Tài liệu Luận văn Tổng kết và theo dõi mô hình trồng nấm rơm trong mùa lũ năm 2004 tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô: ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ
MSSV: DPN010717
TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG NẤM 
RƠM TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI XÃ 
LƯƠNG AN TRÀ VÀ XÃ CÔ TÔ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 
Ths. Nguyễn Thanh Triều 
Ks. Trần Nhựt Phương Diễm
Tháng 6.2005
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ
MSSV: DPN010717
TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG NẤM 
RƠM TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI XÃ 
LƯƠNG AN TRÀ VÀ XÃ CÔ TÔ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 
Ths. Nguyễn Thanh Triều 
Ks. Trần Nhựt Phương Diễm
Tháng 6.2005
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG NẤM 
RƠM TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI XÃ 
LƯƠNG AN TRÀ VÀ XÃ CÔ TÔ
Do sinh viên: VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ thực hiện và đệ nạp
Kính trình Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xét duyệt
Long xuyên, ngày……tháng…....
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
77 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tổng kết và theo dõi mô hình trồng nấm rơm trong mùa lũ năm 2004 tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ
MSSV: DPN010717
TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG NẤM 
RƠM TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI XÃ 
LƯƠNG AN TRÀ VÀ XÃ CÔ TÔ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 
Ths. Nguyễn Thanh Triều 
Ks. Trần Nhựt Phương Diễm
Tháng 6.2005
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ
MSSV: DPN010717
TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG NẤM 
RƠM TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI XÃ 
LƯƠNG AN TRÀ VÀ XÃ CÔ TÔ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 
Ths. Nguyễn Thanh Triều 
Ks. Trần Nhựt Phương Diễm
Tháng 6.2005
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG NẤM 
RƠM TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI XÃ 
LƯƠNG AN TRÀ VÀ XÃ CÔ TÔ
Do sinh viên: VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ thực hiện và đệ nạp
Kính trình Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xét duyệt
Long xuyên, ngày……tháng….năm 200…
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 
Ths. Nguyễn Thanh Triều 
Ks. Trần Nhựt Phương Diễm
3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn đính kèm 
với tên đề tài: TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG NẤM 
RƠM TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI XÃ LƯƠNG AN TRÀ VÀ XÃ 
CÔ TÔ.
Do sinh viên: VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ
Thực hiện và bảo vệ trước hội đồng ngày:……………………………
……..
Luận văn đã được hội đồng đánh giá ở mức:…………………………
……..
Ý kiến của Hội đồng:…………………………………………………
……...
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………
Long xuyên, ngày…..tháng…..năm 200…
DUYỆT Chủ Tịch Hội đồng
BAN CHỦ NGHIỆM KHOA NN-TNTN
4
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
Họ và Tên: VŨ THỊ PHƯƠNG HUỆ
Con Ông: VŨ VĂN TÚ
và Bà: NGUYỄN THỊ SỆT
Sinh năm: 1983
Tại: Khóm Mỹ Quới, Phường Mỹ Phước, thị xã Long Xuyên, tỉnh An 
Giang.
Đã tốt nghiệp phổ thông năm 2001 tại trường Phổ thông trung học 
Long Xuyên, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Vào trường Đại học An Giang năm 2001, học lớp ĐH2PN2 khoá 2, 
thuộc khoa Nông nghiệp – Tài nguyên thiên nhiên và đã tốt nghiệp kỹ sư 
ngành Phát Triển Nông Thôn năm 2005.
5
Hình
4 x 6
LỜI CẢM TẠ
Qua quá trình học tập cùng với thời gian thực tập tốt nghiệp, đến nay 
em đã hoàn thành được luận văn tốt nghiệp để có thể kết thúc được một giai 
đoạn học tập quan trọng của mình. Trong quá trình ấy để đạt được những kết 
quả tốt ngoài sự cố gắng học tập của bản thân thì sự dạy bảo ân cần của thầy 
cô, sự hướng dẫn tận tình của các anh chị nơi thực tập và sự động viên giúp 
đỡ của gia đình, bạn bè cũng đã góp phần quan trọng giúp em vượt qua 
những khó khăn trong học tập. Nhân đây em xin gửi lời cảm ơn đến:
Tất cả thầy cô khoa Nông nghiệp – Tài nguyên thiên nhiên đã dạy bảo, 
truyền đạt cho em những kiến thức, kinh nghiệm trong học tập và nghiên cứu, 
đặc biệt là thầy Dương Ngọc Thành, thầy Nguyễn Thanh Triều và cô Trần 
Nhựt Phương Diễm đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp em sửa chữa những sai sót 
để có thể hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Anh Trần Nam Dương, chú Huỳnh Văn Dện ở xã Lương An Trà và 
anh Phạm Văn Hiếu ở xã Cô Tô đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em để hoàn 
thành tốt đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn
Vũ Thị Phương Huệ
6
TÓM LƯỢC
Đề tài được thực hiện với mục đích tìm hiểu quy trình kỹ thuật, hiệu 
quả kinh tế cũng như những khó khăn - thuận lợi trong quá trình sản xuất 
nấm rơm trong mùa lũ của những người dân ở hai xã Lương An Trà và Cô Tô 
thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang để tổng kết và đánh giá hiệu quả của mô 
hình trong việc cải thiện thu nhập của những người dân ở đây.
Theo dõi 3 hộ nông dân trồng nấm rơm ở xã Lương An Trà.Tiến hành 
điều tra ngẫu nhiên 30 hộ trồng nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô.
Đa số chủ hộ có tuổi từ 18-60 tuổi chiếm 66,25%, các thành viên trong 
gia đình có 63,6% tập trung dưới 18 tuổi. Trình độ văn hoá của chủ hộ ở cấp 
1 chiếm 40% và trình độ văn hoá của các thành viên trong hộ chủ yếu ở cấp 1 
chiếm 41,44%. Số nhân khẩu trong gia đình phần lớn từ 4-5 người/hộ.
Phần lớn số hộ có diện tích canh tác tập trung từ 50-200 mét mô 
chiếm 41,4% và 80% nông hộ có kinh nghiệm trồng nấm nhỏ hơn 2 năm. Có 
80% nông hộ nơi bố trí trồng nấm ngoài trảng và 20% nông hộ bố trí nơi 
trồng nấm dưới tán cây. Số hộ xử lý nền trồng nấm chiếm 56,7%, nông dân 
chủ yếu sử dụng giống meo Mười Cười và giống meo Thần Nông.
Trong các hộ điều tra có 33,3% hộ ủ rơm có đậy và 66,7% hộ ủ không 
đậy. Số nông hộ bố trí dạng mô đơn chiếm 76,7% và hầu hết các hộ đều đậy 
rơm áo và trở tơ. Số hộ sử dụng chất kích thích tố chiếm 76,67%, nông hộ sử 
dụng nông dược chiếm 23,33%. 
 Có 80% nông hộ có ngày đầu tiên thu hoạch nấm vào ngày thứ 12 sau 
khi chất nấm. Số hộ thu hoạch nấm 2 đợt/vụ chiếm 63,3%. Nấm rơm hầu hết 
đều tiêu thụ tại chợ. Năng suất 0,6 – 1 kg/mét mô chiếm 46,6%.
Hiệu quả đồng vốn của mô hình nấm rơm là 2,44.
Nữ giới tham gia nhiều ở hoạt động bán nấm chiếm 60%.
Có 36,7% nông hộ cho rằng việc vận chuyển rơm xa làm tăng chi phí 
là khó khăn chủ yếu của họ trong lúc trồng nấm rơm .
7
MỤC LỤC
 Nội Dung Trang
CẢM TẠ i
TÓM LƯỢC ii
MỤC LỤC iii
DANH SÁCH BẢNG vi
DANH SÁCH HÌNH viii
Chương 1: GIỚI THIỆU 1
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1. Tình hình trồng nấm rơm trên thế giới 2
2.2. Tình hình sản xuất nấm rơm và những thuận lợi của nghề 
trồng nấm ở Việt Nam
3
2.2.1. Tình hình sản xuất nấm rơm 3
2.2.2. Những thuận lợi trong việc phát triển nghề trồng nấm ở 
Việt Nam
4
2.3. Giá trị dinh dưỡng, điều kiện ngoại cảnh và sự phát triển 
của nấm rơm
5
2.3.1. Giá trị dinh dưỡng 5
2.3.1.1. Hàm lượng Protein 5
2.3.1.2. Hàm lượng chất béo 6
2.3.1.3. Hàm lượng đường 6
2.3.1.4. Hàm lượng chất khoáng 6
2.3.1.5. Hàm lượng Vitamin 6
2.3.2. Điều kiện ngoại cảnh và sự phát triển của nấm rơm 6
2.3.2.1. Điều kiện ngoại cảnh 6
2.3.2.2. Sự phát triển của nấm rơm 8
2.4. Kỹ thuật trồng nấm rơm 11
2.4.1. Thời vụ trồng nấm 11
2.4.2. Nền trồng nấm 12
2.4.3. Nguyên liệu trồng nấm 12
2.4.4. Meo giống 14
2.4.5. Nước tưới 15
2.4.6. Phương pháp sắp xếp mô và rải meo 15
2.4.7. Chăm sóc và tưới đón nấm 16
2.4.7.1. Tủ rơm áo và đảo rơm áo 16
2.4.7.2. Chăm sóc và tưới đón nấm 17
2.4.8. Thu hái, bảo quản và tiêu thụ nấm rơm 18
2.4.8.1. Thu hoạch nấm rơm 18
2.4.8.2. Bảo quản nấm rơm 19
2.4.8.3. Tiêu thụ nấm rơm 19
2.4.9. Sâu bệnh hại nấm rơm 20
8
Chương 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 23
3.1. Địa bàn nghiên cứu 23
3.2. Phương pháp 23
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu 23
3.2.2. Phương pháp tiến hành 23
3.2.3. Công thức tính 24
3.2.4. Phân tích thống kê 24
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 25
4.1. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu 25
4.1.1. Xã Lương An Trà 25
4.1.2. Xã Cô Tô 26
4.2. Thông tin chung về nông hộ 26
4.2.1. Tuổi của chủ hộ và các thành viên trong gia đình 26
4.2.2. Trình độ văn hoá 27
4.2.3. Số nhân khầu trong gia đình 28
4.3. Số mét mô chất nấm và kinh nghiệm canh tác nấm rơm 28
4.3.1. Số mét mô chất nấm của nông hộ 28
4.3.2. Kinh nghiệm trồng nấm 29
4.4. Thời vụ và nơi trồng nấm 30
4.4.1. Thời vụ trồng nấm rơm 30
4.4.2. Nơi trồng nấm 31
4.5. Loại meo trồng nấm 31
4.6. Số lần tưới nước trồng nấm của nông hộ 32
4.7. Kỹ thuật canh tác của nông hộ 33
4.7.1. Xử lý nền trồng nấm 33
4.7.2. Ủ rơm và cách nhận biết rơm chín 34
4.7.2.1. Ủ rơm 34
4.7.2.2. Cách nhận biết rơm chín 35
4.7.3. Dạng mô chất nấm rơm 36
4.7.4. Trở tơ sau khi chất 38
4.7.5. Hiện trạng sử dụng chất kích tố trong quá trình trồng nấm 38
4.7.6. Dịch hại nấm rơm và tình hình sử dụng nông dược 40
4.8. Thu hoạch 41
4.8.1. Ngày bắt đầu hái 41
4.8.2. Số đợt thu hoạch/vụ 42
4.8.3. Tiêu thụ sản phẩm 43
4.8.4. Năng suất nấm rơm trên 1 mét mô (kg/m) 44
4.9. Chi phí, thu nhập và lợi nhuận 45
4.10. Sự tham gia của nữ giới trong việc trồng nấm 46
4.11. Hiệu quả đầu tư và chi phí của mô hình canh tác 2 lúa-
nấm rơm tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô
47
4.12. Thuận lợi và khó khăn trong quá trình trồng nấm 48
9
4.12.1. Thuận lợi 48
4.12.2. Khó khăn 48
4.13. Mô hình theo dõi 49
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 53
5.1. Kết luận 53
5.2. Đề nghị 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
PHỤ CHƯƠNG pc-1
1
DANH SÁCH BẢNG
Bảng
số
Tựa Bảng
Trang
1
Điều kiện nuôi trồng nấm rơm (Trần Đình Đằng và Nguyễn 
Hữu Ngoan, 2002)
8
2
Đặc điểm của meo nấm tốt và meo nấm xấu (Lê Ngọc Thạch 
và Lê Đức Nam, 2001) 14
3
Ảnh hưởng của nhiệt độ lên nấm rơm (Trần Đình Đằng và 
Nguyễn Hữu Ngoan, 2002)
20
4
Biện pháp phòng trừ tổng hợp khi trồng nấm rơm (Tài liệu tập 
huấn, 2004)
22
5
Tuổi của chủ hộ và các thành viên trong gia đình ở xã Lương 
An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
27
6
Trình độ văn hoá của chủ hộ và các thành viên trong hộ ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
27
7
Số nhân khẩu trong gia đình ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, 
năm 2004
28
8
Vị trí nơi trồng nấm của các nông hộ ở xã Lương An Trà và xã 
Cô Tô, năm 2004
31
9
Loại meo sử dụng trồng nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã 
Cô Tô, năm 2004
32
10
Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không đậy đống ủ ở xã Lương An Trà 
và xã Cô Tô, năm 2004 35
11
Cách nhận biết rơm chín của nông hộ ở xã Lương An Trà và 
xã Cô Tô, năm 2004
36
12
Dạng mô chất nấm rơm của những nông hộ ở xã Lương An 
Trà và xã Cô Tô, năm 2004 36
13
Tỉ lệ (%) số hộ trở tơ ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 
2004 38
14
Tỉ lệ (%) số hộ bổ sung chất kích thích tố trong quá trình trồng 
nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 39
1
15
Tỉ lệ (%) số hộ thu hoạch nấm rơm vào ngày đầu tiên khác 
nhau ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 42
16
Số đợt thu hoạch nấm rơm trên 1 vụ ở xã Lương An Trà và xã 
Cô Tô 42
17 Giá bán nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 44
18
Chi phí, thu nhập và lợi nhuận của mô hình trồng nấm rơm ở 
xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 46
19
Sự tham gia của nữ giới trong quá trình trồng nấm rơm ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô 47
20
Hiệu quả đầu tư và chi phí của mô hình canh tác 2 lúa - nấm 
rơm tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô 47
21
Thuận lợi trong quá trình trồng nấm rơm của nông hộ ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô 48
22
Khó khăn trong quá trình trồng nấm rơm của nông hộ ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô 49
1
DANH SÁCH HÌNH
Hình
số
Tựa Hình
Trang
1 Chu trình sống của nấm rơm (Nguyễn Lân Dũng, 2003) 10
2 Sơ đồ tiến trình nuôi trồng nấm rơm (Lê Duy Thắng, 1997) 11
3
Số mét mô chất nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 
2004 29
4
Số năm kinh nghiệm trồng nấm rơm của các nông hộ ở xã Lương 
An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 29
5
Tỉ lệ (%) nông hộ có thời vụ bố trí trồng nấm rơm ở xã Lương An 
Trà và xã Cô Tô, năm 2004 30
6
Số lần tưới nước trồng nấm trong ngày của các nông hộ ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 33
7
Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không xử lý nền trước khi chất nấm ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 34
8 Đống ủ không đậy, năm 2004 35
9 Mô đơn 37
10 Mô đôi 37
11
Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không sử dụng chất kích thích tố trong quá 
trình trồng nấm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 39
12
Tỉ lệ (%) sự xuất hiện dịch hại khác nhau trên mô nấm rơm ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 40
13
Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không sử dụng nông dược trong quá trình 
trồng nấm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 41
14 Phân loại nấm rơm trước khi đem bán 43
15
Năng suất nấm rơm trên 1 mét mô (kg/m) ở xã Lương An Trà và 
xã Cô Tô, năm 2004
45
1
Chương 1 GIỚI THIỆU
An Giang nằm ở hạ lưu lưu vực sông Mê Kông lại có hệ thống sông 
ngòi và kênh rạch chằng chịt, do đó bị tác động đầy đủ của các quá trình thuỷ 
văn như ngập lụt, sụp lở đất bờ sông… Vào tháng 7 và tháng 8 hàng năm 
thường có các nhiễu động nhiệt đới hoạt động hàng ngày mưa to và dài ngày 
làm xuất hiện những trận lũ đầu mùa ở cả trung và hạ lưu sông Mê Kông. 
Mỗi khi lũ về là người dân phải đối mặt với những thiệt hại không chỉ 
về người mà còn về của, cuộc sống người dân gặp nhiều khó khăn do thời 
gian nhàn rỗi thì nhiều mà họ lại không có được việc làm. Cho nên để giúp 
cho người dân vẫn có thể sống hoà bình với lũ, vẫn có thu nhập ổn định trong 
mùa lũ thì việc tìm ra các mô hình nuôi trồng thích hợp là rất cần thiết. Từ lợi 
thế tỉnh An Giang có đa số người dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa , sản 
phẩm phụ (rơm, rạ) từ quá trình trồng lúa là rất lớn cho nên việc đưa mô hình 
trồng nấm rơm trong mùa lũ sẽ tận dụng phế phẩm cây lúa sau thu hoạch, tạo 
ra sản phẩm mới, phù hợp với lao động nông thôn và khai thác lợi thế nhàn 
rỗi trong mùa nước nổi. Do nấm rơm có thể trồng quanh năm, chi phí đầu tư 
thấp, yêu cầu kỹ thuật không phức tạp, thu hồi vốn nhanh nên những người 
dân nghèo ít vốn vẫn có thể áp dụng được. Có thể coi mô hình trồng nấm rơm 
là một trong những mô hình để xoá đói giảm nghèo.
Do đó, đề tài “Tổng kết và theo dõi mô hình trồng nấm rơm trong 
mùa lũ năm 2004 tại xã Lương An Trà và Cô Tô” được thực hiện nhằm 
mục đích tìm hiểu qui trình kỹ thuật, những thuận lợi, khó khăn trong quá 
trình sản xuất nấm rơm trong mùa lũ để tổng kết và đánh giá hiệu quả của mô 
hình trong việc cải thiện thu nhập của người dân ở đây. 
1
Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
Nấm rơm là loại nấm khá quen thuộc của nhân dân các nước Châu Á, 
nhất là Đông Nam Á, chủ yếu là vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nấm thường 
mọc trên nguyên liệu phổ biến là rơm nên có tên chung là nấm rơm (Straw 
mushroom) (Trung tâm UNESCO, 2004).
Nấm rơm (còn gọi là Nấm rạ, Thảo Cô) có tên khoa học là Volvariella 
volvacea (Bull. Ex Fr.), thuộc họ Pluteaceae, bộ Agaricales, lớp phụ 
Hymenomycetidae, lớp Hymenomycetes, ngành phụ Basidiomycotina, ngành 
Nấm thật-Eumycota, giới Nấm-Mycota hay Fungi (Nguyễn Lân Dũng, 2003).
2.1. Tình hình trồng nấm rơm trên thế giới 
Nấm rơm được trồng đầu tiên ở Trung Quốc sau đó được phổ biến 
sang nhiều quốc gia Đông Nam Á và Bắc Phi (Nguyễn Lân Dũng, 2002). 
Điều này về sau được xác nhận bởi các tác giả Philippines là Bammerito và 
Espino (1936) và tác giả Thái Lan là Jalaricharana (1950) (Nguyễn Hữu 
Đống và ctv, 2002). Các nước trên thế giới hiện nay tập trung nghiên cứu và 
sản xuất nấm mỡ, nấm hương, nấm sò, nấm rơm là chủ yếu (Nguyễn Hữu 
Đống và ctv, 2002). Nguyễn Lân Dũng (2003) cho biết sản lượng nấm rơm 
sản xuất trên toàn thế giới là 250.000 tấn (1995), riêng Trung Quốc đã là 
150.000 tấn (chiếm 60% sản lượng của thế giới).
Theo Nguyễn Hữu Đống và ctv (2002), thị trường tiêu thụ nấm lớn 
nhất hiện nay là Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, các nước Châu Âu... Hàng năm các 
nước này phải nhập khẩu từ Trung Quốc (nấm muối và nấm đóng hộp). Tại 
các nước này, do khó khăn về nguồn nguyên liệu và giá công lao động rất đắc 
nên những người nuôi trồng nấm và kinh doanh mặt hàng này đang chuyển 
dịch sang các nước chậm phát triển để mua nguyên liệu (nấm muối) và đầu tư 
sản xuất, chế biến tại chỗ.
Ở Châu Á , trồng nấm mang tính chất thủ công, năng suất không cao, 
nhưng sản xuất gia đình với số đông, nên tổng sản lượng rất lớn (Lê Duy 
Thắng, 1997). Các nước ở khu vực Châu Á như Đài Loan, Trung Quốc , Thái 
Lan,…nghề trồng nấm cũng phát triển rất mạnh mẽ, một số loại nấm ăn được 
nuôi trồng khá phổ biến, đó là nấm mỡ (Agaricus bisporus), nấm hương 
1
(Lentinus edodes), nấm rơm (Volvariella volvacea),…sản phẩm nấm được 
tiêu thụ chủ yếu ở dạng tươi, đóng hộp, sấy khô và làm thuốc bổ (Nguyễn 
Hữu Đống và ctv, 2002).
Nguyễn Lân Dũng và ctv (2002) cho rằng vấn đề nghiên cứu và sản 
xuất nấm ăn trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ, nó đã trở thành một 
ngành công nghệ thực phẩm thực thụ.
2.2. Tình hình sản xuất nấm rơm và những thuận lợi của nghề trồng nấm 
ở Việt Nam 
2.2.1. Tình hình sản xuất nấm rơm
Theo Việt Chương (2003) thì vào khoảng năm 1963, tại miền Nam 
nước ta, phong trào trồng nấm rơm bắt đầu nở rộ khi meo giống nhân tạo ra 
đời, nhập meo nấm rơm ở Đài Loan, Hồng Kông... Mặt khác, Nguyễn Hữu 
Đống và ctv (2002) cũng cho biết chỉ hơn 10 năm trở lại đây, trồng nấm mới 
được xem như là một nghề mang lại hiệu quả kinh tế. Các loại nấm ăn như: 
Nấm sò, nấm rơm, nấm mộc nhĩ,… được trồng ngày càng tăng (đối với các 
tỉnh phía Bắc) chủ yếu tiêu dùng nội địa. Ước tính trung bình một năm đạt 
khoảng 100 tấn nấm tươi. 
Theo Nguyễn Lân Dũng (2001), ở miền Nam nước có thể trồng quanh 
năm các loại nấm rơm (Volvariella volvacea), nhiều loại nấm sò hay còn gọi 
là nấm Bào ngư (Pleurotus spp.), mộc nhĩ hay còn gọi là nấm mèo 
(Auricularia spp.). Và từ năm 1989 đến nay nhân dân các tỉnh Đồng Bằng 
Sông Cửu Long đã tiếp thu kỹ thuật và trồng nấm rơm rộng rãi (Trần Đình 
Đằng và Nguyễn Hữu Ngoan, 2002). Bên cạnh đó, Nguyễn Hữu Đống và ctv 
(2002) cho biết sản lượng nấm rơm tăng theo cấp số nhân: từ trước năm 1990 
mới đạt con số vài trăm tấn/năm đến nay đạt trên 40.000 tấn/năm. Các tỉnh 
phía Nam đã và đang xuất khẩu nấm rơm muối đóng hộp với số lượng hàng 
ngàn tấn/năm sang thị trường Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan... 
1
2.2.2. Những thuận lợi trong việc phát triển nghề trồng nấm ở 
Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước có đủ điều kiện để phát triển mạnh 
nghề trồng nấm, do: 
- Điều kiện thiên nhiên ưu đãi
Các tỉnh phía Nam do sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng nóng và 
tháng lạnh không lớn lắm nên có thể trồng nấm quanh năm, lý tưởng nhất là 
vào các tháng mùa khô từ tháng 11 đến tháng 6 dương lịch (Nguyễn Hữu 
Đống, 2003; Việt Chương, 2001).
- Nguồn nguyên liệu rẻ và dồi dào
Nguyên liệu trồng nấm chủ yếu là các phế liệu nông, lâm nghiệp, 
thường rất nhiều ở các địa phương, vừa giải quyết về mặt môi trường đồng 
thời tạo nên sản phẩm mới. Phế phẩm sau khi trồng nấm còn có thể sử dụng 
cho trồng trọt (Trung tâm UNESCO, 2004).
- Giải quyết lao động 
Ở nước ta có lực lượng lao động nhàn rỗi khá đông đảo nhất là 
trong lĩnh vực nông nghiệp, tính trung bình 1 lao động nông nghiệp mới chỉ 
dùng đến 30 - 40% quỹ thời gian, chưa kể đến việc mọi lao động phụ đều có 
thể tham gia trồng nấm được (Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002 – 2003). Do 
vậy trồng nấm vừa tạo được công ăn việc làm vừa mang lại nguồn thu nhập 
cho người dân.
- Đầu tư thấp, vòng quay nhanh 
Ở nước ta còn nhiều hộ nông dân nghèo hoặc hoàn cảnh khó khăn, 
không thể đầu tư vốn để nuôi trồng những cây con đắt tiền, quay vòng vốn 
lâu,… trong khi đó vốn đầu tư cho sản xuất nấm rất ít so với các ngành sản 
xuất khác (Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung, 2003).
Chu kỳ nuôi trồng nấm thường rất ngắn (nấm rơm 20-25 ngày) khi gặp 
thiên tai hoặc biến động của thị trường, vẫn kịp dừng sản xuất hoặc chuyển 
hướng canh tác, điều này không đơn giản ở các loài cây trồng khác (Trung 
tâm UNESCO, 2004).
1
- Giá trị kinh tế cao
Nấm rơm muối có giá bán trung bình từ 1.200 đến 1.300 đôla 
Mỹ/tấn. Giá nấm rơm tươi tương đối ổn định và khá cao, trung bình 5.000-
10.000 đồng/kg, nếu vào ngày chay giá bán có thể tăng hơn. 
- Tạo thêm nguồn thực phẩm
Việc trồng ra nấm để bán hoặc xuất khẩu sẽ phát sinh ra lượng nấm 
thừa. Lượng nấm này thường không nhỏ. Đây là nguồn thực phẩm rất quý, 
không những bổ sung cho khẩu phần ăn hàng ngày mà còn góp phần bảo vệ 
và nâng cao sức khoẻ cho mọi người. Tóm lại, trồng nấm vừa tăng thu nhập 
cho xã hội đồng thời giải quyết nguồn thực phẩm đang còn thiếu ở nước ta 
(Trung tâm UNESCO, 2004).
2.3. Giá trị dinh dưỡng, điều kiện ngoại cảnh và sự phát triển của nấm 
rơm
2.3.1. Giá trị dinh dưỡng 
Nấm rơm là một trong những loại thực phẩm được nhiều người yêu 
thích, nấm có thể chế biến riêng hoặc có thể phối hợp với các món ăn, các bài 
thuốc và được xem như là một loại “rau sạch”, “thịt sạch” có tỷ lệ protein cao 
và các acid amin (trong đó có nhiều loại axit amin không thay thế được), 
không làm tăng lượng cholesterol trong máu như nhiều loại thịt động vật, 
ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm rơm có thành phần chất xơ tương đối cao và 
thành phần lipit thấp nên có khả năng phòng trừ bệnh về huyết áp, chống 
bệnh béo phì, xơ cứng động mạch, chữa bệnh đường ruột,…Tuy nhiên, nếu 
nấm rơm quá già, chế biến không kỹ lưỡng, khi ăn số lượng nhiều dễ dẫn đến 
ngộ độc (Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002).
2.3.1.1. Hàm lượng protein
Theo Nguyễn Lân Dũng (2003), nấm rơm không chỉ là loại thức ăn 
ngon mà còn có giá trị dinh dưỡng cao, tính theo trọng lượng tươi nấm rơm 
chứa 2,66-5,05% protein, trong protein này có đầy đủ 19 loại axit amin. 
Trong 19 loại axit amin này có 8 loại axit amin không thay thế (nghĩa là cơ 
thể người và động vật không tự tổng hợp lấy được). Các axit amin không thay 
1
thế chiếm đến 38,2% trong tổng lượng axit amin ở nấm rơm, tỷ lệ này cao 
hơn so với ở thịt bò, thịt lợn, sữa bò, trứng gà,...
2.3.1.2. Hàm lượng chất béo
Lượng chất béo (lipid) trong nấm rơm là vào khoảng 3% (tính theo 
trọng lượng khô), loại chất béo bão hoà chiếm 41,2%, còn chất béo chưa bão 
hoà chiếm 58,8% (Nguyễn Lân Dũng, 2003).
2.3.1.3. Hàm lượng đường
Ở nấm rơm, lượng đường tăng lên trong giai đoạn phát triển từ nút 
sang kéo dài, nhưng lại giảm khi trưởng thành, hàm lượng đường trong nấm 
rơm chiếm tỷ lệ khoảng 3-28% trọng lượng tươi, dự trữ ở dạng Glucogen (Lê 
Duy Thắng, 1997; Nguyễn Lân Dũng, 2003).
2.3.1.4. Hàm lượng chất khoáng
Tương tự hầu hết các loại rau cải, nấm là nguồn khoáng rất tốt. Nấm 
rơm được ghi nhận là giàu Kali, Calci, Phosphat, chúng chiếm từ 56-70% 
lượng tro tổng cộng, Phosphat và sắt thường hiện diện ở phiến lá và mũ nấm. 
Ở quả thể trưởng thành, thì lượng Na và P giảm, trong khi K, Ca giữ nguyên. 
Ăn nấm bảo đảm bổ sung đầy đủ cho nhu cầu về khoáng mỗi ngày (Lê Duy 
Thắng, 1997). Tỷ lệ từng nguyên tố trong tổng số muối khoáng ở nấm rơm 
(%) thay đổi tùy vào từng giai đoạn phát triển của quả thể nấm.
2.3.1.5. Hàm lượng vitamin
Nấm rơm có chứa phong phú các loại vitamin, lượng vitamin có trong 
100 gram nấm rơm tươi như sau: vitamin B1: 0,35 mg, vitamin B2: 1,63-2,98 
mg, axit nicotinic (B5): 64,88 mg, vitamin C: 158,44-206,27 mg,…(Nguyễn 
Lân Dũng, 2003).
1
2.3.2. Điều kiện ngoại cảnh và sự phát triển của nấm rơm
2.3.2.1. Điều kiện ngoại cảnh
- Độ ẩm không khí: Nấm rơm ưa độ ẩm không khí cao khoảng từ 
80% trở lên. Nếu độ ẩm nhỏ hơn 80% nấm rơm sẽ sinh trưởng chậm (Nguyễn 
Hữu Đống và ctv, 2002).
- Độ ẩm nguyên liệu: Độ ẩm tương đối trong nguyên liệu thường là 
65-70% (Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002). Độ ẩm lên cao hơn có thể gây 
yếm khí cho tơ nấm vì ôxy không phát tán được vào cơ chất, mà nấm lại rất 
cần cho quá trình hô hấp. Độ ẩm xuống thấp, các chất dinh dưỡng khó hoà 
tan làm nấm không thể hấp thụ, dần dần suy yếu đi (Nguyễn Hữu Đống, 
2003).
- Nhiệt độ: Trong giai đoạn ủ tơ nhiệt độ thích hợp nhất là 25-35oC, 
Khi thời tiết thay đổi đột ngột hoặc có gió lạnh thì phải che chắn cẩn thận, giữ 
cho nấm không bị tác động bởi không khí bên ngoài (Lê Duy Thắng, 1997).
- Sự thông thoáng: Trong quá trình phát triển nấm rơm hô hấp mạnh 
nên cần thông thoáng để có đủ ôxy nhưng chú ý không làm ảnh hưởng xấu 
đến nhiệt độ và ẩm độ do nấm rất sợ gió lùa, gió mạnh làm lạnh và khô mặt 
giá thể, tránh gió lùa trực tiếp (Tài liệu tập huấn, 2004).
- Ánh sáng: Nấm rơm mọc trong tối có màu trắng hoặc xám tro, nếu 
tiếp xúc nhiều với ánh sáng nấm sẽ có màu đen đậm (Nguyễn Lân Dũng, 
2003). Lê Duy Thắng (1997) cho biết vào giai đoạn ra quả thể nấm rơm cần 
tiếp xúc với ánh sáng khoảng 15 – 20 phút trong khoảng từ 7 – 9 giờ thì rất 
tốt cho những hoạt động biến dưỡng bên trong nấm. 
- Độ pH: pH môi trường nấm rơm có thể phát triển tốt là 6-7,5. Vì 
vậy cần lưu ý nước tưới cho nấm rơm phải là nước ngọt, không nhiễm phèn, 
không nhiễm mặn, không nhiễm bẩn nhất là ô nhiễm thuốc sát trùng (Việt 
Chương, 2003).
Nấm rơm rất nhạy cảm với điều kiện môi trường như nhiệt độ, ẩm độ, 
ánh sáng. Sự ảnh hưởng của các yếu tố này đến các giai đoạn phát triển của 
sợi nấm và giai đoạn phát triển của quả thể được trình bày ở bảng 1.
2
Bảng 1: Điều kiện nuôi trồng nấm rơm
Giai 
đoạn
Yếu tố môi trường và ngoại cảnh Đặc điểm chú ý
Giai 
đoạn 
phát 
triển sợi 
nấm
Nhiệt độ trung bình (oC) 25 - 27 Sinh trưởng chậm khi 
to < 25oC
Nhiệt độ tốt nhất (oC) 32 - 35 Ngừng phát triển ở 
to > 35oC
Độ ẩm thích hợp (%) 80 - 85 Tránh nước mưa trực tiếp
Ánh sáng Gián tiếp Sinh trưởng chậm trong 
bóng tối
Giai 
đoạn 
phát 
triển quả 
thể
Nhiệt độ trung bình (oC) 25 – 35 Không hình thành quả thể 
khi to < 25oC
Nhiệt độ tốt nhất (oC) 27 – 30
Độ ẩm thích hợp (%) 85 – 90 Tránh nước mưa trực tiếp
Ánh sáng Gián tiếp Hình thành quả thể chậm 
trong bóng tối
Nguồn: Trần Đình Đằng và Nguyễn Hữu Ngoan, 2002
2.3.2.2. Sự phát triển của nấm rơm
Theo Lê Duy Thắng (1997), hiện nay trên thế giới có khoảng 100 loài 
nấm rơm, trong đó có khoảng 20 loài được ghi nhận và mô tả. Nấm rơm 
(Volvariella volvacea) có đặc điểm sau:
 - Nấm rơm không có khả năng quang hợp, có đời sống hoại sinh, dự 
trữ đường dưới dạng glycogen, sinh sản chủ yếu bằng bào tử và lấy chất dinh 
dưỡng thông qua màng tế bào sợi nấm…
- Tai nấm lúc còn non được bao trong vỏ bọc (Volva) từ dạng hình 
cầu, dạng nút đến dạng trứng, dạng kéo dài. Khi trưởng thành, tai nấm sẽ xé 
vỏ bọc và vươn mũ lên cao, bao gốc lúc này chỉ còn lại phần trùm lấy phần 
gốc chân cuống nấm. Bao gốc là hệ sợi tơ nấm có chứa sắc tố melanin tạo ra 
màu đen ở bao và độ đậm nhạt tuỳ thuộc vào ánh sáng nếu ánh sáng càng 
nhiều thì bao gốc càng đen. Bao gốc đóng vai trò bảo vệ nấm tránh tia tử 
ngoại, côn trùng, ngăn chặn sự thoát hơi nước của các cơ quan bên trong.
- Cuống nấm là bó sợi xốp dài từ 3-8 cm, đường kính 0,5-1,5 cm, 
xếp theo kiểu vòng tròn đồng tâm, khi còn non thì mềm và dòn nhưng khi già 
2
lại xơ cứng. Cuống nấm đưa mũ nấm lên cao để phát tán bào tử đi xa, đồng 
thời vận chuyển dinh dưỡng cung cấp cho mũ nấm.
- Mũ nấm hình nón, cũng có melanin nhưng nhạt dần từ trung tâm ra 
rìa mép. Khi mũ nấm nở ra, đường kính có thể đạt 8-15 cm. Phía dưới mũ 
nấm có khoảng 280 đến 380 phiến xếp theo kiểu vòng tròn đồng tâm. Nguyễn 
Hữu Đống và ctv (2002) miêu tả, phiến nấm lúc còn non có màu trắng, khi tai 
nấm trưởng thành phiến chuyển sang màu hồng thịt, đó là màu của đảm bào 
tử ở hai mặt phiến nấm, mỗi phiến có khoảng 2,5 triệu bào tử. Mũ nấm rất 
giàu dinh dưỡng dự trữ, giữ vai trò sinh sản.
Quá trình sinh trưởng và phát triển của nấm rơm rất nhanh chóng, từ 
những sợi nấm mỏng manh phát triển thành hệ sợi nấm còn gọi là hệ sợi dinh 
dưỡng len lõi trong cơ chất lấy thức ăn, khi khối sợi đạt đến điều kiện thuận 
lợi về số lượng sẽ bện lại thành quả thể nấm rơm (Lê Duy Thắng, 1997). 
Theo Nguyễn Hữu Đống và ctv (2002), quá trình hình thành quả thể 
nấm rơm gồm 6 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu đinh ghim (Pichead: nụ nấm);
- Giai đoạn hình nút nhỏ (tiny butten);
- Giai đoạn hình nút (butten);
- Giai đoạn hình trứng (egg);
- Giai đoạn hình chuông (clogation: kéo dài);
- Giai đoạn trưởng thành (nature: nở xoè).
Vòng đời của nấm rơm cũng tương tự như các loài nấm trồng khác 
nghĩa là bắt đầu từ các đảm bào tử và được xem là kết thúc khi hình thành tai 
nấm hoàn chỉnh với khoảng thời gian từ 12-15 ngày (Lê Duy Thắng, 1997).
Chu trình sống của nấm rơm được thể hiện qua hình 1 cho thấy nấm 
rơm có 2 chu trình sinh sản là chu trình sinh sản vô tính (sợi nấm thứ sinh → 
sợi nấm và bào tử màng dày → bào tử màng dày chín → bào tử màng dày 
nẩy mầm) và chu trình sinh sản hữu tính (tai nấm trưởng thành nở xoè → bào 
tử đảm nẩy mầm → sợi nấm sơ sinh → sợi nấm thứ sinh → giai đoạn đầu 
đinh ghim → giai đoạn nụ nấm nhỏ → giai đoạn nụ nấm → giai đoạn hình 
trứng → giai đoạn kéo dài.
2
Hình 1: Chu trình sống của nấm rơm (Nguyễn Lân Dũng, 2003)
a – Chu trình sinh sản vô tính
b – Chu trình sinh sản hữu tính
1- Tai nấm trưởng thành nở xoè 7- Giai đoạn nụ nấm
2- Bào tử đảm nẩy mầm 8- Giai đoạn hình trứng
3- Sợi nấm sơ sinh 9- Giai đoạn kéo dài
4- Sợi nấm thứ sinh 10- Sợi nấm và bào tử màng dày
5- Giai đoạn đầu đinh ghim 11- Bào tử màng dày chín
6- Giai đoạn nụ nấm nhỏ 12- Bào tử màng dày nẩy mầm
2
2.4. Kỹ thuật trồng nấm rơm
2.4.1. Thời vụ trồng nấm
Theo Lê Duy Thắng (1997), nấm rơm rất dễ trồng, vòng quay nhanh, 
tuy nhiên nguồn nguyên liệu trồng nấm chủ yếu là rơm rạ nên thường lệ 
thuộc vào mùa vụ, thường liên quan đến ngày rằm, ngày chay, sau vụ mùa…
Cách trồng phổ biến hiện nay là trồng ngoài trời, trên khoảng sân trống hoặc 
mặt ruộng. Những người mới học làm nên trồng vào mùa nắng, dễ chăm sóc 
và ít bị hư hỏng do thời tiết.
Qui trình trồng nấm rơm ngoài trời có thể tóm tắt theo hình 2.
cấy meo giống
 đốt mô (tùy phương pháp)
 làm áo mô
 theo dõi nhiệt độ
 tưới nước
Hình 2: Sơ đồ tiến trình nuôi trồng nấm rơm (Lê Duy Thắng, 1997)
2
Giống gốc Chọn địa điểm trồng
Nguyên liệu
đã xử lý
Meo giống
Nguyên liệu khô
Chuẩn bị đất
Xếp mô
Nuôi ủ
Thu hái nấm
Tưới đón nấm
Làm ẩm 
ủ đông
2.4.2. Nền trồng nấm
Khi chọn nơi trồng nấm phải chú ý đến hướng gió và nắng, tránh nơi 
nhiều gió hoặc có biện pháp che chắn nhất là hai bên hông của luống nấm vì 
gió nhiều sẽ làm mất nước và hạ nhiệt độ nhanh, ảnh hưởng đến sự tăng 
trưởng của tơ nấm. Xếp mô nấm sao cho nắng sáng hoặc chiều có thể sưởi ấm 
hai bên thành mô. Nền chất nấm không đậy thì tốt nhất tìm nơi có bóng râm 
(Lê Duy Thắng, 1997).
Nền chất nấm nên chọn nơi cao ráo, không bị đọng nước. Tốt nhất nên 
chọn trên nền đất có độ màu mỡ và có cây cối để che chắn gió và hàng rào 
bảo vệ. Đánh rãnh trên nền chất nấm để thoát nước, đề phòng khi mưa to. Có 
thể trồng ở các vùng bờ thửa, sân bãi có bóng cây che để tránh mưa xói trực 
tiếp. Nền trồng trước đây có vương vãi thuốc sát trùng, hoặc xăng dầu thấm 
sâu vào đất thì không nên trồng nấm rơm (Việt Chương, 2003).
Chọn nền gần nguồn nước ngọt và sạch (Việt Chương, 2003). Nền đất 
phải chuẩn bị kỹ trước khi xếp mô, đầu tiên nên xới nhẹ lớp đất mặt, tưới 
nước hoặc rải thuốc để đuổi côn trùng và diệt mầm bệnh (Lê Duy Thắng, 
1997). Mùa mưa cần chọn những gò cao, ít ngập nước hoặc lên liếp để tránh 
ngập úng làm chết tơ nấm. Mùa lạnh tốt nhất nên chọn những vị trí thấp, rãnh 
cạn để chất mô nấm (Tài liệu tập huấn, 2004).
2.4.3. Nguyên liệu trồng nấm
Nấm rơm có thể nuôi trồng trên nhiều loại nguyên liệu khác nhau như: 
rơm rạ, lục bình, mạc cưa, bã mía,…nhưng nguyên liệu trồng phổ biến hiện 
nay vẫn là rơm rạ (Lê Duy Thắng, 1997). Năng suất nấm rơm sẽ cao hay thấp 
tùy thuộc vào chủng loại rơm rạ, tình trạng và chất lượng của nguyên liệu 
(Tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ, 2003). Nguyên liệu trồng nấm thường 
phải khô nhưng không nên để mục nát hoặc mốc, sử dụng nguyên liệu hư 
hỏng để trồng nấm không những không có năng suất cao mà đôi khi còn dẫn 
đến thất bại, tốn công vô ích. Vì vậy, muốn dự trữ rơm rạ để trồng nấm thì 
phải phơi khô, bảo quản tốt, chất rơm thành cây, che đậy cẩn thận để tránh 
cho rơm không bị hư hỏng (Lê Duy Thắng, 1997). Nguyễn Duy Điềm và 
2
Huỳnh Thị Dung (2002) cho biết năng suất trồng nấm liên quan đến rơm rạ 
như sau:
- Rơm rạ của lúa nếp tốt hơn rơm rạ lúa mùa;
- Rơm rạ lúa mùa tốt hơn rơm rạ lúa ngắn ngày;
- Rơm rạ lúa mùa trồng trên đất phù sa tốt hơn trồng trên đất bón 
phân chuồng; rơm rạ lúa bón phân chuồng tốt hơn lúa bón phân hoá học, đất 
nhiễm phèn, nhiễm mặn;
- Rơm máy suốt tốt hơn rơm đập tay;
- Rơm rạ mùa trước tốt hơn rơm rạ mục, rơm rạ mới thu hoạch và 
rơm rạ mốc.
Mục đích của việc ủ rơm là để rơm được phân hủy tạo điều kiện cho 
nấm rơm phát triển nhanh hơn. Đống rơm ủ phải đạt kích thước bề ngang 
khoảng 1,5-2 m, cao khoảng 1,5-1,7 m và bề dài tùy theo khối lượng rơm có 
được. Thông thường đánh luống rơm cao 0,5 m có bề ngang khoảng 1,5-2 m 
tưới nước đều và đạp qua một lần, có thể kết hợp tưới nước vôi với tỷ lệ 5%. 
Lớp thứ hai cũng làm giống như lớp thứ nhất cho đến khi đống ủ đạt chiều 
cao 1,5-1,7 m (Tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ, 2003).
Thời gian ủ rơm tùy theo loại rơm rạ, trung bình khoảng 10 – 12 ngày 
thì rơm đã chín (Tài liệu tập huấn, 2004). Sau khi ủ rơm từ 7 đến 10 ngày thì 
tiến hành đảo rơm. Khi đảo trộn, phải đảo từ trên xuống, từ dưới lên, từ trong 
ra ngoài và từ ngoài vào trong để đảm bảo độ đồng đều (Trần Đình Đằng và 
Nguyễn Hữu Ngoan, 2002). Lúc đảo trộn chỉ cần dùng tay nén rơm mà không 
dùng chân, dậm và bổ sung nước nếu thấy thiếu (Tài liệu tập huấn, 2004).
Rơm sau khi ủ phải đạt được yêu cầu sau: không bị mục hoặc không 
quá dai, rơm có màu vàng sẫm hoặc có phấn trắng bám trên cọng rơm, đống ủ 
có mùi thơm giống như nấm rơm, không có mùi hôi hoặc chua. Sau khi đảo 
đống rơm ủ 4-7 ngày thì có thể tiến hành trồng nấm rơm (Tài liệu phát triển 
nông thôn mùa lũ, 2003).
2
2.4.4. Meo giống
Giống để nuôi trồng là quan trọng nhất, quyết định năng suất nấm sau 
này do đó cần mua giống ở những nơi có uy tính. Meo tốt có những sợi tơ 
nấm màu trắng trong, mùi tương tự nấm rơm, tơ nấm phát triển đều khắp mặt 
môi trường bịch meo. Meo xấu không nên sử dụng do có những đốm xanh 
đen và vàng cam vì đã nhiễm nấm dại, meo có đáy bị ướt, nhão và có mùi 
hôi, chua. Một bọc meo giống (khoảng 200g) có thể gieo 3-5m mô (tính theo 
chiều dài mô), nếu mô cao thì rải nhiều lớp meo hơn (Tài liệu tập huấn, 
2003).
Năng suất và chất lượng nấm rơm phụ thuộc rất lớn vào chất lượng 
của meo nấm rơm, do đó Lê Ngọc Thạch và Lê Đức Nam (2001) đã đưa ra 
những dấu hiệu để phân biệt giữa meo nấm tốt và meo nấm xấu như trong 
bảng 4.
Bảng 2: Đặc điểm của meo nấm tốt và meo nấm xấu
Meo nấm tốt Meo nấm xấu
- Tơ nấm trắng trong, phát triển đều 
trong bịch meo.
- Tơ nấm phát triển không đều 
trong bịch meo, bên có tơ, bên 
không có.
- Sợi tơ phát triển đều, không bị méo 
hoặc không có chỗ đậm, chỗ lợt.
- Bịch meo có mùi chua hoặc mùi 
nấm mốc.
- Tơ nấm non, suông, không đóng bện 
lại như bông gòn.
- Sợi tơ phát triển không đều 
trong bịch meo, bên nhiều, bên ít. 
Tơ nấm phát triển theo hướng 
xoắn, tơ không thẳng và mọc dày 
đặc.
- Tơ nấm mọc đều từ cổ bọc meo cho 
đến đáy bịch meo. Không thấy lẫn tạp 
các loại nấm dại hoặc tơ nấm bị quá 
già (đổi màu).
- Tốc độ phát triển của tơ không 
đều: tơ mọc chậm hoặc không 
mọc ở khoảng 1/3 bịch meo.
- Tơ nấm không bị lẫn lộn các màu 
khác nhau như cam, đen, xám hoặc 
xanh.
- Màu tơ lẫn tạp, có các màu lạ 
như: đốm đen, đốm xanh, đốm 
xám hoặc quá trắng đục.
 Nguồn: Lê Ngọc Thạch và Lê Đức Nam, 2001
2
2.4.5. Nước tưới 
Ta có thể dùng nước ruộng, nước ao hồ, sông suối để tưới nấm nhưng 
phải là nước ngọt, không nhiễm phèn, không nhiễm mặn, không nhiễm bẩn 
nhất là ô nhiễm thuốc sát trùng (Lê Duy Thắng, 1997).
Theo Việt Chương (2003), nếu tưới bằng nước phèn (kể cả rơm rạ ủ 
ướt bằng nước nhiễm phèn trước khi đem xếp mô) thì tơ nấm vừa nảy nở ít 
vừa phát triển chậm; có thể ngừng tăng trưởng và tai nấm cũng bị dị hình, sẽ 
đem lại sự thất bại lớn. Còn nếu tưới nước bị nhiễm mặn thì tơ nấm phát triển 
rất ít, vừa đổi màu vừa dị hình và cuối cùng không phát triển thành nấm.
Tưới nước cho mô nấm là dùng bình tưới có vòi bông sen tạo ra những 
tia nước nhỏ như mưa, như vậy nước tưới dễ thấm đều vào mô, đồng thời 
không làm hại những nụ nấm non vừa mới hình thành.
2.4.6. Phương pháp sắp xếp mô và rải meo
Bố trí chiều dài mô nấm sao cho vuông góc với hướng gió và song 
song với hướng thoát nước.
Gói ém chặt rơm cuốn tròn như hình cái gối rồi xếp mô từng lớp, độ 
dẽ chặt tùy theo độ chín mềm và độ ẩm của rơm (Tài liệu tập huấn, 2004). Và 
để cho các bó nén chặt vào nhau nên leo lên luống vừa tưới nước vừa dậm 
đạp từ chân lên đầu và ngược lại, lớp thứ hai cũng làm tương tự như lớp thứ 
nhất nhưng thụt vào 5 cm (Lê Duy Thắng, 1997). Sau đó tưới nước, rải phân 
hoặc phun thuốc trước khi rải meo. Xếp tiếp tục lớp rơm trên cùng khoảng 
0,5 tấc rồi dùng hai tay và trọng lượng toàn thân đè lên mô nấm dọc theo 
thành mô, vừa di chuyển vừa nhét cọng rơm lua tua ngoài luống vào và vuốt 
quanh mô nấm cho láng để cho nước chảy xuôi xuống dễ dàng, không bị 
đọng nhiều trong mô (Việt Chương, 2003).
Mô phải xếp nhỏ dần lên trên để dễ thoát nước, khoảng cách giữa hai 
mô chừng 4-5 tấc để đi lại chăm sóc, thu hoạch. Mùa nắng chỉ nên chất mô 
cao 4-4,5 tấc với 3 lớp rơm 2 lớp meo, mùa lạnh nên chất cao hơn để giữ ấm 
và có thể xếp với 4-5 lớp rơm (Tài liệu tập huấn, 2004).
Meo nấm cho vào thau nhỏ, sạch và xé vụn ra (Lê Duy Thắng, 1997). 
Lượng meo sử dụng khoảng 2,5 – 3m/1 chai meo (khoảng 150g). Có thể rải 1 
2
đường meo ở giữa dọc theo mô hoặc rải meo cách bìa mô từ 5-10cm và cách 
nhau 20cm (Việt Chương, 2003). Có thể rải 1 hoặc nhiều lớp meo tùy bề rộng 
của mô trồng nấm. Sau khi rải meo xong, phủ lên 1 lớp rơm chín tốt, tưới 
nước đều bằng thùng búp sen.
Nếu là rơm lúa mùa thì có thể bó lại thành bó hoặc xoắn thành bó đặt 
chồng lên nhau. Đối với rơm lúa Thần Nông, các bó không phải gấp khúc mà 
xếp sát vào nhau thành từng lớp. Đối với rơm suốt máy có thể vo thành cuộn 
và xếp như các loại rơm bó nhưng tốt nhất vẫn là trồng bằng khuôn và nén 
theo dạng khối (Lê Duy Thắng, 1997).
2.4.7. Chăm sóc mô nấm rơm
2.4.7.1. Tủ rơm áo và đảo rơm áo
Tùy theo trời nắng nóng nhiều hay ít ta cần phơi mô chừng 2-3 nắng 
cho khô bề mặt nhằm tránh mốc tạp và tạo điều kiện để ủ tơ, không nên tưới 
nước trong lúc này. Sau đó tiến hành phủ rơm áo để che phủ mô nấm rơm 
khỏi bị nắng trực xạ, tránh được mưa gió tạt vào để giữ cho mô được ẩm và 
đủ độ ấm, ngoài ra áo mô còn đóng vai trò quan trọng giúp mô nấm có điều 
kiện tăng trưởng tốt (Việt Chương, 2003). Lớp áo mô thường làm bằng rơm 
rạ tốt, sạch, không nhiễm tạp, dày 1 tấc (mùa nóng) và 2 tấc (mùa lạnh), lớp 
áo mô được xếp theo 1 chiều, phủ theo kiểu lợp mái nhà (Nguyễn Hữu Đống 
và ctv, 2002).
Sau khi tủ rơm áo mô mỗi ngày có thể tưới 2 lần vào lúc trời mát (buổi 
sáng: lúc 7-8 giờ, buổi chiều: lúc 4-5 giờ), không nên tưới nước vào lúc trời 
nắng gắt và để hạn chế nấm dại không nên tưới thừa nước ở giai đoạn này 
(Việt Chương, 2003). Bên cạnh tưới nước thì kết hợp đảo trở áo mô (2-3 
ngày/1 lần) vào buổi sáng hoặc chiều mát để tránh mô nấm ăn lan ra lớp mô 
áo, không tạo được nấm. Cách đảo rơm áo có thể tiến hành như sau: dỡ lớp 
rơm áo, xốc cho tơi và đậy lại ngay (Tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ, 
2003).
Ngoài ra, theo Lê Duy Thắng (1997) thì ta có thể đốt mô trước khi phủ 
áo mô để vệ sinh mặt ngoài mô nấm, cung cấp thêm muối khoáng cho nấm, 
2
sưởi ấm meo giống bên trong. Sau khi đốt mô xong phải để tiếp 1 thời gian 
khoảng 5-6 giờ rồi mới làm áo mô.
 2.4.7.2. Chăm sóc và tưới đón nấm
Tơ nấm phát triển đan thành mạng nhện bên hông mô và biến đổi từ 
màu trắng sang màu vàng sậm, ngửi có mùi thơm đặc trưng của nấm rơm, 
đến ngày thứ 7 hoặc 8 có thể phun thêm dinh dưỡng, cần kiểm tra và ém chặt 
lại mô nấm không nên để mô nấm bị xốp. Nếu có nhiều nấm dại cần nhổ bỏ 
sạch cả gốc, rắc vôi bột và làm thông thoáng để giảm ẩm (Lê Duy Thắng, 
1997).
Nguyễn Hữu Đống (2003) cho biết lượng nước tưới 1 lần rất ít ( mỗi 
ngày tưới 0,1 lít cho 1 mét mô), nếu tưới quá nhiều nấm dễ bị thối chân và 
chết ngay từ lúc còn nhỏ . Vào mùa nắng gắt, nhiệt độ mô tăng cao nên tưới 
nước để hạ nhiệt độ và bổ sung ẩm, ngược lại vào mùa lạnh hoặc trời mưa 
nhiều cần giữ ấm và tưới nước ít hơn. Theo Lê Duy Thắng (1997), thời gian 
nụ nấm lớn dần thành tai nấm chỉ nên tưới 1 lần trong ngày, tốt nhất là tưới 
nước vào lúc xế chiều (bớt nắng). Nên tưới bằng vòi sen, tránh giọt nước tưới 
mạnh làm hư tơ nấm hoặc nụ nấm.
Trong quá trình tưới nước có thể kiểm tra ẩm độ bằng cách rút 5-7 
cọng rơm từ giữa mô nấm cho vào lòng bàn tay vắt thật mạnh: nếu nước chảy 
ra thành từng giọt rơi xuống là dư nước, không được tưới thêm mà dỡ lớp 
rơm áo ra để phơi mát (không nắng) khoảng 30 phút rồi đậy lại liền. Nếu 
nước rịn ra nhưng không chảy thành giọt là đủ nước, không cần tưới thêm và 
cũng không cần phơi mát. Nếu cảm thấy cọng rơm làm ẩm tay mà không thấy 
nước nhỏ giọt cần phải tưới ngay (Việt Chương, 2003).
Nhiệt độ thích hợp ở mô nấm khoảng 34-35oC, và để kiểm tra nhiệt độ 
thì có thể dùng tay áp vào thành mô hoặc đưa tay ngập sâu vào giữa lớp rơm, 
nếu vừa đặt tay vào cảm thấy ấm dần là nhiệt độ thích hợp, ngược lại nếu 
không thấy nóng hoặc phải ấn sâu vào hơn hay để lâu hơn mới nóng là do mô 
nấm bị mất nước và lạnh cần phải che đậy kỹ hơn (Nguyễn Duy Điềm và 
Huỳnh Thị Dung, 2003).
3
Khác với lúc ủ tơ, giai đoạn ra quả thể rất cần ánh sáng (Lê Duy 
Thắng, 1997), cần thông khí cho nấm hô hấp và chiếu sáng cho nấm phát 
triển. Mỗi sáng khoảng 8-9 giờ nên kết hợp thăm mô nấm và lấy áo mô ra để 
thông khí, phơi trần mô dưới nắng 20-30 phút và nhờ ánh sáng nụ nấm sẽ 
phát triển tốt hơn. Khi đậy áo lại nhớ trở áo rơm.
Khoảng 7-9 ngày sau khi chất nấm thì trên mô xuất hiện nấm con, cần 
cẩn thận khi tưới nước bởi vì nấm con có nước dính trực tiếp sẽ rất dễ bị thúi 
hay dộp (Tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ, 2003). Nên hái nấm rơm ở 
dạng trứng hoặc thu hoạch khi nấm vừa nhọn đầu để có năng suất cao nhất, 
nên hái nhẹ nhàng cả cụm và sạch gốc nấm, không để sót lại trong mô, trong 
thời gian thu hái và sau đó nên ngưng tưới nước 1-2 ngày để tơ nấm phục hồi 
(Nguyễn Lân Dũng, 2003).
2.4.8. Thu hái, bảo quản và tiêu thụ nấm rơm
2.4.8.1. Thu hoạch nấm rơm
Tùy theo thời tiết trung bình khoảng 10 – 14 ngày sau khi cấy meo là 
có thể hái nấm được. Quả nấm thu hoạch phải đảm bảo không bị nứt bao, 
không bị xoè ô thì chất lượng mới tốt (Trần Đình Đằng và Nguyễn Hữu 
Ngoan, 2002). Theo Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung (2003), trên 1 
mô nấm thời gian thu 1 đợt kéo dài 3-4 ngày, khi thu hết lần 1 thì 7-8 ngày 
sau nấm lại ra lần 2 và hái trong 3-4 ngày là kết thúc 1 đợt nuôi trồng, thời 
gian 1 vụ trồng khoảng 25-30 ngày.
Khi hái lựa các nấm búp hơi nhọn đầu (gần nứt bao) hái trước, xoáy 
nhẹ tay tách gỡ ra khỏi mô. Không nên để sót lại chân nấm bị đứt trên mô vì 
phần khi thối rữa sẽ làm hư các nụ nấm kế bên, thu hoạch xong đậy kỹ lớp áo 
mô lại (Việt Chương, 2003). Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung (2003) 
cho rằng nấm hái ở giai đoạn trứng là lúc nấm có chất lượng và năng suất cao 
nhất, trường hợp nấm mọc thành cụm có thể tách cây lớn hái trước, có thể hái 
2-3 lần/1 ngày, vào những ngày nắng nóng và nhiệt độ không khí cao nấm 
phát triển nhanh nên khi nấm hơi nhọn đầu là hái được.
3
Có thể thu hoạch nấm rơm liên tục trong 15-17 ngày (Nguyễn Lân 
Dũng, 2003). Nấm sau khi thu hoạch xong đợt 1 cứ phơi trần 3-4 ngày, khỏi 
cần tưới nước nhưng sau thời gian đó thì tưới trở lại bình thường khoảng 1 
tuần lễ sau thì thu hoạch đợt 2 (Việt Chương, 2003). Thông thường người 
trồng nấm để kinh doanh chỉ thu hoạch 2 đợt là thu dọn và xử lý đất, chuẩn bị 
nuôi trồng đợt mới (Lê Duy Thắng, 1997).
Nấm rơm thường được hái làm 2 đợt: đợt đầu là đợt chính khá nhiều, 
đợt hai là đợt phụ nên sản lượng chỉ bằng 1/4 đợt trước. Nguyễn Lân Dũng 
(2003) cho rằng nên chia thời gian thu hoạch ra làm 2 lần trong ngày (sáng và 
chiều) để có thể chọn được các nấm vừa tầm ưa chuộng của thị trường.
2.4.8.2. Bảo quản nấm rơm
Theo Việt Chương (2003) thì nấm rơm nở rất mau dù là khi hái ở dạng 
búp nhưng khoảng 3-4 giờ sau nếu không bảo quản trong độ lạnh cần thiết thì 
nó sẽ nở bung mũ nấm ra, vì vậy để giữ nấm được lâu thì có thể bảo quản 
dưới dạng khô hay muối,…
- Bảo quản nấm rơm ở dạng khô: Rửa sạch nấm, để ráo hết nước, 
dùng dao sắc cắt lát các thể quả nấm rơm để có được các khoanh nấm có kích 
thước không mỏng hơn 0,5cm. Nếu trời nắng, đổ nấm ra nong và phơi 3-4 
nắng là được. Nếu trời không nắng thì phải sấy ở nhiệt độ khoảng 40-50oC 
(Nguyễn Lân Dũng, 2003).
- Bảo quản nấm rơm theo cách muối: ngâm nấm vào nước sôi 
khoảng 10 phút, vớt ra rồi ngâm ngay vào nước lạnh khoảng 5 phút, lại vớt ra 
rổ để cho ráo nước. Dùng chai keo hay lu khạp sạch ngâm nấm trong nước 
muối có nồng độ 22%, thêm 1 chút axit citric sao cho nấm vừa ngập trong 
nước muối là được (Việt Chương, 2003).
 Với 2 cách bảo quản trên thì thời gian bảo quản của nấm khô có thể 
được hơn 6 tháng và nấm muối cũng được vài tháng.
2.4.8.3. Tiêu thụ nấm rơm
Theo Việt Chương (2003), sau khi hái, nấm rơm vẫn tiếp tục phát 
triển, nếu để sau vài tiếng nấm từ hình trứng nở ra hình dù, vì vậy cần thu 
3
hoạch nhanh trong 3-4 giờ. Dụng cụ đựng nấm cần thông thoáng, không chất 
đống nấm lên nhau. Muốn để nấm đến ngày hôm sau phải bảo quản ở nhiệt 
độ 10-15oC.
Nấm rơm là loại thực phẩm ngon, bổ dưỡng nên được nhiều người ưa 
thích nhất là đối với người Việt Nam - những người quen ăn nấm rơm hơn 
các loại nấm khác (Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung, 2003).
2.4.9. Sâu bệnh hại nấm rơm
- Bệnh sinh lý 
Nấm rơm rất nhạy cảm với môi trường, cần lưu ý: nhiệt độ, ánh 
sáng, nước tưới,thông thoáng,…
+ Nhiệt độ ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển và tăng trưởng 
của nấm rơm.
+ Ánh sáng: có ảnh hưởng nhiều khi nấm từ hình cầu sang hình 
trứng: nếu thiếu ánh sáng quả thể có màu trắng hay màu xám. Vitamin E sẽ 
giảm hoàn toàn, vitamin D không có, sắc tố melanin (đen) không hình thành 
(Tài liệu tập huấn, 2004).
+ Nước tưới: chi phối toàn bộ hoạt động sống của nấm rơm, nước 
phèn làm nấm mọc chậm, thưa, đầu sợi nấm cong lại, tai nấm bị dị dạng, chết 
non hay sùi lên; nước mặn làm tơ nấm đổi màu, dị hình và không tạo quả thể 
(Nguyễn Hữu Đống, 2003).
Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của tơ nấm và quả thể được 
tác giả Trần Đình Đằng và Nguyễn Hữu Ngoan đúc kết trong bảng 5.
Bảng 3: Ảnh hưởng của nhiệt độ lên nấm rơm 
Thành phần Nhiệt độ Kiểu biểu hiện
Tơ nấm ≥ 40oC
≤ 15oC
≤ 25oC
Tơ nấm mọc chậm và thưa dần rồi chết
Tơ ngừng tăng trưởng và không mọc lại được
Quả thể hay tai nấm không tạo thành được
Quả thể 25 – 28oC
≥ 35oC
Tai nấm bị dị hình
Nấm mau trưởng thành (sớm bung dù)
Nguồn: Trần Đình Đằng và Nguyễn Hữu Ngoan, 2001
- Nấm bệnh
3
+ Nấm dại: nấm dại không xâm nhập từ meo giống mà từ nguyên 
liệu (Việt Chương, 2003), do độ ẩm nguyên liệu quá cao (70%), giàu đạm urê 
và hơi axit (<5). Loại này không gây hại nhưng cạnh tranh dinh dưỡng của 
nấm rơm, cần điều chỉnh nguyên liệu lúc đem trồng, hạn chế tưới nước khi 
chăm sóc (Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002).
+ Các loại nấm mốc như nấm xanh, nấm vàng,… là loại nấm nguy 
hiểm, nguyên nhân có thể do nguyên liệu bị nhiễm bệnh từ trước, nhà xưởng 
vệ sinh không sạch sẽ, khu vực nuôi trồng ẩm thấp, đã trồng nấm nhiều 
lần,… (Nguyễn Hữu Đống, 2003). Cần bỏ những mô bệnh ra xa khu vực nuôi 
trồng, đem chôn hoặc đốt để ngăn chặn bệnh lây lan (Nguyễn Duy Điềm và 
Huỳnh Thị Dung, 2003).
- Động vật gây hại
Côn trùng phá hoại (chuột, gián, kiến, mối,…), chúng cắn phá sợi 
nấm và ăn nấm, đào hang làm xáo trộn mô nấm, ăn giống nấm vừa cấy, gây 
thiệt hại lớn (Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung, 2003). Do đó nên xử lý 
nền đất trước khi trồng như tưới nước, xới nhẹ, rắc thuốc diệt tuyến trùng như 
Furadan, Mocap,… Khi tưới đón nấm, rắc vôi xung quanh mô (nếu trồng 
dưới đất).
Trong quá trình nuôi trồng nấm rơm nên áp dụng các biện pháp phòng 
trừ để hạn chế sự phát triển của mầm bệnh làm giảm năng suất và chất lượng 
nấm, các biện pháp được trình bày trong bảng 4.
3
Bảng 4: Biện pháp phòng trừ tổng hợp khi trồng nấm rơm 
Biện pháp Cách làm
Xử lý kỹ nền đất Xới nhẹ, phơi nắng, rắc vôi, thuốc, tưới nước. Định kỳ phải 
thay đổi nền đất.
Xử lý nguyên 
liệu
Tránh sử dụng nguyên liệu mốc, ẩm. Ủ đống to, đảm bảo 
độ ẩm, pH, rơm chín đều, có mùi thơm dễ chịu, không có 
mùi khai, hôi, màu nâu sẫm.
Xử lý áo mô Chọn rơm khô, sạch, phơi 2 nắng trước khi sử dụng đậy mô 
nấm.
Giữ ấm mô Giữ nhiệt độ 35-38oC ở giai đoạn ủ tơ và 28-32oC ở giai 
đoạn ra quả thể. Trời lạnh tủ thêm áo mô, trời nắng lấy bớt.
Giữ ẩm mô Tưới và kiểm tra độ ẩm 65-70% ở giai đoạn ủ tơ và 85-95% 
ở giai đoạn ra quả thể.
Phòng bệnh Theo dõi thường xuyên để phát hiện bệnh. Diệt ngay nguồn 
bệnh để tránh lây lan. Dọn vệ sinh và khử trùng sau mỗi đợt 
trồng.
Nguồn: Tài liệu tập huấn, 2004
3
Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Địa bàn nghiên cứu:
Để thỏa mãn mục tiêu nghiên cứu chúng tôi đã chọn địa bàn xã và các 
hộ nông dân có trồng nấm rơm trong xã Lương An Trà và xã Cô Tô thuộc 
huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang làm địa bàn nghiên cứu.
3.2. Phương pháp
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập số liệu thứ cấp: 
- Số liệu thứ cấp của địa phương để biết có bao nhiêu hộ trồng nấm 
rơm trong mùa lũ, các báo cáo tổng kết về kinh tế-văn hoá-xã hội năm 2004 
tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô.
- Số liệu về kỹ thuật trồng nấm rơm thông qua sách báo, báo cáo, 
internet,…
3.2.2. Phương pháp tiến hành
- Điều tra ngẫu nhiên 30 hộ có trồng nấm rơm trong mùa lũ năm 2004 
tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp dựa 
theo phiếu điều tra.
* Nội dung điều tra: 
Nội dung phiếu điều tra được trình bày chi tiết trong phụ chương, 
gồm những phần chính sau:
+ Số mét mô chất nấm, số năm canh tác, kinh nghiệm trồng.
+ Kỹ thuật canh tác: thời vụ, giống meo, cách xử lý nguyên liệu 
rơm, chọn địa điểm, cách xử lý nền, sắp xếp mô, chăm sóc, phòng trừ sâu 
bệnh, thu hoạch, năng suất, tiêu thụ.
+ Hiệu quả kinh tế: ghi nhận chi phí sản xuất, tính toán hiệu quả 
kinh tế.
- Theo dõi thường xuyên và ghi nhận qui trình kỹ thuật của 3 nông hộ 
trồng nấm rơm trong mùa lũ năm 2004 tại xã Lương An Trà.
3
* Chỉ tiêu theo dõi:
+ Nơi trồng nấm.
+ Xử lý nguyên liệu: Tạo đống rơm ủ, cách ủ, đảo đống ủ, cách 
nhận biết rơm chín.
+ Xử lý nền.
+ Xếp mô nấm.
+ Chăm sóc: Tưới nước, đảo áo rơm, kiểm tra độ ẩm, nhiệt độ.
+ Thu hoạch.
3.2.3. Công thức tính
Chi phí vật tư = chi phí rơm + chi phí dinh dưỡng + chi phí vôi + chi 
phí meo + chi phí thuốc xử lý + chi phí xăng dầu
Chi phí lao động thuê = công chất lao động thuê + công chở nguyên 
liệu lao động thuê
Chi phí lao động nhà = công chất lao động nhà + công tưới lao động 
nhà + công hái lao động nhà
Chi phí tiền mặt = chi phí vật tư + chi phí lao động thuê
Lãi ngân hàng = tiền mặt x lãi suất ngân hàng (0,6)
Chi phí cơ hội = chi phí lao động nhà + lãi ngân hàng
Tổng chi = chi phí tiền mặt + chi phí cơ hội
Tổng thu = năng suất toàn vụ x giá nấm
Lãi thuần (RAVC) = Tổng thu - tổng chi
Hiệu quả đồng vốn có phí cơ hội = Lãi thuần (RAVC) : tổng chi
3.2.4. Phân tích thống kê
Nhập số liệu bằng phần mềm Microsoft Excel và xử lý số liệu bằng 
phần mềm SPSS.
3
Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu
Huyện Tri Tôn là huyện miền núi của tỉnh An Giang, có vị trí địa lý 
như sau:
- Bắc giáp huyện Tịnh Biên.
- Tây giáp Hà Tiên và một phần biên giới Campuchia.
- Nam giáp Hòn Đất (Kiên Giang).
- Đông giáp Châu Thành và Thoại Sơn.
Tri Tôn có địa hình đa dạng, vừa có đồi núi vừa có đồng bằng có đầm 
lầy và nhiều kinh nhỏ (không có sông lớn chảy qua), là huyện đất rộng người 
thưa, đất sản xuất còn nhiều hạn chế, hầu hết bị nhiễm phèn, nên sản xuất 
nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Toàn huyện có 13 xã 1 thị trấn, có 55 ấp và 
4 khóm. Trong đó 9 xã có người dân tộc Khmer, có 2 xã tiếp giáp biên giới 
Campuchia chủ yếu sống cập theo tuyến kinh Vĩnh Tế (tỉnh lộ 55A).
- Diện tích tự nhiên: 59.805 ha (chiếm 17,56% diện tích tự nhiên của 
tỉnh).
- Dân số: 116.585 người với 26.258 hộ (thống kê năm 2002). Trong 
đó dân tộc Khmer là 44.618 người, chiếm 38,27% dân số toàn huyện; mật độ 
dân số là: 195 người/km2.
Về mặt bằng sử dụng đất đạt 96,2% diện tích tự nhiên, sự phân bố dân 
cư đến nay chưa đều khắp, chủ yếu tập trung thị trấn, thị tứ, triền núi, trình độ 
dân trí còn thấp, nên tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật còn nhiều hạn chế.
4.1.1. Xã Lương An Trà
Lương An Trà là 1 xã nghèo nhất trong tỉnh An Giang nằm ở vùng sâu, 
xa. Phần lớn diện tích của đất bị nhiễm phèn nặng, thường xuyên bị ngập 
nước trong mùa lũ, thiếu nước trong mùa khô, đại diện cho vùng đồng bằng 
chân núi. Hiện diện tích toàn xã là 8.485 ha, chiếm 14,14% diện tích huyện, 
là xã có diện tích lớn thứ ba trong huyện Tri Tôn. Trong đó, đất nông nghiệp 
4.830 ha; đất chưa sử dụng 244 ha, còn lại là đất ở, lâm nghiệp và đất chuyên 
dùng.
3
- Xã Lương An Trà có 5.716 người với 1.116 hộ; trong đó có 311 
người Khmer với 59 hộ. 
- Diện tích đất nông nghiệp bình quân trên người là 0,74 ha.
- Diện tích đất nông nghiệp bình quân trên hộ là 4,6 ha.
- Cây trồng và vật nuôi chính: 1 vụ lúa/năm, năng suất thấp. Đàn bò 
có 1.284 con (Võ Tòng Anh, 2003).
4.1.2. Xã Cô Tô 
Xã Cô Tô nằm ở vùng sâu, xa. Phần lớn diện tích của đất bị nhiễm 
phèn nặng, thường xuyên bị ngập nước trong mùa lũ. Diện tích toàn xã là 
3.990 ha. trong đó đất nông nghiệp 3.101 ha; đất chưa sử dụng 184 ha, còn lại 
là đất ở, lâm nghiệp và đất chuyên dùng.
- Xã Cô Tô có 9.144 người với 1.993 hộ; trong đó có 6.224 người 
Khmer với 1.464 hộ. 
- Diện tích đất nông nghiệp bình quân trên người là 0,33 ha.
- Diện tích đất nông nghiệp bình quân trên hộ là 1,56 ha.
- Cây trồng và vật nuôi: 2 vụ lúa/năm. Đàn bò có 1.965 con (Niên 
giám thống kê huyện Tri Tôn, năm 2003).
4.2. Thông tin chung về nông hộ
4.2.1. Tuổi của chủ hộ và các thành viên trong gia đình:
Qua kết quả điều tra bảng 5 cho thấy độ tuổi của chủ hộ tập trung chủ 
yếu ở 18-60 tuổi (chiếm 66,25%) đây là độ tuổi nằm trong tuổi lao động có 
khả năng tiếp thu tốt các kỹ thuật canh tác và khả năng làm kinh tế. Chủ hộ 
có tuổi trên 60 chiếm tỷ lệ thấp (18,27%), không có chủ hộ nào có tuổi dưới 
18. Trung bình tuổi của chủ hộ là 42,27 .
Ngược lại, các thành viên trong gia đình có tuổi tập trung đa số dưới 
18 (chiếm 63,6%) độ tuổi này chưa đến tuổi lao động chủ yếu đi học, phải 
dựa vào gia đình, kế đến là số thành viên có tuổi từ 18-60 cũng chiếm tỷ lệ 
khá cao (33,5%), số tuổi trên 60 chiếm tỷ lệ thấp nhất (2,9%). Trung bình tuổi 
của các thành viên trong gia đình là 11,97.
3
Bảng 5: Tuổi của chủ hộ và các thành viên trong gia đình ở xã Lương An 
Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Nhóm Chủ hộ Thành viên trong gia đình
Tần suất % Tần suất (%)
< 18 Tuổi 0 0,00 133 63,60
18-60 Tuổi 28 66,25 70 33,50
>60 Tuổi 2 18,27 6 2,90
Tổng 30 68,18 209 100
Trung bình 42,27 11,97
4.2.2. Trình độ văn hoá
Kết quả điều tra về trình độ văn hoá của nông hộ được trình bày trong 
bảng 8, cho thấy phần lớn người chủ hộ có trình độ văn hoá cấp 1 (chiếm 
40%) với trình độ văn hóa này thì việc tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật là rất hạn 
chế, trình độ văn hoá cấp 2 chiếm 36,67%, trình độ văn hoá cấp 3 chiếm 
13,33% và số chủ hộ mù chữ chiếm 10%. 
Các thành viên trong hộ có trình độ văn hoá cũng tập trung nhiều ở 
cấp 1 (chiếm 41,44%) do ở nông thôn việc lo cho cái ăn đã vất vả nên việc lo 
cho con cái đi học đến nơi đến chốn là điều rất khó khăn. Trình độ văn hoá 
của các thành viên trong hộ thấp nhất (mù chữ) chiếm 2,7%. Trình độ văn 
hoá cấp 2 chiếm 38,74% và trình độ văn hoá cấp 3 chiếm 17,12%.
Bảng 6: Trình độ văn hoá của chủ hộ và các thành viên trong hộ ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004 
Trình độ 
văn hoá Chủ hộ
Thành viên 
gia đình Tổng
 Tần suất % Tần suất %
Tần 
suất %
Mù chữ 3 10,00 3 2,70 6 4,26
Cấp I 12 40,00 46 41,44 58 41,13
Cấp II 11 36,67 43 38,74 54 38,30
Cấp III 4 13,33 19 17,12 23 16,31
Tổng 30 100 111 100 141 100
4
4.2.3. Số nhân khẩu trong gia đình
Kết quả bảng 7 cho thấy số người trong hộ từ 4 đến 5 người chiếm tỷ 
lệ cao 73,33%, các hộ có số người trên 5 chiếm 26,67% và số người trong hộ 
nhỏ hơn hoặc bằng 3 chỉ chiếm 33,33%. Trung bình số người trong 1 hộ là 
4,33, như vậy khi trồng nấm rơm thì các hộ có thể tận dụng được nguồn lao 
động gia đình, giảm được chi phí lao động thuê, làm tăng thêm thu nhập.
Bảng 7: Số nhân khẩu trong gia đình ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, 
năm 2004
Nhóm Tần suất %
 =< 3 người 10 33,33
 4 - 5 người 22 73,33
>5 người 8 26,67
 Tổng 30 100
 Trung bình 4,33
4.3. Số mét mô chất nấm và kinh nghiệm canh tác nấm rơm:
4.3.1. Số mét mô chất nấm của nông hộ:
Tùy theo đồng vốn bỏ ra nhiều hay ít mà số mét mô chất nấm của 
nông hộ nhỏ hay lớn, với 1 công rơm có thể chất được từ 20-35 mét mô tùy 
theo chất lượng rơm rạ. Qua hình 3 cho thấy phần lớn số hộ điều tra có số 
mét mô tập trung từ 50–200 mét mô (chiếm 56,7%), số mét mô trồng chiếm 
10% là trên 1000 mét mô. Đa số các hộ chất chủ yếu 50-200 mét mô bởi vì 
phần lớn các hộ đều mới trồng nấm và chỉ trồng vài vụ trong năm, vốn ít, chủ 
yếu bán cho các chợ nhỏ ở nông thôn. 
4
56,7%
16,7% 16,7%
10%
0
10
20
30
40
50
60
50-200 240-380 400-800 >1000
Số mét mô chất nấm rơm
% nông 
hộ
Hình 3: Số mét mô chất nấm rơm của các nông hộ ở xã Lương An Trà và 
xã Cô Tô, năm 2004
4.3.2. Kinh nghiệm trồng nấm
Hầu hết nông dân ở xã điều tra đều là những người mới trồng nấm ít 
kinh nghiệm. Qua hình 4 cho thấy hộ nông dân trồng nấm rơm có kinh 
nghiệm nhỏ hơn 2 năm chiếm tỷ lệ cao (80%) so với số hộ nông dân có kinh 
nghiệm trồng trên 2 năm (20%). Số hộ trồng nấm lớn hơn 10 năm chiếm tỷ lệ 
thấp (7%). Phần lớn số hộ điều tra có ít kinh nghiệm trồng nấm rơm vì mô 
hình này chỉ mới phổ biến ở xã. Bên cạnh những hộ bố trí trồng nấm rơm sau 
vụ lúa, những hộ chuyên trồng nấm quanh năm thì trong 1 năm họ bố trí rất 
nhiều vụ tùy theo điều kiện có được, tùy theo ngày rằm, ngày chay,…
0%
80%
6,67%6,67%3,33%3,33%
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
2 - 4 > 4 - 6 >6 - 8 > 8 - 10 >10
Năm trồng
% nông 
hộ
4
Hình 4: Số năm kinh nghiệm trồng nấm rơm của các nông hộ ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
4.4. Thời vụ và nơi trồng nấm
4.4.1. Thời vụ trồng nấm rơm
Nấm rơm có thời gian trồng ngắn (khoảng 1 tháng) và có thể trồng 
quanh năm, trong điều kiện tiêu thụ hiện nay, mùa vụ trồng thường liên quan 
đến ngày rằm, ngày chay, sau vụ lúa,… ngoài ra trồng nấm rơm cần phải chú 
ý đến thời tiết. Những người mới học nên trồng vào mùa nắng để dễ chăm sóc 
và nấm ít bị hư hỏng do thời tiết. Từ kết quả hình 5 cho thấy trong các hộ 
điều tra phần lớn đều tập trung trồng nấm rơm sau vụ trồng lúa chiếm 86,7% 
cho thấy chỉ sau khi thu hoạch lúa xong thì họ mới có đủ nguồn vốn, nhân lực 
và thời gian cho việc trồng nấm, những hộ trồng nấm rơm quanh năm chiếm 
tỷ lệ thấp 13,3%. Những hộ trồng nấm rơm sau vụ trồng lúa vì họ có thể tận 
dụng nguồn rơm sẵn có tại nhà, xin hoặc mua rơm ở các hộ lân cận nên giảm 
chi phí đáng kể, đồng thời trong khoảng thời gian này họ có nhiều thời gian 
để chăm sóc nấm, còn những hộ trồng nấm rơm quanh năm thì họ thường tận 
dụng nguồn rơm sau vụ trồng lúa, tích lũy rơm hoặc mua rơm từ nơi khác.
13,3%
86,7%
cả năm
sau vụ trồng lúa
Hình 5: Tỉ lệ (%) nông hộ có thời vụ bố trí trồng nấm rơm ở xã Lương 
An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
4
4.4.2. Nơi trồng nấm
Nấm rơm có thể phát triển tốt và thích hợp ở nhiều nơi trồng khác 
nhau, từ nơi có nhiều ánh sáng mặt trời (trồng ngoài trời) đến nơi không chịu 
ảnh hưởng trực tiếp của ánh sáng mặt trời (trồng trong nhà). Hiện nay, cách 
trồng nấm rơm phổ biến là ở ngoài trời, nếu có điều kiện đầu tư đảm bảo theo 
yêu cầu công nghệ và nhất là sản xuất theo quy mô công nghiệp, người ta 
trồng nấm rơm trong nhà theo công nghệ nhiệt sinh học (Tài liệu tập huấn, 
2004). Trong các hộ điều tra được, phần lớn nông dân bố trí trồng nấm rơm 
ngoài trảng (chiếm 80%), số còn lại bố trí ở dưới tán cây (chiếm 20%) để 
làm giảm sự tác động trực tiếp của ánh nắng và mô nấm không bị khô. Kết 
quả điều tra về bố trí nơi trồng nấm rơm của nông dân được trình bày trong 
bảng 8.
Bảng 8: Vị trí nơi trồng nấm của các nông hộ ở xã Lương An Trà và xã 
Cô Tô, năm 2004
Nơi trồng nấm Tần suất %
Ngoài trảng 24 80,00
Dưới tán cây 6 20,00
Tổng 30 100
4.5. Loại meo trồng nấm
Năng suất và chất lượng của nấm rơm phụ thuộc rất lớn vào chất 
lượng của meo giống nấm rơm. Hiện nay, có rất nhiều loại meo được bán trên 
thị trường như Thần Nông, Tư Sài Gòn, Mười Cười, Cửu Long,…nên người 
trồng nấm hết sức lưu ý khi mua giống về sản xuất, đây là một trong các yếu 
tố quyết định sự thành bại, nếu giống tốt năng suất nấm sẽ cao và ngược lại 
(Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002). Từ kết quả bảng 9 cho thấy meo Thần 
Nông được sử dụng nhiều nhất (chiếm 53,3%), kế đến là meo Mười Cười 
(chiếm 40%), trong đó chỉ có 3,3% sử dụng meo Tư Sài Gòn và 3,3% không 
biết tên giống meo sử dụng. Các hộ sử dụng meo Thần Nông và Mười Cười 
nhiều vì đây là các loại meo mà xã giới thiệu khi được học tập huấn, được các 
hộ trồng trước sử dụng. Khi bố trí trồng nấm, các hộ chỉ sử dụng duy nhất 1 
loại meo và hầu hết đều không biết tuổi meo ngày sau khi ra lò chiếm 76,7%, 
4
chỉ 23,3% là biết tuổi meo trồng ngày sau ra lò dao động từ 5 đến 12 ngày, 
đây là 1 kinh nghiệm tốt vì trong giai đoạn này tơ nấm phát triển tốt và đủ 
mạnh để tiếp tục tăng trưởng tốt sau khi bố trí (Lê Ngọc Thạch, 2001; Hồng 
Kim Minh, 2003).
Bảng 9: Loại meo sử dụng trồng nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã Cô 
Tô, năm 2004
Loại meo Tần suất %
Không biết
Mười Cười
Thần Nông
Tư Sài Gòn
1
12
16
1
3,30
40,00
53,30
3,30
Tổng 30 100
4.6. Số lần tưới nước trồng nấm của nông hộ
Cũng như các loại cây trồng khác, trồng nấm rơm cũng cần nước tưới 
đầy đủ vì thiếu nước tưới 1 ngày (nhất là vào mùa nắng nóng) sẽ đẩy nhiệt độ 
mô nấm tăng cao sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nấm. Có thể dùng 
nước ruộng, nước ao hồ, sông suối để tưới nấm nhưng nguồn nước đó phải là 
nước ngọt, không nhiễm bẩn, không nhiễm phèn, không nhiễm mặn, nhất là ô 
nhiễm do thuốc sát trùng hoặc xăng dầu (Việt Chương, 2003). Hầu hết các hộ 
điều tra đều sử dụng nước sông để tưới nấm (80%), chỉ có 20% hộ sử dụng 
nước kênh mương để tưới nấm, kết quả điều tra hình 6 cho thấy số hộ tưới 1 
lần/ngày chiếm tỷ lệ khá cao (66,7%) còn số hộ tưới 2 lần/ngày chỉ chiếm 
33,3%. Các hộ tưới nấm 1 lần/ngày thường tưới vào buổi sáng còn các hộ 
tưới 2 lần/ngày thường tưới vào buổi sáng và buổi chiều. Các hộ tưới nước 
cho nấm tùy thuộc vào thời tiết (nắng gắt hay mưa nhiều), tùy thuộc nơi trồng 
(ngoài trảng hay dưới tán cây) và đều tưới nấm vào buổi sáng hoặc chiều mà 
không tưới vào buổi trưa vì nước sẽ bốc hơi nhanh trên bề mặt mô sẽ gây hại 
cho sự phát triển của nấm. 
4
33,30%
66,70%
hai lần trong
ngày
một lần trong
ngày
Hình 6: Số lần tưới nước trồng nấm trong ngày của các nông hộ ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
4.7. Kỹ thuật canh tác của nông hộ
4.7.1. Xử lý nền trồng nấm
Trước khi trồng nấm để diệt một số sâu bệnh thì nông dân thường xử 
lý nền, đây là khâu rất quan trọng trong quá trình trồng nấm. Qua hình 6 cho 
thấy, trong số các hộ nông dân điều tra thì số hộ có xử lý nền trước khi chất 
nấm chiếm 56,7%, số hộ còn lại thì không xử lý nền trước khi chất (chiếm 
43,3%). Điều này cho thấy vẫn còn nhiều hộ vẫn không quan tâm đến việc xử 
lý nền trồng nấm, nếu nền trồng có nhiều côn trùng hoặc nấm bệnh thì sẽ ảnh 
hưởng rất lớn đến năng suất về sau. Xử lý nền trồng nấm là rất cần thiết đối 
với những nơi trồng nấm rơm nhiều vụ trên cùng một diện tích, đối với 
những nơi chưa từng bố trí trồng nấm rơm thì có thể không cần xử lý nền. 
Trong các hộ có xử lý nền trồng nấm thì các hộ này đều xử lý bằng cách rải 
vôi để diệt mầm bệnh, côn trùng. Bên cạnh việc rải vôi để xử lý nền còn có 
thể kết hợp rải hoặc phun thuốc trừ sâu lên nền trước khi bố trí trồng nấm với 
các loại sau: Basudin 10H, Super lân, Sumithion 50ND,…(Phạm Thị Phương 
Thảo, 2004).
4
43,3%
56,7%
có
không
Hình 7: Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không xử lý nền trước khi chất nấm ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
4.7.2. Ủ rơm và cách nhận biết rơm chín
4.7.2.1. Ủ rơm
Các hộ điều tra đều tiến hành ủ rơm trước khi chất nấm, đây là việc 
làm rất cần thiết giúp cho rơm được phân hủy tạo nên 1 giá thể tốt để cho 
nấm rơm phát triển tránh sự xâm nhập của nấm dại và mầm bệnh. Đống ủ 
được nông dân chất ngoài trời, kết quả bảng 10 cho thấy số hộ không đậy 
đống ủ (chiếm 66,7%) do bố trí đống ủ nơi đầy đủ ánh sáng hoặc đống ủ lớn 
không mất độ nóng, số hộ còn lại do bố trí đống ủ nơi không đủ ánh sáng 
hoặc muốn cho rơm chín đều nên mới đậy đống ủ (chiếm 33,3%). Các hộ 
điều tra đều tiến hành ủ rơm nhưng lại không quan tâm đến việc xử lý rơm ủ. 
Ở khâu này, tuy đống ủ có nhiệt độ bên trong rất lớn và có nhiều vi sinh vật 
phân hủy… việc bổ sung vôi cũng rất tốt do vôi sẽ làm mềm nhanh nguyên 
liệu, đặc biệt nếu rơm không còn mới vôi sẽ hạn chế sự phát triển của vi 
khuẩn, nấm mốc,… (Lê Duy Thắng, 1997). Qua quá trình điều tra cho thấy 
để đảm bảo cho rơm được chín đều và phân hủy hoàn toàn thì trong quá trình 
ủ rơm có 90% hộ điều tra tiến hành đảo rơm.
4
Bảng 10: Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không đậy đống ủ ở xã Lương An Trà 
và xã Cô Tô, năm 2004
Ủ rơm Tần suất %
Ủ có đậy
Ủ không đậy
10
20
33,30
66,70
Tổng 30 100
Dạng đống ủ không đậy được trình bày ở hình 8
Hình 7: Đống ủ không đậy 
4.7.2.2. Cách nhận biết rơm chín
Rơm rạ xử lý xong, từ màu vàng xám sẽ chuyển sang màu vàng sậm 
và mềm nhũn hoặc có phấn trắng trên cọng rơm nhưng khi tưới nước vào thì 
cọng rơm có màu vàng sẫm; cọng rơm hơi khó bứt là vừa để chất nấm; phải 
có mùi thơm giống nấm rơm, không bị hôi hắc hoặc chua (Lê Duy Thắng, 
1997). Từ bảng 11 cho thấy trong các hộ điều tra có 4 quan điểm để nhận biết 
rơm chín khác nhau như: cọng rơm có màu vàng đậm, phủ bông phấn mềm; 
4
cọng rơm có màu đỏ đậm, dễ bứt; rơm có màu vàng sậm, mềm, có mùi thơm 
của rơm; rơm mềm, vắt nước vừa rỉ tay. Nhưng cách nhận biết rơm chín 
(cọng rơm có màu vàng sậm, mềm, có mùi thơm của rơm) chiếm nhiều ý kiến 
nhất (36,7%) và ý kiến này cũng cùng với ý kiến của Lê Duy Thắng. Biết 
cách nhận biết rơm chín trong quá trình trồng nấm rơm là rất tốt vì nếu rơm 
không chín mà đem chất nấm thì sẽ ảnh hưởng đến năng suất nấm về sau.
Bảng 11: Cách nhận biết rơm chín của nông hộ ở xã Lương An Trà và xã 
Cô Tô, năm 2004
Cách nhận biết rơm chín Tần suất %
1. Cọng rơm có màu vàng đậm, phủ bông 
phấn, mềm.
9 30,00
2. Cọng rơm có màu đỏ đậm, dễ bứt. 9 30,00
3. Rơm có màu vàng sậm, mềm, có mùi 
thơm của rơm.
11 36,70
4. Rơm mềm, vắt nước vừa rỉ tay. 1 3,30
Tổng 30 100
4.7.3. Dạng mô chất nấm rơm
Khi trồng nấm tùy thuộc vào diện tích, địa điểm mà nông dân bố trí 
nhiều dạng mô khác nhau. Nếu có diện tích lớn, nông dân thường sắp xếp mô 
dạng đơn hoặc mô đôi để dễ cho việc chăm sóc và thu hoạch về sau, dạng mô 
ba được sử dụng khi diện tích trồng nhỏ hoặc nơi trồng nấm có nhiều gió dễ 
làm lạnh mô do đó bố trí mô ba để giữ ấm dòng mô. Qua bảng 12 cho thấy 
hầu hết các hộ điều tra do có diện tích chất nấm lớn nên chủ yếu bố trí theo 2 
dạng: mô đơn và mô đôi, số hộ bố trí dạng mô đơn chiếm tỷ lệ 76,7%, bên 
cạnh đó dạng mô đôi cũng được sử dụng nhưng với tỷ lệ 23,3%.
Bảng 12: Dạng mô chất nấm rơm của các nông hộ ở xã Lương An Trà và 
xã Cô Tô, năm 2004
Dạng mô Tần suất %
Mô đơn 23 76,70
Mô đôi 7 23,30
Tổng 30 100
Hai dạng mô chất nấm chủ yếu ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô được 
trình bày ở hình 9 và hình 10.
4
Hình 9: Mô đơn 
Hình 10: Mô đôi 
5
4.7.4. Trở tơ sau khi chất
Sau khi chất nấm xong, nông dân thường phơi mô 2-3 ngày sau đó tiến 
hành tủ rơm áo, rơm áo có tác dụng như một tấm phên che phủ mô nấm rơm 
khỏi bị nắng trực xạ, tránh được mưa gió tạt vào để giữ cho mô được ấm và 
đủ độ ẩm, cho nên áo mô giữ vai trò quan trọng giúp mô nấm có điều kiện 
tăng trưởng tốt (Việt Chương, 2003). Trong số hộ có đậy rơm áo thì tất cả các 
hộ này đều tiến hành trở tơ, kết quả bảng 13 cho thấy số lần trở tơ của các hộ 
dao động từ 1 đến 3 lần trong đó có 56,67% số hộ trở tơ 3 lần trước khi thu 
hoạch nấm đợt đầu. Trở tơ (còn gọi là trở rơm áo) nhằm giúp tơ phát triển 
đều với mật độ nhiều trên bề mặt mô và không lan vào rơm áo, thuận tiện cho 
việc kết thành nụ nấm về sau (Phạm Thị Phương Thảo, 2004).
Bảng 13: Tỉ lệ (%) số hộ trở tơ ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 
2004
Số lần trở tơ Tần suất %
1. Trở 1 lần 2 6,66
2. Trở 2 lần 11 36,67
3. Trở 3 lần 17 56,67
Tổng 30 100
4.7.5. Hiện trạng sử dụng chất kích thích tố trong quá trình trồng 
nấm
Để gia tăng năng suất nấm thì trong quá trình trồng nấm người nông 
dân thường bổ sung chất kích thích tố. Qua kết quả hình 11, có 76,67% số hộ 
có bổ sung chất kích thích tố trong quá trình trồng nấm điều này cho thấy các 
hộ này có quan tâm đến năng suất nấm, có 23,3% số hộ không bổ sung chất 
kích thích tố do diện tích canh tác nhỏ và không đầu tư nhiều cho nấm rơm. 
5
76,67%
23,30%
không
có
Hình 11: Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không sử dụng chất kích thích tố trong 
quá trình trồng nấm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Từ kết quả bảng 14 cho thấy chất kích thích được sử dụng nhiều là 
Bioted 603 chiếm 32,14%, kế đó là Atonik, HVP, Thiên Phong Tố chiếm 
cùng tỷ lệ là 21,43%, chỉ có HQ 601 sử dụng với tỷ lệ thấp (3,57%). Các chất 
kích thích này được sử dụng để kích thích cho tơ nấm phát triển nhanh và 
thường được bổ sung trong lúc chất mô (39,29%) hoặc trước khi đậy rơm áo 
(60,71%).
Bảng 14: Tỉ lệ (%) số hộ bổ sung chất kích thích tố trong quá trình trồng 
nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Loại dinh dưỡng Tần suất %
Atonik 6 21,43
HVP 6 21,43
Bioted 603 9 32,14
HQ 601 1 3,57
Thiên Phong Tố 6 21,43
Thời gian sử dụng
Trong lúc chất mô 11 39,29
Trước khi đậy rơm áo 17 60,71
5
4.7.6. Dịch hại nấm rơm và tình hình sử dụng nông dược
Chu kỳ sinh trưởng của nấm rơm chỉ trên dưới 3 tuần lễ thế nhưng 
cũng có một số bệnh phổ biến, có khi vì những loại sâu bệnh này mà người 
trồng phải hủy bỏ cả mô nấm hay một số mô nấm bị nhiễm bệnh để cứu 
những mô lành mạnh khác (Việt Chương, 2003). Qua hình 12 cho thấy, trong 
quá trình trồng nấm thường xuất hiện loại sâu bệnh sau: kiến và dế, tơ dại và 
tơ lan, sâu đục nấm, nhưng chỉ duy nhất có 1 hộ có sâu đục nấm gây hại 
(chiếm 5,56%) nhưng không gây thiệt hại đáng kể đến năng suất nấm rơm.
5,56%
55,56%
38,89%
0
10
20
30
40
50
60
Kiến, dế Tơ dại, tơ lan Sâu đục nấm
Dịch hại nấm rơm
%
 n
ôn
g 
hộ
Hình 12: Tỉ lệ (%) sự xuất hiện dịch hại khác nhau trên mô nấm rơm ở 
xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Các loại sâu bệnh trên khi xuất hiện ít thì chúng không gây hại đáng kể 
đến năng suất nấm, nhưng khi xuất hiện nhiều chúng sẽ làm giảm năng suất, 
chất lượng nấm rơm. Do đó nông dân thường sử dụng nông dược để phòng 
trừ sâu bệnh. Kết quả điều tra về tình hình sử dụng nông dược của nông hộ 
cho thấy, số hộ sử dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh chiếm 46,67% so với số hộ 
không sử dụng thuốc là 53,33% (hình 13). Các hộ không sử dụng thuốc 
phòng trừ sâu bệnh chủ yếu là những hộ không đầu tư nhiều cho nấm rơm 
hoặc sâu bệnh không gây hại đáng kể đến năng suất nấm của họ. 
Trong các loại thuốc phòng trừ sâu bệnh mà nông hộ sử dụng như 
Cyperan 5EC, Lục Phong 95, HTV, Balatron thì Lục Phong 95 được sử dụng 
nhiều (55,56%). Trong số các nông hộ sử dụng thuốc phòng trừ sâu hại, có 
5
28,57% hộ kết hợp 2 loại thuốc khác nhau và các hộ còn lại chỉ sử dụng 1 
loại thuốc để phun xịt.
53,33% 46,67% có
không
Hình 13: Tỉ lệ (%) số hộ có hoặc không sử dụng nông dược trong quá 
trình trồng nấm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
4.8. Thu hoạch
4.8.1. Ngày bắt đầu hái
So với các loại hoa màu khác, trồng nấm rơm thu hoạch nhanh nhất, 
được coi như một loại cây ngắn ngày. Kể từ lúc trồng đến khi hái hết đợt 1 
khoảng 15-17 ngày, nấm ra rộ vào ngày thứ 12 và 15 (Nguyễn Hữu Đống và 
ctv, 2002).
 Kết quả phân tích từ bảng 15 cho thấy, thời gian từ khi chất nấm đến 
ngày bắt đầu thu hoạch nấm của các nông hộ dao động từ ngày thứ 12 đến 
ngày thứ 15, và số nông hộ thu hoạch vào ngày thứ 12 chiếm 80%, số hộ thu 
hoạch vào ngày thứ 13,14,15 chiếm tỷ lệ thấp. Ngày thu hoạch đầu tiên sẽ 
quyết định thời gian trồng nấm của người nông dân, nếu thời gian thu hoạch 
bắt đầu sớm thì vụ nấm sẽ kết thúc sớm, giảm chi phí và thời gian chăm sóc. 
Tuy nhiên, kỹ thuật canh tác của người nông dân không thể quyết định thời 
gian thu hoạch nấm rơm sớm hay muộn mà tùy thuộc vào chất lượng meo 
giống, rơm và điều kiện thời tiết thuận lợi (Phạm Thị Phương Thảo, 2004).
5
Bảng 15: Tỉ lệ (%) số hộ thu hoạch nấm rơm vào ngày đầu tiên khác 
nhau ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Thời gian từ khi chất mô 
đến thu hoạch đợt 1 
Tần suất %
1. 12 ngày 24 80,00
2. 13 ngày 1 3,30
3. 14 ngày 3 10,00
4. 15 ngày 2 6,70
Tổng 30 100
4.8.2. Số đợt thu hoạch/vụ
Trên 1 mô nấm thời gian thu hoạch 1 đợt kéo dài 3-4 ngày (Nguyễn 
Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung, 2003). Thông thường người trồng nấm để 
kinh doanh chỉ thu hoạch 2 đợt là thu dọn và xử lý đất, chuẩn bị nuôi trồng 
đợt mới (Lê Duy Thắng, 1997). Từ kết quả bảng 16 cho thấy, nông dân ở 
vùng điều tra đều có số đợt thu hoạch dao động từ 1 đến 4 đợt/vụ, trong đó số 
lần thu hoạch 2 đợt/vụ chiếm tỷ lệ 63,3%, kế đó là 1 đợt/vụ chiếm 3,3%, chỉ 
có duy nhất 1 hộ thu hoạch 4 đợt/vụ (chiếm 2,4%). Số đợt thu hoạch tập trung 
chủ yếu ở 1-2 đợt/vụ vì giá trị thương phẩm, năng suất của nấm rơm thường 
cao còn những đợt tiếp theo năng suất thu hoạch giảm dần. Số ngày thu hoạch 
trên 1 đợt ở các hộ điều tra dao động từ 3 đến 5 ngày, trong đó số hộ thu 
hoạch 4-5 ngày/đợt chiếm tỷ lệ cao (86,6%), chỉ có 13,3% hộ thu hoạch 3 
ngày/đợt.
Bảng 16: Số đợt thu hoạch nấm rơm trên 1 vụ ở xã Lương An Trà và xã 
Cô Tô, năm 2004
Số đợt thu hoạch/vụ Tần suất %
1. 1 lần/vụ 10 33,30
2. 2 lần/vụ 19 63,30
3. 4 lần/vụ 1 3,30
Tổng 30 100
5
4.8.3. Tiêu thụ sản phẩm
* Nơi bán
Sau khi thu hoạch, nấm rơm có thể tiêu thụ với nhiều phương thức 
khác nhau: bán tại chợ, bán cho thương lái,… Nông dân tiêu thụ nấm rơm 
chủ yếu tại chợ vì thuận tiện đi lại, nấm rất dễ nở ô dù làm giảm giá thành 
nên cần nơi tiêu thụ nhanh. Mặt khác do các hộ điều tra trồng nấm trong mùa 
lũ nên nấm ít rất dễ tiêu thụ ở các chợ nhỏ trong vùng.
Hình 14: Phân loại nấm rơm trước khi đem bán
* Giá bán
Giá nấm cao hay thấp tùy thuộc vào chất lượng nấm, nhu cầu thị 
trường. Giá nấm rơm ở các hộ điều tra được ở bảng 17 dao động từ 4.500 
đồng/kg đến 9.000 đồng/kg, trong đó tập trung nhiều nhất ở giá 7.000 
đồng/kg (chiếm 36,7%). Do đó cho thấy giá nấm trong mùa lũ khá hấp dẫn.
Trong quá trình canh tác, có 83,33% hộ cho rằng nếu đậy rơm áo 
mỏng thì khi thu hoạch nấm có màu đen, rơm áo dày thì nấm rơm có màu 
trắng. Giá nấm đen sẽ không cao bằng nấm trắng.
5
Bảng 17: Giá bán nấm rơm ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Gía nấm rơm (đồng/kg) Tần suất %
4.500 1 3,30
5.000 2 6,70
6.000 7 23,30
6.500 2 6,70
7.000 11 36,70
8.000 6 20,00
9.000 1 3,30
Tổng 30 100
4.8.4. Năng suất nấm rơm trên 1 mét mô (kg/m)
 Từ hình 16 cho thấy, năng suất trên 1 mét mô của nông hộ phần lớn 
đạt 0,6-1 kg/m mô (chiếm 46,6%), năng suất 1,04-1,25 kg/m mô chiếm tỷ lệ 
thấp nhất (23,1%). Trung bình cứ 1 mét mô (tính theo chiều dài mô nấm) hái 
được 1,5-2,5 kg nấm tươi (tùy theo chất lượng rơm, meo giống, chiều cao mô 
chất) (Lê Duy Thắng, 1997) điều đó cho thấy năng suất của đa số các hộ điều 
tra đều thấp, chỉ có 29,9% hộ có năng suất tương đối cao từ 1,38-1,8 kg. 
Năng suất nấm rơm thấp có thể là do nông dân không bổ sung chất kích thích 
tố, không xịt thuốc phòng ngừa sâu bệnh hoặc do kỹ thuật canh tác. Vì trên 
địa bàn nông dân chỉ mới trồng nấm nhiều trong năm qua nên kỹ thuật canh 
tác còn hạn chế. Bên cạnh đó Lương An Trà là vùng đất phèn nên dễ ảnh 
hưởng đến năng suất nấm.
5
29,9%
23,1%
46,6%
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
0.6-1 1.04-1.25 1.38-1.8
Năng suất nấm rơm trên 1 mét mô (kg/m )
% nông
 hộ
Hình 15: Năng suất nấm rơm trên 1 mét mô (kg/m) ở xã Lương 
An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
4.9. Chi phí, thu nhập và lợi nhuận
Chi phí trong quá trình trồng nấm rơm của nông hộ chủ yếu là rơm, 
meo giống, công lao động, dinh dưỡng, nông dược và những phụ chi khác 
trong sản xuất. Chi phí cao nhất thường là công lao động và chi phí mua rơm 
nhưng nếu sử dụng công lao động nhà và rơm xin thì sẽ giảm chi phí đáng kể, 
đó chính là những thuận lợi mà hầu hết các hộ điều tra đều cố gắng tận dụng. 
Trong các loại chi phí ở bảng 18 tính trên 100 mét mô cho thấy chi phí cho 
công thuê chở nguyên liệu là cao nhất (trung bình là 62.961 đồng), kế đó là 
chi phí meo (trung bình là 44.769 đồng), trong đó chi phí mua vôi là chi phí 
thấp nhất (trung bình 4.621 đồng).
Thu nhập và lợi nhuận của mỗi hộ phụ thuộc giá nấm cao hay thấp, chi 
phí bỏ ra nhiều hay ít. Tổng thu trung bình của các hộ trồng nấm rơm điều tra 
là 950.925 đồng/100 mét mô và tổng chi là 255.925 đồng/100 mét mô. Sau 
khi trừ đi chi phí thì lãi thuần trung bình của các hộ 694.145 đồng/100 mét 
mô.
Qua các loại chi phí điều tra ở các hộ thì chi phí chuyên chở nguyên 
liệu là loại chi phí cao nhất, nếu giảm bớt chi phí này thì thu nhập của các hộ 
sẽ gia tăng đáng kể. Hiệu quả đồng vốn trung bình của các hộ trồng nấm rơm 
ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô là 2,44 nghĩa là khi bỏ ra 1 đồng sẽ thu được 
2,44 đồng, điều này cho thấy mô hình trồng nấm rơm có hiệu quả kinh tế cao.
5
Bảng 18: Chi phí, thu nhập và lợi nhuận của mô hình trồng nấm rơm ở 
xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Đvt: đồng/100 mét mô
Chi phí Trung bình
Chi phí rơm 41.136
Chi phí meo 44.769 
Chi phí dinh dưỡng 22.012 
Công chất (lao động thuê) 28.273 
Công chất (lao động nhà) 24.663
Công hái (lao động nhà) 23.264
Công tưới (lao động nhà) 13.886
Công chở nguyên liệu (thuê) 62.961 
Chi phí thuốc xử lý 20.233 
Chi phí vôi 4.621 
Chi phí xăng dầu 31.789 
Chi phí vật tư 84.611 
Chi phí tiền mặt 121.319 
Chi phí cơ hội 134.605 
Tổng chi phí lao động thuê 61.179
Tổng chi phí lao động nhà 61.814
Lãi ngân hàng 72.791 
Tổng chi 255.925
Tổng thu 950.070
Lãi thuần 694.145
Hiệu quả đồng vốn có phí cơ hội 2,44
4.10. Sự tham gia của nữ giới trong việc trồng nấm
Qua kết quả điều tra ở bảng 19 cho thấy trong quá trình trồng nấm rơm 
hầu hết đều do nam đảm nhận như mua rơm, vận chuyển rơm, mua meo, xử 
lý rơm, chất mô, bón phân, xịt thuốc, tưới nước. Chỉ có việc hái nấm là có sự 
tham gia của nam và nữ với số lượng lớn (chiếm 93,33%) và nữ giới chỉ tham 
gia đông nhất vào bán nấm (chiếm 60%), qua đó cho thấy hầu hết những kỹ 
thuật trồng nấm chỉ có nam giới làm, còn nữ giới chỉ là lao động phụ.
5
Bảng 19: Sự tham gia của nữ giới trong quá trình trồng nấm rơm ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Các hoạt động
Số lượng 
Nam %
Số 
lượng 
Nữ %
Số lượng 
Nam+nữ %
Mua rơm 29 97,00 0 0,00 1 3,33
Vận chuyển 
rơm 29 97,00 0 0,00 1 3,00
mua meo 30 100,00 0 0,00 0 0,00
xử lý rơm 30 100,00 0 0,00 0 0,00
chất mô 29 97,00 0 0,00 1 3,00
bón phân 29 97,00 0 0,00 1 3,00
xịt thuốc 29 97,00 0 0,00 1 3,00
tưới nước 23 76,67 0 0,00 7 23,33
hái nấm 2 6,67 0 0,00 28 93,33
bán nấm 12 40,00 18 60,00 0 0
4.11. Hiệu quả đầu tư và chi phí của mô hình canh tác 2 lúa - nấm rơm 
tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô
Bảng 20 phân tích lợi tức và chi phí mô hình canh tác ở xã Lương An 
Trà và xã Cô Tô cho thấy trung bình hiệu quả đồng vốn không tính phí cơ hội 
trên 1 công lúa (1.000 m2) của mô hình 2 vụ lúa Đông Xuân và Hè Thu là 
3,33 nghĩa là bỏ ra 1 đồng chi phí đầu tư ban đầu thì thu được 3,33 đồng, hiệu 
quả đồng vốn có tính phí cơ hội tính trên 100 mét mô của mô hình trồng nấm 
rơm là 2,44. Vì vậy, nếu trong năm ngoài 2 vụ lúa nông dân làm thêm vụ nấm 
sẽ gia tăng được thu nhập mà còn giải quyết lao động nhàn rỗi và tận dụng 
được nguồn rơm sẵn có.
Bảng 20: Hiệu quả đầu tư và chi phí của mô hình canh tác 2 lúa - nấm 
rơm tại xã Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
 Đvt: 1000 đồng/1.000 m2 (lúa)
đồng/100 mét mô (nấm rơm)
Mô hình canh tác Tổng thu Tổng chi Lãi 
Hiệu quả đồng 
vốn
Lúa Đông Xuân - Hè Thu
Nấm rơm
1.995
950.070
805
255.925
1.202 
694.145
3,33
2,44
6
4.12. Thuận lợi, khó khăn trong quá trình trồng nấm
4.12.1. Thuận lợi
Trồng nấm rơm ở Việt Nam có nhiều thuận lợi do nguồn nguyên liệu 
trồng nấm dồi dào như rơm rạ, bã mía,…tận dụng được nguồn lao động nhàn 
rỗi, điều kiện tự nhiên phù hợp cho sự phát triển của nấm rơm, không cần đầu 
tư vốn nhiều,…(Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung, 2003). Qua kết quả 
bảng 21 cho thấy đa số các hộ điều tra đều có ý kiến nhận xét về sự thuận lợi 
của việc trồng nấm rơm tương tự với ý kiến của tác giả Nguyễn Duy Điềm và 
Huỳnh Thị Dung (2003) bao gồm những thuận lợi như: dễ làm, giải quyết 
việc làm, tận dụng thời gian nhàn rỗi, cần vốn ít, mau thu hồi vốn, tăng thu 
nhập, trong đó ý kiến nấm rơm dễ trồng và giải quyết việc làm chiếm tỷ lệ 
cao nhất (70%). Do đó mô hình nấm rơm có thể coi như 1 trong những mô 
hình thích hợp để áp dụng trong mùa lũ vì nó có thể giải quyết được lượng 
lao động nhàn rỗi đồng thời tạo thêm nguồn thu nhập cho người dân.
Bảng 21: Thuận lợi trong quá trình trồng nấm rơm của nông hộ ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Thuận lợi Tần suất %
1. Dễ làm, giải quyết việc 
làm
21 70,00
2. Tận dụng thời gian nhàn 
rỗi, giải quyết việc làm
2 6,70
3. Giải quyết việc làm, vốn 
ít, mau thu hồi vốn
2 6,70
4. Giải quyết việc làm, tăng 
thu nhập
5 16,70
Tổng 30 100
4.12.2. Khó khăn
Trồng nấm rơm để có được nhiều lợi nhuận thì nông hộ cần tận dụng 
nguồn nguyên liệu có sẵn, tận dụng lao động gia đình,…nhưng 1 số hộ do 
mua rơm từ huyện khác hoặc vận chuyển rơm từ ngoài đồng về nhà nên tốn 
thêm công vận chuyển nguyên liệu đã làm tăng thêm chi phí và giảm lợi 
nhuận. Chính việc vận chuyển rơm xa đã gây nên khó khăn cho nhiều nông 
hộ điều tra (36,7%) (bảng 22).
6
Bảng 22: Khó khăn trong quá trình trồng nấm rơm của nông hộ ở xã 
Lương An Trà và xã Cô Tô, năm 2004
Khó khăn Tần suất %
1. Không có ý kiến 17 56,70
2. Nơi tiêu thụ không ổn 
định
1 3,30
3. Vận chuyển rơm xa làm 
tăng chi phí
11 36,70
4. Tốn nhiều công, thiếu 
kinh nghiệm
1 3,30
Tổng 30 100
4.13. Mô hình theo dõi
Nấm rơm là loại nấm mà đa số người Việt Nam rất thích ăn. Nấm rơm 
có thể nuôi trồng trên nhiều nguyên liệu khác nhau như lục bình, bã mía, rơm 
rạ,… nhưng nguyên liệu trồng phổ biến hiện nay vẫn là rơm rạ. Nấm rơm có 
thể trồng trong nhà hay ngoài trời, nhưng cách trồng phổ biến hiện nay vẫn là 
trồng ngoài trời. Để hiểu rõ hơn về kỹ thuật trồng nấm rơm ngoài trời của 
người dân ở xã Lương An Trà, chúng tôi đã tiến hành theo dõi 3 nông hộ và 
ghi nhận tóm lược kỹ thuật trồng nấm rơm bao gồm các bước sau:
* Chọn nền chất
Nền chất nấm hơi nghiêng, có ít cỏ, có hàng cây.
Gần nguồn nước ngọt và sạch.
Xử lý nền chất bằng vôi để diệt mầm bệnh.
* Ủ rơm
Mục đích của việc ủ rơm là giúp rơm phân hủy để cho nấm phát 
triển tốt.
Đống rơm ủ có kích thước thước bề rộng 1,5-2m, cao 1,3-1,4m và 
bề dài tùy theo khối lượng rơm có.
Cách ủ: Rơm được đánh luống cao 0,5m, rộng 1,5-2m rồi tưới 
nước đều sau đó đạp qua 1 lần. Tương tự các lớp tiếp theo cũng làm như vậy 
cho đến khi đống ủ cao 1,3-1,4m. Khi chất xong đống ủ thì lấy tấm mủ nhựa 
phủ lên đống rơm ủ.
Sau khi ủ 5-6 ngày thì tiến hành đảo rơm ủ.
6
Trước khi trồng phải kiểm tra rơm để đảm bảo là rơm đủ chín. Lấy 
vài cọng rơm bứt thử, nếu quan sát thấy:
+ Cọng rơm bứt dễ dàng thì rơm đó quá mục.
+ Cọng rơm hơi khó bứt là vừa để chất nấm.
+ Cọng rơm rất khó đứt là rơm chưa chín.
Về màu sắc sau khi ủ thì rơm cần có màu vàng sẫm hoặc có phấn 
trắng bám trên cọng rơm nhưng khi tưới nước vào thì cọng rơm có màu vàng 
sẫm. Rơm ủ phải có mùi thơm giống như nấm rơm, không bị hôi, hắc hoặc 
chua.
Sau khi đảo đống ủ thì khoảng 6 ngày sau là tiến hành trồng nấm 
rơm.
* Chọn meo giống
Để có thể chọn được bịch tốt cần chú ý các đặc điểm sau:
+ Meo nấm tốt: tơ nấm trắng trong giống bông gòn, sợi tơ phát 
triển đều, tơ nấm mọc đều từ cổ bịch meo.
+ Meo nấm xấu: có màu xám hoặc xanh, sợi tơ không phát triển 
đều trong bịch meo.
Một chai meo giống Mười Cười có thể rải 4-5m mô (tính theo 
chiều dài mô).
* Cách chất nấm
Bố trí chiều dài mô nấm vuông góc với hướng gió và song song với 
hướng thoát nước.
Sau khi rơm ủ đã chín thì tiến hành chất mô nấm. Gói ém chặt rơm 
như cái gối, chất thành giồng nối tiếp nhau sau đó ém rơm xung quanh gọn 
gàng, rơm nền được chất lên cao khoảng 12-15cm rồi tưới nước và đạp qua 1 
lần. Sau đó để tiếp lên thêm 1 lớp rơm thứ 2 cao khoảng 15cm rồi tưới nước 
lên và đạp tiếp tục. Kế đó rải meo thành 2 hàng trên mô cách nhau khoảng 
5cm và phun Atonik (5cc cho 1 bình 18-20 lít) tưới cho 15m mô. Phủ tiếp 1 
lớp rơm cao khoảng 4 cm, dùng 2 tay và trọng lượng cơ thể đè lên mô nấm và 
đi lui dần, vừa lui vừa vuốt mô nấm cho gọn và đồng thời nhét tất cả các cọng 
6
rơm dư thừa xuống 2 bên đáy mô sao cho mô nấm phải tròn và láng, được 
như thế khi mưa thì nước sẽ không bị đọng lại trong mô quá nhiều.
Tưới nước và rải vôi 2 bên hông mô để bỏ dòng con tiếp theo và 
phủ rơm chân.
Mô chất xong có chiều rộng 35-40 cm, chiều cao 40 cm, khoảng 
cách giữa 2 mô là 1,2m.
Phơi nắng mô 3 ngày sau đó tiến hành đậy rơm áo. Rơm sử dụng 
làm rơm áo phải phơi thật khô. Lớp rơm áo có chiều cao khoảng 10-15cm.
* Chăm sóc
 Trước khi đậy rơm áo thì tưới thuốc dưỡng Bioted 603 (5cc/bình 
18 lít).
Sau khi chất mô 4 ngày thì đậy rơm áo, đến ngày thứ 6 nếu thấy 
nhiệt độ cao thì xốc rơm áo, xịt cyperan 5EC (5cc/bình 20 lít) để ngừa kiến, 
dế, xịt Lục Phong giúp tơ nấm không mọc lan (2 gói/bình 10 lít) đồng thời 
bớt rơm áo và trở tơ.
Một ngày sau khi đậy rơm áo thì tưới nước dọc theo 2 bên mô, 
ngày tiếp theo thì có thể tưới đều trên mô.
Ngày thứ 9-10, bắt đầu xuất hiện nấm con cần cẩn thận khi tưới 
nước bởi vì trái nấm non có dính nước trực tiếp sẽ rất dễ bị thúi hay dộp.
Kiểm tra ẩm độ bằng cách:
- Đủ nước: rút 1 nhúm rơm ở giữa mô, bóp chặt trong lòng bàn 
tay, nước hơi rịn ra kẻ tay là vừa.
- Thiếu nước: nếu bóp không thấy nước rịn ra là mô nấm bị khô 
phải tưới nước thêm.
- Dư nước: nếu bóp chặt thấy nước chảy nhỏ giọt là mô nấm bị 
dư nước, phải ngưng tưới nước ngay và dỡ áo mô ra cho nước bốc hơi đi.
Kiểm tra nhiệt độ bằng cách:
- Dùng tay áp sát vào thành mô hoặc đưa ngập sâu vào giữa lớp 
rơm, nếu vừa đặt tay vào cảm thấy ấm dần là nhiệt độ thích hợp.
6
- Ngược lại, nếu không cảm thấy nóng hoặc phải ấn sâu hơn hay 
để lâu hơn mới nóng, do mô nấm bị mất nước và lạnh, cần phải che đậy kỹ 
hơn.
 Đảo rơm áo: Cứ 2 ngày đảo rơm áo 1 lần, dỡ hết lớp rơm ra và giũ 
tơi, sau đó tủ lại giống như lúc ban đầu, đảo rơm vào lúc trời mát. Nếu có trời 
mưa lớn hoặc mưa kéo dài thì phải tranh thủ lúc trời mát hoặc có nắng để đảo 
rơm áo ngay.
* Thu hoạch nấm rơm
Khoảng 12 ngày sau khi cấy meo thì thu hoạch đợt 1.
Khi hái nên lựa các nấm búp hơi nhọn đầu (gần nứt bao) hái trước, 
xoáy nhẹ tay tách gỡ ra khỏi mô, không nên để sót lại chân nấm bị nứt trên 
mô vì phần này khi thối rửa sẽ làm hư các nụ nấm kế bên, thu hoạch xong 
đậy kỹ lớp áo mô lại. 
Thu hoạch khoảng 7-10 ngày thì hết, thu hoạch tốt nhất vào lúc trời 
mát (sáng sớm) vì khi trời nóng nấm dễ bị nứt bao, giá thành sẽ giảm.
6
Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
Đa số chủ hộ có tuổi từ 18-60 tuổi, còn các thành viên trong gia đình 
có tuổi tập trung nhiều dưới 18 tuổi. Trình độ văn hoá của chủ hộ và các 
thành viên trong hộ chủ yếu ở cấp 1. Số nhân khẩu trong gia đình phần lớn từ 
4-5 người/hộ.
Phần lớn các hộ có diện tích tập trung từ 50-200 mét mô, hầu hết nông 
dân ở 2 xã đều là những hộ mới trồng nấm rơm. Các hộ chủ yếu trồng nấm 
sau vụ trồng lúa. 
Đa số các hộ ở xã Lương An Trà và xã Cô Tô bố trí trồng nấm rơm 
ngoài trảng, tất cả các hộ đều quan tâm đến địa điểm trồng nấm. Còn nhiều 
hộ không xử lý nền trước khi trồng nấm.
 Tất cả các hộ đều tiến hành ủ rơm trước khi chất nấm và đều biết cách 
nhận biết rơm chín theo từng cách riêng. Các nông hộ bố trí trồng nấm theo 2 
dạng mô: mô đơn và mô đôi, trong đó dạng mô đơn được nông hộ bố trí 
nhiều hơn dạng mô đôi.
Meo giống Thần Nông và Mười Cười được nông dân sử dụng chủ yếu 
trong trồng nấm. Sau khi chất nấm xong, tất cả các hộ đều tiến hành đậy áo 
mô và trở tơ. Hầu hết các hộ đều sử dụng chất kích thích tố, số hộ sử dụng 
thuốc phòng trừ sâu bệnh ít.
Ngày bắt đầu thu hoạch nấm rơm của nông hộ dao động từ ngày 12 
đến ngày 15 sau khi chất nấm, hầu hết các hộ đều thu hoạch nấm ở 1-2 
đợt/vụ. Nông dân chủ yếu tiêu thụ nấm rơm tại chợ, phần lớn năng suất trên 1 
mét mô của các hộ đạt 0,6-1 kg/mét.
Trong các loại chi phí trong quá trình trồng nấm rơm thì chi phí chở 
nguyên liệu và chi phí mua meo là cao nhất, hiệu quả đồng vốn trung bình 
trên 100 mét mô là 2,44. 
Các hoạt động trồng nấm như mua rơm, vận chuyển rơm, mua meo, xử 
lý rơm, chất mô, bón phân, xịt thuốc, tưới nước đa số là do nam giới làm, chỉ 
có hoạt động bán nấm và hái nấm là có sự tham gia của nữ giới tương đối 
cao.
6
Hầu hết các hộ đều cho rằng trồng nấm rơm có nhiều thuận lợi, bên 
cạnh đó thì việc vận chuyển rơm xa làm tăng chi phí cũng gây khó khăn cho 
họ trong quá trình trồng nấm rơm.
5.2. Đề nghị
Tìm thị trường tiêu thụ ổn định cho nông dân để họ có thể yên tâm mở 
rộng qui mô sản xuất.
Mở các lớp tập huấn hướng dẫn kỹ thuật tăng năng suất cho nông dân 
trồng nấm rơm ở xã.
6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Duy Thắng. 1997. Kỹ thuật trồng nấm, tập 1. Thành phố Hồ Chí Minh: 
NXB Nông Nghiệp.
Hồng Kim Minh. 2003. Kỹ thuật trồng nấm rơm không đậy. Tài liệu khuyến 
nông. Trung tâm khuyến nông Vĩnh Long.
Lê Ngọc Thạch và Lê Đức Nam. 2001. Kỹ thuật trồng nấm rơm năng suất 
cao. Dự án VIE/96/025. Chương trình dự án phát triển Liên Hiệp Quốc 
UNDP - Việt Nam.
Nguyễn Duy Điềm và Huỳnh Thị Dung. 2003. Sao bạn chưa trồng nấm?. 
Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Phụ Nữ.
Nguyễn Hữu Đống. 2003. Nuôi trồng và sử dụng nấm ăn, nấm dược liệu. 
Nghệ An: NXB Nghệ An.
Nguyễn Hữu Đống và ctv. 2002. Nấm ăn cơ sở khoa học và công nghệ nuôi 
trồng. Hà Nội: NXB Nông nghiệp.
Nguyễn Lân Dũng. 2001. Công nghệ nuôi trồng nấm, tập 1. Hà Nội: NXB 
Nông Nghiệp.
Nguyễn Lân Dũng. 2003. Công nghệ nuôi trồng nấm, tập 2. Hà Nội: NXB 
Nông Nghiệp.
Niên giám thống kê năm 2003. Phòng thống kê huyện Tri Tôn tháng 6/2004.
Phạm Thị Phương Thảo. 2004. Điều tra khảo sát hiện trạng kỹ thuật canh tác 
nấm rơm tại Cần Thơ, Vĩnh Long và Đồng Tháp. Luận văn tốt nghiệp 
kỹ sư trồng trọt. Khoa Nông Nghiệp, Đại học Cần Thơ.
Tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ. 2003. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, 
trường Đại học An Giang.
Tài liệu tập huấn. 2004. Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trồng và chế biến nấm 
rơm, nấm Bào ngư. Sở khoa học và công nghệ, hội nông dân, tỉnh đoàn.
Trần Đình Đằng và Nguyễn Hữu Ngoan. 2002. Tổ chức sản xuất một số loại 
nấm ăn ở trang trại và gia đình (nấm mỡ, nấm rơm, nấm sò). Thành phố 
Hồ Chí Minh: NXB Nông nghiệp.
6
Trung tâm UNESCO phổ biến kiến thức văn hoá giáo dục cộng đồng. 2004. 
Sổ tay nuôi trồng nấm ăn và nấm chữa bệnh. Hà Nội: NXB Văn hoá dân 
tộc.
Việt Chương. 2003. Kinh nghiệm trồng nấm rơm và nấm mèo. Thành phố Hồ 
Chí Minh: NXB thành phố Hồ Chí Minh.
Võ Tòng Anh. 2003. Quyết định của nông dân trong việc chuyển đổi cơ cấu 
cây trồng vật nuôi. Đề tài nghiên cứu khoa học. Khoa Nông Nghiệp, Đại 
học An Giang.
6
PHỤ CHƯƠNG 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
TRUNG TÂM NC & PTNT
PHIẾU PHỎNG VẤN MÔ HÌNH TRỒNG NẤM RƠM
TRONG MÙA NƯỚC NỔI TẠI TỈNH AN GIANG
NĂM 2004
-------------------------------------------------------------------------------------------
Mã số : __________
Người phỏng vấn: ________________________ Ngày : ______/____/2004
I. Thông tin tổng quát
Q1. Họ và tên nông dân : ________________________________ 
Q2. Địa chỉ: Ấp _______________ xã ____________________ huyện ________
Q3. Tuổi: 
Q4. Giới tính:  1. Nam  2. Nữ
Q5.Trình độ văn hóa: 
Q6. Tên sông chính/rạch chính gần nhà nhất:
Q7.Kinh nghiệm sản xuất mô hình: ……………….năm
Q8. Nhà loại gì? Tạm  Bán kiên cố  Kiên cố
Q9.Số nhân khẩu trong gia đình ( kể tất cả các thành viên):
Quan hệ với 
chủ hộ
Tuổi Giới tính Văn hóa Lao động 
chính
 Lao động 
phụ
Q10. Gia đình có đất canh tác không:
a.  1. Có  2. Không (nếu không chuyển qua câu c)
b. Tổng diện tích đất canh tác:………. ha (sản xuất nông nghiệp)
c. Ông/ bà chất nấm trên nền đất: 1. Đất ruộng 2. Đất vườn 3. Dọc theo lộ 
7
4. Khác: ................................................................................................................
d. Nền chất nấm: 1. Nhà 2. Thuê 3.Mượn
e. Diện tích nền chất nấm 
Diện tích (ha) Giá thuê nếu có (đồng)
Đất nhà
Đất Thuê
Đất mượn
Q11 Loại đất: 1. Sét 2. sét pha thịt 3. Thịt 4. cát pha 5. Cát pha thịt
6.khác:.........................................................................................................................
Q12. Nguồn nước tưới: 1. Sông  2. kênh mương 3. Nước giếng
Q13. Chất nước : 1 Không nhiễm phèn 2. Phèn nặng 3. phèn nhẹ 
4. ngọt 5. Sạch 6. Dơ 7. Không biết
II. Hoạt động sản xuất 
2.1. Thời vụ
Q14. Thời vụ thích hợp nhất trong trồng nấm: Từ tháng ............ đến tháng
Q15. Thời vụ trồng nấm của gia đình: 1.cả năm 2. Sau vụ trồng lúa 
3.mùa lũ
2.2. Nơi trồng mấm
Q16. Bố trí nơi trồng nấm: 1. Ngoài trảng 2.Dưới tán cây 3. Trong mát 
không có nắng
Q17. Hướng trồng nấm ông bà có quan tâm không:  1 có quan tâm 2. không 
quan tâm
Nếu có hướng chọn là:………………………………………………………………
2.3. Vật liệu trồng mấm
Q18. Nguồn gốc rơm: 1. Của nhà 2. Mua 3. Người khác cho 
  4. Cắt gốc rạ 
Q19. Mua / xin rơm từ: 1. Tại chỗ 2. Xã khác trong huyện 4. Huyện khác
Q20. Dạng rơm khi mua/ xin: 1. Vừa mới suốt 2. Rơm cũ 
Khác:………………………………………………………………………………..
....................................................................................................................................
Q21. Loại rơm mà ông/ bà cho là chất nấm tốt: 
1. Gốc rạ 2. Thân lúa 3. Cả thân và gốc 4.Khác:………………………
Q22. Lượng rơm dùng: ………………. Tấn/ công
Q23. Giá rơm: ……………. Đồng/ công
7
Q24. Ông/ bà có ngâm rơm không: 1. Có 2. Không
a. Nếu có lý do:……………………………………………………………………
b. Thời gian ngâm: ........................... giờ
Q25. Ông/ bà có pha hoá chất ngâm không : 1. Có 2. Không
Q26. Hóa chất bổ sung vào
STT Lọai hóa chất Liều lượng Thời gian sử dụng Cách sử dụng
Q27. Ủ rơm: 1. có 2. Không 3. Ủ có đậy 4. Ủ không đậy
Q28. Có pha hoá chất lúc ủ:  1. Có2. Không
Q29. Hoá chất bổ sung vào
STT Loại hoá chất Liều lượng
Q30. Ông/ bà có đảo rơm khi ủ không: 1. có 2. Không
Q31. Số lần đảo:………… Thời gian: ………………………… ngày
Q32. Nhiệt độ của đóng ủ ...................độ 0C
Q33. Cách nhận biết rơm chín:……………………………………………………...
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
4. Bố trí trồng nấm
Q34. Cách chọn nền chất:…………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………
Q35. Xử lý nền chất mô: 1. có 2. không 
Nếu có xử lý thì cho biết thông tin sau:
STT Lọai hóa chất Liều lượng Thời gian xử lý Cách xử lý
Q36.a. Tổng số mô trồng nấm chất được:……………. Mô. Hoặc có thể là bao 
mhiêu mét mô gia đình chất là : ............................. m
b.Dạng mô: 1.Mô đơn 2. Mô đôi 3. Mô ba 4. Khác
c. Kích thước mô: Rộng mô:………….. Cao mô:…………………………………
7
d. Khoảng cách giửa các mô: Nếu là mô đơn:……………………………………..
e. Nếu là mô đôi hoặc mô ba:………………………………………………………
f. Đối với mô đôi và mô ba thì khoảng cách trong của hai mô đơn:……………….
Q37. Ông bà có bó rơm khi chất không: 1. Có 2. Không 
Q38. Chiều cao lớp rơm đáy trước khi rãi meo: ……………………………………
Q39. Chiều cao lớp rơm trên sau khi rãi meo:………………………………………
Q40. Sau khi chất mô xong có phơi nắng mô không: 1. Có 2. Không
Q41. Thời gian phơi:………………………………………………………………..
Q42. Nhiệt độ thích hợp nhất của mô để nấm phát triển: .........................0C
Q43. Cách nhận biết nhiệt độ thích hợp của nông dân:……………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
2.4 Meo Nấm
Q44. Tên giống meo sử dụng: …………… nơi sản xuất:…………………………
Q45. Kinh nghiệm nhận giống meo tốt:……………………………………………
………………………………………………………………………………………
Q46. Tuổi meo trồng (ngày sau khi ra lò):……………………………………ngày
Q47. Lượng meo sử dụng trên mét mô: ……….chai
Q48. Vị trí rãi meo: 1.Giữa mô 2. Hai bên lếp 3.Khác:.................................
Q49. Cách rãi meo giống: 1. Rãi đều 2. Rãi có khoảng cách 
3. Khoảng cách………
2.5 Phủ áo mô
Q50. Sau khi chất mô có phủ áo mô không: 1 Có 2. Không
Q51. Thời gian từ lúc chất mô đến khi bắt đầu phủ áo mô:………………………...
Q52. Vật liệu phủ áo mô là gì:………………………………………………………
Q53. Trở tơ (xốc rơm áo): Có Không
Q54.a.Thời gian từ khi chất mô đến lần trở tơ thứ nhất:……………………………
 b.Thời gian từ khi chất mô đến lần trở tơ thứ hai:……………………………..
 c. Thời gian từ khi chất mô đến lần trở tơ thứ ba:……………………………..
2.6 Chăm sóc và thu hoạch
Q55. Thời gian tưới sau khi chất mô:………………………………………ngày
Q56. Cách tưới: 1. Thùng 2. Máy bơm
Q57. Số lần tưới trong ngày:........................ lần
Q58. Thời điểm tưới: 1. Sáng sớm 2. Trưa 3. Chiều 
4.Khác:...................
Q59. Lượng nước tưới mỗi lần: ........................... lít/mét mô
Q60. Thời gian tưới sau khi phủ áo rơm:............... ngày
Q61. Bổ sung dinh dưỡng thuốc: 1. Có 2. Không
STT Loại dinh dưỡng Liều lượng Thời gian bổ sung Cách bổ sung
7
Q62. Cách phòng trừ sâu bệnh
STT Loại sâu bệnh Cách gây hai thuốo phòng trừ Liều lượng
2.7 Thu hoạch
Q63. Thời gian từ lúc rãi meo đến khi bắt đầu thu hoạch:……………………ngày
Q64. Thời gian từ khi rãi meo đến mỗi giai đoạn: 
 Rãi meo → Đinh ghim:........... ngày
 Đinh ghim → Dạng nút: .......... ngày
 Dạng nút → Dạng trứng ......... ngày
 Dạng trứng → Dạng kéo dài: ...... ngày
 Dạng kéo dài → Dạng trưởng thành: ......... ngày
Q65. Cách nhận diện nấm khi chuẩn bị thu hoạch:………………………………..
Q66. Nấm có màu đen hay màu trắng thì kỹ thuật có gì khác nhau?........................
………………………………………………………………………………………
Q67. Số đợt thu họach / vụ:……………….. lần/vụ
Q68. Số ngày thu hoạch/ đợt:…………….. ngày
Q69. Thời gian từ khi chất mô đến thu hoạch đợt nhất:……….. năng suất………...
 Thời gian từ đợt nhất đến thu hoạch đợt hai:…………...... năng suất………..
 Thời gian từ đợt thứ 2 đến thu hoạch đợt ba:……………...năng suất………..
 Thời gian thừ khi chất mô đến thu họach hoàn toàn………năng suất ............
Q70. Năng suất đạt được toàn vụ:………….kg
Q71. Cách thu hoạch: 1.Lãi 2. Cắt nguyên bụi 3. Nhổ nguyên bụi
Khác…………………………………………………………………………………
Q72. Chi phí
STT Nội dung Số lượng Đơn giá Thành tiền
1 Rơm 
2 Meo
3 Dinh dưỡng
4 Công chất
5 Công hái
6 Công tưới
7 Công chuyên chở nguyên liệu
8 Thuốc xứ lý
9 Vôi xử lý
10 Xăng, nhớt
11 Tiền thuê đất
12 Khác
13 Tổng chi
14 Năng suất nấm
15 Lợi nhuận
Q73. Giá nấm: ............... đồng/kg
7
Q74. Nơi tiêu thụ nấm: 1. Bán chợ  2. Cân cho hàng xáo 
 3.Cân cho vựa 4. Chở đi nơi khác 
7
Q75. Sự tham gia của nữ giới trong việc trồng nấm (tính theo % công việc)
Các hoạt động Nam Nữ
Mua rơm
Vận chuyển rơm
Mua meo
Xử lý rơm 
Chất mô
Bón phân
Xịt thuốc
Tưới nước
Hái nấm
Bán nấm
Q76. Thu nhập của gia đình trong năm
Các hoạt động Tổng chi (đồng) Tổng thu (đồng) Lợi nhuận (đồng)
Lúa Đông Xuân
Lúa Hè Thu
Lúa vụ 3
Cây ăn trái
Màu
Chăn nuôi
Thủy sản
Buôn bán
Trồng hoa
Thu nhập khác
7
Q77. Ý kiến của nông dân về vấn đề phát triển trồng nấm
Thuận lợi
Khó khăn
Q78. Đề nghị/ cải tiến tốt hơn
7
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
TONG KET QUA THEO DOI MO HINH TRONG NAM ROM MUA LU NAM 2004 TAI XA LUONG AN TRA VA XA CO TO.PDF