XX thông tin mới vươn lên để trở thành một mũi nhọn của thời đại. Đặc biệt sau khi nhà bác học Mỹ C.Sannon vào năm 1948 tìm ra lý thuyết thông tin, khái niệm "thông tin" và các phương pháp nghiên cứu có liên quan tới thông tin mới được sử dụng rộng rãi trong hầu khắp các lĩnh vực của tự nhiên và xã hội. Ngày nay, trong các nguồn lực phát triển xã hội, ngoài vật liệu và năng lượng, thông tin được coi là nguồn lực thứ ba và còn được coi là nguồn tài nguyên quan trọng nhất. Bởi vì thông tin là tri thức, là sức mạnh và là bí quyết góp phần định hướng đúng, giúp lãnh đạo quản lý ra các quyết định chính xác hơn. Mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều liên quan tới thông tin. Bất cứ một quyết định nào, thuộc lĩnh vực nào cũ...

pdf99 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử của thông tin đã có từ xưa, song mãi đến tận những năm 40 của thế kỷ XX thông tin mới vươn lên để trở thành một mũi nhọn của thời đại. Đặc biệt sau khi nhà bác học Mỹ C.Sannon vào năm 1948 tìm ra lý thuyết thông tin, khái niệm "thông tin" và các phương pháp nghiên cứu có liên quan tới thông tin mới được sử dụng rộng rãi trong hầu khắp các lĩnh vực của tự nhiên và xã hội. Ngày nay, trong các nguồn lực phát triển xã hội, ngoài vật liệu và năng lượng, thông tin được coi là nguồn lực thứ ba và còn được coi là nguồn tài nguyên quan trọng nhất. Bởi vì thông tin là tri thức, là sức mạnh và là bí quyết góp phần định hướng đúng, giúp lãnh đạo quản lý ra các quyết định chính xác hơn. Mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều liên quan tới thông tin. Bất cứ một quyết định nào, thuộc lĩnh vực nào cũng đều chứa đựng một quá trình xử lý thông tin. Thông tin đầy đủ, chính xác, tin cậy về một sự việc và đến đúng thời điểm sẽ giúp cho người lãnh đạo có được tầm bao quát, quyết định thêm chính xác, tạo điều kiện quản lý tốt. Như vậy, có thể nói, thông tin thực sự cần thiết cho mọi hoạt động quản lý trên các phương diện và phạm vi khác nhau. ở nước ta hiện nay trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với việc đẩy mạnh phát triển nền kinh tế tri thức, thì thông tin ngày càng trở thành nhu cầu hết sức quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với chiến lược "đi tắt, đón đầu" của Đảng và Nhà nước ta. Đây cũng là giải pháp cấp bách của một quốc gia ở trình độ phát triển tương đối thấp như nước ta nếu muốn nhanh chóng bắt kịp với trình độ phát triển chung của khu vực và thế giới. Thông tin nói chung và thông tin chính trị - xã hội nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động lãnh đạo quản lý trong xã hội. Thực tế cho thấy, năng lực và hiệu quả lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ ở mọi cấp phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp nhận, xử lý nhằm biến thông tin thu nhận được thành trí thức để áp dụng vào công việc của mình. Bởi vì, khi người cán bộ tiếp nhận nguồn thông tin càng phong phú và đa dạng, trình độ xử lý thông tin càng cao thì hiệu quả công việc của họ càng tốt. Do vậy, việc tiếp cận các nguồn thông tin chính trị - xã hội kịp thời và chính xác đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là yêu cầu mang tính tất yếu và cấp thiết. Qua thực tế cho thấy, thông tin chính trị - xã hội không chỉ cần thiết đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cấp vĩ mô, mà nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn). Là cấp hành chính thấp nhất trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước, là chủ thể tổ chức hoạt động nhằm đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Do vậy, việc tiếp nhận các nguồn thông tin chính trị - xã hội chính xác và kịp thời sẽ giúp cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở triển khai và thực hiện các chủ trương, chính sách một cách kịp thời, hiệu quả. Song, trên thực tế, đây đang là một thách thức không nhỏ đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở. Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, việc tiếp cận và xử lý các nguồn thông tin chính trị - xã hội của đội ngũ cán bộ cơ sở ở nước ta hiện nay nhìn chung còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực thi lãnh đạo, quản lý hiện đại. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát huy được vai trò của thông tin chính trị xã hội trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay đang là vấn đề bức xúc. Từ nhận thức này, tác giả lựa chọn vấn đề "Vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang" làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thông tin là một hiện tượng khách quan đã và đang có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi người đều có cách tiếp cận nghiên cứu, khai thác, xử lý thông tin dưới nhiều góc độ... Nghiên cứu vấn đề này, tác giả luận văn đã có điều kiện tiếp cận với một số công trình nghiên cứu sau: - Tác phẩm Thông tin xã hội và quản lý của tác giả V.G.Afanaxep trong tác phẩm này đã đa ra những cách hiểu khác nhau về thông tin, nguồn gốc, đặc điểm và vai trò của thông tin trong quản lý xã hội. - Công trình nghiên cứu khoa học của tác giả Lê Thị Duy Hoa, Thông tin và vấn đề tiếp nhận xử lý thông tin của tư duy người Việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001. Tác giả đã tập trung phân tích làm rõ bản chất của thông tin dưới góc độ triết học, vấn đề tiếp nhận và xử lý thông tin trong tư duy người Việt. - Công trình nghiên cứu của tác giả Phan Thị Thanh Hải, Thông tin với hoạt động giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường đại học, Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2003. Tác giả đã phân tích rõ bản chất thông tin, phân loại thông tin và phát huy vai trò của thông tin trong hoạt động giảng dạy lý luận Mác-Lênin. - Công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Huệ, Thông tin với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2007. Tác giả đã nêu lên vai trò của thông tin đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và đề ra giải pháp phát huy vai trò của thông tin đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý. - Công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Vệ, Phát huy vai trò thông tin chính trị - xã hội trong hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên cấp cơ sở tỉnh Cà Mau hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2008. Tác giả đã phân tích sâu vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên cấp cơ sở ở Cà Mau, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy có hiệu quả vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động tuyên truyền của đội ngũ báo cáo viên cơ sở Cà Mau hiện nay. - Tác giả Mai Đức Ngọc, Nâng cao năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng, lý luận, 2006 đã nêu những vấn đề đặt ra đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay và một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay. - Tác phẩm Thông tin từ lý luận đến thực tiễn của tác giả Nguyễn Hữu Hùng đã trình bày bản chất của thông tin và sự vận động của quá trình thông tin trong các hệ thống xã hội, qua đó tác giả trình bày một số giải pháp để phát triển và quản lý hệ thống khoa học công nghệ. Do tầm quan trọng của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo quản lý nên đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu của nhiều tác giả ở những góc độ khác nhau. Nhưng tuy nhiên cho đến nay, vấn đề vai trò của thông tin chính trị xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang thì chưa ai bàn đến. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Trên cơ sở làm rõ vai trò và thực trạng của việc phát huy vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy có hiệu quả vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động của đội ngũ cán bộ này. - Nhiệm vụ: + Tìm hiểu khái niệm và đặc điểm của thông tin chính trị - xã hội, vai trò của nó đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. + Phân tích thực trạng môi trường thông tin chính trị - xã hội và vấn đề phát huy vai trò của nó trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang. + Trình bày một số giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả vai trò của thông tin chính trị - xã hội trong hoạt động lãnh đạo quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Dựa vào lý luận phản ánh, thông tin chính trị - xã hội được xem xét với tư cách là thuộc tính khách quan của vật chất, là cái đa dạng được phản ánh, được thể hiện rõ hơn, sinh động hơn theo tiến trình phát triển của thông tin trong thế giới khách quan sẽ tác động đến hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Do vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn chỉ tìm hiểu thực trạng môi trường thông tin chính trị - xã hội và vai trò của nó đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: + Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là lý luận nhận thức duy vật biện chứng. + Luận văn sử dụng những tài liệu, nghị quyết, chỉ thị, quyết định... của Trung ư- ơng, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương tỉnh Bắc Giang. + Luận văn vận dụng và kế thừa có sáng tạo các công trình của các tác giả đi trước về vấn đề có liên quan. - Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với những phương pháp khoa học cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê điều tra xã hội học... nhằm đạt tới mục đích mà luận văn đề ra. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn Luận văn góp phần hệ thống hóa khái niệm thông tin chính trị - xã hội và chỉ rõ vai trò của nó đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Luận văn chỉ rõ đặc trưng của hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, sự tác động của thông tin chính trị- xã hội đối với lĩnh vực hoạt động này, từ đó đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang hiện nay. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn có thể góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho các cấp lãnh đạo tham khảo và vận dụng trong việc xây dựng môi trường thông tin chính trị - xã hội và cung cấp thông tin chính trị - xã hội cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. - Luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho các cơ quan thông tin, các cán bộ cấp cơ sở trong việc nâng cao vai trò lãnh đạo, quản lý của mình. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn đ- ược kết cấu thành 2 chương, 4 tiết. Chương 1 thông tin chính trị- xã hội và vai trò của nó trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở 1.1 Thông tin chính trị- xã hội- bản chất và đặc trưng 1.1.1 Bản chất thông tin chính trị- xã hội Gần một thế kỷ trước đây, V.I Lênin đã khẳng định rằng không có thông tin thì không thể có tiến bộ trong bất kỳ lĩnh vực nào của khoa học, kỹ thuật và sản xuất vật chất. Với sự phát triển của cách mạng khoa học- kỹ thuật, con người ngày càng nhận thức thêm sâu sắc giá trị của thông tin đối với việc phát triển kinh tế, xã hội, khoa học- kỹ thuật. Ngày nay khó có thể hình dung được một hoạt động nào của con người trong sản xuất, nghiên cứu khoa học- kỹ thuật, chiến đấu cũng như trong sinh hoạt hàng ngày mà không cần đến việc trao đổi thông tin. Ngay từ những thập niên cuối thế kỷ XX, thông tin đã trở thành khái niệm trung tâm của khoa học và thông tin trở thành đối tượng nghiên cứu trực tiếp của một số ngành khoa học cụ thể như: điều khiển học, lý thuyết thông tin và tin học…ở mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi ngành khoa học đưa ra những quan niệm về thông tin khác nhau. Trong điều khiển học thông tin được biểu hiện ở tính có tổ chức, có trật tự, có cấu trúc lôgic của quá trình trong hệ thống vật chất. Trong sự tương tác của một đối tượng này với một đối tượng khác có mục đích rõ rệt. Thông tin được truyền đi thông qua các tín hiệu đã được mã hoá. Như vậy, trong điều khiển học chỉ những tín hiệu, dữ liệu nào đã được mã hóa trong các hệ thống tính toán điện tử và có ý nghĩa thực tiễn mới được coi là thông tin. Trong lĩnh vực tin học, thông tin được xem là tất cả những gì có thể giúp con người hiểu được về đối tượng cần quan tâm nghiên cứu. Trong quản lý kinh tế, thông tin được xem là một tập hợp tin tức về đối tượng, hiện tượng và một quá trình nào đó trong hoạt động kinh tế có ý nghĩa đối với việc ra quyết định quản lý. ở mỗi góc độ tiếp cận thông tin khác nhau, các ngành khoa học đã dần làm sáng rõ bản chất của hiện tượng thông tin. Thực chất thông tin là gì? Trong nghiên cứu, các nhà khoa học đã không ngừng tìm hiểu và đưa ra các định nghĩa khác nhau về thông tin. Theo quan điểm của các nhà thông tin học Liên Xô cũ thì “Thông tin là các tin tức, số liệu, khái niệm mà về mặt nội dung liên quan với nhau giúp thay đổi những quan niệm của chúng ta về hiện tượng và khách thể của thế giới xung quanh”[30, tr.107]. Theo quan điểm của V.G.Afanaxep: “Thông tin chính là một bộ phận tri thức được sử dụng để định hướng, để tác động tích cực, để điều khiển, nghĩa là nhằm mục đích duy trì tính đặc thù về chất, hoàn thiện và phát triển hệ thống. Đó là những tri thức quay vòng vận động không ngừng, những kiến thức được hệ thống thu thập, bảo quản, xử lý truyền đi và sử dụng(hoặc có thể sử dụng). Nói một cách khác thông tin là bộ phận tác động “hoạt động” của phản ánh, của tri thức”[1, tr.36]. Theo quan điểm của N. Vinner: “Thông tin là nội dung thế giới bên ngoài được thể hiện trong sự nhận thức của con người”[12, tr.8]. Cũng như các ngành khoa học khác, triết học đã không ngừng tiếp cận tới bản chất chung của thông tin. Mặc dù có nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu, nhiều cách định nghĩa khác nhau được đưa ra, song định nghĩa của A.D.Urơxun được xem là một định nghĩa khá xác đáng về thông tin. Theo ông: “thông tin là cái đa dạng được phản ánh”[31, tr.25] Khi nói về tính đa dạng của thông tin, tác giả Lê Thị Duy Hoa cũng cho rằng, thông tin mang tính khách quan, bắt nguồn từ tính đa dạng, nhiều vẻ của cấu trúc cũng như về mối quan hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Cái đa dạng của sự vật chỉ trở thành thông tin khi nó được tái hiện, được phản ánh ở một sự vật khác nào đó trong mối quan hệ tác động với sự vật ban đầu. Tiếp cận nghiên cứu thông tin với tư cách là cái đa dạng được phản ánh, có thể được coi là cách tiếp cận đầy đủ và chính xác hơn cả dưới lát cắt triết học. Từ cách tiếp cận trên cho ta thấy chính từ thuộc tính phản ánh của vật chất đã lý giải được sự hình thành của thông tin. Lý thuyết phản ánh nói lên rằng: phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Khi hai sự vật tương tác với nhau thì sẽ xuất hiện phản ánh, cái được phản ánh sẽ quy định nội dung phản ánh song mức độ phản ánh chính xác, đầy đủ hay không lại phụ thuộc vào vật phản ánh. Như vậy, phản ánh là thuộc tính của mọi đối tượng vật chất bất kể sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất cũng đều có năng lực tái hiện lại những đặc điểm, cấu trúc của sự vật, hiện tượng khác khi tác động vào chúng. Khi những dấu hiệu của sự vật được phản ánh lưu giữ những đặc điểm, cấu trúc, thuộc tính trong sự vật phản ánh thì chúng ta gọi là thông tin về cái được phản ánh đối với cái phản ánh. Sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất phong phú đa dạng, trong đó mỗi sự vật, hiện tượng đều có những đặc điểm, thuộc tính khác nhau. Điều này làm cho sự phản ánh giữa các sự vật hay nói cách khác sự tái hiện các đặc điểm, thuộc tính của chúng cũng rất đa dạng, phong phú. Từ đó, chúng ta thấy rằng thông tin trong thế giới vật chất vô cùng phong phú, tồn tại dưới nhiều hình thức, song chúng đều là cái đa dạng được truyền tải, được tái tạo giữa sự vật này với sự vật khác thông qua sự tương tác qua lại giữa chúng. Từ cách phân tích trên, có thể đi đến nhận định, thông tin là cái đa dạng được phản ánh khi những đặc điểm, thuộc tính, cấu trúc của sự vật được phản ánh được tái hiện, phản ánh ở sự vật phản ánh trong quá trình tác động giữa chúng. Với cách tiếp cận, phân tích và hệ thống hoá các quan niệm về thông tin như đã nêu, chúng tôi quan niệm rằng: Thông tin chính là sự phản ánh cái đa dạng giữa hệ thống vật chất này với hệ thống vật chất khác khi giữa chúng diễn ra quá trình tương tác lẫn nhau. Dựa trên lý luận phản ánh, các nhà kinh điển Mác- Lênin đã chỉ ra rằng, giữa thông tin và thuộc tính phản ánh của thế giới vật chất có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó thông tin là một hiện tượng phổ biến của thế giới khách quan. Giữa thông tin và phản ánh có mối quan hệ mật thiết. Vì phản ánh là thuộc tính phổ biến của thế giới vật chất nên trong phản ánh vật chất đã bao hàm phản ánh thông tin. Thuộc tính phản ánh là thuộc tính vốn có sẵn trong mọi vật chất và cấp độ của sự phản ánh phụ thuộc vào kết cấu của vật chất khác nhau. Hay nói cách khác, trình độ phát triển của tổ chức vật chất quy định trình độ phản ánh. Do mọi hệ thống vật chất đều có năng lực tái hiện trong nó những thuộc tính, đặc điểm, cấu trúc, mối quan hệ…của hệ thống vật chất khác khi tác động vào nó, đó là sự phản ánh. Tuy nhiên, trong quá trình phản ánh do kết cấu của vật chất khác nhau nên đặc điểm, bản chất, biểu hiện phản ánh của các sự vật không giống nhau. Vì vậy, chúng ta cần phải phân biệt được đâu là những hiện tượng phản ánh đầy đủ bản chất hay những hiện tượng xuyên tạc bản chất. Cái phản ánh bao giờ cũng chứa đựng những đặc điểm, tính chất, mối quan hệ…của cái được phản ánh không có cái được phản ánh thì cũng không có cái phản ánh. Những đặc điểm, tính chất, mối quan hệ…của cái được phản ánh được lưu giữ trong cái phản ánh được gọi là thông tin về cái được phản ánh. Song thật là sai lầm nếu chúng ta hiểu mọi sự phản ánh sẽ dẫn đến việc coi thông tin như một phạm trù phổ biến, cùng thang bậc với phạm trù phản ánh. Thông tin là kết quả của phản ánh, do sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể phản ánh. Trong quá trình tương tác giữa chủ thể phản ánh và khách thể phản ánh, thì khách thể phản ánh bộc lộ những tín hiệu có giá trị thông tin để từ đó chủ thể phản ánh tiếp nhận, tái tạo và xử lý. Sự phản ánh này phải là sự phản ánh có “chọn lọc”. Thông tin luôn gắn với quá trình phản ánh, là một mặt của phản ánh. Song khái niệm thông tin hẹp hơn và bị bao trùm bởi khái niệm phản ánh, vì thuộc tính phản ánh được miêu tả về mặt số lượng chính xác bởi lượng thông tin mà nó phản ánh và thông tin còn làm rõ cơ cấu, trình độ, của thuộc tính phản ánh của vật chất. Như vậy, thông tin chính là sự phản ánh cái đa dạng của sự vật. Tính đa dạng của kết cấu vật chất được phản ánh đó chính là thông tin. Tác giả V.G.Afanaxep, trong cuốn Thông tin xã hội và quản lý xã hội chỉ ra rằng: “Thông tin trong trường hợp chung nhất- đó là tính đa dạng mà đối tượng này chứa đựng đối tượng khác. Đó là tính đa dạng tương hỗ, tương đối, theo quan điểm lý luận phản ánh, thông tin có thể được quan niệm như tính đa dạng được phản ánh. Như tính đa dạng phản ánh đối tượng chứa đựng cái được phản ánh”[1, tr.26]. Sự tác động qua lại giữa các kết cấu vật chất của sự vật, giữa các sự vật với nhau làm cho chúng bộc lộ những đặc điểm, tính chất, cấu trúc…về nhau và thông tin được hình thành từ đây. Thông tin bắt nguồn từ tính đa dạng của sự vật, song không phải tất cả mọi “cái đa dạng” của sự vật đều trở thành thông tin. “Cái đa dạng” của sự vật chỉ trở thành thông tin khi nó được tái hiện, được phản ánh ở sự vật khác trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng. Nếu không có sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng với nhau thì không có thông tin về chúng. Chính quá trình tác động qua lại giữa các sự vật với nhau đó làm cho chúng ảnh hưởng và bị quy định bởi nhau và tác động lẫn nhau dẫn đến sự vận động biến đổi của sự vật. Sự vận động biến đổi đó mang cả dấu ấn của những đặc điểm, tính chất, mối quan hệ của vật tác động. Do vậy, “Thông tin chỉ bắt nguồn từ tính đa dạng của sự vật và nó được hình thành thông qua sự tác động giữa sự vật đó với sự vật khác. Nhưng cái đa dạng chỉ trở thành thông tin khi nó được tái hiện, được phản ánh ở một sự vật khác nào đó trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng”[10, tr.22]. Nắm được điều này giúp chúng ta hiểu được rằng, chỉ những tính đa dạng của sự vật được phản ánh thì mới gọi là thông tin, tránh cách hiểu đơn giản rằng, mọi tính đa dạng của một hệ thống phát tín hiệu cũng như tính đa dạng của hệ thống tín hiệu quyết định chất lượng thông tin cũng như giá trị thông tin. Sự phát triển của thông tin tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của phản ánh vật chất. Theo lôgíc phân tích trên, cả phản ánh và thông tin đều có chung nguồn gốc xuất phát là sự vận động của thế giới vật chất và đều tồn tại khách quan. Song thông tin và phản ánh không đồng nhất với nhau mà chúng tồn tại trong sự thống nhất biện chứng. Khi nói tới phản ánh là nói tới sự tái tạo lại toàn bộ nội dung thuộc tính của đối tượng phản ánh, nói tới thông tin là chỉ một mặt hay một số mặt của thuộc tính quan hệ với chủ thể phản ánh. Quá trình phản ánh thông tin là quá trình chọn lọc những tín hiệu phù hợp với mục đích của nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn. Chúng ta không thể nhận thức được bản chất của thông tin nếu chúng ta tách rời thông tin khỏi phản ánh. Vì thông tin được lý giải trên cơ sở phản ánh và không nằm ngoài phản ánh. Tuy nhiên, không thể có thông tin nói chung mà chỉ có những thông tin về một sự vật cụ thể khi tác động tới một sự vật cụ thể khác thông qua quá trình phản ánh của sự vật đó. Từ sự phân tích ở trên cho thấy, thông tin là một mặt của phản ánh đó là mặt phản ánh cái đa dạng. Vì vậy, có thể nói khái niệm thông tin đã làm sâu sắc thêm phạm trù “phản ánh” trong triết học mác xít. Khái niệm “thông tin là cái đa dạng được phản ánh” đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học cụ thể, đặc biệt là lý thuyết thông tin, điều khiển học, tin học…phát triển, đồng thời nó cũng là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận để tư duy chúng ta tiếp nhận, xử lý, làm chủ được thông tin trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Dựa trên cơ sở xem xét trình độ phản ánh, cấu trúc của thông tin người ta có thể phân thông tin thành ba loại: Thông tin trong thế giới vô sinh, thông tin trong thế giới hữu cơ và thông tin trong xã hội con người. Thông tin trong thế giới vô sinh là quá trình thông tin thụ động, sơ đẳng chưa đầy đủ, là sự “tự điều chỉnh” sự tồn tại của mình cho thích hợp với môi trường xung quanh của sự vật, hiện tượng khi bị tác động. Thông tin trong thế giới hữu sinh là loại thông tin có tính điều khiển, có chọn lọc đối với những tác động từ môi trường xung quanh, có ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống của chúng. Thông tin trong xã hội con người là dạng thông tin cao nhất, phức tạp nhất, có tính mục đích, có sự tham gia của phản ánh có ý thức của con người. Thông tin xã hội là lực lượng thông tin tuần hoàn trong xã hội được sử dụng vào mục đích quản lý xã hội. Hiểu một cách cụ thể hơn, nó chính là thông tin giữa con người với con người và được sử dụng một cách có ý thức vào mục đích xây dựng và phát triển các mối quan hệ xã hội, các lĩnh vực hoạt động phong phú của con người [22, tr.7]. “Thông tin xã hội là kết quả của sự phản ánh dưới dạng những tri thức, những thông báo, những tin tức về hình thái xã hội của sự vận động của vật chất về tất cả những hình thức khác của nó ở mức độ được xã hội sử dụng, được đưa vào quỹ đạo của đời sống xã hội ”[1, tr.41]. Thông tin xã hội và các quá trình thông tin trong xã hội không vận hành độc lập tự nó mà sự ra đời và phát triển của nó bị quy định bởi hệ thống các quan hệ xã hội, mà trước hết là sự phát triển của sản xuất. Đồng thời thông tin lại có tác động trở lại chính quá trình sản xuất, tới các quan hệ sản xuất. Thông tin trở thành tiêu chí và thước đo sự phát triển của sản xuất, của khoa học- kỹ thuật, văn hoá và tiến bộ xã hội. Thông tin xã hội là loại thông tin vô cùng đa dạng, phong phú cả về nội dung, phương thức truyền đạt…Thông tin xã hội có đầy đủ ba mặt hợp thành: cú pháp, ngữ nghĩa, và thực dụng. Đồng thời, trình độ các mặt hợp thành kết cấu thông tin xã hội có bước phát triển về chất so với thông tin trong thế giới vô sinh. Thông tin xã hội được chuyển tải từ rất nhiều hình thức khác nhau, thông qua hệ thống tín hiệu đặc biệt chỉ có ở con người: đó là ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ, sau này là chữ viết và các phương tiện truyền thông hiện đại, quá trình thông tin đã vượt qua hàng rào không gian và thời gian. Thông tin vừa được truyền theo chiều dọc- từ thế hệ này sang thế hệ khác, vừa được truyền theo chiều ngang- từ người này hay nhóm người này sang người khác hay nhóm người khác. Bên cạnh việc lưu giữ thông tin bằng trí nhớ, thông tin xã hội còn được lưu giữ bằng những phương tiện vật chất kỹ thuật vô cùng phong phú và hiệu quả do con người sáng tạo ra…Có thể nói, những thành quả của cuộc cách mạng KHCN đã tác động đến nhiều lĩnh vực của con người, từ giao tiếp, học tập, làm việc đến sản xuất kinh doanh…Trong giao tiếp, sự phát triển của các phương tiện truyền thông đã khiến cho thế giới như bị thu nhỏ lại xóa nhoà đi khoảng cách về không gian và thời gian. Cũng nhờ sự ứng dụng các thành quả của KHCN, giờ đây người ta có thể đi học thông qua các chương trình đào tạo trực tuyến từ xa qua mạng internet mà không cần phải đến trường. Trong sản xuất, kinh doanh mô hình sản xuất tập trung, quy mô kết khối đang có xu hướng phân rã để rút ngắn thời gian, khoảng cách cũng như khuyến khích khả năng ưu thế của từng địa phương, từng thành phần, từng cá thể nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ tổng thể của cả hệ thống. Kinh doanh điện tử và thương mại điện tử đang là hình thức hoạt động ngày một phổ biến ở các quốc gia trên thế giới. Khoảng cách giữa người sản xuất và người tiêu dùng được rút ngắn, khâu lưu thông phân phối trở thành một hiện tượng hết sức tự nhiên… Thông tin xã hội giúp con người không chỉ thích nghi với môi trường sống mà còn tác động và cải tạo môi trường một cách chủ động, sáng tạo. Quá trình đó đồng thời giúp cho con người hoàn thiện hiểu biêt của mình, làm giàu thêm tri thức bằng cách sáng tạo ra một lượng thông tin lớn cho xã hội nhờ chính quá trình cải tạo thế giới đó. Khác với các dạng thông tin khác, thông tin xã hội không đơn thuần là tri thức được ghi nhớ trong ý thức mà quan trọng hơn, chính những tri thức ấy đưa đến những thay đổi trong ý thức, đưa đến hoàn thiện tri thức, xúc cảm, lý tưởng, chi phối hành động của con người. Thông qua hoạt động thực tiễn, thông tin xã hội có khả năng cải tạo xã hội đồng thời cải tạo chính bản thân con người. Thông tin xã hội là cơ sở quản lý và cải tạo xã hội. Đây là dạng thông tin cao nhất, phức tạp nhất, nắm bắt và xử lý thông tin xã hội có hiệu quả sẽ là tiền đề quan trọng để phát triển xã hội và ngược lại. Vì vậy, thông tin xã hội được rất nhiều ngành khoa học khác nhau nghiên cứu. Dù tiếp cận nghiên cứu ở góc độ nào, khi bàn đến thông tin xã hội người ta đặc biệt chú ý đến chủ thể và khách thể của thông tin xã hội. Cùng một đối tượng phản ánh, mỗi chủ thể có cách thu nhận, xử lý và sử dụng theo những quan điểm và mục đích khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Chủ thể thông tin luôn bị chi phối bởi các nhân tố: - Năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin. - Tính khách quan, chính xác của thông tin. - ý thức, thái độ của đối tượng nhận tin (Quan điểm thế giới quan, nhân sinh quan, hệ tư tưởng của người nhận tin)… Vì vậy, cùng một nội dung thông tin phát ra, mỗi đối tượng nhận tin có một hiệu ứng khác nhau khi tiếp nhận thông tin. Đây chính là cơ sở tạo nên sự đan xen, phong phú đa dạng trong các hoạt động thông tin xã hội. Giá trị của thông tin xã hội được xác định bởi người tiếp nhận và sử dụng nó. Giá trị của thông tin chỉ được xác định khi “nó tạo ra khả năng đạt mục đích đặt ra. Cùng một thông tin có thể có giá trị khác nhau như xem xét nó trên giác độ sử dụng cho những mục đích khác nhau”[1, tr.18]. Giá trị của thông tin xã hội chỉ có ý nghĩa khi có sự hiện diện của chủ thể sử dụng thông tin, của bản thân thông tin cũng như mục đích mà chủ thể đặt ra cho mình. Mục đích, lợi ích, nhu cầu của chủ thể sử dụng thông tin chính là dấu ấn chủ quan mà thông tin xã hội mang trên mình. Tuy nhiên, điều đó không có ý nghĩa là thông tin không có giá trị riêng của nó. Một thông tin đáng tin cậy, có giá trị phải bao hàm trong nó tính chân thực, khách quan, mang trong nó hạt nhân chân lý khách quan và vì vậy nó có giá trị theo nghĩa tạo khả năng đạt tới mục đích (trước mắt và lâu dài) đặt ra trước xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Giá trị của thông tin không mất đi trong quá trình chuyển giao thông tin. Nếu người này chuyển thông tin cho người kia thì người giao và người nhận thông tin vẫn còn giá trị của thông tin đó. Song giá trị của một thông tin xã hội không giống nhau trong từng thời điểm sử dụng đối với một chủ thể. Nếu thông tin được sử dụng với một mục đích nào đó và mục đích đã đạt được rồi thì đối với chủ thể, thông tin đã mất đi giá trị trực tiếp, mặc dù bản thân giá trị với tư cách là chất lượng của thông tin này vẫn còn. Thời hạn sử dụng của thông tin không phải là vô tận, nó bị lỗi thời do sự xuất hiện những thông tin mới. Như vậy, giá trị của thông tin xã hội thể hiện ra như là một đặc trưng nhiều mặt của nó. Thông tin có thể là có giá trị xét theo chủ thể sử dụng, theo nội dung bên trong của bản thân thông tin, theo mục đích đạt tới bằng thông tin. Trên góc độ chính trị, thông tin phản ánh các quan hệ chính trị. ở đây, chủ thể thông tin được xem xét là một chủ thể chính trị trực tiếp. Mỗi giai cấp, mỗi dân tộc, mỗi tổ chức chính trị khác nhau phản ánh các hiện tượng xã hội theo những góc độ riêng, lợi ích cơ bản riêng và truyền thống riêng của mình. Thông tin chính trị- xã hội là một bộ phận quan trọng đặc biệt của thông tin xã hội. “Thông tin chính trị- xã hội là những thông tin về đời sống xã hội mang dấu ấn những quan điểm chính trị tư tưởng, quan điểm đường lối của một chủ thể xã hội nhất định ”[11, tr.62]. “Thông tin chính trị- xã hội là những thông tin phản ánh mặt chính trị của các thông tin xã hội ”[11, tr.8]. Như vậy, thông tin chính trị- xã hội phản ánh mặt chính trị của toàn bộ đời sống xã hội của con người. Khi xem xét mặt chính trị của một hiện tượng xã hội, thông tin chính trị- xã hội không tách rời mà dựa vào các thông tin khác, khai thác mặt chính trị của các thông tin này. Hay nói cách khác thông tin chính trị- xã hội là những thông tin về hoạt động chính trị- xã hội của con người, mang ý nghĩa chính trị- xã hội nhất định. Có thể nói rằng, thông tin chính trị- xã hội là những thông tin về những quan hệ chính trị- xã hội phong phú trong các hình thái kinh tế- xã hội khác nhau, những mối quan hệ có tính quy luật đặc thù trên từng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Tiếp nhận những thông tin đó các chủ thể xã hội có căn cứ định hướng trong hoạt động xã hội và hành vi cụ thể trong sinh hoạt hàng ngày thích hợp với truyền thống dân tộc, đặc điểm đất nước và thời đại. Đồng thời những thông tin này giúp chủ thể tự điều chỉnh bước đi, biện pháp và mục tiêu hoạt động cho phù hợp với nhận thức mới về phát triển khách quan của xã hội hoặc sự biến đổi thực tế của quốc gia, dân tộc trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Thông tin chính trị- xã hội phục vụ trực tiếp cho hoạt động chính trị, công tác chính trị, tư tưởng ; là công cụ và phương tiện không thể thiếu được của hoạt động chính trị- xã hội. Trên cơ sở thông tin chính trị- xã hội, chủ thể quản lý có thể đề ra chủ trương, chính sách, mục tiêu, biện pháp của các lĩnh vực hoạt động chính trị- xã hội hợp lý. Đối với các Đảng cầm quyền, thông tin chính trị- xã hội bao giờ cũng tạo thêm nguồn lực lý luận và hiểu biết khoa học để tổ chức và quản lý xã hội vì lợi ích của mình. Do đó, thông tin chính trị- xã hội cũng thể hiện những mục đích, những phương pháp, phương tiện cơ bản trong quản lý xã hội của cơ quan nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Thông tin chính trị- xã hội liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề quyền lực. Nó có thể góp phần bảo vệ, củng cố, phát triển hoặc nhằm thay đổi một chế độ xã hội. Bất cứ một cơ quan thông tin nào dù mang hình thức gì đều phục vụ cho một lý tưởng, một tôn chỉ mục đích có nội dung chính trị. Thông tin chính trị- xã hội không chỉ đơn thuần là thông tin được truyền bá vào tư tưởng xã hội mà còn là thông tin làm thay đổi quan điểm, tư tưởng của đối tượng chịu tác động. Thông tin chính trị- xã hội ngày càng có vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng và lý luận. Thông tin chính trị- xã hội được xem là vũ khí tinh thần của các đảng phái chính trị và các nhà nước trong cuộc đấu tranh xã hội vì mục tiêu chính trị nhất định. Thông tin chính trị- xã hội có khả năng thâm nhập vào lực lượng quần chúng và trở thành sức mạnh trong quần chúng, giác ngộ quần chúng nhân dân, nâng cao nhận thức, tri thức khoa học…làm tăng thêm niềm tin về lý tưởng mà chủ thể của thông tin chính trị- xã hội đề ra. Thông qua đó, chủ thể thông tin chính trị- xã hội có thể thực hiện được mục đích của mình: truyền bá cương lĩnh, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng cầm quyền vào nhân dân nhằm tập hợp, giáo dục và tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện mục đích đề ra. Một khi thông tin chính trị- xã hội của Đảng cầm quyền được thâm nhập vào quần chúng nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh vật chất to lớn. Thông tin chính trị- xã hội phản ánh toàn diện các quan hệ xã hội trong một quốc gia cũng như quan hệ giữa các quốc gia theo quan điểm chính trị của một giai cấp nhất định. Thông tin chính trị- xã hội có bình diện phản ánh rất rộng rãi, bao trùm toàn bộ các quan hệ trong một quốc gia cũng như giữa các quốc gia. Thông tin chính trị- xã hội được biểu hiện trên nhiều phương diện của đời sống xã hội với các hình thức hoạt động phong phú: - Thông tin chính trị- xã hội phản ánh những hoạt động phong phú, đa dạng của các giai cấp, các tầng lớp khác nhau về mục tiêu phát triển của con người, của giai cấp và các dân tộc. Thông tin chính trị là người truyền bá chính sách của Đảng và Nhà nước, là công cụ để xây dựng dư luận xã hội, tổ chức quần chúng thực hiện những quyết định ấy, kiểm tra chất lượng công tác của các cơ quan quản lý và của những người lãnh đạo, phát hiện và khắc phục những thiếu sót [1, tr.370]. - Thông tin chính trị- xã hội phản ánh hoạt động đối nội, đối ngoại của các quốc gia nhằm bảo vệ hoà bình, ổn định, tiến bộ của mỗi nước và trên phạm vi toàn thế giới. - Thông tin chính trị- xã hội phản ánh quan hệ giữa các nước, các tổ chức khu vực, quốc tế và sự tác động lẫn nhau giữa các nước v.v… Trong xã hội có giai cấp, thông tin chính trị- xã hội bao giờ cũng mang nội dung tư tưởng, quan điểm của giai cấp thống trị phản ánh lợi ích và mục đích của giai cấp thống trị trong xã hội. Tuy nhiên, thông tin chính trị- xã hội vẫn mang tính khách quan của nó. Tính khách quan của thông tin chính trị- xã hội thể hiện ở chỗ, nó bắt nguồn từ cuộc sống, phản ánh cuộc sống, gắn với cuộc sống của xã hội loài người. Nói khác đi, cơ sở, nguồn gốc, nội dung của thông tin chính tri- xã hội là khách quan, còn hình thức thể hiện của nó là chủ quan. Đồng thời thông tin chính trị- xã hội còn mang tính khái quát hoá, trừu tượng hoá, tính thời sự, tính định hướng, tính dự báo, tính khoa học. Trong một xã hội cụ thể bao giờ cũng có các quan hệ xã hội vận động, phát triển theo những khuynh hướng khác nhau, do đó, thông tin chính trị- xã hội cũng phong phú, đa dạng. Trên cơ sở định hướng chính trị chung, đòi hỏi thông tin chính trị- xã hội phải khái quát hoá, trừu tượng hoá và bao quát đầy đủ nhiều thông tin ở các lĩnh vực khác nhau và gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Thông tin chính trị- xã hội giúp chủ thể chủ động xử lý và đề ra chủ trương chính sách phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đời sống xã hội và mục đích của chủ thể. Để thông tin chính trị- xã hội có ích và phục vụ đắc lực cho Đảng cầm quyền hoặch định đường lối, chủ trương, chính sách sát thực tế thì đòi hỏi thông tin chính trị- xã hội phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau: Thông tin chính trị- xã hội phải đúng. Đòi hỏi thông tin phải khách quan và chính xác. Thông tin khách quan, chân thực là bảo đảm nội dung tin phản ánh đúng quan điểm và chính xác về sự kiện của người lãnh đạo, quản lý. Tính chân thực là một yêu cầu không thể thiếu được của thông tin chính trị- xã hội. V.I. Lênin đã nói: “… trong công tác tuyên truyền và cổ động của chúng ta, chúng ta phải đặt vấn đề một cách thẳng thắn”[16, tr.13]. Tính chân thực của thông tin là sự đảm bảo lòng tin của quần chúng vào đảng , vào chính sách của đảng, là một công cụ quan trọng để nâng cao tính tích cực sáng tạo của quần chúng vào sự nghiệp cách mạng của đảng. Thông tin chính trị- xã hội phải đủ, tức là thông tin được chủ thể tiếp nhận phải phản ánh được tất cả các khía cạnh cần thiết để từ đó chủ thể nhận thức có thể tái tạo lại được bức tranh tương đối hoàn chỉnh và trung thực về sự việc, hiện tượng. Thông tin chính trị- xã hội phải kịp thời, nghĩa là phải phản ánh đúng thực trạng sự kiện, đúng thời gian để chủ thể kịp phân tích, đánh giá và xử lý. Thông tin chính trị- xã hội phải luôn gắn với quá trình diễn biến, vận động của sự vật, hiện tượng giúp cho tư duy của chủ thể nhận thức được rõ ràng mạch lạc và khoa học. Ngoài ra thông tin chính trị- xã hội đó phải “dùng” được, tức là thông tin phải có nội dung, có giá trị thực tiễn. 1.1.2. Đặc trưng của thông tin chính trị- xã hội Thông tin chính trị- xã hội là cái đa dạng của các quan hệ xã hội được phản ánh, do vậy thông tin chính trị- xã hội có các đặc trưng sau: Thông tin chính trị- xã hội thể hiện lợi ích của chủ thể thông tin. Trong xã hội có giai cấp, thông tin chính trị- xã hội bao giờ cũng chứa đựng quan điểm giai cấp, gắn chặt với hệ tư tưởng của một giai cấp nhất định, phản ánh một hệ tư tưởng nhất định. Mỗi giai cấp có thái độ khác nhau, cách sử dụng thông tin khác nhau. Mỗi thông tin dù trực tiếp hay gián tiếp bao giờ cũng mang dấu ấn của một hệ tư tưởng nhất định. Không thể và không có thông tin chính trị- xã hội nằm ngoài những lợi ích và mục tiêu của các giai cấp, các đảng chính trị sử dụng nó. Khi khẳng định điều này, chúng ta không phủ định tính khách quan, trung thực của thông tin chính trị- xã hội. Tính khách quan đòi hỏi thông tin phải được đảm bảo bằng mối liên hệ mật thiết của nó với cuộc sống. Tính khách quan của thông tin chính trị- xã hội không trùng hợp với chủ nghĩa chủ quan duy ý chí. Tính chân thực của thông tin chính trị- xã hội đòi hỏi nó phải phù hợp với tình hình thực tế của sự vật, hiện tượng. Thông tin chính trị- xã hội là cái đa dạng của các quan hệ xã hội được phản ánh. Do đó, sự phản ánh của thông tin chính trị- xã hội không chỉ bao gồm những mặt tích cực mà còn phản ánh cả những mặt tiêu cực, sai lầm, bao gồm cả những mâu thuẫn, những mặt đối lập. Nếu thông tin không đầy đủ, thông tin phiến diện, hoặc người dùng tin sẽ không nhận thức đúng sự vật hiện tượng, hoặc họ tìm lời giải đáp ở các nguồn thông tin chính trị- xã hội không chính thống khác. Thông tin chính trị- xã hội có tính khái quát hoá, trừu tượng hoá cao. Trong mỗi xã hội cụ thể bao giờ cũng tồn tại nhiều mối quan hệ phức tạp, các quan hệ này lại vận động theo nhiều chiều và nhiều khuynh hướng khác nhau. Chính từ tính chất phức tạp của các quan hệ xã hội mà thông tin chính trị- xã hội cũng rất phong phú và đa dạng. Trên cơ sở một định hướng chính trị chung thông tin chính trị- xã hội phải bao quát được đầy đủ, bao trùm nhiều thông tin ở các lĩnh vực khác. Sự khái quát càng cao thì ý nghĩa chính trị của thông tin chính trị- xã hội càng thể hiện rõ. Song tính khái quát hoá, trừu tượng hoá của thông tin chính trị- xã hội không xa rời tính cụ thể. Thông tin chính trị- xã hội không phải là thông tin chung chung, mà bao giờ cũng gắn với một điều kiện, địa điểm và thời gian cụ thể, với một thời kỳ lịch sử cụ thể của sự phát triển xã hội. Nói khác đi, thông tin chính trị- xã hội bao giờ cũng là thông tin khi nào, cho ai và như thế nào. Tính thời sự là một đặc điểm quan trọng của thông tin chính trị- xã hội. Tính thời sự của thông tin có thể đưa đến cho con người những thông báo về những sự kiện mới nhất, cho phép nhận thức đúng đắn, kịp thời và giúp cho việc giải quyết các nhiệm vụ chính trị- xã hội một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Tính thời sự của thông tin chính trị- xã hội phải được xem xét ở hai góc độ: tính thời sự ở hệ phát hay hệ thu. Trên thực tế tính thời sự của thông tin ở hai hệ này không phải lúc nào cũng song trùng. Có những thông tin được phát đi kịp thời nhưng khi đến được đối tượng sử dụng thì không còn ý nghĩa thời sự nữa. Xét về mặt thời gian chỉ những thông tin nào đem lại cho chủ thể tiếp nhận thông tin những nhận thức mới một cách nhanh nhất mới đảm bảo tính thời sự. Tính thời sự của thông tin chính trị- xã hội không có nghĩa là sự hấp tấp, thiếu chọn lọc. Thông tin có tính thời sự đối lập với thông tin lặp đi lặp lại về một sự vật, hiện tượng, những kết luận, luận điểm lặp đi lặp lại, đối lập với những thông tin “nhặt được” ở bất kỳ một sự kiện nào. Thông tin chính trị- xã hội bao giờ cũng mang tính định hướng và dự báo Khuynh hướng tư tưởng của thông tin chính trị- xã hội tự nó đã nói lên tính định hướng của loại thông tin này. Vấn đề là khả năng giải thích, hướng dẫn dư luận xã hội theo một định hướng thống nhất của thông tin chính trị- xã hội. Sự thống nhất trong nhận thức và hành động của quần chúng phụ thuộc rất nhiều vào việc quán triệt đặc điểm này. Để có thể định hướng cho dư luận xã hội, thông tin chính trị- xã hội phải có khả năng dự đoán, dự báo. Trên cơ sở đó định hướng cho hành động tương lai của xã hội. Thông tin chính trị- xã hội tác động trực tiếp đến đời sống tư tưởng tình cảm, tâm lý hành động của từng người. Nó có thể làm cho đông đảo quần chúng suy tư hành động theo hướng tích cực, đồng thời có thể làm cho nhiều người hoang mang dao động mất phương hướng trong hành động. Vì vậy, khi sử dụng thông tin chính trị- xã hội tính mục đích luôn phải là một nguyên tắc tối cao. Lênin từng căn dặn: tuyên truyền tổ chức cổ động tập thể là chức năng quan trọng nhất của các phương tiện thông tin đại chúng. Trong điều kiện của chúng ta, thông tin chính trị- xã hội phải làm sao tác động trực tiếp đến tình cảm của quần chúng để hướng dẫn họ cùng hành động theo một mục đích chung. Thông tin chính trị- xã hội thường đưa đến cho đối tượng những phản ứng khác nhau, tuỳ thuộc vào ý thức, năng lực và trình độ của đối tượng tiếp nhận thông tin. Người tiếp nhận thông tin có thể hiểu đúng theo ý đồ của chủ thể phát tin, có thể hiểu đúng nhưng hành động sai , hoặc có trường hợp hiểu sai dẫn đến hành động sai theo ý đồ chủ thể phát tin. Điều này phụ thuộc vào năng lực trình độ xử lý thông tin của đối tượng nhận tin. Có trường hợp hiểu khác nhưng vẫn hành động theo ý đồ của chủ thể thông tin. Đây là trường hợp có quan hệ đến quan điểm giai cấp và dân tộc của từng đối tượng cụ thể. Trên thực tế nhiều hiện tượng thông tin sai lệch, thông tin giả có nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm này của thông tin chính trị- xã hội. Những phân tích trên cho thấy, những đặc điểm của thông tin chính trị- xã hội rất cần thiết để người lãnh đạo, quản lý nắm được trong quá trình thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin. 1.2. Vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở 1.2.1. Thực chất hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Theo Hiến pháp năm 1992, ở nước ta cơ cấu tổ chức của hệ thống chính trị được phân chia làm 4 cấp: Trung ương; Tỉnh, thành phố; Quận, huyện và cơ sở. Cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) gọi chung là cấp xã, là cấp cuối cùng trong sự phân cấp hành chính. Cấp cơ sở là nơi nhân dân cư trú, sinh sống gắn bó chặt chẽ trong quan hệ kinh tế, dòng tộc và văn hoá. Cấp cơ sở có một vị trí quan trọng, là nơi trực tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân, là địa bàn tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, là nơi trực tiếp sản xuất vật chất- nền tảng cơ bản của xã hội, là nơi có thể tổ chức, huy động, phát huy cao độ nội lực của quần chúng nhân dân. Hiện nay, cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) ở nước ta chủ yếu là ở địa bàn nông thôn, nông dân làm nông nghiệp, nên có tiềm năng rất lớn về lao động, đất đai, ngành nghề. Sản xuất lương thực, thực phẩm của cải vật chất dồi dào cho xã hội. Đồng thời, cấp cơ sở cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm cũng như cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng việc xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở, chẳng hạn như Nghị quyết Trung ương 3, 5,7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, đặc biệt Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX nhấn mạnh cần “đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở xã, phường, thị trấn, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”[6, tr.165]. Để thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước ở cơ sở là đội ngũ CBCC. Họ là những người giữ chức vụ quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong tổ chức thuộc hệ thống chính trị cơ sở, là những người giữ cương vị chính phụ trách trong một tổ chức một tập thể, có ảnh hưởng quyết định và chi phối việc chấp hành, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước. Thực hiện các nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương đã đề ra, là những người “đứng mũi chịu sào”, chịu trách nhiệm chính trước Đảng, trước nhân dân. Vậy họ là ai ? Tuy còn có những quan niệm chưa thật thống nhất, song với cách tiếp cận nêu trên thì CBCC cấp cơ sở hiện nay được xác định và bao gồm các chức danh: Bí thư, phó bí thư ; Chủ tịch, phó chủ tịch HĐND ; Chủ tịch, phó chủ tịch UBND. Tuy nhiên, cần chú ý khi xác định cán bộ chủ chốt phải đặt cán bộ trong một tổ chức nhất định để xem xét. Bởi “có thể cán bộ trong tổ chức này trong mối quan hệ này là cán bộ chủ chốt, nhưng trong tổ chức khác, mối quan hệ khác lại không phải là cán bộ chủ chốt ”[24, tr.139]. Cán bộ chủ chốt được nghiên cứu trong luận văn này đó là những người có chức vụ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở. Họ có những đặc trưng cơ bản sau: Là người được uỷ thác của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị cấp cơ sở. Là người giữ một chức vụ, một trọng trách nào đó trong hệ thống chính trị nói chung. Là người được bầu cử, tuyển chọn bổ nhiệm, đề bạt hay phân công công tác. Là người được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung và chất lượng công tác. Như vậy, hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC cấp cơ sở nói chung là sự điều hành, quản lý của những người giữ chức vụ quan trọng- lực lượng nòng cốt trong tổ chức thuộc hệ thống chính trị cấp cơ sở nhằm thực hiện, triển khai đúng đắn, kịp thời và có hiệu quả những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những văn bản của cấp trên để hoàn thành tốt các nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm giữ vững an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Thông qua đó phát hiện những cái phù hợp và chưa phù hợp trong chủ trương, đường lối, chính sách, kiến nghị cấp trên kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách về mọi mặt, ngày càng đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân. Do vậy, hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cấp cơ sở nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý ở cấp trên, ngược lại cấp cơ sở không thực hiện tốt vai trò của mình thì dẫn đến sự vận hành quy trình lãnh đạo từ trung ương- tỉnh- huyện- cơ sở sẽ bất ổn, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước. Bản chất của hoạt động lãnh đạo, quản lý là sự điều khiển và đối tượng của sự điều khiển đó là những con người cụ thể, có trình độ tri thức nhất định, có năng lực, có nguyện vọng, tâm tư tình cảm, có mục đích riêng. Do vậy, người lãnh đạo quản lý cấp cơ sở cần phải có phương pháp tác động, phải có kiến thức tâm lý nhất định thì mới tập hợp, đoàn kết và phát huy được sức mạnh tổng hợp. Phải biết sử dụng nguyên tắc “Thu phục nhân tâm ”, biết đặt mình vào người khác, ở địa vị của người bị quản lý để hiểu được tâm tư, nguyện vọng và thấy được những khó khăn của họ để từ đó có sự cảm thông, động viên, giúp đỡ để họ thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, phải biết phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm sao để phương châm: Dân biêt, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra không chỉ trên lý thuyết mà phải trở thành thực tế trong hiện thực sinh động của cuộc sống. Có như vậy mới phát huy được trí tuệ của nhân dân, tạo được niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước nói chung và vào sự lãnh đạo của đội ngũ CBCC cấp cơ sở nói riêng. Do đó, để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới thì đội ngũ CBCC cấp cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định sự thành bại của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng như CNH, HĐH đất nước cụ thể là: CBCC cấp cơ sở là bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị nước ta. CBCC cấp cơ sở là đại biểu ưu tú của nhân dân và Đảng tiền phong ở cơ sở, đại diện cho nhân dân trong lãnh đạo, quản lý nhà nước ở địa phương. Đồng thời là người trực tiếp lãnh đạo cụ thể hoá, tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và biến nghị quyết chủ trương đường lối đó thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân cũng như tiến hành các chương trình kinh tế- xã hội ở địa phương. Chính họ tạo nên những thành tựu, đúc rút những bài học kinh nghiệm có giá trị góp phần quan trọng cho sự phát triển chung của đất nước. CBCC cấp cơ sở là cầu nối trực tiếp quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Năng lực của người CBCC cấp cơ sở là một trong những nguyên nhân chính quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung, cấp cơ sở nói riêng. CBCC cấp cơ sở có tài, có đức sẽ thúc đẩy phong trào và ngược lại nếu người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cơ sở bị mất uy tín trước nhân dân là đồng nghĩa với việc Đảng mất uy tín, dân sẽ không tin Đảng. Trực tiếp tiếp xúc hàng ngày với nhân dân nên CBCC cấp cơ sở là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, trực tiếp nắm bắt và phản ánh tâm tư nguyện vọng tình cảm của nhân dân với Đảng tạo nên mối liên hệ máu thịt thống nhất giữa Đảng và nhân dân, xây dựng củng cố niềm tin của dân với Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng “cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng ”[19, tr.269]. CBCC cấp cơ sở là một trong những dự nguồn quan trọng cung cấp cho cán bộ lãnh đạo cấp trên. CBCC cấp cơ sở đã có nhiều đóng góp, trưởng thành trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trải qua thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trước đây cũng như hiện nay, họ luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong việc chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ chính trị, có khả năng sáng tạo, tính nhạy bén và năng động. Chính vì vậy, CBCC cấp cơ sở cũng là một trong những dự nguồn quan trọng cung cấp cán bộ lãnh đạo cho cấp trên, vì cơ sở chính là trường học, là nơi rèn luyện trưởng thành của đội ngũ cán bộ. V.I Lênin cũng đã từng khẳng định vai trò to lớn của người cán bộ lãnh đạo đối với sự nghiệp cách mạng: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào ”[18, tr.473]. Nhấn mạnh vai trò của CBCC cấp cơ sở không có nghĩa họ là người quyết định tất cả trong tiến trình của sự nghiệp cách mạng, mà CBCC nói chung và CBCC cấp cơ sở nói riêng là một khâu quan trọng, một mắt xích giữ vị trí then chốt. Đứng trước những nhiệm vụ to lớn của thời kỳ đổi mới, thời kỳ CNH, HĐH đất nước, sự thành công hay thất bại phụ thuộc rất lớn vào vai trò lãnh đạo quản lý của CBCC cấp cơ sở. Bởi lãnh đạo quản lý là quá trình tác động, điều khiển những người dưới quyền và quần chúng nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội. Để làm được điều đó, cũng như hoàn thành trách nhiệm của mình đòi hỏi người CBCC cơ sở phải có trình độ và hiểu biết toàn diện. Đó không chỉ là trình độ chuyên môn, trình độ LLCT mà còn phải có kiến thức về quản lý kinh tế, quản lý nhà nước trên từng lĩnh vực cụ thể… có kiến thức và trình độ mọi mặt sẽ nâng cao khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý chỉ đạo thực tiễn ở cơ sở. Đồng thời sẽ quy tụ được quần chúng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương. 1.2.2. Vai trò của thông tin chính trị- xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC cấp cơ sở có vị trí rất quan trọng, về thực chất là quá trình bao gồm các khâu: Nắm bắt, xử lý thông tin; Ra quyết định; Tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra việc thực hiện quyết định; Tổng kết rút kinh nghiệm cho việc thực hiện các quyết định và vận dụng bài học kinh nghiệm vào quá trình ra quyết định tiếp theo. Nắm bắt, xử lý thông tin là bước quan trọng đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC cấp cơ sở. ở giai đoạn này có những vấn đề có tính nguyên tắc đặt ra là: Thông tin được thu thập từ nguồn nào, theo những kênh nào. Trong thực tế, tín hiệu thông tin chính trị- xã hội được phát ra từ rất nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy, lựa chọn nguồn thu thập thông tin đúng đắn không chỉ là yêu cầu của việc bảo đảm thông tin trung thực, chính xác có độ tin cậy cao mà còn là đòi hỏi của quan điểm chính trị chính thống của thông tin. Một thông tin chính trị- xã hội có thể được phát ra từ nhiều kênh thông tin khác nhau, có những kênh chính thức và cả những kênh không chính thức. Do vậy, việc lựa chọn khai thác từ dòng nào là một vấn đề cần được thực hiện nghiêm túc. Xử lý thông tin là một công đoạn cực kỳ quan trọng. Thu thập thông tin đúng mà xử lý không khoa học, không đúng đắn sẽ làm mất hiệu quả của thông tin. Thông tin được xử lý theo quan điểm chính trị nào, nhằm mục đích gì và cho đối tượng nào được sử dụng. Đây là những vấn đề phải được nhận thức và quán triệt một cách nghiêm túc. Hoạt động lãnh đạo, quản lý là một quá trình mà các loại thông tin, dữ liệu không ngừng được hoàn thiện, xử lý và lặp đi, lặp lại. Các nhà lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến cơ sở phải dựa vào các nguồn thông tin đã được chọn lọc, xử lý làm cơ sở cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách ban hành các Nghị quyết và ra các quyết định lãnh đạo, quản lý đồng thời tổ chức chấp hành các Nghị quyết, quyết định đó trong thực tiễn đời sống xã hội. Do vậy, thông tin chính trị- xã hội được coi như “vật liệu” để đưa ra các quyết định và các giải pháp đúng đắn phù hợp với thực tiễn. Thông tin chính trị- xã hội đối với đội ngũ CBCC cấp cơ sở được ví như những nguyên liệu đối với nhà máy, không có nguyên liệu không thể sản xuất được. Người CBCC cấp cơ sở phải nắm bắt được kịp thời các luồng thông tin chính trị- xã hội ở địa phương mình cũng như các luồng thông tin từ cấp trên, thông tin bên ngoài…Sau khi nắm được thông tin người CBCC cấp cơ sở cần phải đánh giá, chọn lọc và xử lý thông tin bởi vì thông tin ở cơ sở nhiều và mang tính chất sự vụ, nhiều khi nội dung thông tin ít, giá trị thông tin không cao, chứa đựng nhiều tình tiết vụn vặt, thậm chí có những sự vụ liên quan trực tiếp và gián tiếp đối với nhà lãnh đạo, quản lý. Do đó, người cán bộ lãnh đạo ở cơ sở phải có thái độ khoa học, khách quan, có nhu cầu thông tin thì mới có thể tổ chức nắm bắt được thông tin chính trị- xã hội một cách nhanh chóng, chính xác và kịp thời. Để có được thông tin, người lãnh đạo quản lý phải gần dân, sát dân nắm được tình hình thực tiễn, ý kiến nguyện vọng của nhân dân để từ đó có phương pháp xử lý thông tin chính xác, kịp thời. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, luôn nảy sinh và phát triển nhiều vấn đề, do vậy người lãnh đạo, quản lý không ngừng nắm bắt, thu thập và xử lý thông tin, những thông tin từ trong quần chúng, thông tin liên quan đến các mặt của đời sống kinh tế- xã hội của địa phương.v.v…từ đó đưa ra được các phương án giải quyết tối ưu. Là một cán bộ chủ chốt ở cơ sở thì phải nắm vững thông tin chính trị- xã hội một cách thường xuyên và toàn diện nhằm phát hiện vấn đề, khi vấn đề đã được xác định phải chọn ra thông tin có trọng tâm, trọng điểm để hình thành phương hướng giải quyết vấn đề đó. Dù ở cấp độ nào, Trung ương hay địa phương hoặc cơ sở đều yêu cầu thông tin chính trị- xã hội phải đạt độ tin cậy cao, chỉ có dựa trên cơ sở những thông tin chân thực, có độ tin cậy mới có khả năng đưa ra được những nghị quyết, quyết định đúng đắn và sáng tạo. Ra nghị quyết, quyết định là bước tiếp theo trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC cấp cơ sở. Đây được xem là khâu giữ vị trí trung tâm và đóng vai trò quyết định trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của người cán bộ. Ra nghị quyết, quyết định là quá trình xác định vấn đề và lựa chọn một trong số những phương án khác nhau. Biểu hiện của kỹ năng này là ở chỗ biết phát hiện đúng, trúng vấn đề cần giải quyết và vận dụng. Người CBCC cấp cơ sở có kỹ năng ra nghị quyết, quyết định là người có năng lực phán đoán và hành động kịp thời. Tuy nhiên để ra được nghị quyết, quyết định người lãnh đạo, quản lý phải có thông tin. G.K.Pôpôp cho rằng “quyết định là sự cô đặc của thông tin”[1, tr. 149]. “Quyết định là hình thức của hoạt động quản lý, thể hiện nội dung của người lãnh đạo”[23, tr.156]. Giáo sư Nguyễn Đức Bình cũng khẳng định: “Ra quyết định là hoạt động sáng tạo của người lãnh đạo, quản lý vào lúc mà thực tiễn đòi hỏi, tức là tình huống có vấn đề, chuyển từ tình huống thực tại sang tình huống dự kiến thực hiện mục tiêu ý đồ lãnh đạo, quản lý”[2, tr.13]. Ra nghị quyết, quyết định là khâu không thể thiếu đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC cấp cơ sở. Trên cơ sở nắm bắt các thông tin, người lãnh đạo, quản lý ngoài việc phải thực thi, cụ thể hoá các nghị quyết, chương trình, kế hoạch của cấp trên đưa xuống, họ còn phải có nhiệm vụ quan trọng là đưa ra những nghị quyết, quyết định phù hợp hay nói cách khác “sát hợp” với thực tiễn địa phương mình. Nghị quyết, quyết định của họ sẽ tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nó có thể thúc đẩy kinh tế- xã hội địa phương đó phát triển nếu nghị quyết, quyết định đó là khoa học đúng đắn, song nó cũng sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế- xã hội của địa phương đó nếu nghị quyết, quyết không khoa học, không sát với thực tế của mình. Do đó, người lãnh đạo khi đưa ra nghị quyết, quyết định phải bám sát vào tình hình thực tế của địa phương. Để ra được những quyết định đúng đắn, kịp thời phải nắm bắt thu thập, xử lý thông tin những thông tin dữ liệu thu thập được chỉ có giá trị như là cơ sở hoạch định chủ trương đường lối để ban hành nghị quyết, quyết định khi chúng đã qua quá trình chọn lọc, xử lý đúng đắn. Một yêu cầu đặt ra đối với các nhà lãnh đạo, quản lý khi ra nghị quyết, quyết định là quyết định đưa ra có thể mang ý nghĩa trước mắt hoặc lâu dài tuỳ thuộc vào tình hình thực tế địa phương song “một quyết định được coi là đúng đắn khi nó xuất phát từ cuộc sống, giải quyết đúng và kịp thời những mâu thuẫn của cuộc sống, đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn đặt ra” [9, tr.63]. Nghị quyết hay quyết định của người lãnh đạo, quản lý đưa ra dù đúng đắn đến đâu đi nữa song nó vẫn nằm trên giấy tờ, văn bản thì nó sẽ không có ý nghĩa gì. Vì vậy, việc tổ chức thực hiện nghị quyết, quyết định và kiểm tra việc thực hiện là một khâu quan trọng đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý. Để cho các nghị quyết, quyết định của mình được thực thi trong cuộc sống, người lãnh đạo, quản lý cơ sở phải tổ chức quần chúng thực hiện. Thực tiễn đã chứng minh rằng nghị quyết, quyết định tốt được cân nhắc một cách khoa học là cơ sở của sự thành công. Sẽ là sai lầm trong công tác lãnh đạo, quản lý nếu cho rằng ban hành xong nghị quyết, quyết định là mọi việc đã được giải quyết, mục tiêu lãnh đạo, quản lý đã đạt được. Do đó, cần phải nhận thức sâu sắc rằng nghị quyết, quyết định mới chỉ nêu ra được những mục tiêu cơ bản, những phương hướng chủ yếu để cải tạo hiện thực. Muốn thực hiện thành công các nghị quyết, quyết định thì khâu đầu tiên của quá trình tổ chức thi hành là phải cụ thể hoá nghị quyết, quyết định thành những chủ trương, biện pháp, những chỉ tiêu, những bước đi cụ thể phù hợp với địa phương. Để việc cụ thể hoá diễn ra đúng hướng, cần nắm vững nội dung cơ bản, chủ yếu của đường lối nghị quyết chung, hiểu rõ đặc thù của địa phương. Đặc biệt cần coi trọng năng lực của cán bộ tổ chức thực hiện và trình độ tri thức, tính tự giác của nhân dân trong chấp hành nghị quyết, quyết định. Người lãnh đạo, quản lý ở cấp cơ sở vừa là người ra nghị quyết, quyết định đồng thời vừa là người trực tiếp cùng với nhân dân địa phương thực hiện các nghị quyết, quyết định. Do vậy, họ nắm bắt được tình hình thực tiễn ở địa bàn mình một cách sát thực và có khả năng xử lý nhanh nhạy, kịp thời các tình huống xảy ra trên địa bàn mình. Thậm chí căn cứ vào tình hình thực tiễn, người lãnh đạo, quản lý ngay trong quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết, quyết định có thể trực tiếp thay đổi chiến thuật hoặc ra những quyết định bổ trợ cho quyết định đang thực hiện. Căn cứ vào nội dung, mục tiêu của nghị quyết, quyết định người lãnh đạo có quyền lựa chọn, sử dụng sắp xếp những cán bộ dưới quyền mình để hoàn thành tối ưu các nghị quyết, quyết định đề ra. Sự thành công hay thất bại của nghị quyêt, quyết định phụ thuộc vào quá trình tổ chức thực hiện quyết định của người lãnh đạo, quản lý. Cùng với việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, quyết định người CBCC cấp cơ sở phải không ngừng tiến hành kiểm tra quá trình thực hiện nghị quyết, quyết định. Quá trình kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, quyết định cũng là một bước quan trọng không thể thiếu đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC các cấp nói chung và cấp cơ sở nói riêng. Lênin chỉ rõ: khi mục tiêu, nhiệm vụ đã được xác định, quyết định đã được thông qua, bộ máy và con người đã được sắp xếp thì trọng tâm của sự lãnh đạo, quản lý phải được chuyển sang lĩnh vực kiểm tra và gắn với kiểm tra là đôn đốc uốn nắn, tổ chức thực hiện đến cùng quyết định. Người lãnh đạo, quản lý có thể kiểm tra bằng việc theo dõi thu thập thông tin phản hồi trong quá trình thực thi nghị quyết, quyết định để phát hiện ra những chỗ chưa làm được hoàn chỉnh của nghị quyêt, quyết định từ đó bổ sung và hoàn thiện. Thậm chí trong quá trình kiểm tra, người lãnh đạo thấy tính thực thi của nghị quyết, quyết định có vấn đề có thể tạm dừng thực hiện để bổ sung điều chỉnh. Cũng chính trong qúa trình kiểm tra này mà người lãnh đạo, quản lý mới đánh giá khách quan năng lực, phẩm chất của người cán bộ cấp dưới. Để từ đó có phương pháp bố trí sắp xếp đúng người đúng việc giúp cho việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn biết các quyết định được thi hành có đúng hay không muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có cách là khéo léo kiểm soát ”[19, tr.287]. Nghị quyết, quyết định được đưa ra và được đưa vào thực hiện thì người lãnh đạo, quản lý phải tập trung và tiến hành công việc kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, quyết định. Vì chỉ khi nghị quyết, quyết định được đưa vào thực tiễn cuộc sống thì mới chứng minh được tính đúng đắn hay sai lầm của nghị quyết, quyết định và nhiệm vụ quan trọng của người lãnh đạo, quản lý trong quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết, quyết định phải không ngừng tiến hành kiểm tra, từ đó có những biện pháp ứng phó phù hợp, kịp thời. Trong quá trình kiểm tra, người lãnh đạo, quản lý sẽ nắm bắt thêm nhiều thông tin của việc thực hiện các nghị quyết, quyết định như: thông tin về cán bộ tổ chức thực hiện, về nội dung nghị quyết, quyết định thực hiện trong thực tế đến đâu, mức độ như thế nào, sự phản hồi của nhân dân đối với việc thực hiện đó ra sao…Để từ đó có các biện pháp bổ sung nhằm đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện nghị quyết, quyết định đã ban hành. Quá trình kiểm tra việc thực hiện các quyết định của người lãnh đạo, quản lý càng nghiêm khắc và kỹ càng bao nhiêu thì kết quả nghị quyết, quyết định đó đạt được càng cao, nhân dân ở cơ sở càng tín nhiệm đồng thời cũng thể hiện được năng lực của chính bản thân người lãnh đạo, quản lý. Trên cơ sở kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, quyết định người lãnh đạo phải tổng kết rút kinh nghiệm cho việc thực hiện các nghị quyết, quyết định và vận dụng bài học kinh nghiệm vào quá trình ra nghị quyết, quyết định tiếp theo. Đây là bước cuối cùng và là bước không thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ các cấp nói chung và cán bộ cấp cơ sở nói riêng. Mác và ăngghen trong cuộc đời hoạt động của mình rất coi trọng công cuộc tổng kết thực tiễn, họ cho rằng chính việc tổng kết thực tiễn sẽ rút ra những quan điểm lý luận đúng đắn và góp phần quan trọng vào việc đưa ra các quyết định tiếp theo. Lênin trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô Viết cũng rất chú ý đến việc tổng kết thực tiễn. Theo Người bằng việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mới có thể xác định được chính xác một số biện pháp thực tiễn sắp tới và thực hiện cho bằng được biện pháp đó. Hồ Chí Minh cũng luôn căn dặn cán bộ đảng viên: “Công việc gì bất cứ thành công hay thất bại, chúng ta cần nghiên cứu đến cội rễ, phân tích thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là chìa khoá phát triển công việc và để giúp cán bộ tiến tới”[19, tr.243]. Nghị quyết Trung ương V khoá IX chỉ rõ: “Coi trọng việc tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu lý luận và trong hoạt động của các cấp uỷ đảng; coi tổng kết thực tiễn là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành”[6, tr.134]. Thực tiễn chứng minh, công việc tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn là mắt khâu quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC cấp cơ sở. Nó là vòng khâu cuối cùng nhưng cũng là mở ra một quá trình nhận thức mới giúp cho việc ra nghị quyết, quyết định tiếp theo của người lãnh đạo, quản lý đồng thời năng lực trí tuệ của họ không ngừng được bổ sung. Thông tin chính trị- xã hội trong khâu tổng kết rút kinh nghiệm cũng có vai trò rất quan trọng. Khi tổng kết, người cán bộ lãnh đạo sẽ nắm bắt và có được nhiều các thông tin khác nhau như: năng lực cán bộ cấp dưới của mình thế nào, nội dung nghị quyết, quyết định đưa ra có sát thực tế không, hiệu quả thực hiện nghị quyết, quyết định cao hay thấp, nguyên nhân của những hạn chế, thành công…để từ đó có kinh nghiệm cho quá trình ra nghị quyết, quyết định tiếp theo. Điều quan trọng là thông qua tổng kết thực tiễn, người lãnh đạo, quản lý sẽ rút ra những vấn đề có tính quy luật của sự phát triển, phát hiện ra bản chất của sự vật hiện tượng, từ đó đưa ra được nhũng quyết sách phù hợp với thực tế khách quan, dự báo đúng đắn về xu hướng vận động và phát triển của hiện thực cuộc sống, thấy được sự biểu hiện sinh động của lý luận trong cuộc sống. Tổng kết thực tiễn để khái quát những kinh nghiệm thực tiễn thành lý luận, sau đó dùng chính lý luận đó soi sáng cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Quá trình này cứ liên tục diễn ra trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của người cán bộ, làm cho kinh nghiệm, trình độ của họ thêm phong phú, tiếp cận bản chất sự vật một cách nhanh chóng và sát thực hơn. Như vậy, hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC cấp cơ sở bao gồm nhiều bước, khâu hoạt động và giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bước này làm tiền đề cho bước kia và ngược lại. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải thực hiện đầy đủ các bước và mắt khâu hoạt động. Với chu trình hoạt động đó thông tin chính trị- xã hội có vai trò rất lớn và không thể thiếu trong lĩnh vực hoạt động của đội ngũ cán bộ này. Thời đại ngày nay là thời đại thông tin, thời đại tin học. Bản thân thời đại đã nói lên vai trò của thông tin trong các lĩnh vực hoạt động, không một lĩnh vực nào của cuộc sống lại không cần đến thông tin. Sự sai lệch hay thiếu thông tin sẽ không thể mang lại thành công cho bất kỳ một hoạt động nào. Hoạt động lãnh đạo, quản lý với đặc thù của mình thông tin nói chung và thông tin chính trị- xã hội nói riêng càng trở thành một yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt. Bởi vì đó là quá trình người lãnh đạo phải tiếp nhận, xử lý và truyền đạt thông tin chính trị- xã hội thông qua các nghị quyết, quyết định của mình: Thông tin chính trị- xã hội được coi là “ vật liệu ” để người lãnh đạo, quản lý đưa ra các nghị quyết, quyết định phù hợp với thực tiễn địa phương. Với lao động đặc thù là lãnh đạo, quản lý nếu không có thông tin chính trị- xã hội người lãnh đạo sẽ không thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình. Hay nói cách khác chất lượng của các nghị quyết, quyết định cũng như tính khả thi của việc thực hiện nghị quyết, quyết định phụ thuộc rất lớn vào nguồn thông tin chính trị- xã hội. Người lãnh đạo nào càng có nhiều thông tin chính trị- xã hội thì người đó càng có điều kiện để duy trì thực thi quyền lực của mình. Thông tin chính trị- xã hội nó xuyên suốt trong tất cả các khâu của hoạt động lãnh đạo, quản lý. Để ra được nghị quyết, quyết định đúng đắn khoa học phù hợp với thực tiễn địa phương, người lãnh đạo phải có những thông tin từ trong thực tiễn cuộc sống. Trên cơ sở các thông tin chính trị- xã hội thu được họ sẽ đưa ra được những nghị quyết, quyết định đúng đắn, giải quyết được những bài toán trong cuộc sống. Những thông tin chính trị- xã hội cung cấp cho người CBCC cấp cơ sở các dữ liệu để đưa ra được các nghị quyết, quyết định phù hợp với thực tiễn địa phương. Các nghị quyết, quyết định của người lãnh đạo đưa ra rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống xã hội của địa phương. Thực tế cho thấy ở không ít địa phương trong cả nước người cán bộ lãnh đạo đã ban hành những nghị quyết, quyết định mà không đem lại hiệu quả, người dân không đồng tình ủng hộ, dẫn đến sự lãng phí của cải vật chất, làm giảm lòng tin của nhân dân. Do vậy, các nghị quyết, quyết định đưa ra không dựa trên thông tin thực tiễn sẽ trở thành lý luận suông, không mang tính khoa học. Để đưa ra được các nghị quyết, quyết định có chất lượng người lãnh đạo phải có đầy đủ thông tin chính trị- xã hội, phân tích được những thông tin quan trọng liên quan đến lĩnh vực mình sẽ phải ra các nghị quyết, quyết định. Người lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở phải nắm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như thông tin từ cấp trên, thông tin ở địa phương mình, thông tin trong nước, trên thế giới…thậm chí cần biết cả những thông tin phản chiều. Từ đó có sự chọn lọc những thông tin cần thiết, thiết thực đối với địa phương mình. Do vậy, trong quá trình nắm bắt thông tin chính trị- xã hội, lượng thông tin dồn đến người lãnh đạo vô cùng lớn, tuy nhiên thông tin lại không đầy đủ và thiếu hệ thống. Rất nhiều tin tức nói chung là vô ích, kết quả là nghị quyết, quyết định được thông qua đôi lúc đã không xét tới một số tình hình quan trọng và không phải là những nghị quyết, quyết định tối ưu. Thông tin chính trị- xã hội nhiều sẽ làm cho người lãnh đạo khó khăn và mất thời gian trong việc nắm bắt. Thậm chí có thể làm cho người lãnh đạo bị rối không bình tĩnh nhận thức được, làm cho quá trình nắm bắt thông tin chính trị- xã hội không sáng suốt. Về điều này một số nhà nghiên cứu cho rằng, loài người chúng ta đang ở trong thời đại dư thừa thông tin nhưng thiếu nhận thức. Những thông tin cần thiết mang tính thiết thực thì không đáp ứng được nhu cầu của người dùng tin, hoặc nơi cần thì không đến, hoặc đến muộn, nơi không cần lại đến, thông tin trùng lặp nhiều, nội dung thông tin chứa đựng giá trị ít, thiếu những thông tin mới. Sự thiếu hụt thông tin chính trị- xã hội đối với người lãnh đạo, quản lý thể hiện ở chỗ những thông tin liên quan trực tiếp thì không có, làm cho người lãnh đạo gặp khó khăn trong việc hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thậm chí người lãnh đạo còn gặp những hiện tượng nhiễu thông tin, là những thông tin phản ánh không đúng bản chất của sự kiện hoặc cố tình phản ánh sai lệch sự kiện, vụ việc. Để khắc phục vấn đề này, người lãnh đạo phải có khả năng tiếp cận thông tin chính trị- xã hội nhạy bén và có tư duy khoa học để loại bỏ thông tin không cần thiết hoặc giải quyết các thông tin trái chiều, giúp cho quá trình ra nghị quyết, quyết định và thực thi quyết định đạt hiệu quả cao. Trước những thông tin trái chiều, người lãnh đạo trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận mác xít, cương lĩnh đường lối chính sách của Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà nước, đồng thời với những vốn thực tiễn trong hoạt động của mình phải lý giải luận chứng, chứng minh được những sai lệch của thông tin chính trị- xã hội một cách khoa học. Một kênh thông tin rất quan trọng để phục vụ cho hoạt động lãnh đạo, quản lý mà người lãnh đạo phải nắm trong quá trình ra nghị quyết, quyết định và tổ chức thực hiện quyết định là thông tin từ dư luận xã hội. Đây là một kênh thông tin rất cần thiết đối với hoạt động lãnh đạo. Ngay từ thời nguyên thuỷ, dư luận xã hội thời kỳ này mặc dù chỉ tồn tại với tư cách là những ý kiến, quan niệm, thái độ nhưng nó giữ vai trò vừa là phương tiện giáo dục vừa là công cụ định hướng, điều tiết các hành vi của con người trong cộng đồng. Về điều này ăngghen viết: Trong chế độ thị tộc không hề có các phương tiện ép buộc nào khác ngoài dư luận xã hội. Điều đó chứng tỏ rằng trong xã hội nguyên thuỷ, mặc dù chưa có sự phân hoá và mâu thuẫn giai cấp, chưa có nhà nước, chưa có trường học, dư luận vẫn phản ánh thái độ nguyện vọng và ý chí chung của cộng đồng đóng vai trò như một công cụ có quyền lực tuyệt đối, có chức năng điều tiết mọi quan hệ xã hội. Khi xã hội có sự phân chia giai cấp, vai trò của dư luận xã hội càng lớn, dư luận xã hội không chỉ phản ánh ý thức, thái độ của của giai cấp thống trị mà song song với sự phản ánh đó là sự phản ánh ý thức, thái độ của quần chúng nhân dân. Do vậy, nhiều nhà nghiên cứu cũng như nhà lãnh đạo, quản lý quan tâm đến vấn đề này. Xã hội tư bản hiện đại rất chú ý đến vai trò của dư luận xã hội: nó được sử dụng như một phương tiện trinh sát tư tưởng và chính trị – xã hội để giành, giữ quyền lãnh đạo cho các cá nhân hay đảng phái chính trị và duy trì trật tự xã hội, nó là điều kiện quan trọng giúp cho các tập đoàn kinh tế tư bản mở rộng kinh doanh và thu lợi nhuận. Trong chủ nghĩa xã hội vai trò của dư luận xã hội thể hiện ở chỗ: Nó là nhân tố điều chỉnh mối quan hệ giữa người với người và điều chỉnh nhân cách con người xã hội chủ nghĩa; Thông qua dư luận xã hội, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng. Đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC cấp cơ sở thì dư luận ở cơ sở có vai trò quan trọng. Thông qua dư luận xã hội của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân mà người lãnh đạo có được thông tin từ nhiều mặt của đời sống xã hội, từ đó người cán bộ lãnh đạo xem xét lại các hoạt động nói chung cũng như các nghị quyết, quyết định của mình đưa ra có phù hợp với lợi ích chung của nhân dân địa phương hay không. Đồng thời thông qua dư luận xã hội mà người lãnh đạo nắm bắt được người dân nhận thức và thực hiện các nghị quyết, quyết định được triển khai như thế nào và các thông tin phản hồi trong cán bộ đảng viên và quần chúng ra sao. Người dân đang quan tâm đến cái gì và đang có nhu cầu gì cần phải giải quyết, từ đó người lãnh đạo kiểm tra lại hoạt động của mình và đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp với thực tiễn địa phương. Các thông tin phản hồi từ dân là rất quan trọng đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC cấp cơ sở. Một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho các nghị quyết, quyết định thiếu tính khả thi, không có khả năng đi vào cuộc sống là do các nghị quyết, quyết định thiếu thông tin phản hồi từ quần chúng nhân dân. Thông qua dư luận xã hội mà nền dân chủ ở cơ sở ngày càng hoàn thiện và mở rộng. Thông tin chính trị- xã hội là cơ sở giúp cho người CBCC cấp cơ sở lãnh đạo, định hướng truyền đạt thông tin chính thống cho nhân dân. Ngày nay chúng ta đang sống trong một “xã hội thông tin”, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin, thông tin đa dạng, nhiều chiều giúp con người nắm bắt thông tin nhanh nhạy, kịp thời, phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoạt động vui chơi giải trí, hoạt động chính trị- xã hội. Mỗi con người chúng ta tuỳ theo nhu cầu từng lĩnh vực, từng việc làm mà họ cần quan tâm, tiếp nhận khai thác thông tin ở những góc độ khác nhau để phục vụ cho mục đích của mình. Chính đảng của giai cấp lãnh đạo ở mỗi quốc gia thể hiện vai trò lãnh đạo của mình bằng cương lĩnh, đường lối chính trị. Thông qua cương lĩnh, đường lối chính trị mà chính đảng của nước đó lãnh đạo, điều hành quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Muốn vậy, cương lĩnh đường lối chính trị đó phải được tuyên truyền phổ biến đến mọi cá nhân trong xã hội. Mỗi cá nhân dù tự giác hay không tự giác cũng phải tiếp nhận và thực hiện cương lĩnh, đường lối chính trị đó. Đồng thời thông qua quyền lực của bộ máy nhà nước mà cương lĩnh, đường lối chính trị được triển khai thực hiện trong xã hội. Đối với nước ta, Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội, thực hiện đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh: Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông âu và Liên Xô sụp đổ cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam vẫn là cương lĩnh của cả một dân tộc quyết xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong lúc chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, biết bao nhiêu trao đảo trong đầu óc cùng với những thoái lui trốn chạy, chối bỏ chủ nghĩa xã hội đang lan tràn ở nhiều nơi, ở nhiều nước, thì sự khẳng định ấy đã thể hiện một bản lĩnh chính trị vững vàng của đảng và nhân dân ta trước những thách thức chưa từng thấy [14, tr.38]. CBCC cấp cơ sở là người lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ở cơ sở. Thông qua hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ này thì những thông tin chính trị- xã hội nói chung, đường lối nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước trở thành thông tin chính trị- xã hội chính thức của nhân dân ở cơ sở. Chúng ta biết rằng trong thời đại hiện nay, từng ngày, từng giờ có bao nhiêu luồng thông tin dội vào mỗi con người, đặc biệt là những CBCC thì càng nhiều thông tin, thông tin đúng và thậm chí cả những thông tin bị nhiễu, bị sai lệch bóp méo…Do vậy cần phải xử lý, chọn lọc thông tin bởi thông tin bị nhiễu có thể do từ nguồn tin phát ra, do kênh truyền tin bị trục trặc hoặc do chính chủ thể người tiếp nhận nó gây ra. ở khả năng thông tin bị nhiễu ngay từ nguồn phát ra, đây có thể là do trình độ mã hoá thông tin còn hạn chế như bị lỗi do sử dụng kí hiệu không rõ ràng, nhầm lẫn hoặc có thể do chủ thể sở hữu thông tin vì lợi ích cá nhân, vì tâm lý không lành mạnh đã cố tình thêm bớt bóp méo thông tin, điều này dễ gặp từ kênh thông tin dư luận xã hội. Hoạt động lãnh đạo, quản lý của người CBCC cấp cơ sở là hoạt động liên quan đến lợi ích của nhiều người, từ cán bộ, đảng viên đến quần chúng nhân dân. Thực tiễn cuộc sống hiện nay có rất nhiều mâu thuẫn xảy ra do liên quan đến lợi ích của cá nhân mỗi người hoặc tập thể như: tranh chấp đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, vấn đề tín ngưỡng tôn giáo... đặc biệt âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực chống phá Đảng, Nhà nước, lợi dụng sơ hở của chúng ta trong quản lý và sự hiểu biết còn hạn chế của nhân dân ta về đường lối, nghị quyết của Đảng để xuyên tạc, bôi nhọ phủ nhận những thành quả cách mạng, làm mất uy tín của Đảng, lôi kéo nhân dân về phía họ nhằm tạo ra lực lượng chống Đảng và Nhà nước. Thông tin có thể bị nhiễu trên đường truyền tải thông tin, chúng ta biết rằng người CBCC ở cơ sở thường xuyên được tiếp nhận thông tin qua các kênh như: kênh trực quan sinh động, kênh học tập, truyền thông và giao tiếp…Trên các kênh đó, thông tin có thể bị nhiễu do sự dồn đọng thông tin, do sự quá tải, hoặc do trục trặc về cấu tạo, chức năng của bản thân kênh đó như: mắt mỏi, tai ù, tivi bị méo hình, thời tiết khí hậu, sóng kém, nguồn điện yếu…Thông tin cũng thường bị nhiễu ở kênh giao tiếp do tâm lý nể nang, mặc cảm, tự ti hoặc tư tưởng “cân bằng” của người mang tin nhiều khi dễ “biến báo” thêm bớt, làm sai lệch thông tin. Ngoài hai khả năng trên thì thông tin có thể bị nhiễu do chính chủ thể tiếp nhận thông tin gây ra. Đây là khả năng rất dễ xảy ra bởi vì nó liên quan đến yếu tố năng lực và trình độ tư duy cũng như tâm lý của mỗi người. Những yếu tố này nó quy định năng lực tiếp nhận, xử lý đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp thông tin tiếp nhận được để từ đó chọn lọc ra những thông tin đúng, đủ, kịp thời có giá trị. Như vậy, với vai trò là người lãnh đạo, quản lý mỗi CBCC ở cơ sở phải chọn lọc cung cấp cho nhân dân những thông tin chính thống giúp nhân dân nhận thức đúng về tình hình kinh tế- xã hội, an ninh- quốc phòng, đời sống chính trị của cả nước, của địa phương để nhân dân phản bác chống lại những thông tin sai trái. Do vậy các cấp nhất là cấp cơ sở, CBCC thông qua hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình tổ chức tuyên truyền giải thích nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng chính xác, kịp thời tới nhân dân, cung cấp những thông tin chính thống của Đảng, Nhà nước cũng như của địa phương mình cho nhân dân. Nếu nhân dân không được cung cấp thông tin chính trị- xã hội chính thống thường xuyên, đầy đủ và kịp thời thì các thế lực thù địch có cơ hội và thời gian để tuyên truyền, phổ biến thông tin sai trái vào nhân dân. Thông tin chính trị- xã hội là cơ sở để cán bộ lãnh đạo, quản lý điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nghị quyết, quyết định cho sát hợp với thực tiễn. Nhìn lại lịch sử giai đoạn trước đổi mới cho thấy, có những lúc, những nơi chưa chú ý đúng mức trong việc sử dụng thông tin chính trị- xã hội vào việc ra các nghị quyết, quyết định trong tư duy của người lãnh đạo. Thể hiện trước hết là những nghị quyết, quyết định đưa ra thiếu cơ sở thông tin hoặc thậm chí không có cơ sở dữ liệu thông tin nào. Những nghị quyết, quyết định đó thường chỉ dựa trên những tri thức, hiểu biết đã có trước đây về sự vật cùng với việc suy diễn chủ quan của chủ thể nhận thức. Vì vậy, những nghị quyết, quyết định này sẽ không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Do đó dễ dẫn đến giáo điều, máy móc trong tư duy, có thể nói rằng trong một thời gian dài những sai lầm về quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta bắt chước nước ngoài bất chấp điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam như: cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, hợp tác hoá, giá cả tiền lương, phân phối tem phiếu hàng hoá…Mỗi lần tình hình kinh tế- xã hội gặp khó khăn thì trước hết hướng vào sách vở bên ngoài để tìm lời giải đáp mà quên mất rằng bài toán cuộc sống đều có lời giải đúng đắn ngay trong hoạt động thực tiễn. Từ sau đổi mới đến nay nhiều nơi đã lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt và có hiệu quả các nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên cũng có một số nơi, một số địa phương trong qúa trình ra các quyết định quản lý thiếu thu thập những thông tin cần thiết từ thực tiễn, hoặc trong quá trình thực hiện không kịp thời phát hiện những vấn đề nảy sinh, cho nên hiệu quả của các nghị quyết, quyết định thấp làm giảm lòng tin của nhân dân. Từ đó cũng làm hạn chế vai trò lãnh đạo, quản lý của CBCC các cấp. Thông tin chính trị- xã hội sẽ giúp cho cán bộ lãnh đạo không rơi vào chủ nghĩa hình thức, giáo điều, bệnh dập khuôn máy móc, quan liêu hành chính, mà tạo cho mình một khả năng nắm bắt tình hình nhạy cảm, dự báo trước các điều có thể xảy ra trong quá trình hoạt động lãnh đạo và từ đó dự kiến những biện pháp giải quyết có hiệu quả. Trong tình hình hiện nay, thế giới và trong nước đầy những biến động về chính trị, kinh tế, xã hội, việc nắm bắt thông tin nói chung, thông tin chính trị- xã hội nói riêng là rất cần thiết đối với các cấp lãnh đạo, đặc biệt là cấp cơ sở. Một nghị quyết, quyết định ban hành ngày hôm nay là hợp lý nhưng ngày mai chưa chắc nó còn phù hợp. Thực tiễn luôn vận động không ngừng nhiều điều hôm qua còn được coi là “chân lý” nhưng thời gian sau điều đó đã có thể thay đổi hoàn toàn, đó là quy luật khách quan. Người lãnh đạo, quản lý phải hiểu rõ và tôn trọng quy luật này. Trong hoạt động thực tiễn luôn nảy sinh những vấn đề mới, người CBCC ở cơ sở phải không ngừng tìm hiểu nắm bắt thông tin, đặc biệt là những thông tin phục vụ vấn đề mình chuẩn bị ra quyết định và cả những thông tin trong quá trình thực hiện các nghị quyết, quyết định đó, nếu có gì không hợp lý phải tìm hiểu nguyên nhân rồi từ đó sửa đổi, bổ sung hoặc có thể tạm dừng thi hành khi cần thiết. Quá trình hoạt động lãnh đạo luôn phát triển và nảy sinh những vấn đề mới cần phải có những biện pháp giải quyết kịp thời, điều này phụ thuộc rất lớn vào vai trò của người lãnh đạo, quản lý mà trước hết là các nghị quyết, quyết định của họ. Vì các nghị quyết, quyết định này tác động trực tiếp đến mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ở địa phương, các nghị quyết của người lãnh đạo có thể tác động theo khuynh hướng thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Trong trường hợp nghị quyết, quyết định tác động cản trở sự phát triển kinh tế, xã hội thì người lãnh đạo, quản lý cần phải bám sát vào thực tiễn địa phương, thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, tìm ra nguyên nhân, những hạn chế của nghị quyết, quyết định để có phương án giải quyết kịp thời. Trong thực tế hiện nay có nhiều các nghị quyết, quyết định của Trung ương ban hành nhưng chưa chắc đã phù hợp với tất cả các địa phương được, do vậy phải tuỳ tình hình thực tiễn địa phương để vận dụng sao cho phù hợp. Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện mọi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, do đó CBCC cấp cơ sở cần bám sát thực tiễn địa phương, báo cáo kịp thời lên cấp trên những chính sách không hợp lý, những kết quả đạt được, cần phải sơ tổng kết chỉ ra những thành công hay thất bại của mỗi nghị quyết, quyết định, rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình ra các nghị quyết, quyết định tiếp theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Công việc gì bất cứ thành công hay thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tích thật rõ ràng rồi mới kết luận. Kết luận đó là cái chìa khoá phát triển công việc và để giúp cán bộ tiến tới”[19, tr.243]. Chương 2 phát huy vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Giang - thực trạng và giải pháp 2.1. Thực trạng môi trường thông tin chính trị - xã hội và vấn đề phát huy vai trò thông tin chính trị - xã hội trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Giang 2.1.1. Môi trường thông tin chính trị- xã hội ở cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang Môi trường thông tin chính trị- xã hội là nơi tiếp nhận và cung cấp thông tin cho đội ngũ CBCC cấp cơ sở, đồng thời thực hiện chức năng chu chuyển thông tin, quyết định nhịp độ nhanh, chậm của quá trình chu chuyển thông tin đó. Môi trường thông tin chính trị- xã hội của CBCC là nói đến các yếu tố: nguồn thông tin, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động truyền thông tin, cơ chế thông tin. 2.1.1.1. Nguồn thông tin Chúng ta biết rằng thông tin phục vụ trực tiếp cho hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC cấp cơ sở là thông tin chính trị- xã hội. ở phương diện phản ánh cái đa dạng của các quan hệ xã hội, với sự hỗ trợ tối đa của các phương tiện thông tin hiện đại ngày nay, cùng với sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa thông tin đã tạo nên nguồn thông tin chính trị- xã hội vô cùng phong phú đa dạng. Song lãnh đạo, quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt của con người về thực chất đó là quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin. Khi thông tin trở thành tri thức sẽ giúp lãnh đạo có cơ sở để ra các nghị quyết, quyết định chính xác hơn, nhanh hơn, có hiệu quả và khôn ngoan hơn. Các nghị quyết, quyết định các biện pháp tổ chức thực hiện nói chung có thể gọi là sản phẩm của hoạt động quản lý- là thông tin điều hành. Để có được thông tin điều hành chất lượng tốt, đạt hiệu quả cao thì nguồn thông tin tri thức cung cấp cho lãnh đạo cần thật đầy đủ, chính xác và kịp thời. Thông tin thu nhận được phải qua một quy trình xử lý, chế biến nghiêm túc và mang tính khoa học, đáp ứng yêu cầu, phương hướng mục tiêu của hoạt động quản lý điều hành. Đồng thời, việc xác định đúng đắn nhu cầu thông tin là một việc rất quan trọng, quyết định hiệu quả sử dụng thông tin trong việc ra quyết định quản lý. Trong quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở quá trình lãnh đạo, quản lý là quá trình thông tin hai chiều liên tục giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Cơ sở và nền tảng cho việc ra nghị quyết, quyết định trong hoạt động lãnh đạo, quản lý là toàn bộ không gian thông tin bao gồm: Thứ nhất, thông tin từ trên xuống (dạng văn bản hợp pháp) như các nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư.v.v…Đây là nguồn thông tin chính thống, thông tin chỉ đạo cấp dưới thực hiện mà CBCC ở cơ sở phải phục tùng. Lực lượng CBCC ở cơ sở họ vừa là chủ thể thông tin vừa là khách thể thông tin, để lãnh đạo tốt hoạt động ở địa phương mình, họ cần phải phục tùng các thông tin từ cấp trên. ở góc độ này họ là những đối tượng nhận tin trực tiếp có liên quan đến các quyết định lãnh đạo, quản lý. Khi những quyết định quản lý được phát ra, họ lại trở thành những chủ thể thông tin chính thống của địa phương mình. Với đặc thù trên, nguồn thông tin này phải được phổ biến thường xuyên, kịp thời, thông suốt đảm bảo cho người CBCC ở cơ sở nắm thông tin một cách nhanh nhất, chính xác nhất nhằm triển khai các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách kịp thời, hiệu quả. Nguồn thông tin này đến với CBCC thông qua hội nghị trực tiếp, qua đường bưu chính, thư điện tử, trên các phương tiện phát thanh- truyền hình, báo chí của trung ương và địa phương. Thứ hai, thông tin từ dưới lên (thông tin phản ánh thực hiện). Đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCC cấp cơ sở thì việc nắm bắt các nguồn thông tin từ dân là điều không thể thiếu trong công tác của mình. Sự tiếp xúc trực tiếp của cán bộ lãnh đạo với người dân là một nguồn thông tin quan trọng và xác thực. Lênin đã nói, muốn “xác định đúng tâm trạng của quần chúng, nhu cầu thực tế của họ, nguyện vọng, tư tưởng của họ về mọi vấn đề, ở mọi thời điểm, cần phải nghiên cứu dư luận xã hội, hơn nữa là sự nghiên cứu có suy nghĩ, có hệ thống chứ không phải là tình cờ ngẫu nhiên” [17, tr.348]. Sự trao đổi thông tin trực tiếp giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo là nguồn thông tin quý, cần thiết cho việc quản lý. Thông qua dư luận xã hội, người lãnh đạo sẽ có được nhiều thông tin từ thực tiễn cơ sở để từ đó chọn lọc thông tin đưa ra những quyết định kịp thời, sát với thực tiễn. Đồng thời thông qua dư luận xã hội, người lãnh đạo điều chỉnh kịp thời những quyết định đang thực hiện sao cho sát thực nhất và kiểm tra tính chính xác hiệu quả của các quyết định từ đó rút kinh nghiệm cho việc thực hiện các quyết định tiếp theo. Nguồn thông tin từ dưới lên người CBCC ở cơ sở nắm được qua tiếp xúc trực tiếp với nhân dân, qua hội nghị tiếp xúc cử tri, qua đội ngũ báo cáo viên ở cơ sở, qua hộp thư góp ý của nhân dân.v.v…Thông qua dư luận xã hội người CBCC ở cơ sở nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng tình cảm của quần chúng và thấy được hiệu quả của các quyết định quản lý đi vào đời sống ra sao, những hạn chế cần khắc phục trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình. Thứ ba, thông tin khác: sách báo, internet, phương tiện truyền thông… Đây là nguồn thông tin phong phú đa dạng và nhiều chiều đến với tất cả mọi người nói chung, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo chủ chốt nói riêng. Nguồn thông tin này vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. Nó cung cấp cho con người nhiều thông tin có giá trị làm tăng thêm tri thức vốn hiểu biết, tuy nhiên nó cũng có thể có cả những thông tin không chính xác, thông tin bị nhiễu, thông tin phản diện gây khó khăn cho việc nắm bắt, xử lý thông tin của các nhà lãnh đạo, quản lý. Nguồn thông tin này đến với cán bộ lãnh đạo qua các kênh: kênh truyền thông đại như sách báo, phát thanh- truyền hình, phim ảnh, truyện…; kênh học tập, được thực hiện thông qua hoạt động dạy- học, giáo dục đào tạo trên cơ sở các sách giáo khoa, tài liệu tham khảo… Một kênh thông tin phổ biến hiện nay không thể không nói tới đó là thông tin từ mạng internet. Đây là nguồn thông tin vô tận về tất cả các lĩnh vực ở mọi nơi trên thế giới nếu con người biết khai thác và sử dụng nó. Internet là xa lộ thông tin, nó có năng lực đáp ứng hầu như không hạn chế mọi yêu cầu về thông tin của bất cứ cá nhân nào trong xã hội hầu như không chậm trễ và đồng thời. Một người có máy vi tính nối mạng ngồi ở nhà có thể qua xa lộ thông tin tiếp cận với bất kỳ thư viện lớn nào trên thế giới, với bất kỳ ngân hàng dữ liệu nào mà mình cần. Vì vậy, CBCC ở cơ sở phải biết tận dụng và khai thác nguồn thông tin từ kênh này để phục vụ cho hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình. Hiện nay các đơn vị ở cơ sở hầu như đã có máy tính nối mạng phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước, do đó CBCC cần phải sử dụng máy tính để khai thác thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước một cách hiệu quả. 2.1.1.2. Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ khai thác thông tin chính trị- xã hội Bắc giang là tỉnh miền núi ở vùng Đông Bắc của Việt Nam, nằm cách Hà Nội khoảng 50 km về phía Đông. Tiếp cận với trục kinh tế trọng điểm Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh, có nhiều tuyến đường bộ, sắt đi qua nối với các tỉnh trong vùng và đến cửa khẩu Đồng Đăng của Lạng Sơn. Bắc Giang có 10 đơn vị hành chính: 9 huyện và thành phố Bắc Giang, trong đó có 6 huyện miền núi và 1 huyện vùng cao Sơn Động. Có 230 xã, phường, thị trấn (30 xã đặc biệt khó khăn). Dân số trên 1,6 triệu người, trong đó khoảng 12% là đồng bào dân tộc ít người. Diện tích tự nhiên là 3.822 km2, lãnh thổ chạy dài theo hướng Đông- Tây. Phía Đông và Đông Bắc có các dãy núi cao, thấp nghiêng dần về phía Tây Nam. Địa hình chủ yếu là đồi trung bình và núi cao, các huyện phía Nam có đồng bằng xen các đồi núi thấp. Với khoảng 90% dân số sống ở khu vực nông thôn, 80% lao động nông- lâm nghiệp, cơ bản vẫn là một tỉnh kinh tế thuần nông. Với điều kiện địa lý tự nhiên như trên, có ảnh hưởng đến môi trường thông tin ở từng cơ sở của từng vùng, miền cũng như thực trạng khai thác, tiếp nhận và xử lý thông tin của đội ngũ CBCC cấp cơ sở. Từ đó quy định hoạt động lãnh đạo, quản lý của người cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở từng vùng, miền trong tỉnh có những nét khác nhau. Cuộc CMTT hiện nay đã tạo dựng nên một môi trường thông tin toàn cầu mà biểu tượng rực rỡ của nó là mạng internet. Ngày nay không một quốc gia, dân tộc nào có thể đứng ngoài quỹ đạo đó: Giả dụ ngày nay có một dân tộc nào không muốn hội nhập vào với trào lưu toàn cầu hoá, thử hỏi có sống được chăng. Anh có muốn nhận thông tin từ ngoài không ? Anh có muốn khuếch trương những thành tựu của đất nước anh ra ngoài không ? Nếu muốn anh không còn cách lựa chọn nào khác là phải dùng vô tuyến viễn thông, dùng vệ tinh, dùng cáp truyền dẫn, dùng máy vi tính, cùng hoà mạng internet.v.v…Đó là hệ giá trị mới, buộc các dân tộc phải chấp nhận. Bởi lẽ, các hệ cổ điển thông tin bằng thông điệp qua các sứ thần đi bộ, đi ngựa, đi thuyền, thậm chí đi bằng máy bay, vẫn không phù hợp với thời đại mới nữa [8, tr.14]. Việt Nam là một nước đang phát triển cũng bắt nhịp được vào cuộc CMTT này. Môi trường thông tin ở Việt Nam vì thế đã có sự chuyển biến căn bản về chất, từ nghèo nàn, đơn điệu, chậm chạp, khép kín đến đa dạng, phong phú, cực nhanh và lưu thông với môi trường thông tin toàn cầu. Môi trường thông tin chính trị- xã hội là yếu tố khách quan ảnh hưởng trực tiếp đến việc khai thác và xử lý thông tin của người cán bộ lãnh đạo trong suốt quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Do đó phải xây dựng một môi trường thông tin chính trị- xã hội thuận lợi: phong phú, đa chiều, kịp thời, dân chủ và lành mạnh là vấn đề cần thiết đối với các cấp lãnh đạo nói chung, đặc biệt là cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang nói riêng. Là một tỉnh miền núi, tình hình kinh tế- xã hội còn nhiều khó khăn nhưng lĩnh vực thông tin đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Công tác ứng dụng CNTT trên địa bàn đạt kết quả tốt, năm 2008 được Bộ thông tin và Truyền thông đánh giá là đơn vị dẫn đầu trong toàn quốc về phát triển và ứng dụng CNTT. Trong những năm qua, Ban thường vụ tỉnh uỷ Bắc Giang cùng với các cấp uỷ Đảng, chính quyền ở địa đã thường xuyên quan tâm, lãnh chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các cơ quan của hệ thống chính trị. Đầu tư trang thiết bị, xây dựng hạ tầng viễn thông cả về quy mô công nghệ mới và chất lượng dịch vụ. Thông tin liên lạc được thông suốt, phục vụ công tác trao đổi thông tin trong sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, phục vụ yêu cầu phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai và về cơ bản đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin, giao lưu văn hoá của nhân dân. Mạng lưới bưu chính được củng cố, cải tạo, nâng cấp nâng cao chất lượng phục vụ. Chất lượng các dịch vụ bưu chính ngày càng được nâng lên, đảm bảo nhu cầu thông tin liên lạc thông suốt trong mọi tình huống, phục vụ tốt yêu cầu thông tin liên lạc của các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp và nhân dân trong toàn tỉnh. Đến nay trên địa bàn tỉnh có 231 cơ sở bưu điện (gồm 46 bưu cục, 185 điểm bưu điện văn hoá xã). Bán kính phục vụ bình quân là 2,03 km, dân số phục vụ đạt 6.980 người/ điểm, có 40/185 điểm bưu điện văn hoá xã có nối mạng internet. Trong những năm gần đây, hoạt động của điểm bưu điện văn hoá xã đã đem lại thuận lợi, tiện ích về nhu cầu liên lạc cũng như đọc sách báo của nhân dân. Hoạt động hiệu quả của điểm bưu điện văn hoá xã đã và đang góp phần thu hẹp khoảng cách về thông tin liên lạc, là một trong những cầu nối đưa chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân một cách nhanh nhất. Trung bình mỗi xã có khoảng 10 đầu báo, trong đó số lượng báo nhân dân 10 tờ, báo Bắc giang là 20 tờ, báo Bắc giang điện tử đã phát hành ra nước ngoài trên mạng internet toàn cầu. Mạng lưới phát thanh truyền hình tương đối phát triển, phủ sóng phát thanh đạt 100%, phủ sóng truyền hình đạt 97% diện tích toàn tỉnh (tăng 2% so với năm 2005). Hệ thống loa đài phát thanh cũng được hỗ trợ kinh phí hàng năm p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vai trò của thông tin chính trị - xã hội đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang.pdf
Tài liệu liên quan