Luận văn Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay

Tài liệu Luận văn Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay: LUẬN VĂN: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đã từ lâu, ở mọi vùng quê trên đất nước Việt Nam thường diễn ra những ngày lễ hội gắn với các truyền thuyết và sự tích về các Nữ thần. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang sắc thái nguyên thủy và có chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, nó phát triển theo sự phát triển đa dạng của tín ngưỡng dân gian mà không theo một qui luật định sẵn nào. Tín ngưỡng thờ Mẫu được bảo tồn qua lễ hội, qua niềm tin và qua đời sống tâm linh để tồn tại lâu dài trong đời sống tinh thần của người dân đất Việt. Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, đa tôn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng. Tuy nhiên, ngay từ khi hình thành, văn hóa Việt Nam đã mang tính thống nhất, nhưng vẫn có những nét riêng về văn hóa, đánh dấu sự khác biệt giữa tộc người này với tộc người khác. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay...

pdf90 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1926 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đã từ lâu, ở mọi vùng quê trên đất nước Việt Nam thường diễn ra những ngày lễ hội gắn với các truyền thuyết và sự tích về các Nữ thần. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang sắc thái nguyên thủy và có chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, nó phát triển theo sự phát triển đa dạng của tín ngưỡng dân gian mà không theo một qui luật định sẵn nào. Tín ngưỡng thờ Mẫu được bảo tồn qua lễ hội, qua niềm tin và qua đời sống tâm linh để tồn tại lâu dài trong đời sống tinh thần của người dân đất Việt. Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, đa tôn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng. Tuy nhiên, ngay từ khi hình thành, văn hóa Việt Nam đã mang tính thống nhất, nhưng vẫn có những nét riêng về văn hóa, đánh dấu sự khác biệt giữa tộc người này với tộc người khác. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Mặt khác, chúng ta đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc tiếp thu những thành tựu khoa học- kỹ thuật thế giới đang là cơ hội để chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người. Một vấn đề đặt ra là muốn đa dạng văn hóa thì phải mở rộng giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa khác để tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại.Tuy nhiên, khi giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa khác thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa riêng độc đáo cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Trong Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa VIII), đưa ra quan điểm chỉ đạo cơ bản: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ” và “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [10, tr.55]. Chúng ta biết rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là một tín ngưỡng có từ rất lâu. Nó là một tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc bản địa và bắt nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và là một hình thức tôn vinh người phụ nữ làm Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, Vương Mẫu…nhiều nơi những cơ sở thờ Mẫu đã trở thành những trung tâm thờ Mẫu lớn như Phủ Dầy, Phủ Tây Hồ, Đền Sòng… Thờ Mẫu nói chung và thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ là một khái niệm tương đối phức tạp. Về phương diện điện thần thì thờ Mẫu bước đầu đã hình thành một hệ thống và có những nghi lễ điển hình như hầu bóng(hầu đồng)… mà các tín ngưỡng dân gian khác không có. Vì thế, tính phức tạp lại càng tăng lên khi có nhiều quan điểm khác nhau về thờ Mẫu. Có quan điểm cho rằng thờ Mẫu đã trở thành một tôn giáo sơ khai, nhưng lại có những quan điểm không đồng tình, chỉ khẳng định thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian… Điều này càng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, đặc biệt là những người quan tâm đến lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Công cuộc đổi mới đất nước hai mươi năm qua ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực đời sống xã hội. ở lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng cũng có những biến đổi căn bản, trên cả phương diện nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của công tác tôn giáo. Ngày nay, trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra trên toàn thế giới. Việt Nam cũng đang hòa nhập vào xu thế đó. Tuy nhiên, chúng ta gặp phải một thách thức không nhỏ, khi mà bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày càng rộng rãi như hiện nay. Vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc như thế nào là việc làm cần thiết, có lẽ chúng ta không cần nhắc lại tác hại của việc đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Điều quan trọng là phải tìm được những giải pháp giữ gìn và phát huy những yếu tố tích cực của bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hiện nay. Tôn giáo, tín ngưỡng là một nhu cầu tâm linh của một bộ phận cư dân trong xã hội. Trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam thì tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian khá phổ biến trong xã hội. Theo thống kê của Viện Hán Nôm năm 1991 thì: “Trong số 1000 di tích được giới thiệu thì đã có 250 di tích thờ cúng các vị thần hay danh nhân là nữ” [45, tr.24]. Tín ngưỡng thờ Mẫu gần gũi với thiên nhiên, đất trời, gắn với thân phận của người phụ nữ Việt Nam … Người ta đến với Mẫu để tìm chỗ dựa về tinh thần, tìm được sự che chở của người mẹ…dẫu biết rằng khi đến với tín ngưỡng này con người cầu xin từ những cái vô hình, để hy vọng có thể nhận được những cái hữu hình. Tôn giáo - tín ngưỡng - mê tín dị đoan, là ba khái niệm rất phức tạp, là vấn đề đang được sự quan tâm của nhiều người, nhiều ngành khoa học khác nhau. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta cho phép phục hồi một số lễ hội truyền thống, trong đó có cả tín ngưỡng thờ Mẫu. Ngoài ra, nhu cầu trở về cội như một xu thế vừa tự phát lại vừa tự giác đã kéo theo hiện tượng mà trước kia được liệt vào dạng “mê tín dị đoan”, nhưng nay lại đang diễn ra khá phổ biến ở nhiều nơi, nhiều di tích và công khai, đó là nghi thức hầu bóng (hầu đồng) trong thờ Mẫu. Vấn đề đặt ra là cần loại bỏ “mê tín dị đoan” nhưng phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân được pháp luật bảo vệ. Song đối mặt với thực tế cuộc sống đó là điều hết sức nhạy cảm và phức tạp. Hiện nay, chưa có căn cứ rõ ràng để phân biệt cái gì là văn hóa, cái gì là phản văn hóa; cái gì là “ mê tín”, cái gì là “dị đoan” trong hình thức sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu. Trong xã hội hiện nay đang tồn tại một số cá nhân lợi dụng niềm tin của một số người vào thần thánh, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta đã tìm mọi cách “kinh doanh” trên lĩnh vực tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng nhằm trục lợi cá nhân, gây mất ổn định xã hội … Đây là điều mà các cơ quan quản lý các ngành, các cấp cần phối hợp làm rõ để mọi người cùng hiểu và tránh xa những hiện tượng tiêu cực này. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đã tồn tại trong lịch sử và cả thời đại ngày nay. “Mẫu” là hình tượng, một biểu trưng và là sự kết tinh sống động của đời sống văn hóa tinh thần của con người Việt Nam. “Mẫu ” có sức hấp dẫn đặc biệt, nhưng cũng đặt ra không ít các vấn đề cho nhiều nhà khoa học, nhiều người nghiên cứu quan tâm theo nhiều hướng khác nhau trong toàn xã hội. Đến với “Mẫu” không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng những nhu cầu đời sống tâm linh, tín ngưỡng thờ Mẫu còn là hiện tượng sinh hoạt văn hóa dân gian phong phú, hấp dẫn có sức lôi cuốn con người. Người ta đến với “Mẫu ” còn có cả sự đồng cảm về giá trị văn hóa và góp phần củng cố ý thức cộng đồng của dân tộc Việt Nam. Với những lý do trên, nên tôi chọn vấn đề: " Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay ", làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong phần tình hình nghiên cứu đề tài này, luận văn chỉ xin nêu một số tác phẩm của một số tác giả trong nước viết về tín ngưỡng thờ Mẫu. Theo GS Vũ Ngọc Khánh tính từ thế kỷ XVII đến nay (không kể đến những ý kiến viện dẫn hoặc phân tích trên các sách báo và các thần tích lưu tại các địa phương và các phủ điện thờ) sơ bộ đã có 25 công trình với ba ngôn ngữ (Hán nôm, Việt, Pháp) viết về Chúa Liễu - Mẫu Liễu Hạnh gồm: Sách Hán Nôm (Vân Cát Lê gia ngọc phả; Truyền kỳ tân phả; Vân Cát thần nữ cổ lục …), sách Quốc ngữ và chữ Pháp (Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính; Truyện thần nữ Vân Cát của Thiên Đình hay Nam Phong 1930; Sự tích Liễu Hạnh công chúa của Trọng Hối 1959; Leculte des immortels…Nguyễn Văn Huyên 1944. Về Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì: “Lê Gia ngọc phả vẫn là tài liệu trước nhất ghi chép về Liễu Hạnh. Và có thể khẳng định là Đoàn Thị Điểm đã dựa vào truyền thuyết dân gian để sáng tạo, hư cấu nhiều hơn” [24, tr.35]. Sau khi miền Nam được giải phóng (1975) cả nước được thống nhất, chúng ta có nhiều điều kiện tập trung nghiên cứu. Vì thế, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo và các bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam (không kể những bài viết trong báo và tạp chí) cơ bản đó là: - “Đạo Mẫu ở Việt Nam” năm 1996 hay cuốn “Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu á ” năm 2004 của tác giả Ngô Đức Thịnh (chủ biên). ở đây, tác giả đã đưa ra những luận chứng khẳng định tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam đã trở thành Đạo Mẫu. Quan điểm này hiện nay có nhiều nhà khoa học chưa đồng tình. - “Văn hóa tâm linh Nam bộ” của Nguyễn Đăng Duy (1997), tác giả có viết một chương về tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng là thờ Mẫu ở Nam bộ. - Cuốn “di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam ”, tác giả Lê Quang Trứ (2000) có bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu nhưng còn sơ sài, tác giả giới thiệu dàn đều bốn loại hình tín ngưỡng chủ yếu tại Việt Nam. - Cuốn “Lịch sử tín ngưỡng Đông Nam á ” xuất bản năm 2000, tái bản năm 2003 của TS Trương Sĩ Hùng (chủ biên), trong đó có bài viết: Thờ Mẫu Việt Nam một tín ngưỡng điển hình ở Đông Nam á. Tác giả giới thiệu về lễ hội thờ Mẫu và bước đầu đưa ra kết luận tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam mang sắc thái điển hình ở Đông Nam á. - Phân viện nghiên cứu văn hóa nghệ thuật thành phố Huế (2001) viết cuốn “Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Miền Trung”do Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) lại một lần nữa khẳng định về tục thờ Mẫu và diễn trình của tục thờ Mẫu, các tác giả đi sâu vào các nữ thần ở Miền Trung, đặc biệt là Thần Nữ YANA. - GS Vũ Ngọc Khánh, tác giả của cuốn sách “ Tín ngưỡng dân gian Việt Nam ”(tái bản có sửa chữa, bổ sung)(2001), tác giả có viết về các tín ngưỡng dân gian Việt Nam hiện nay, trong đó có cả tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng Tam phủ - Tứ phủ, nhưng không nghiên cứu sâu từng loại hình tín ngưỡng mà chỉ nêu khái quát từng loại hình tín ngưỡng dân gian mà thôi. - Cuốn “Lễ hội dân gian ở Nam bộ” (2003) của TS Trương Quốc Thắng có bài viết: Lễ hội thờ Mẫu - Nữ thần nguyên gốc từ sinh hoạt dân gian Bắc Bộ. Tác giả chủ yếu giới thiệu con đường đưa tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Bắc vào miền Nam như thế nào?. - Cũng trong năm 2003, tác giả Nguyễn Chí Bền viết cuốn “Văn hóa dân gian những phác thảo”. Cuốn sách này tác giả đề cập đến tục thờ Mẫu của người Việt nhưng ở vùng Nam Bộ. - Cuốn “Văn hóa Thánh Mẫu ” của Đặng Văn Lung (2004), tác giả đã rất tâm huyết với vấn đề “Mẫu ” nên đưa ra rất nhiều các tư liệu về các “Mẫu” nhưng lại viết dưới góc độ văn hóa, văn học và lịch sử chứ chưa xét dưới góc độ tín ngưỡng và tôn giáo. - Năm 2005, cuốn sách “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam ” do TS Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) cũng viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, nhưng chỉ đề cập đến khái niệm thờ Mẫu và một số đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu, chưa đi sâu vào nguồn gốc, vai trò…của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam. - Năm 2005, Mai Thanh Hải là tác giả cuốn sách “Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ”. Tác giả đưa ra quan điểm thờ Mẫu ở Việt Nam có cội nguồn bản địa và thờ Mẫu bắt nguồn từ triết lý nhân sinh. Trên đây chỉ là một số tác phẩm cơ bản của các nhà nghiên cứu trong nước, trong những năm gần đây về tín ngưỡng thờ Mẫu, tác giả luận văn mà chưa có điều kiện liệt kê tất cả những danh mục viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam hiện đang có ở nhiều tác phẩm và bài viết. Và cũng chưa có cơ hội được đọc hết các luận văn nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu và Mẫu Tam phủ - Tứ phủ của các tác giả Việt Nam dưới các góc độ khác nhau. Tác giả luận văn đã tiếp thu, kế thừa thành quả của các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả đi trước, kết hợp với những kiến thức do chính bản thân sưu tầm, tích lũy chọn lọc trong quá trình học tập, công tác và khảo sát thực tế về tín ngưỡng thờ Mẫu tại các trung tâm thờ Mẫu, chúng tôi muốn nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm về tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng, đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu, nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị phát huy những giá trị tích cực và khắc phục những hạn chế trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay. * Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau: -Làm rõ khái niệm, nguồn gốc, đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ. - Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá và rút ra một số nhận xét trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ. - Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu tới đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta đã có từ rất lâu, nó đã bám rễ ăn sâu vào đời sống tinh thần của người dân từ Bắc vào Nam. Vì thời gian và trình độ hạn chế với đề tài này, tác giả luận văn xin được giới hạn: - Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ với những đặc điểm, vai trò của nó. - Phạm vi nghiên cứu: + Không nghiên cứu nữ thần và nghi thức thờ cúng, lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu. + Không gian: Nghiên cứu thực trạng trung tâm thờ Mẫu Phủ Dầy, Phủ Tây Hồ ở đồng bằng Bắc bộ và Đền Sòng (Đền Sòng cũng là một trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh, có quan hệ mật thiết với Phủ Dầy và Phủ Tây Hồ. Tỉnh Thanh Hóa còn là tỉnh nằm liền kề vùng đồng bằng Bắc bộ). + Thời gian: Kể từ khi có nghị quyết 24- NQ/TW của Bộ chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới năm 1990 cho tới nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà Nước về tín ngưỡng, tôn giáo …làm cơ sở lý luận chung cho toàn luận văn. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn quán triệt những nguyên tắc phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử trong nghiên cứu; đồng thời sử dụng những phương pháp khác như: điều tra khảo sát, thống kê và tổng hợp, phương pháp lôgíc, lịch sử, điền giã…để đạt mục đích và thực hiện những nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Luận văn tổng hợp, khái quát hóa những đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ. Dự báo xu hướng biến đổi của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ trong những năm tới. Từ góc độ nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn tác giả luận văn bước đầu đưa ra những giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn chế tiêu cực đối với tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần nhận diện tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ với đặc điểm của nó. Luận văn giúp cho người đọc hiểu thêm về tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ và nét sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc của người Việt Nam. Ngoài ra, luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho trường chính trị các tỉnh, các Học viện khu vực và những người làm công tác quản lý văn hóa, nghiên cứu, giảng dạy về tín ngưỡng, tôn giáo. Thông qua nội dung luận văn, giúp cho các nhà quản lý hiểu thêm một phần nào đó nhằm phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức trong thờ Mẫu. Đồng thời, hạn chế những mặt tiêu cực của loại hình tín ngưỡng này. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3 chương, 9 tiết. Chương 1 Tín ngưỡng thờ mẫu ở đồng bằng bắc bộ 1.1. Khái niệm, nguồn gốc hình thành và các loại hình tín ngưỡng thờ mẫu ở đồng bằng Bắc bộ 1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu Để tìm hiểu khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu, trước tiên ta phải tìm hiểu sơ qua khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo là như thế nào? bởi vì hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa có một quan điểm thống nhất xem thờ Mẫu là tín ngưỡng hay tôn giáo. Chủ nghĩa Mác- Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người” [31, tr.437]. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: Tín ngưỡng, tôn giáo là một sức mạnh thần bí, thuộc lĩnh vực "tinh thần" tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí, sức mạnh cho con người. Đại diện cho trường phái này là Platon, Hêghen… Đối với các nhà thần học như Tômat Đacanh, Etôrotcho… xem tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng, cái huyền bí, ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có một sức mạnh, một quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người khỏi khổ đau và có được hạnh phúc và sự bình yên. Tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ mật thiết mà ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối. Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn khái niệm tôn giáo.Trong giáo trình Chủ nghĩa xã hội Khoa học có viết: Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực lượng, một điều gì đó và thông thường để chỉ một niềm tin tôn giáo. Còn tôn giáo thường được hiểu là một trong những hình thức tín ngưỡng có quan niệm, ý thức, hành vi và các tổ chức tôn giáo [19, tr.449]. Về mặt thuật ngữ tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay trên thế giới được sử dụng như sau: Tiếng Việt Tiếng Anh Tiếng Pháp Tín ngưỡng Belief Croyance(niềm tin) Tôn giáo Religion Religion Việt Nam từ trước đến hiện nay, vấn đề tín ngưỡng cũng có nhiều quan điểm khác nhau. GS Đặng Nghiệm Vạn, với quan điểm là: Thuật ngữ tín ngưỡng có thể có hai nghĩa. Khi nói đến tự do tín ngưỡng, người ngoại quốc có thể hiểu đó là niềm tin nói chung (belief, lelieve, croyance) hay niềm tin tôn giáo (belief, believe, croyance riligieuse). Nếu hiểu tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo, nếu hiểu là niềm tin tôn giáo (belief, believer theo nghĩa hẹp croyance riligieuse) thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành của tôn giáo [50tr.76]. Các học giả như Toan ánh, Phan Kế Bính… Xem tín ngưỡng là tín ngưỡng dân gian với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền thống của dân tộc Việt Nam. Có ý kiến khác thì cho rằng nội hàm cơ bản của tín ngưỡng là “Lòng tin, sự ngưỡng vọng của con người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó - một lực lượng siêu thực, hư ảo, vô hình” [30, tr.6]. Nguyễn Chính cho tín ngưỡng là tâm linh, vì tín ngưỡng và tâm linh là hạt nhân của tín ngưỡng tôn giáo. Đây là niềm tin, sự trông cậy và yêu quý một thế lực siêu nhiên mà với tri thức con người và kinh nghiệm chưa đủ để giải thích và lý giải được. Có một quan điểm khác gần giống như GS. Đặng Nghiêm Vạn. Ông cho rằng: “tín ngưỡng nếu hiểu theo nguyên nghĩa dịch từ chữ Croyance của tiếng Pháp, thì chỉ có nghĩa là sự tin vào một điều gì đó, và thông thường hay được dùng để chỉ một niềm tin tôn giáo(Croyance religieuse)” [38, tr.50]. Cũng theo tác giả này thì “tín ngưỡng ”, nếu xét về mặt ngữ nghĩa, chỉ là một niềm tin tôn giáo; còn những dạng thức sinh hoạt tâm linh mà chúng ta thường gọi là “tín ngưỡng”, tức là những dạng thức tôn giáo chưa đạt tới cấp độ của một tôn giáo hiểu theo nghĩa cấu thành của nó thì các nhà tôn giáo học thường dùng với thuật ngữ là “sự thờ cúng” hay “sự thờ phụng”, dịch từ chữ Culte của tiếng Pháp hay chữ Whorship của tiếng Anh. Trong Hán-Việt từ điển, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: Tín ngưỡng là lòng ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa. Ngoài ra, còn có quan điểm cho rằng: “tín ngưỡng đồng nghĩa với tâm linh (niềm tin thiêng liêng) cũng có nghĩa tâm linh không phải là tôn giáo, tâm linh chỉ là khả năng dẫn tới tôn giáo” [40, tr.97]. Hay Tín ngưỡng là một hình thái ý thức xã hội, là một nhu cầu của xã hội và “một khi những nhu cầu ấy chưa được những hình thái của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa mãn thì đối với một số tầng lớp xã hội, tôn giáo- tín ngưỡng vẫn là nguồn gốc của giá trị, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý…” [46, tr.12]. Hiện nay, Nhà nước ta cũng phân biệt rõ ràng giữa tín ngưỡng và tôn giáo. điều này thể hiện ngay trong pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo(năm 2004); hay trong Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (2005) … Trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. ChươngI, điều 3 có qui định như sau: Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội [3, tr.10]. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về tín ngưỡng và tôn giáo. Giữa tôn giáo và tín ngưỡng tuy có điểm giống nhau nhưng vẫn có những sự khác biệt, đó là: - Tôn giáo được hình thành, tồn tại trên cơ sở lý luận chặt chẽ và có tính hệ thống cao. Nghi lễ trong tôn giáo được thực hiện mang tính bắt buộc đối với tín đồ, được duy trì thường xuyên, cùng với những qui định khác. Còn tín ngưỡng được hình thành và tồn tại dựa trên cơ sở lý luận chưa chặt chẽ, thiếu tính hệ thống. Cho nên tín ngưỡng phần lớn mang tính dân gian, gần gũi với đời thường và phần nghi lễ được thể hiện đơn giản, không bắt buộc đối với người theo. - ở tôn giáo, niềm tin được đặc biệt đề cao, có thể đó là đức tin, nó đòi hỏi có cách lý giải mang tính lôgic, hệ thống và được xây dựng trên cơ sở thế giới quan, nhân sinh quan, ý thức, tình cảm... Còn tín ngưỡng, niềm tin không trở thành đức tin mà niềm tin ấy mang tính huyền hoặc, mờ ảo, không rõ ràng mà dựa vào sự cảm nhận của chủ thể tín ngưỡng. Nói cách khác, xét về mặt nào đó thì tín ngưỡng có nội hàm hẹp hơn tôn giáo, bởi vì tôn giáo nào cũng có tín ngưỡng, niềm tin, đức tin tôn giáo nhưng không phải mọi hình thức tín ngưỡng đều là tôn giáo. - Tôn giáo thường có một số yếu tố như: Đấng sáng tạo, kinh sách, giáo chủ, hệ thống giáo lý, tổ chức giáo hội rất điển hình, có qui mô lớn và theo một hệ thống chặt chẽ. Vì vậy, tôn giáo là một thực thể xã hội, nó có tác động lớn tới đời sống xã hội, còn tín ngưỡng thì thiếu các yếu tố này hoặc chỉ là sự thể hiện mờ nhạt, mang tính sơ khai. Tuy nhiên, giữa tín ngưỡng và tôn giáo cũng có điểm tương đồng sau: - Tôn giáo và tín ngưỡng đều là sự thể hiện niềm tin, sự ngưỡng mộ của chủ thể con người vào một thực thể siêu nhiên nào đó như Thượng đế, Thần, Phật, Thánh…và đều bắt nguồn từ những nguyên nhân xã hội, nhận thức và tâm lý trong quá trình hình thành và tồn tại. Chủ thể của niềm tin trong tín ngưỡng và tôn giáo là một người, một nhóm người và có thể là một giai cấp trong xã hội. - Bản chất của niềm tin trong tín ngưỡng và tôn giáo là khẳng định sự tồn tại và sự cứu giúp của thần thánh đối với con người. Cho nên, điều cốt lõi của tín ngưỡng và tôn giáo là niềm tin vào cái siêu thực, đấng thiêng liêng. - Cả tín ngưỡng và tôn giáo là sự phản ánh hư ảo của ý thức xã hội về tồn tại xã hội, chịu sự quy định của các tồn tại xã hội, đều có chức năng bù đắp hư ảo, xoa dịu nỗi đau hiện thực của con người, hướng con người tới sự giải thoát về mặt tinh thần. Vậy có thể quan niệm tín ngưỡng như sau: Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội, được hình thành bởi quá trình lịch sử-văn hóa, là sự biểu hiện niềm tin dưới dạng tâm lý xã hội vào cái thiêng liêng thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng của con người và cộng đồng người trong xã hội. Thuật ngữ tín ngưỡng bao gồm: Tín ngưỡng tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên theo những nguyên tắc thực hành tôn giáo nhất định. Theo GS,TS Phạm Ngọc Quang : Tín ngưỡng dân gian cũng có thể và cần được xem là một yếu tố, một bộ phận văn hóa dân gian. Từ quan niệm đó, nếu văn hóa dân gian (folklore) được hiểu là loại hình văn hóa ra đời nhờ sự sáng tạo của chính nhân dân, thì tín ngưỡng dân gian cũng có thể xem là loại hình tín ngưỡng tôn giáo do chính nhân dân - trước hết là những người lao động -sáng tạo ra trên cơ sở những tri thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm tính từ cuộc sống thường nhật của bản thân mình [30, tr.8]. Tín ngưỡng dân gian còn phản ánh những ước nguyện tâm linh của con người và cả cộng động, là niềm tin vào thần linh thông qua những nghi lễ, gắn liền với phong tục tập quán, truyền thống. Khi đề cập đến sự tương đồng và khác nhau giữa tín ngưỡng với tôn giáo cũng cần làm rõ sự giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín, mê tín với mê tín dị đoan. Trong thực tế, việc phân biệt sinh hoạt tín ngưỡng với hoạt động mê tín dị đoan là không dễ nhưng chúng ta cần cố gắng phân biệt để ứng xử phù hợp. Từ điển Tiếng Việt năm 1992 của Trung tâm Từ điền Ngôn ngữ- Viện Ngôn ngữ học- Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn,trang 976 thì định nghĩa: Mê tín =1. Tin một cách mù quáng vào những cái thần bí, vào những chuyện thần thánh ma quỉ, số mệnh … Mê tín=2. Ưa chuộng, tin một cách mù quáng không biết suy xét. Tuy nhiên tôn giáo và tín ngưỡng đều xây dựng trên những điều “thần bí, huyền hoặc”, vấn đề là “thần bí, huyền hoặc” đến đâu thì được xem là mê tín, di đoan. Khái niệm này còn phụ thuộc vào cách nhìn nhận của từng người, từng tôn giáo khác nhau. Ví dụ: Công Giáo cho rằng tất cả những tôn giáo khác ngoài Công giáo là tà đạo, là mê tín dị đoan. điều này không đúng; ở một số tộc người thiểu số ở Việt Nam vào ngày mùng 1 và mùng 2 tết họ tổ chức lên đồng để mừng ngày mới, đây cũng không phải là dị đoan. Hay trong Từ điển Tôn giáo do Mai Thanh Hải (Chủ biên) - Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa - Hà Nội 2003 có viết: Mê tín là tin nhảm, tin xằng bậy, không thấy, không hiểu mà nhắm mắt tin theo mù quáng, tin theo một cách mê muội ….làm hại đến đời sống vật chất và tinh thần của mọi người. Cần phân biệt và nhận thức đúng vấn đề: Mê tín, dị đoan và mê tín dị đoan. Thực chất của tín ngưỡng và tôn giáo là mê tín vì đều tin vào những điều không có thực, nhưng bản chất của tín ngưỡng và tôn giáo là không có dị đoan. Dị đoan: Là những điều quái lạ huyền hoặc do tin vào những điều nhảm nhí mà có gọi là dị đoan (dị là khác thường; đoan là lắm mối, nhiều rắc rối, lắm vấn đề). Tín ngưỡng và mê tín dị đoan có quan hệ chặt chẽ với nhau và giữa chúng là một ranh giới mỏng manh. Chúng ta nên coi tín ngưỡng chỉ là niềm tin và sự ngưỡng mộ của một người nào đó vào một hiện tượng, một lực lượng nào đó … mà thông thường được chỉ một niềm tin tôn giáo. Theo nghĩa rộng, tín ngưỡng bao hàm cả tôn giáo; Theo nghĩa hẹp tín ngưỡng là đức tin - là một bộ phận cấu thành của tôn giáo. Dị đoan là hệ quả của mê tín, làm theo những điều quái dị không thật, không hợp lẽ phải. Dị đoan là mức cao hơn của mê tín. Ví dụ: nghe theo lời “thánh phán” về đốt nhà, uống nước tàn nhang, nước thải …dẫn đến thiệt hại về tài sản và sức khỏe. Cũng có thể từ mê tín dị đoan dẫn đến hiện tượng tôn giáo mới, tôn giáo lạ, tà giáo. Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội, cuồng tín với những hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân tính, phản văn hóa. Mê tín dị đoan thường gây ra hậu quả tiêu cực đến đời sống xã hội. Hiện tượng mê tín dị đoan thường gắn liền với các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo. Trong các văn bản của đảng ta thì: Mê tín dị đoan là tin một cách mù quáng mê muội vào những điều mơ hồ dẫn đến những hành vi gây hậu quả tiêu cực đến sức khỏe, thời gian, tài sản, tính mạng cho cá nhân, gia đình, xã hội và cộng đồng. * Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam đa phần các nhà nghiên cứu tôn giáo cho rằng tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian, đã thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Nội hàm của tín ngưỡng thờ Mẫu được dùng để biểu thị sự tôn vinh, một nhân vật nào đó, hay có thể đồng nhất với việc thờ các vị nữ thần hiển linh, được tôn phong là Mẫu như: Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu… Tín ngưỡng thờ Mẫu còn được hiểu theo một nghĩa hẹp hơn đó chỉ là dạng hình thức tín ngưỡng với tên gọi là Mẫu Tam phủ - Tứ phủ, hình thức thờ cúng những vị Mẫu cai quản trong vũ trụ. Vấn đề thờ Mẫu là loại hình gì ? Đã có nhiều câu trả lời khác nhau cho câu hỏi này. Hiện nay, chưa có cách đánh giá thống nhất về thờ Mẫu nhưng cơ bản có bốn loại ư kiến đánh giá về thờ Mẫu: Loại thứ nhất: Xem thờ Mẫu đã và đang trở thành một tôn giáo sơ khai. Loại thứ hai: Xem thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian. Loại thứ ba: Xem thờ Mẫu vừa là tín ngưỡng vừa là tập tục truyền thống. Loại thứ tư: Xem thờ Mẫu là một Đạo nhưng “Đạo” là con đường, cách thức. Sau đây, tác giả luận văn xin nêu ra một số quan niệm của các nhà khoa học và các học giả trong nước về các quan điểm của bốn loại đánh giá thờ Mẫu đã nêu ở trên: * Quan điểm thứ nhất: Xem thờ Mẫu đã và đang trở thành một tôn giáo sơ khai. Có quan điểm cho rằng: “Đạo Mẫu trong quá trình nảy sinh, vận động và biến đổi đã và đang chuyển hóa từ tín ngưỡng nguyên thủy để trở thành một tôn giáo sơ khai” [29, tr.88]. Và nên khẳng định Đạo Mẫu: “Đã là một tôn giáo chứ không còn là một tín ngưỡng, kiểu như thờ cúng tổ tiên trong gia đình hay thờ cúng anh hùng dân tộc tại một số đền riêng lẻ. Đạo Mẫu đã có những hoạt động mang tính đặc trưng tôn giáo” [28, tr.502]. Hoặc: Nếu nhìn tục thờ Mẫu trong cội nguồn và quá trình phát triển có tác giả cho rằng: “Về phương diện điện thần của Đạo Mẫu ta thấy bước đầu đã được hệ thống hóa, tiến từ đa thần của tín ngưỡng nguyên thủy đến thần điện của tôn giáo, mà Mẫu giữ vị trí trung tâm như Đức Phật hay chúa Jêsu” [42,tr.22]. Có lý do để có quan điểm như vậy, bởi vì thờ Mẫu đã từng hình thành một cộng đồng các tín đồ với các thứ bậc khác nhau. Từ trước những năm 1975 ở Miền Nam đã từng hình thành một cộng đồng mang tính giáo hội, mang tên Tiên Thiên Thánh Mẫu Giáo, tập hợp các tín đồ toàn Miền Nam (nhưng sau năm 1975 tổ chức này không còn nữa). Còn ở Miền Bắc, tuy hình thức thờ Mẫu có từ rất sớm nhưng cũng chỉ hạn chế trong phạm vi các đền, phủ (Phủ Dầy, Đền Sòng, Phủ Tây Hồ) dù những nơi đó đã trở thành trung tâm thờ Mẫu. * Quan điểm thứ hai: Xem thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian. Có ý kiến cho rằng tín ngưỡng Mẫu ở nước ta là một tín ngưỡng và tác giả này viết: “Về mặt tâm linh, cũng như quy mô tín đồ nó đầy đủ yếu tố một tôn giáo, nhưng nó lại thiếu hẳn một triết thuyết để đủ sức trở thành một tôn giáo hoàn chỉnh [16, tr.276]. Khác với những quan điểm cho rằng thờ Mẫu có thể trở thành một tôn giáo sơ khai, tác giả Nguyễn Hữu Thông lại có ý kiến là: Tín ngưỡng thờ Mẫu tuy là sản phẩm bản địa chịu nhiều ảnh hưởng của các loại hình tôn giáo chính thống như Nho, Phật, Lão nhưng các tôn giáo này đều đã bị dân gian hóa rồi mới bồi đắp vào tòa điện Mẫu. Và tác giả viết: “ Hình tượng Mẫu hoàn toàn là sản phẩm của loại hình tín ngưỡng dân gian chứ không phải là một tôn giáo chính thống. Xu thế biến Mẫu thành Tôn giáo chính thống như hiện nay của một số cá nhân là việc làm trái qui luật, không đúng với tiến trình phát triển…" [46, tr.53-54]. GS Đinh Gia Khánh cho rằng: “Thờ Mẫu là một tín ngưỡng có nguồn gốc dân gian, một tín ngưỡng bản địa, khác với các tôn giáo phổ quát” [22, tr.8]. * Quan điểm thứ ba: Xem thờ Mẫu là tín ngưỡng, là tập tục truyền thống. Theo TS Trương Sĩ Hùng thì: “ Trường hợp tục thờ Mẫu ở Việt Nam biểu hiện rất rõ, phát triển đến mức gần như một tôn giáo của người Kinh” [22, tr.78]. Tác giả Mai Thanh Hải với quan niệm thờ Mẫu là tục lệ. Tác giả viết: “Tục thờ Mẫu có sức lan truyền mạnh tới mức nhiều nơi đã lan tỏa mạnh mẽ…” [15, tr.151]. * Quan điểm thứ tư: Coi thờ Mẫu là một Đạo nhưng “Đạo” là con đường, cách thức chứ không theo nghĩa tôn giáo: Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đăng Duy khẳng định thờ Mẫu là một tín ngưỡng và ông cho rằng: “ở đây cũng vẫn hiểu đạo thờ mẫu chưa phải là tôn giáo vì nó không có tín điều giáo lý, giáo chủ, đạo là con đường, là cách theo” [7, tr.141]. Một số nhà nghiên cứu khác thì gọi là đạo Mẫu. “đạo” ở đây không có nghĩa là một tôn giáo như đạo Kitô, đạo Phật, đạo Ixlam, mà phải hiểu như là đạo làm con, đạo làm người, đạo hiếu…. Trong cuốn “tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” tác giả Ngô Đức Thịnh viết: “trong công trình này, đây đó chúng tôi sử dụng thuật ngữ “đạo” như đạo Mẫu, đạo tổ tiên… khái niệm đạo ở đây theo ý nghĩa là “con đường”, “cách thức” đưa con người đạt tới niềm tin vào cái thiêng liêng, siêu nhiên” [44, tr.17]. Theo quan điểm của tác giả và quan niệm truyền thống, khá phổ biến thì thờ Mẫu vẫn được coi là một tín ngưỡng dân gian với những lý do cơ bản sau: Một là, thờ Mẫu được hình thành trong chế độ mẫu hệ, nó bắt nguồn từ thờ nữ thần. Hai là, thờ Mẫu thiếu những tiêu chí cơ bản để cấu thành một tôn giáo như sáng thế luận, giáo luật, giáo lý, giáo hội, hệ thống tổ chức….theo nghĩa đầy đủ của nó. Ba là, trong thờ Mẫu yếu tố niềm tin còn dựa vào sự cảm nhận của chủ thể, chưa mang tính hệ thống. Bốn là, trong các văn bản pháp luật của Nhà Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ thừa nhận có 6 tôn giáo ở Việt Nam hiện nay là: Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo, đạo Tin Lành, đạo Hòa Hảo, đạo Cao đài. Với bốn lý do trên, trong luận văn này tác giả xin sử dụng thuật ngữ “tín ngưỡng thờ Mẫu”. “Mẫu” là xuất phát từ Hán-Việt, còn thuần Việt là Mẹ, Mụ. Nghĩa ban đầu Mẫu (mẹ) đều chỉ người phụ nữ sinh ra con. Mẫu (mẹ) còn có ý nghĩa tôn vinh, tôn xưng như Mẫu nghi thiên hạ, Mẹ Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn… Vậy có thể hiểu: Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ nữ thần(nhưng không phải tất cả nữ thần đều là Mẫu),là một bộ phận của ý thức xã hội, được hình thành từ chế độ thị tộc mẫu hệ, để tôn vinh những người phụ nữ có công với nước, với cộng đồng tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hoá, đạo đức xã hội làm Thánh mẫu, Vương mẫu… và qua đó người ta gửi gắm niềm tin vào sự che chở, giúp đỡ của các lực lượng siêu nhiên thuộc nữ thần. 1.1.2. Nguồn gốc hình thành và các loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ 1.1.2.1. Nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ Tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng cũng ra đời từ nguồn gốc kinh tế-xã hội, nhận thức và tâm lý tình cảm. Theo quan điểm Mác-xít thì tín ngưỡng, tôn giáo là một hiện tượng lịch sử xã hội, là một bộ phận của ý thức xã hội. Cho nên, nó có quy luật hình thành, tồn tại và phát triển riêng, được nảy sinh trên cơ sở kinh tế-xã hội nhất định, chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Chúng ta đã biết cho đến thời trung kỳ đồ đá cũ mới bắt đầu xuất hiện nghi lễ mai táng người chết của người Neandectan và lúc này mầm mống của tôn giáo cũng xuất hiện và nó chỉ xuất hiện khi con người bắt đầu biết quan sát. Thời kỳ này, ý thức về tổ tiên là một yếu tố của ý thức công xã nguyên thủy, phản ánh sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên. “Từ đó nảy sinh ra hàng loạt các hình thái đặc biệt của tôn giáo nguyên thủy như sùng bái tự nhiên, ma thuật, chủ nghĩa tô tem” [4, tr.8]. Trong xã hội nguyên thủy, con người cũng biết tạc tượng bằng nhiều chất liệu khác nhau như sừng, ngà voi… chủ đề của tượng cũng rất đa dạng từ những con vật thân thuộc hàng ngày đến con người và “đặc biệt là tượng phụ nữ-tượng trưng cho sự bảo tồn và phát triển của thị tộc và của giống nòi” [4, tr.10]. ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người về thế giới khách quan là có giới hạn. Song ở thời kỳ lịch sử cụ thể thì khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại. Nhận thức là một quá trình phức tạp và đầy mâu thuẫn. Theo Lênin : “Nhận thức phát triển theo đường xoắn trôn ốc, đường ngoằn nghèo. Bất cứ một sự xơ cứng phiến diện, thẳng tuột nào cũng có thể dẫn đến chủ nghĩa duy tâm [32, tr.57]. Sự phát triển của trình độ nhận thức, trình độ tư duy của người nguyên thủy nên con người mới có ý thức về thế giới xung quanh. Chúng ta biết rằng, không phải ngay khi con người xuất hiện thì tín ngưỡng cũng xuất hiện, ngược lại tín ngưỡng chỉ ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, khi mà khả năng trừu tượng hóa của con người đạt đến một trình độ nhất định, trình độ sản xuất đạt tới mức nào đó và khái niệm “Sợ”có từ khi con người biết sấm, sét, lũ lụt, hạn hán… Sự thờ cúng của thị tộc mẫu hệ ở các bộ lạc Bắc Mỹ còn thể hiện ở bộ lạc người Xerin theo Tôcarev: “Với chế độ mẫu quyền thể hiện rất rõ nét, có thể thấy được một vài yếu tố của sự thờ cúng các phụ nữ đã chết, nói cho đúng hơn là sự sợ hãi trước các phụ nữ đã chết đó ” [47, tr.297]. Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng được sinh ra trong một thời kỳ hết sức nguyên thủy, nó bắt nguồn từ trong thị tộc mẫu hệ và là sản phẩm của sự kết hợp giữa: ý niệm về linh hồn người chết, thần che chở cho gia đình và thị tộc (đặc biệt là hình ảnh phụ nữ) và tổ tiên tôtem. Ngoài ra, tâm lý và tình cảm của con người cũng là một trong những nguyên nhân cho sự ra đời hình thức tín ngưỡng. Xét dưới góc độ triết học thì tâm lý, tình cảm là một bộ phận của ý thức xã hội; tín ngưỡng, tôn giáo được hình thành trên cơ sở của tâm lý, tình cảm con người và cộng đồng người trong xã hội. Con người luôn tự hỏi về nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng cũng như số phận của con người. Về những vấn đề này thì đôi khi những giải đáp khoa học hay triết học chưa đủ thỏa mãn, trong tình hình đó thì tín ngưỡng, tôn giáo lại có thể đem lại cho con người một lời giải thích không chính xác, nhưng có sức hấp dẫn, thuyết phục bởi nó có tính huyền bí, tính lôgíc của nó. Tín ngưỡng, tôn giáo hình thành trên cơ sở niềm tin vào những sức mạnh siêu nhiên, sự che chở…của các thần, thánh…. Xét về mặt tư duy lôgíc của lý trí thì niềm tin ấy là phi lý, song lại có lý vì nó bắt nguồn từ ước muốn mang tính bản năng của con người. Con người có nhu cầu là được tâm sự, giải tỏa những bức xúc trong đời sống tinh thần và luôn có nhu cầu vươn tới một cuộc sống tốt đẹp. Vì thế, họ cần rất nhiều thứ ngoài vật chất, lý trí, đạo lý truyền thống…đó là sự thiêng liêng, “bù đắp hư ảo”. Điều đó chỉ có ở tín ngưỡng, tôn giáo. Chúng ta phải nghiên cứu đến một khía cạnh tâm lý khác của con người đó là lòng biết ơn đến công sinh thành, sự kính trọng, tình yêu thương… đó chính là điều mà chế độ mẫu hệ tồn tại dai dẳng trong đời sống các dân tộc, hay bắt nguồn từ hình tượng tôn thờ giới nữ, phản ánh vai trò của người mẹ, người mẹ là biểu tượng cho sự bảo tồn sinh sôi giống nòi. Trên đây là một số nguyên nhân để dẫn đến sự ra đời của một hình thức tín ngưỡng nói chung, còn tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ thì ra đời trong một hoàn cảnh, điều kiện mang đặc thù riêng. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa và: “ có thể là tín ngưỡng sớm nhất của con người Việt trước khi du nhập tam giáo Phật, Nho và Đạo” [15, tr.145]. Cho tới nay, tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta chưa biết chính xác có từ khi nào, nhưng có ý kiến cho rằng: “ Người ta tin mẹ thần linh này đã xuất hiện từ buổi hồng hoang hay ít nhất là từ lúc người Việt khai thác đồng bằng Bắc bộ [40, tr.100]. Có thể nhận định tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ III hoặc thứ II trước công nguyên. Bởi vì Phật giáo là tôn giáo nước ngoài đưa vào Việt Nam sớm nhất, có tác giả đã viết: “có tài liệu nói đạo Phật vào ta khoảng thế kỷ thứ III trước công nguyên, dưới thời vua A-Dục” [14, tr.141]. Ngoài ra, theo TS. Trần Đăng Sinh thì: “Đến thế kỷ thứ III, II trước công nguyên đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng (vùng Đông Anh- Hà Nội và Từ Sơn - Bắc Ninh) đã là địa bàn chung sống của người Âu Việt và Lạc Việt ” [36, tr.63]. Tín ngưỡng thờ Mẫu ra đời ở Việt Nam còn xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước điển hình, thờ Mẫu nảy nở trên một miền đất nhiều đời trồng cây lúa nước. Đối với dân cư nông nghiệp thì hình ảnh người mẹ từ việc hái lượm đã tìm ra hạt lúa để từ đó trở thành hồn lúa như một tác giả đã nhận xét: “Trong các loại cây trồng, lúa là cây duy nhất trong thời kỳ làm đòng được các tộc người ở Đông Dương gọi là có chửa (Việt) = bun(cơ ho) = mtian(Giarai) như người mẹ; là cây duy nhất được coi có hồn (Việt) = soan(Cơho)…” [13, tr.196]. Cuộc sống nông nghiệp luôn coi trọng yếu tố Đất(Mẹ) - yếu tố âm và đối lập với yếu tố Trời (Cha)- yếu tố dương. Vì thế, trong tâm thức tín ngưỡng của người dân vai trò bà mẹ- yếu tố nữ đã tạo nên ấn tượng sâu nặng trong nhân dân. Cũng chính từ đây, nữ thần Mẹ Lúa là tín ngưỡng chung của hầu hết dân cư các tộc người trồng lúa nước mà ngày nay vẫn còn thấy tồn tại ở nhiều tộc người thiểu số miền núi nước ta. Người và vạn vật sinh sôi nảy nở thì khái niệm Trời - Đất, Âm - Dương được hình thành trong tư duy nguyên thủy thô sơ. ở Việt Nam cũng biểu hiện khá rõ niềm tin “Vạn vật hữu linh” của chính họ. Vì vậy, “ Các thần trời, thần núi, thần sông…xuất hiện khá sớm và ngự trị trong đời sống tâm linh của hầu hết các tộc người” [21, tr.77]. Việt Nam là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam á, có đồi núi, đồng bằng, có sông có biển, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm… Vì vậy có điều kiện để nông nghiệp lúa nước được phát triển, khái niệm Đất, Nước được định hướng và gắn chặt với nữ thần (mẹ), với tộc người, với quê hương xứ sở. Tín ngưỡng thờ “mẹ” bắt nguồn từ thời kỳ Mẫu hệ, nhưng ở Việt Nam nói chung và ở đồng bằng Bắc bộ nói riêng, người phụ nữ có vị trí đặc biệt hơn so với các nơi khác. Người phụ nữ đảm nhận hầu hết những công việc từ nội trợ, chăm lo việc cấy hái trong công việc đồng áng lại kiêm luôn là người tiểu thương chạy chợ lo cung -tiêu cho gia đình… Cũng chính từ nơi này, để khai thác triệt để tính đa dạng của địa hình và môi trường sinh thái, người dân ở vùng đồng bằng Bắc bộ ngoài việc sản xuất nông nghiệp là chính, còn biết làm những ngành nghề kinh tế khác. Từ rất sớm, ở đồng bằng Bắc bộ đã ra đời những làng nghề truyền thống và cũng chính nhờ đó xuất hiện các mẹ là tổ sư các ngành nghề. đồng bằng Bắc bộ là một trong những vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc trong sự phong phú và đa dạng của nền văn hóa Việt Nam. Nó được kiến tạo bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bao gồm phần bằng, phần trũng của các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Dương, Hà Tây, Hưng Yên, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Ninh Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh và Vĩnh phúc. Người Việt xưa kia sống nhờ vào thiên nhiên rất nhiều, nhưng cũng phải chống chọi nhiều với thiên nhiên. Do đó, con người luôn cầu mong sự phù hộ, giúp đỡ của các “Mẹ” thiên nhiên và các Mẫu có nguồn gốc nhiên thần cũng lần lượt ra đời. Với Mẫu Thoải (mẹ của lực lượng sáng tạo ra mọi sông nước) có rất nhiều dị bản huyền tích về Mẫu Thoải khác nhau. Nhưng tựu chung đó là “Mẫu” trị vì sông nước, xuất thân từ dòng dõi Long Vương - Thần Long. Các huyền thoại, sự tích về Mẫu Thoải đến nay chưa được rõ ràng vì mỗi nơi hiểu theo một cách. Tuy nhiên, lại có những điểm chung cơ bản. Mẫu Thoải có nguồn gốc thủy thần, ít nhiều gắn với Lạc Long Quân, Kinh Dương Vương, Kinh Xuyên là những nhân vật nửa huyền thoại, nửa lịch sử là thủy tổ tộc người Việt chúng ta. Hiện nay, tại Tuyên Quang người dân đã: “Suy tôn bà là Mẫu Thoải (Mẹ nước), lập đền thờ ở Tuyên Quang gọi là đền Giùm, nay thuộc Yên Sơn, trên hữu ngạn sông Lô” [35, tr.122]. Mẫu Thượng Ngàn cũng có nhiều dị bản và truyền thuyết khác nhau, nhưng tựu chung lại thì Mẫu Thượng Ngàn là con hay cháu Vua Hùng và đã được hiển thánh làm vị thần bảo hộ cho núi rừng, bản làng. Mẫu Thượng Ngàn là hóa thân của Thánh Mẫu trông coi miền rừng núi, địa bàn chính sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở khắp nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính là suối Mỡ (Bắc Giang) và Bắc Lệ (Lạng Sơn). Như vậy, các Mẫu được nhập vào một số nhân vật ít nhiều gắn bó với các nhân vật nửa lịch sử, nửa huyền thoại của lịch sử dân tộc buổi đầu dựng nước và giữ nước, để các Mẫu có tiểu sử. Mẫu Thượng Thiên-cai quản lực lượng sáng tạo ra miền trời, chủ của mọi vòng quay thời gian, thời tiết và khí hậu theo mùa và ở trên tận trời xanh nên ít được nhắc đến. Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải thì được lịch sử hóa, truyền thuyết hóa với nhiều dị bản khác nhau và “Các quan niệm xô bồ lẫn lộn trong dân gian là bình thường, không lấy gì làm lạ [23, tr. 89]. Xuất phát từ những truyền thuyết trên thì Mẫu Thoải ra đời sớm hơn Mẫu Thượng Ngàn. Bởi vì, Mẫu Thượng Ngàn gắn với thời Hùng Vương(là con trai của Lạc Long Quân và là cháu của Kinh Dương Vương), còn Mẫu Thoải thì gắn với thời Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân. Đại Việt sử ký toàn thư có viết: “ Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình Quân tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân” [12, tr.62]. Có một tài liệu viết về ngôi đền thờ Mẫu cổ nhất nước ta là: Ngôi đền cổ nhất nước ta phải chăng là đền thờ Mẫu, thường gọi là đền Tiên ở ngã ba Hạc, nơi hợp lưu ba dòng sông Hồng - Lô - Đà, theo truyền thuyết là nơi Kinh Dương Vương lập nước Hùng, chọn xây Tiên Cát Cung cho Thứ phi Ngọc Nương ở. Khi bà hóa, biến thành đền thờ “ Thủy tổ Quốc mẫu Thần Long Hồng Đăng ”, tự là Thanh Minh, húy là Ngàn, hiệu là Từ Phú, mẫu là hoàng hậu nước Xích Quỷ, vợ vua Kinh Dương Vương, mẹ vua Lạc Long Quân, hàng năm giỗ ngày 10 tháng 10 [15, tr.155-156]. Ngôi đền có thể là ngôi đền thờ Mẫu cổ nhất, được tác giả Mai Thanh Hải tìm hiểu và ghi nhận là: “Năm 1949, đền bị súng đạn quân Pháp tàn phá; năm 1965-1966, bom Mỹ lại hủy nốt móng nền di tích. Cho đến nay đã cơ bản dựng lại đền ở ngã ba sông Hồng đón sông Lô chảy xuôi…” [15, tr.156]. Dựa vào các tài liệu trên, mặc dù tác giả luận văn chưa có điều kiện đi khảo sát thực tế ngôi đền, nhưng có thể tạm đưa ra một nhận xét là: Rất có thể ngôi đền cổ nhất mà nhà nghiên cứu Mai Thanh Hải viết trên là đền thờ Mẫu Thoải. Có thể nói rằng, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn là khởi nguồn cho tín ngưỡng thờ Mẫu sau này, gắn với con người từ khi còn cư trú ở vùng rừng núi. Tác giả Nguyễn Đăng Duy cho rằng: “Những ngôi đền, miếu thờ mẫu này thường ở ngã ba sông hoặc dọc ven sông, trên con đường di chuyển dần xuống trung du đồng bằng” [7, tr.133]. Mẫu Địa ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, có những quan điểm và cách giải thích khác nhau. Nhưng theo quan niệm trong dân gian, quan điểm của một số nhà nghiên cứu và tác giả luận văn thì: Mẫu Địa - Mẫu Đệ tứ, “do quyền năng của Mẫu địa cực kỳ to lớn bao trùm, bàng bạc khắp tất cả núi rừng sông biển, nên sự tồn tại của cõi Thượng Ngàn, Thủy Phủ thì đã hàm chứa luôn cả phủ địa” [46, tr.111]. Mẫu Địa có những quyền năng to lớn. Đất là nguồn sinh nở bất tận, nó gắn liền với nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Đối với con người từ xa xưa cho đến tận ngày nay, đất sản xuất ra các hình thái sinh sống và cũng chính đất là nơi gửi người chết vào khi an nghỉ …Chính vì thế Mẫu Địa đương nhiên tồn tại trong vũ trụ. Thánh Mẫu Liễu Hạnh thường được đồng nhất với Mẫu địa- địa Tiên Thánh Mẫu vì cốt lõi ban đầu, những yếu tố cơ bản của địa Tiên Thánh Mẫu là người trần lấy vợ tiên. Trong tâm thức người dân Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là: “Mẫu Thượng Thiên” - Mẹ ở trên trời giáng xuống, “ Mẫu nghi thiên hạ” - Mẹ của muôn dân, “Tứ bất tử” trong tín ngưỡng dân gian (Mẫu Liễu Hạnh, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đổng Tử và Thánh Tản Viên). Khi Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, không rõ từ khi nào đã trở thành một vị thần chủ đạo của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. “Phủ” trong tín ngưỡng thờ Mẫu mang ý nghĩa rộng và bao quát, nó ứng với các miền khác nhau trong vũ trụ. Tuy là ra đời sau nhưng Mẫu Liễu Hạnh lại thường được đặt vào vị trí trang trọng nhất trên ban thờ Mẫu Tứ phủ. Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện đã có nhiều truyền thuyết khác nhau, bà có thể vừa là Thiên thần (Tiên) vừa là Nhân thần đối với đời sống trần gian, với cha mẹ, chồng con, chu du khắp nơi, trừ ác, ban lộc…Mẫu Liễu Hạnh có thể biến thành Mẫu Thiên, có lúc lại đồng nhất với Mẫu Địa và Mẫu Thoải. Có nhiều truyền thuyết khác nhau về Mẫu Liễu Hạnh nhưng đa phần cho rằng: Mẫu Liễu Hạnh vốn là công chúa Quỳnh Hoa bị phạm lỗi do đánh vỡ chén ngọc của Ngọc Hoàng Thượng Đế, và bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian và đầu thai vào nhà vợ chồng Lê Thái Công ở Làng An Thái, xã Vân Cát huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản) Nam Định. Tác giả Nguyễn Duy Hinh với tư cách là nhà nghiên cứu về Đạo Giáo khi nghiên cứu về Mẫu Liễu Hạnh, Ông cho rằng Mẫu Liễu Hạnh: “ Không phải giáng tiên, không phải trích tiên, không phải thi tiên mà là Mẫu chăn dắt đàn con” [20, tr.738]. Theo dấu ấn của Đạo giáo thì du tiên và giáng tiên không phải là đầu thai mang xác người nên không nằm trong Đạo giáo mà chỉ có trích tiên nằm trong dấu ấn của Đạo giáo. Hiện nay, ở đồng bằng Bắc bộ Mẫu Liễu Hạnh (Vân Cát thần nữ) là nhân vật linh thiêng, phổ biến của tín ngưỡng thờ Mẫu. Nhiều khi được xếp đứng đầu và là biến thể cao nhất trong tín ngưỡng “Tam phủ - Tứ phủ” Mẫu Liễu Hạnh ra đời là sản phẩm của xã hội lịch sử Việt nam, cụ thể hơn đó là giai đoạn phong kiến Việt Nam thời Lê. Thực tế lịch sử của đất nước khi Mẫu Liễu Hạnh được sinh ra là: ở đất Vụ Bản giữa không gian các thế lực phong kiến thời Lê (Thanh Hóa), Trần (Nam Định) mà Mẫu đầu thai sinh vào nhà họ Lê lấy chồng họ Trần, phải chăng đó là tập hợp sức mạnh oai hùng Trần thắng Nguyên, Lê thắng Minh, mà cũng là Phật giáo thời nhà Trần còn Nho giáo thời nhà Lê. Tại sao Mẫu Liễu Hạnh lại xuất hiện trong bối cảnh có lúc xã hội thanh bình có khi loạn lạc, các thế lực phong kiến Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn phân tranh… Có thể nói Mẫu Liễu Hạnh ra đời đã làm hoàn chỉnh hệ thống thờ Tam phủ - Tứ phủ và thể hiện đầy đủ triết lý thờ Mẫu, triết lý theo vũ trụ quan phương Đông. Từ thờ nữ thần, thờ Mẫu trong quá trình phát triển đến Mẫu Tam phủ - Tứ phủ có sự ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Trong tín ngưỡng thờ Mẫu thì nơi thờ phụng chính của Thánh Mẫu Liễu Hạnh chỉ gọi là “phủ” như Phủ Dầy (Nam Định), Phủ Tây Hồ (Hà Nội) có thể xuất phát từ khi trong xã hội xuất hiện những phủ Chúa, cung Vua thời Trịnh - Nguyễn. Còn trước đó không gian thiêng liêng thờ Mẫu chỉ là những ngôi đền, miếu. Hiện nay: “chưa ai có thể trả lời chắc chắn Tam phủ - Tứ phủ của Đạo Mẫu có từ bao giờ” [ 45, tr.30]. Tuy nhiên, “có thể tin rằng Tam phủ có trước Tứ Phủ ” [45, tr.30]. GS. Ngô Đức Thịnh cũng đã đưa ra một mốc thời gian muộn nhất cho sự ra đời của hình thức thờ Mẫu Tam phủ. Đó là: “Có lẽ muộn nhất cũng là từ thời Lý” [42, tr.18]. 1.1.2.2. Các loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ Hiện nay, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam nói chung và ở đồng bằng Bắc bộ nói riêng rất phong phú và đa dạng, không chỉ là thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh mà xét về mặt tổng thể, tín ngưỡng thờ Mẫu bao gồm: Một là, dựa vào các thần tích, sử liệu, nguồn gốc …để phân loại các Mẫu theo: Thứ nhất, mẫu huyền thoại và Mẫu lịch sử. - Mẫu huyền thoại như: Mẹ của Phù Đổng Thiên Vương tước hiệu là Đổng Xung Thiên Thần Vương Mẫu (đền thờ chính ở Thị Cầu - Bắc Ninh); bà chúa Liễu Hạnh tước hiệu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh được thờ ở rất nhiều nơi;… - Mẫu Lịch sử: Những Mẫu là nhân vật lịch sử có thực sau khi chết vì nhiều lý do được suy tôn là thánh thần như: ỷ Lan Hoàng Thái Hậu - nguyên phi của vua Lý Thánh Tông(đền thờ chính ở Gia Lâm - Hà Nội và đền Yên Thái -Hà Nội); bà Phạm Thị Ngọc Trần -Hoàng Hậu, vợ cả của vua Lê Thái Tổ và là mẹ của Lê Thái Tông. Thứ hai, Mẫu trong nước và Mẫu nước ngoài. - Mẫu trong nước như: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Âu Cơ, Mẫu Man Nương… -Mẫu Nước ngoài như: Thái Hậu họ Dương và ba công chúa của vua Tống Bình (Trung Quốc), được tôn phong là Quốc Mẫu Vương bà Tứ vị thánh nương, được thờ ở đền Cờn (Quỳnh Lưu - Nghệ An); Thiên Hậu Thánh Mẫu người Phúc Kiến Trung Quốc thờ ở Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh và đền thờ Thiên Hậu cũng có ở: “Tại Hưng Yên nơi phố Hiến có ba nơi là phố Bắc Hà, Hiến Hạ và Đông Đô quảng hội” [33, tr.211]. Thứ ba, Mẫu nhiên thần và Mẫu nhân thần. - Mẫu nhiên thần có: Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn, Thần núi Tam Đảo được phong là Tam Đảo Sơn trụ Quốc Mẫu Thái phu nhân chi thần (Thờ ở đền Tây Thiên trên núi Tam Đảo), … - Mẫu nhân thần có: ỷ Lan Hoàng Thái Hậu, Phạm Thị Ngọc Trần -Hoàng Hậu, vợ cả của vua Lê Thái Tổ và là mẹ của Lê Thái Tông… Thứ tư, Mẫu có nguồn gốc quyền quý và Mẫu có nguồn gốc bình dân. - Mẫu có nguồn gốc quyền quý như: Các Thái Hậu, Hoàng Hậu, Công chúa… những người này có tài năng, đức độ và có công với nước nhà sau khi mất được tôn xưng là Mẫu như: Mẹ của Vua lê Thánh Tông, Tống Hậu, Thái Hậu họ Đỗ tương truyền là mẹ của Lý Thần Tông, con gái của Vua Hùng Nghị Vương (đền thờ ở Vĩnh Phú),… - Mẫu có nguồn gốc bình dân như: Nàng Vũ Thị Khiết người con gái nghèo ở bến Vũ Điện, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định, là vợ chàng lính thú Trương Sinh, “Nhưng rồi phải lấy cái chết để chứng minh cho tấm lòng cao cả ấy của mình. Đời sau thương nàng, lập đền thờ, tôn là Thánh Mẫu” [32, tr.224]. Bà mẹ của ba người con đều có công giúp Vua Hùng chống giặc được phong là Soa NươngThánh Mẫu (thờ ở miếu Mạnh Lương- Đông Anh- Hà Nội)… Thứ năm, Mẫu được thờ theo tước hiệu: Có 3 loại. - Loại 1: Tước hiệu Vương Mẫu có: Mẹ của Phù Đổng Thiên Vương mang tước hiệu là Đổng Xung Thiên Thần Vương Mẫu. - Loại 2: Tước Hiệu Quốc Mẫu có: Bà Âu Cơ, là mẹ của tất cả con dân đất Việt, là Mẫu của cả nước. Bà Mang tước hiệu Quốc Mẫu Âu Cơ và được thờ ở đền Quốc Mẫu trong khu vực di tích đền Hùng -Lâm Thao- Phú Thọ Bà Phạm Thị Ngọc Trần, Hoàng hậu, vợ cả của vua Lê Thái Tổ và là mẹ của Lê Thái Tông, bà được phong là Cung Từ Quốc Thái Mẫu, sau đó năm 1437 lại truy tôn là Cung Từ Quang Mục Quốc Thái Mẫu và được thờ ở huyện Lôi Dương- Thanh Hóa. Hoàng Hậu vua Tống độ Tông (Trung Quốc) được triều đình Phong kiến Việt Nam tôn phong là Quốc Mẫu cũng nằm trong trường hợp này. Bà được sắc phong là Thượng đẳng Quốc Mẫu Vương bà Tứ Vị Thánh Nương. Quốc Mẫu là vị Thần núi Tam đảo được phong là Tam đảo Sơn trụ Quốc Mẫu Thái phu nhân Chi Thần, thờ ở đền Tây Thiên trên Núi Tam Đảo… - Loại 3: Tước hiệu Thánh Mẫu có: Thánh Mẫu Man Nương (thờ ở chùa Dâu-Bắc Ninh); Thánh Mẫu ỷ Lan; Thánh Mẫu Liễu Hạnh; Tứ vị Thánh Nương (Đại Càn tứ vị thánh Mẫu - Ninh Bình; Đại Càn quốc gia Nam Hải tam tòa Tứ vị hồng thánh nương đại nương - Nam định; Đại Càn quốc gia Nam hải Tam tòa tứ vị thánh nương - Hà Nội; Nam Việt Tống triều quốc mẫu tứ vị hồng nương Càn hải linh từ - Hà Nam; Tứ thánh miếu sự tích - Bắc Ninh); … Thứ sáu, Mẫu địa phương và Mẫu cả nước. - Mẫu địa phương: Một số địa phương ở đồng bằng Bắc bộ người ta còn tôn vinh một số nữ thần địa phương thành những Thánh Mẫu và các Bà cũng được thờ cúng bên cạnh các vị Thánh Mẫu được thờ trên cả nước.Việc thờ các bà chúa, vua bà, thánh mẫu là hiện tượng khá phổ biến mà tỉnh Bắc Ninh là một địa phương điển hình: Tại huyện Yên Phong có bà Chúa Chóa và đền Chóa (xã Dũng Liệt) là vị thần Mẫu của 11 làng Chóa ven bờ sông Cầu; ở thị xã Bắc Ninh có đền thờ mẹ của Phù Đổng Thiên Vương; ở Từ Sơn (Bắc Ninh) có thờ Thánh Mẫu Phạm Thị là mẹ của vua Lý Công Uẩn… - Mẫu được thờ ở cả nước có: Quốc Mẫu Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh… 1.1.3.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ Ngoài các hình thức thờ Mẫu như đã trình bày ở trên, ở đồng bằng Bắc bộ còn có một loại hình Thờ Mẫu rất độc đáo và đang tồn tại khá phổ biến đối với người dân ở đây, đó là tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ. Các vị Mẫu trong Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ gồm có: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Thiên (Có lúc đồng nhất với Mẫu Liễu Hạnh), Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu địa. Trong tâm thức người dân, từ xa xưa đã có sự tôn thờ người mẹ. Mẹ đem lại cho ta chỗ dựa bằng tấm lòng, vào cánh tay của mẹ … Trong rừng sâu những con thú rất dữ tợn, bạo tàn mà vẫn vâng lời mẹ Núi. Sóng, gió có thể hung dữ nhưng phải nghe theo lời mẹ Biển. Từ đó ra đời sự tôn thờ mẹ Rừng, mẹ Nước. Đã có hai mẹ của Rừng và Nước, vậy tại sao lại không có mẹ của Trời và đã xuất hiện thêm mẹ của Trời. Bà mẹ của Trời với chức năng quản lý cõi Thiên. Các bà mẹ trên dần dần được ghép cho các huyền thoại, sự tích để rồi các “mẹ” trở thành Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Thiên, người ta dành cho mỗi bà một phủ, một tòa riêng. Tam tòa ở đây có thể hiểu theo ba cõi(Trời, Non, Nước).Vì thế xuất hiện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ- Tam tòa Thánh Mẫu. Đây là thế giới quan dân giã của người Việt từ thời hoang sơ. Khi có thêm một phủ mới là Địa phủ thì Tam phủ biến thành Tứ phủ, nhưng: “Không rõ từ lúc nào mà Tam phủ biến thành Tứ phủ ” [42, tr.17]. Từ khi xuất hiện “Mẫu” cai quản từng miền vũ trụ hình thành thì bản thân nó đã chứa đựng những nhân tố về vũ trụ luận nguyên sơ thêm vào đó là các niềm tin. Từ đó các điện thờ được dựng lên (có nơi gọi là Tòa) và dần được sắp xếp thành hệ thống và gọi đó là tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ hay Tam tòa tứ phủ. “Mẫu” có quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất, nhưng lại hóa thân thành Tam vị, Tứ vị Thánh Mẫu cai quản các miền khác nhau của vũ trụ:Thiên Phủ (miền trời), Địa Phủ (miền đất), Thoải Phủ (Thủy Phủ- miền sông biển), Nhạc Phủ (miền rừng núi). đứng đầu mỗi Phủ là một vị Thánh Mẫu tương ứng với: Mẫu Thượng Thiên - cai quản Thiên Phủ; Mẫu Địa (địa Tiên Thánh Mẫu) - cai quản Địa Phủ; Mẫu Thoải -cai quản Thoải Phủ và Mẫu Thượng Ngàn - cai quản Nhạc Phủ. Các Mẫu cai quản các miền vũ trụ có nhiều truyền thuyết, huyền thoại khác nhau. Trong quá trình biến đổi, phát triển từ thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ rồi Tứ phủ, chúng ta chú ý tới giai đoạn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, xã hội luôn có những biến động. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khó khăn, bên cạnh đó sự không ổn định là tình trạng chung cho cuộc sống của mọi tầng lớp xã hội. Từ những lý do trên, người ta mong có một sức mạnh kỳ diệu để giải phóng con người ra khỏi chế độ phong kiến đang suy yếu, một xã hội rối loạn và các cuộc khởi nghiã nông dân triền miên. Vì thế, họ cần có một Mẫu nữa, Mẫu này phải ở cõi nhân sinh mà sự hiện diện của bà ở khắp mọi nơi, mang tính phổ quát và gần gũi với những con người và họ mong muốn có một nhân vật Thánh Mẫu có thân phận như một người phụ nữ bình thường. Vào khoảng thế kỷ XVI, vừa là nhu cầu phát triển nội tại của thứ tín ngưỡng thờ Mẫu có từ trước, vừa là khát vọng của quần chúng nhân dân, vì thế tín ngưỡng thờ Mẫu bản địa Việt Nam đã thờ thêm một “Mẫu” mang tính phổ biến đó là Mẫu Liễu Hạnh - quan niệm dân gian thường coi Bà là hóa thân, thậm chí đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên (vì bà là con gái của Ngọc Hoàng Thượng Đế) và có lúc là Mẫu Địa. Mẫu Liễu Hạnh ra đời ở thế kỷ XVI, nhưng cho đến nay: “Chưa có tài liệu chính xác để khẳng định Tứ phủ ra đời từ bao giờ” [25, tr.420]. Cũng có thể từ Tam phủ chuyển sang Tứ phủ là sự thể hiện tư duy trong dân gian, từ Tam phủ lên Tứ phủ cho đầy đủ về vũ trụ. Sự xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã làm cho tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nâng lên một trình độ cao hơn và toàn diện hơn. Chúng ta đều biết nếu như từ tín ngưỡng thờ Mẫu đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ đã có một sự phát triển từ cụ thể lên phổ quát, thì từ tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ lại có sự phát triển ở chỗ tính phổ quát ấy được bổ sung bằng những quan niệm nhân sinh và vũ trụ, nó thể hiện tính hệ thống cao hơn, đặc biệt là những nghi thức, lễ hội. Tác giả Nguyễn Hồng Dương nhận xét rằng: “Mẫu Tam phủ - Tứ phủ bước đầu đã hình thành một hệ thống thờ cúng trong các đền, phủ, những nghi lễ thờ cúng đã được chuẩn hóa” [51, tr.561]. Trong điện thần thờ Mẫu Tứ phủ, Mẫu Thượng Thiên đã bị lu mờ bên cạnh Mẫu Liễu Hạnh. Phải chăng Mẫu Thượng Thiên vì ở quá xa trên tận trời cao nên không gắn với nhu cầu thực tế, cuộc sống hàng ngày của người dân nên bị lãng quên. Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện đã kéo theo những thần linh trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ gần với đời thường, với trần gian. Một điều đáng chú ý là đa số trong các điện thờ hiện nay chỉ có Tam Tòa Thánh Mẫu. Trong đó tượng Mẫu Liễu Hạnh được đặt ở giữa và hai bên là Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải. Không có tượng Mẫu Thượng Thiên là do theo quan niệm dân gian Mẫu Liễu Hạnh cũng vốn là con gái của Ngọc Hoàng. Có thể với lý do đó mà Mẫu Liễu Hạnh đồng thời là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên và Mẫu địa (địa Tiên Thánh Mẫu) Tác giả Nguyễn Thị Nga cho rằng: “Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tứ phủ lúc đầu là tín ngưỡng của người Việt ở Bắc Bộ, sau đó mở rộng ra khắp các vùng trong cả nước” [30, tr.143]. Đến nay, đã ghi nhận hơn 250 di tích thờ cúng các nữ thần, trong đó số đông được gọi là Mẫu, Thánh Mẫu, Vương Mẫu, Quốc Mẫu. 1.2. Đặc điểm, vai trò và ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay 1.2.1. Đặc điểm của Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ Đất nước ta là một quốc gia trải dài, có rất nhiều vùng miền, vốn đặc điểm khác nhau về địa lý, lịch sử. Tình hình kinh tế-xã hội-văn hóa-tư tưởng, lối sống và con người cũng khác nhau nên có ảnh hưởng đến phong cách lối sống, tình hình tín ngưỡng cũng mang những sắc thái không giống nhau. Đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ, vốn xuất phát từ hiện tượng thờ nữ thần có nguồn gốc từ rất lâu đời của người Việt. Tuy nhiên, không phải tất cả nữ thần đều là Mẫu. Trong luận văn này tác giả xin chỉ đề cập đến đặc điểm tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay. * Đặc điểm thứ nhất: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ mang tính tiểu nông, dân dã và quần chúng: Bắt nguồn từ cư dân trồng lúa nước ở vùng nhiệt đới gió mùa, cho nên từ quan niệm đến lối nghĩ, nếp sống của người Việt về cơ bản thể hiện những đặc trưng của người nông dân. Cụ thể, trong tiềm thức người ta quan niệm việc tôn thờ thần Đất, thần Lúa, …đều đồng nhất với Âm và nhân hóa thành Nữ tính- Mẹ. Có thể nói tín ngưỡng Tứ phủ: “Là tín ngưỡng dân dã của người Việt, lọc bỏ những dòng chảy bên lề làm méo mó ý nghĩa khởi nguyên, thì đạo Mẫu biểu hiện một phần tư duy nông dân được kết tụ lại qua quá trình lịch sử” [39, tr.138]. Tín ngưỡng thờ Mẫu có chứa đựng yếu tố “ ma thuật” thu hút mọi người bằng nhiều hình thái văn hóa dân gian như nhảy múa, bài trí điện thờ rực rỡ không theo một qui định nào. Nhiều người đi lễ và đến những nơi thờ Mẫu mà không hiểu nơi đó thờ những ai và có những quyền phép gì? họ đến để cầu xin làm ăn buôn bán có lời (lãi), con cháu được bình an, tai qua nạn khỏi… Họ cho rằng Mẫu có thể cứu hộ độ trì cho muôn vàn chúng sinh, không phân biệt sang hèn, giầu nghèo… với nhiều mong muốn và nỗi niềm khác nhau. Đây là kết quả tất yếu của nền văn hóa nông nghiệp ở trình độ thấp. Ngoài ra, nơi thờ tự của tín ngưỡng thờ Mẫu có thể rất khiêm tốn, có thể chỉ là một gian thờ bên cạnh ngôi đền hay ngôi chùa nhỏ nào đó, thậm chí chỉ là một ban thờ khiêm tốn tại một góc chùa theo kiểu “Tiền Phật, hậu Thánh”… Tuy nhiên, sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn là loại hình sinh hoạt Văn hóa mang đậm tính dân dã, bình dân. Một tác giả viết rằng tín ngưỡng thờ Mẫu: “ Có thể phản ánh đậm nét tâm hồn người Việt, nó có một sức sống mãnh liệt, uyển chuyển, tự điều chỉnh để phù hợp với mọi hoàn cảnh lịch sử ” [5, tr.18]. Tính dân dã, tính quần chúng của tín ngưỡng thờ Mẫu còn biểu hiện ở chỗ, không phải học thuộc điều răn, cấm kỵ, không lễ nghi cầu kỳ, phức tạp, không có những giáo lý…nên nó dễ đi vào quần chúng, dễ chấp nhận. * Đặc điểm thứ hai: Nơi thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ có tính hỗn dung với các tín ngưỡng, tôn giáo khác: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ là tín ngưỡng thờ đa thần. Hầu hết các làng, xã ở đồng bằng Bắc bộ đều có đền, miếu, đình, chùa … Giữa tam giáo(Phật, Nho, Lão) và tín ngưỡng dân gian, trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu có mối quan hệ chặt chẽ. Chúng đan xen, thâm nhập vào nhau, cùng tồn tại trong quá khứ và trong hiện tại. Trong các nơi thờ cúng như đền, phủ, miếu, điện thờ các Mẫu còn có cả một hệ thống các vị thần linh vốn xuất thân từ những tôn giáo, tín ngưỡng khác như Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên… trong đó các Thánh Mẫu luôn được khẳng định ở vị trí trang trọng nhất. Và “ tại cửa Mẫu những buổi hành lễ như vậy qua sự hiện diện của các vị giáng đồng, những chư vị thuộc đủ mọi dân tộc …” [34, tr.129]. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng không đóng khung trong một khuôn hình mà: “ Bung ra nhiều cung cách dáng vẻ, nhiều khi còn mở toang cửa cho các thần thánh của các tôn giáo, tín ngưỡng khác ùa vào như một liên kết vui vẻ ” [15, tr.154-155]. * Đặc điểm thứ ba: Tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính phổ biến: Tín ngưỡng thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng dân gian. Vì vậy, nó có một vai trò và vị trí khá quan trọng, đáp ứng nhu cầu trong đời sống thường nhật của một bộ phận quần chúng nhân dân. Thờ Mẫu có mặt ở khắp mọi nơi trên đất nước ta, từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi đến miền núi, có cả ở đô thị lẫn nông thôn và ở nhiều tộc người. Trong cuốn sách “Các nữ thần Việt Nam”, bước đầu đã tập hợp và giới thiệu 75 vị nữ thần tiêu biểu của nước ta. Trong đó có nhiều vị nữ thần được phong là Mẫu, Thánh Mẫu và: “Người xưa cũng đã từng thống kê được các vị Tiên thuần Việt có tới 14/27 vị tiên nữ”[29, tr.82]. Hiện nay, các Mẫu được thờ dưới nhiều hình thức tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau đó là: Mẫu được thờ ở trong Chùa, Phủ, Đền, Điện, Miếu. * Đặc điểm thứ tư: Niềm tin trong tín ngưỡng phải được vật chất hóa tức nó được gửi vào vật tin và nó là niềm tin cảm xúc nên chấp nhận những cái “phi lý” và đây cũng là đặc điểm của văn hóa dân gian Việt Nam. Vì thế vật được tin cũng chấp nhận yếu tố “phi lý ” và chuyển hóa thành nhân vật được thờ. Lúc này xuất hiện quá trình thiêng hóa. Quá trình này thể hiện: Thứ nhất, huyền thoại hóa các Mẫu, là quá trình gán (biến) cho các nhân vật “Mẫu” một hoặc nhiều huyền thoại. Ví dụ: Mẫu Thoải có truyền thuyết cho rằng bà là con gái của Động Đình Quân- Thần Long là vợ của Vua Kinh Dương Vương sau đó sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm tự xưng là Lạc Long Quân. Truyền thuyết khác lại cho là Mẫu Thoải là vợ hoàng tử Kinh Xuyên, là con gái của Long Vương ở Động Đình Hồ (Trung Quốc). Bà rất yêu chồng, nhưng bị vợ hai của chồng là Thảo Mai ghen ghét và vu cáo nên bà bị chồng nhốt vào rừng sâu, thú dữ không làm hại bà, còn nuôi bà sống. Bà đã gặp và nhờ một nho sĩ chuyển thư cho cha mình, nhờ thế mà bà được cứu thoát…Người đời tôn bà là Mẫu Thoải, lập đền thờ ở Tuyên Quang. Thứ hai, lịch sử hóa các Mẫu, là biến các “Mẫu” và các thần linh của tín ngưỡng thờ Mẫu thành các nhân vật lịch sử gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của Dân tộc. Chẳng hạn, thời Hùng Vương không có vua (một số nhà Khoa học lại cho rằng đó là thời kỳ công xã nguyên thủy nên không thể có Vua, Vua là từ mượn của thời Phong kiến), nhưng do ý thức về lịch sử nên đã xây dựng nên những huyền thoại có vua Hùng. Từ “Hùng” xuất phát từ Hán chỉ người đứng đầu, thủ lĩnh bộ lạc và bắt đầu là chữ “Khun” hay “Cun” của người Việt Mường. Thứ ba, địa phương hóa là biến các nhân vật “Mẫu” được thờ là người địa phương. Ví dụ ở Thuận Thành(Bắc Ninh) có một truyền thuyết Mẫu Âu Cơ sinh ra 100 quả trứng và nở thành 100 con và đã lập đền thờ Bà ở đó. Hay ở Từ Sơn(Bắc Ninh) có truyền thuyết và đền thờ Thánh Mẫu Phạm Thị-là mẹ của vị vua khởi nghiệp triều Lý là Lý Công Uẩn; Bà vợ ba đề Thám(Yên Thế), Cô Chín đồng Mỏ (Lạng Sơn) đều được nhân dân lập đền thờ và gọi đó là nơi thờ Mẫu. Thứ tư, trần gian hóa. Các nhân vật Mẫu được thờ không chỉ được xây dựng với những truyền thuyết, huyền thoại mà còn có cả lý lịch, nguồn gốc là nhân vật có thật trong nhân gian, có công trạng cụ thể, và được Nhà nước phong kiến phong sắc, biên soạn thần tích … Chẳng hạn Mẫu Liễu Hạnh là con gái của vợ chồng Lê Thái Công ở xã Vân Cát, huyện Thiên Bản thuộc trấn Sơn Nam…; Mẫu Thượng Ngàn là con cháu Vua Hùng … Các “Mẫu” này đã có nguồn gốc xuất thân, với những kỳ tích, công lao gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. * Đặc điểm thứ năm: Trong tín ngưỡng thờ Mẫu (nhất là thờ MẫuTam phủ - Tứ phủ), các Mẫu luôn có sự kết hợp đan xen giữa tư duy mang tính vũ trụ luận (trời, đất, nước), tư duy huyền thoại (thiên thần, sơn thần, thủy thần) và tư duy lịch sử (Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương). Ngoài ra, Các “Mẫu” còn được nhân dân tạo cho một lý lịch, một quyền năng đối với con người. Thông thường các “Mẫu” được người dân gắn cho những đặc tính siêu nhiên, huyền bí. Ví như Bà Chúa Thượng Ngàn với tư cách là Đức Thánh Mẫu trong hệ thống Thánh Mẫu, là cốt lõi tinh hoa, là cơ sở triết lý của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam. Mẫu Liễu Hạnh, bà có thể che chở, giúp đỡ, trừng phạt.. đối với người khi tin và đi theo tín ngưỡng Mẫu này. * Đặc điểm thứ sáu: Văn hóa Việt Nam có nhiều ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai như nền văn hóa ấn Độ, Trung Quốc. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Mẫu lại là một loại hình tín ngưỡng mang bản chất thuần Việt mà văn hóa Hán (Trung Quốc) và văn hóa ấn Độ rất mờ nhạt. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ là hình thức điển hình nhất. Có thể nói, không ở đâu lại có thể thờ Mẫu của bốn miền như thờ Mẫu của người Việt, trong đó Mẫu Liễu Hạnh là một nữ thần nhưng lại được xếp một trong “tứ bất tử” của dân gian và nhờ có sự xuất hiện Mẫu Liễu Hạnh thì tín ngưỡng thờ Mẫu đạt đến trình độ hoàn chỉnh về triết lý tôn thờ Mẫu. 1.2.2. Vai trò, ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay Tín ngưỡng thờ Mẫu xuất hiện từ rất sớm, nó đã tồn tại cùng chiều dài lịch sử của dân tộc. Vì vậy, nó có vai trò, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội.Vai trò, ảnh hưởng đó ngày nay được thể hiện trong các lĩnh vực sau: Một là, vai trò, ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống văn hóa, chính trị- xã hội. Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Trong đó tín ngưỡng thờ Mẫu thu hút rất nhiều người, các sinh hoạt tín ngưỡng thời gian trước đây diễn ra bán công khai, nay với chính sách tự do tín ngưỡng và tôn giáo của Nhà nước ta thì nó trở nên công khai hơn, tự do hơn. Chính vì thế, vai trò và ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với chính trị - xã hội càng lớn. Thực tế cho thấy, nếu một số người trong chúng ta từ một cách nhìn nào đó coi sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu như một thứ trở lực xã hội gây hao tổn thì giờ, tiền bạc …mà đi đến bài trừ hoặc cấm đoán một cách thái quá loại hình tín ngưỡng dân gian này, có thể dẫn tới việc vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Ngược lại, nếu chúng ta để hiện tượng lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng và tôn giáo của Nhà nước ta để chống lại Nhà nước, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, hoạt động mê tín dị đoan …điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống văn hóa - xã hội, dẫn tới những hậu quả khôn lường. GS,TS Phạm Ngọc Quang cho rằng: “Không chỉ tôn giáo, mà cả tín ngưỡng dân gian cũng có quan hệ chặt chẽ với chính trị, pháp quyền [30, tr.17]. Việc thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ cũng có những vai trò tích cực đối với cộng đồng, cho dù nhiều Mẫu chỉ là một nhân vật huyền thoại nhưng vẫn mang tính chất hiện thực. Thờ Mẫu đã phản ánh được trong lịch sử văn hóa của tổ tiên ta là những cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và vai trò quan trọng của người phụ nữ luôn có vị trí quan trọng trong gia đình, xã hội và trong đời sống cộng đồng. Có thể nói: “Người tiểu nông Bắc Bộ đã sử dụng tôn giáo tín ngưỡng truyền thống như chỗ dựa tinh thần không thể thiếu qua nhiều thế kỷ ” [49, tr.389]. Tín ngưỡng thờ Mẫu đóng vai trò quan trọng trong việc dung nạp các tín ngưỡng, tôn giáo khác ở Việt Nam. Góp phần trong truyền thống hòa đồng các tôn giáo, tín ngưỡng: Thánh, Thần, Phật, …đều phù hộ độ trì cho con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu với tư cách là một tín ngưỡng bản địa, còn có sự ảnh hưởng ngược lại đối với tôn giáo ngoại nhập như Phật giáo, Công giáo… Tín ngưỡng thờ Mẫu còn có vai trò là liên kết tinh thần giữa những người có cùng một niềm tin vào các “Mẫu ”, người ta có thể liên kết với nhau đôi lúc rất chặt chẽ trên nhiều phương diện ngay cả khi họ không cùng ý thức chính trị. Bởi vì, bản thân tín ngưỡng này đã có sức mạnh cố kết tinh thần mạnh mẽ. Sự cố kế ấy được nâng lên nhờ sự “ linh thiêng” của các “Mẫu ” và các thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Nếu tổ chức tốt các sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở các vùng, các địa phương sẽ làm tăng cường tình đoàn kết, cảm thông lẫn nhau một cách sâu sắc hơn giữa các thành phần và các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Những giá trị văn hóa của Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ cũng được xem là có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong sinh hoạt tín ngưỡng, nếu gạt bỏ những tiêu cực thì tín ngưỡng thờ Mẫu đã góp phần đáng kể cho bản sắc văn hóa Việt Nam: Từ truyền thuyết, văn chầu, trang phục trong điện thần đều là nét độc đáo về văn hóa, nghệ thuật. Ngoài ra, bên cạnh hát chầu văn theo nhạc điệu còn có múa đồng. đó là những di sản văn hóa dân tộc rất quí giá cần được đánh giá đúng mực, cần bảo tồn và phát triển. Hai là, vai trò, ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần và đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Khi xã hội phát triển toàn diện thì cuộc sống của nhân dân lao động cũng không ngừng được cải thiện và nâng cao về mọi mặt. Trong đó, tín ngưỡng cũng trở nên không thể thiếu được đối với một bộ phận cư dân có nhu cầu trong đời sống tâm linh của họ. Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng là một nhu cầu thuộc đời sống tinh thần của một số người. Từ việc nghiên cứu khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ đã cho thấy vai trò của phần “lễ” và phần “hội” trong xã hội ngày nay là là rất to lớn. Ngoài việc chấn hưng nền văn hóa dân tộc, nó còn lưu truyền những tinh hoa văn hóa giầu bản sắc địa phương, có tính chất vùng miền…vốn có từ xa xưa do cha ông để lại cho con cháu sau này. Nó giúp cho thế hệ con cháu đời sau nhớ về cội nguồn lịch sử dân tộc, ca ngợi Mẹ khởi thủy, Mẹ dạy nghề … bởi vì các Mẹ là anh hùng văn hóa, anh hùng dân tộc. ý thức về cộng đồng cũng được củng cố thêm trong lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, cái đẹp của lễ hội là đề cao và khuyến khích chính những phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng được thể hiện qua các nhân vật được cử lễ. Các hình tượng nhân vật trong tín ngưỡng thờ Mẫu thực chất là tinh hoa và thể hiện khát vọng của cộng đồng tích tụ lại trong đấy mà thôi. Tín ngưỡng thờ Mẫu còn là nơi gửi gắm niềm tin, hy vọng, là chỗ dựa tâm linh cho một bộ phận dân cư khi họ tin và đi theo thứ tín ngưỡng này. Ngoài ra, lễ hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu còn mang tính thiêng liêng, phản ánh tình cảm, sự ngưỡng mộ về vai trò của người mẹ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong sinh hoạt của tín ngưỡng thờ Mẫu đã giúp liên kết mọi người, thậm chí vượt ra khỏi giới hạn của tư tưởng định kiến tôn giáo hoặc sự cục bộ địa phương để cùng hướng về một đối tượng linh thiêng, với một lễ hội thống nhất. Nó còn phát khởi mối thiện tâm trong mỗi con người trong các mối quan hệ xã hội. Biểu tượng của các Mẫu được thờ ở đồng bằng Bắc bộ bao giờ cũng mang một ý chí kiên cường, sức mạnh tổng hợp để chiến thắng giặc ngoại xâm, thiên tai nhằm xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đây chính là nét đẹp truyền thống của người Việt Nam. Vai trò và ảnh hưởng của tín ngưỡng và lễ hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu còn được thể hiện qua cách ứng xử, tấm lòng, tâm hồn thật đẹp của các nhân vật được tôn thờ, nhất là những cái đẹp của người phụ nữ Việt Nam là một biểu tượng cần được đề cao và luôn ghi nhớ. Thực tế, khi một ai đó bước chân vào những nơi thờ tự họ đều nghĩ rằng đây là chốn linh thiêng. Cho nên, tín ngưỡng có thể khơi dậy tính lương thiện và bản chất chân thành của con người vì họ muốn thể hiện sự tốt đẹp của mình trước những vị thần linh. Khi con người tin vào một tín ngưỡng hay một tôn giáo nào đó thì người ta tin rằng với không gian và thời gian linh thiêng đó, mọi lời cầu xin sẽ được thiêng hóa vì đã có các thánh chứng giám. Họ tin vào điều đó, có thể đời họ chưa thực hiện được, nhưng đời con cháu họ sẽ đạt được. Trong chiều sâu tâm thức của con người, niềm tin đã đánh thức và thúc giục họ đến một nhu cầu hiện thực hóa những đối tượng họ tin dưới dạng lý tưởng nhất. Mặt khác, người Việt luôn tâm niệm rằng con cái được hưởng phúc từ người mẹ nên có câu “phúc đức tại mẫu”. Vì vậy tín ngưỡng thờ Mẫu đã góp một phần vào việc giáo dục và hướng con người đến với Chân - Thiện - Mỹ. Hình ảnh người Mẹ trong tín ngưỡng thờ Mẫu cũng là người Mẹ có công sinh thành và nuôi dưỡng đàn con: Một lòng thờ Mẹ, kính Cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con Và tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ là một loại hình tín ngưỡng dân gian gắn liền với tập tục, truyền thống văn hóa đạo đức của người Việt Nam. Ba là, vai trò, ảnh hưởng trong quá trình hội nhập kinh tế và văn hóa Quốc tế. Chúng ta đã biết, giữa văn hóa với kinh tế- xã hội có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, Đảng ta đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế -xã hội’’[10, tr.55]. Với những định hướng trên, chúng ta đã đặt Việt Nam trong bối cảnh: “thế giới đã bước vào nền văn minh mới, văn minh trí tuệ, còn văn hóa không chỉ gắn với phát triển mà còn có khả năng điều tiết sự phát triển đúng hướng” [8, tr.210]. Khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đây cũng là điều kiện để cho sự tích hợp và phát huy mọi tiềm năng văn hóa tinh thần vốn có của dân tộc, là tiền đề cho sự mở rộng mọi mối quan hệ tiếp xúc, giao lưu, hội nhập văn hóa giữa các vùng, miền trong và ngoài nước. Con người có cơ hội bày tỏ những tâm tư nguyện vọng của mình, vừa được giao lưu tình cảm với cộng đồng …Nhưng xuất hiện cùng lúc này là hàng loạt vấn đề đặt ra do cơ chế thị trường đem lại. Xu hướng “thương mại hóa” lại ảnh hưởng đến lễ hội dân gian của loại hình thờ Mẫu. ảnh hưởng của kinh tế thị trường còn bộc lộ đến một số người dân sở tại nơi có đền, phủ, miếu thờ Mẫu. Họ đến với Mẫu không còn xuất phát từ nhu cầu tâm linh mà bởi nhu cầu kinh tế. Thực tế, trong thời đại ngày nay khi mà xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang phát triển ở nước ta, hiện đang có nguy cơ lãng quên hoặc không quan tâm đến những giá trị của tín ngưỡng truyền thống, những sự kiện lịch sử của dân tộc mà ông, cha đã để lại. Đây là lúc hãy phát huy vai trò, ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng vào phần “lễ” và “hội” để mọi người cùng tham gia những lễ hội đó. Hạn chế những tác động và du nhập của văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng ngoại lai có hại cho sự phát triển văn hóa của dân tộc ta. Từ đó, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống lịch sử, văn hóa, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cho thế hệ con cháu và mọi người dân. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang được thực hiện, nền kinh tế nước ta đã phần nào khởi sắc. Nhưng một hiện tượng khá nổi bật mà rất nhiều người quan tâm, ngay cả những quốc gia được coi là phát triển cũng không tránh khỏi đó là sự chênh lệch khá lớn giữa những người được coi là giầu có và những người còn quá nghèo. Sự bất bình đẳng đó thường ngày là khoảng cách giữa mọi người có thể tách biệt về thân phận, địa vị xã hội, các thành phần kinh tế …nhưng với những người tin và đi theo tín ngưỡng thì khi vào đền, phủ,miếu, chùa đứng trước ban thờ, điện thờ, trước những làn khói hương thì mọi người đều bình đẳng, dân chủ, không phân biệt giầu nghèo… 1.3. đôi nét về mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với các loại hình tín ngưỡng, Tôn giáo khác ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay đạo giáo Trung quốc có mặt trong tín ngưỡng thờ Mẫu, đó là hình ảnh của Mẫu Liễu Hạnh, là tiên từ trên trời phạm lỗi đánh vỡ chén ngọc bị đầy xuống trần gian, đầu thai thành người mang tên Giáng tiên. ảnh hưởng của đạo giáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ là khá rõ. Chúng ta đã biết thời đinh, tiền Lê, Lý, Trần thì Lão giáo là một trong “Tam giáo đồng nguyên”. Tuy nhiên, đến thời Lê thì Lão Giáo bị suy thoái không thịnh hành như Nho giáo nhưng triết lý và pháp thuật của đạo giáo Trung Quốc vẫn được lưu hành, việc Vua Lê Thần Tông cho phép lập ra Nội đạo Tràng. Ngoài ra, có một số vị thánh trong đạo giáo cũng có mặt trong điện thần Tứ phủ của tín ngưỡng thờ Mẫu như Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc đẩu, Thái Thượng Lão Quân. Cùng với nó là các phép thuật của thánh Mẫu Liễu Hạnh … GS. Ngô đức Thịnh cho rằng: “ việc tồn tại phủ thứ tư là nhạc phủ là một nét đặc thù của Đạo giáo dân gian Việt Nam” [45, tr. 30]. Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu cũng có mối quan hệ gắn bó với nhau rất chặt chẽ. Ngay từ khi du nhập và nước ta, Phật giáo đã tự điều chỉnh để phù hợp với những tín ngưỡng và phong tục tập quán truyền thống nước ta. Chúng ta đã biết đến câu chuyện ở đồng bằng Bắc bộ là nhà sư Khâu đà La vô tình bước qua người nàng Man Nương, sau đó Nàng mang thai sinh ra bé gái sau thành Thạch Quang Phật và sinh ra hiện tượng Tứ Pháp. Nguồn gốc của hiện tượng Tứ Pháp là nữ thần Mây - Mưa - Sấm - Chớp. Man Nương trở thành Phật Mẫu Man Nương. Một chứng minh nữa được dẫn ra rằng giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu có quan hệ với nhau. Sự tích ở “Sùng sơn đại chiến” giữa bà chúa Liễu Hạnh với thuật pháp Nội đạo Tràng và quân lính triều đình. Cũng tại đây, Bà có uy lực và phép thuật hơn bao giờ hết, tuy nhiên Tiên chúa vẫn bị lừa và phải biến thành con rồng và trốn vào trong một giếng nước. Lúc đó Thích Ca Mầu Ni biết chuyện, đáp mây xuống cứu Tiên Chúa và Liễu Hạnh đã quy phục đức Phật và quy y cửa Phật. Từ đó trở đi Thánh Mẫu tồn tại trong khuôn viên chùa của khắp đồng bằng Bắc bộ nói riêng và hầu hết làng quê Việt Nam nói chung một cấu trúc đa phần là “tiền Phật, hậu Mẫu”, cũng có một số ngôi chùa thì ban thờ Mẫu đặt cạnh với ban thờ Phật (Chùa Bồ đề - Hà Nội), và một số chùa điện thờ Mẫu đặt trước ban thờ Phật(Chùa Vân Hồ - Hà Nội).Như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu luôn có trong sự tồn tại của các ngôi chùa thờ Phật ở Việt Nam. Phật - Mẫu có mối quan hệ gắn bó tương giao và dung hòa, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với tín ngưỡng thờ Mẫu cũng tiếp thu và ảnh hưởng lẫn nhau. Điện thần của tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính gia tộc có mẹ, có Cha, nói cách khác là có Vua Cha trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ đó là đức Thánh Trần, nhưng có khi đức Thánh Trần được đồng nhất với Vua Cha Bát Hải đại Vương thuộc dòng Long Thần. Ngày giỗ Vua Cha cũng là ngày giỗ đứcThánh Trần. Mẹ là Mẹ Âu Cơ được gọi là Quốc Mẫu, là mẹ của tất cả con dân đất Việt, là Mẫu của cả nước. Mẹ Âu Cơ được thờ cúng theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chứ không phải theo tín ngưỡng nào khác. Dân gian có câu “tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”. Việc thờ cúng Quốc Mẫu Âu Cơ không như thờ cúng tổ tiên trong gia đình là lập bàn thờ tại nhà mà là một dạng phóng đại của mô thức thờ cúng tổ tiên gia đình. Việc thờ cúng mẹ Âu Cơ được đặt ở đền Quốc Mẫu trên vùng đất Tổ cùng với Vua Hùng. Ngoài ra, giỗ mẹ tháng ba diễn ra ở các ngôi đền thờ Mẫu,và trung tâm vẫn là Phủ Dầy, nơi giáng sinh cũng là nơi hóa của Thánh Mẫu Liễu Hạnh vào đúng ngày 3 tháng 3 hàng năm. Mặt khác theo GS. Ngô đức Thịnh thì : Việc thờ Cô và thờ Cậu trong tín ngưỡng thờ Mẫu có cội nguồn sâu xa từ việc thờ cúng những người chết trẻ. Bà Cô, ông Mãnh một yếu tố rất quan trọng trong thờ cúng tổ tiên ở các gia tộc và dòng họ. Tín ngưỡng thờ Mẫu còn có mối liên hệ với Nho giáo. Nó đề cao “dương sinh” tức đề cao Phụ quyền (đối lập với chế độ Mẫu quyền của tín ngưỡng Mẫu). Người Việt từ lâu sống dưới chế độ Phụ quyền cho nên khi xuất hiện Mẫu Liễu Hạnh ở thế kỷ XVI thì họ tìm thấy một niềm tin thần thánh mà từ lâu đang thường trực trong tâm thức họ, đó là hình ảnh về người mẹ bao dung, vị tha, che chở cho đàn con, … Theo quan niệm của Nho giáo thì Cha của Mẫu Liễu Hạnh là ở trên trời và được mẹ trần gian nuôi dưỡng (mẹ Đất). đất chính là mẹ từ nghìn năm nay được thờ phụng, tôn kính. Theo thuyết của nho giáo thì trời đất cùng một thể, người là yếu tố nối giữa trời và đất. Mẫu Liễu Hạnh là yếu tố, là cầu nối giữa trời và đất. Mặt khác, Mẫu Liễu Hạnh lại tài hoa, thông minh, biết ngâm thơ vịnh nguyệt với tao nhân mặc khách, đàm đạo thơ với các danh nho như Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan… Ngoài ra, nhìn vào điện thờ của tín ngưỡng thờ Mẫu chúng ta có thể nhận ra vị trí của các thần linh và các chư vị thần thánh đã được sắp xếp theo trật tự của một triều đình phong kiến ảnh hưởng Nho giáo với tam cung, lục viện. Mỗi cõi đều có quyền lực như một triều đình…. Ngoài ra, tín ngưỡng thờ Mẫu còn có quan hệ với tín ngưỡng Tứ Bất Tử vì Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh của tín ngưỡng tứ bất tử. Không những thế, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng của Việt Nam cũng có liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu. Đó là, có những vị vừa là Mẫu vừa là Thành Hoàng của một số làng như: Bà Mẫu Thoải “nơi chính được hân hạnh thờ bà làm thành hoàng ở làng Viêm Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh” [18, tr.46]. Chương 2 tín ngưỡng thờ Mẫu qua khảo sát một số trung tâm thờ Mẫu và những vấn đề đặt ra hiện nay 2.1. Thực trạng tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng bắc bộ hiện nay Không một vùng quê nào trên đất nước Việt Nam nói chung và ở đồng bằng Bắc bộ nói riêng, lại không có những truyền thuyết gắn các bà Mẹ - các nữ thần. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng có chiều dài lịch sử cùng với lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Tín ngưỡng thờ Mẫu đã và đang trở thành vấn đề trung tâm của nhiều cuộc hội thảo, nhiều công trình nghiên cứu từ trước tới nay trong hệ thống tín ngưỡng dân gian. đó là Thánh Mẫu Liễu Hạnh - một trong Tứ Bất Tử của người Việt, đại diện cho thế giới tinh thần, là chỗ dựa cho đời sống tâm linh của con người. Mẫu Liễu Hạnh là Mẫu có quyền uy lớn nhất trong tín ngưỡng Mẫu Tam phủ - Tứ phủ, là một nhân vật nửa có thật, nửa được nhân dân xây dựng thêm bằng những truyền thuyết gắn liền với những thời kỳ lịch sử của dân tộc. Mẫu Liễu Hạnh đã góp phần làm hoàn thiện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ. Khác với những truyền thuyết về nữ thần và các Mẫu khác, cuộc đời trần thế của Giáng Tiên quá ngắn. Lúc sống nơi trần thế, là một người phụ nữ bình thường, không có công lao gì to lớn, nhưng khi chết lại trở thành thánh uy linh, làm được tất cả mọi thứ…Mặt khác, Mẫu Liễu Hạnh đã có được sự kết hợp với những mức độ khác nhau với đạo giáo, Phật giáo… Chúng ta biết rằng, trong dân gian vai trò của Mẫu Liễu Hạnh trong đời sống tâm linh của người dân rất đặc biệt. Không phải các Mẫu khác trong tín ngưỡng thờ Mẫu không linh ứng và cứu giúp, phù hộ cho người dân. Tuy nhiên, Mẫu Liễu Hạnh được nhân dân tôn thờ, ngưỡng vọng hơn bất cứ vị Thánh Mẫu nào khác và việc tôn thờ ấy từ lâu đã trở thành một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa của cả cộng đồng. Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã hội tụ đủ yếu tố Thần Thánh và con người, rất lý tưởng nhưng lại rất hiện thực, ở rất cao xa nhưng cũng rất gần gũi với con người và là hiện thân của một người phụ nữ bình thường, dân dã. Với những lý do trên, trong khuôn khổ luận văn này tác giả luận văn chỉ xin đề cập đến thực trạng ba trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh(Mẫu Tứ phủ) hiện nay. đó là: Phủ Dầy (Nam định), Đền Sòng(Thanh Hóa) và Phủ Tây Hồ (Hà Nội). 2.1.1. Giới thiệu một số trung tâm thờ Mẫu * Phủ Dầy: Phủ Dầy là di tích thờ Mẫu Liễu Hạnh - quê hương của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Phủ Dầy là một quần thể di tích lịch sử văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia từ năm 1975. Phủ “Dầy” hay “Giầy” gắn với những huyền thoại khác nhau về vùng đất, chẳng hạn: - Khi gọi Kẻ giầy - Phủ Giầy xuất phát từ truyền thuyết Bà Chúa Liễu Hạnh vì quá nhớ thương gia đình, chồng con nên đã để lại một chiếc giầy ở trần gian trước khi về thượng giới hoặc có huyền thoại: Vua đi qua vùng này và nghỉ đêm ở quán hàng của bà chúa Liễu Hạnh, sau đó được tặng một đôi giầy nên đã lập nơi thờ tự và gọi đó là Phủ Dầy. - Khi gọi Phủ Dầy còn vì chính nơi này có món bánh dày - giò nổi tiếng, lại có người cho rằng: Kẻ Dày xuất phát từ nơi có gò đất nổi lên hình bánh dầy trước cửa phủ. - Phủ Dầy bắt nguồn từ tên một làng cổ “ Kẻ giầy”. Theo “ Sự tích công chúa Liễu Hạnh ” của Trọng Nội, Xuất bản năm 1959 thì: đời Vua Anh Tông (1557) làng kẻ Giầy đổi thành xã An Thái gồm: Vân Cát, Vân Cầu, Vân La (Vân đình) và Vân Miếu. đến đời Gia Long, Vân Cát chia thành 2 xã là Vân Cát và Kim Thái. Sang đời Tự đức (1860) xã An Thái đổi thành 2 thôn Vân Cát và Tiên Hương xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam định. Như vậy, Vân Cát là nơi sinh ra, Tiên Hương là quê chồng và là nơi chôn cất Mẫu Liễu Hạnh khi Bà qua đời sau lần giáng trần thứ nhất. Phủ Dầy chính là “cái nôi” sinh ra Thánh Mẫu Liễu Hạnh và là tên gọi chung cho một quần thể các di tích của tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở huyện Vụ Bản Nam định. Tên di tích được gọi theo địa danh ở địa phương. Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Tam trong cuốn “ Phủ Dầy và tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh ”( tái bản năm 2004 thì): “Quần thể Phủ Dầy nằm trên địa bàn xã Kim Thái, chủ yếu là hai thôn Vân Cát và Tiên Hương gồm 19 di tích…” [37, tr.32]. Tại Phủ Dầy có ba di tích lớn, tiêu biểu là Phủ Tiên Hương (còn gọi là phủ chính), Phủ Vân Cát và Lăng Mẫu Liễu. Những di tích này cũng là di tích trực tiếp thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Ngoài ra, còn hơn chục đền phủ, chùa chiền có liên quan đến Mẫu Liễu Hạnh. Luận văn này, chỉ xin đề cập đến ba di tích lớn, tiêu biểu liên quan trực tiếp đến Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở tại quê hương Thánh Mẫu trong quần thể Phủ Dầy. Thứ nhất, Phủ Tiên Hương (phủ chính). Phủ Tiên Hương thuộc thôn Tiên Hương, nằm cạnh đường giao thông liên xã. Năm Dương Hóa thứ 8 triều vua Lê Thần Tông (1642) triều đình xuống chỉ cho địa phương xây đền lợp ngói.Trải qua nhiều lần tu sửa, Phủ Tiên Hương vẫn còn dấu tích của phủ cổ trước kia. Năm 1996 Phủ Tiên Hương đã được sửa chữa lớn để thờ phụ thân của Mẫu Liễu Hạnh và thờ cả đức Thánh Trần. Phủ Tiên Hương còn lưu giữ được một số sắc phong, sớm nhất là đời Lê Chính Hòa, rồi đến Lê Vĩnh Thịnh, Lê Vĩnh Khánh đầu thế kỷ XVIII.Thánh Mẫu được tôn là “Mạ vàng công chúa”, “Mẫu nghi thiên hạ”… Khi đến phủ này, từ xa có thể nhìn thấy rõ vì phủ rất rộng. Từ ngoài bước vào chúng ta gặp ngay một giếng tròn mang ý nghĩa tụ thủy để tụ phúc, giữa giếng tròn là một ụ đất làm nơi cắm cờ mỗi khi mùa hội tới. Cán cờ là một cây tre hoặc một cây gỗ cao được dựng đứng lên, đầu cây buộc một túm lá hoặc một con quạ gỗ với ý nghĩa là thiên sứ của nhà trời. Cùng với túm lá (con quạ gỗ) là lá cờ thần lớn được treo lên đó. Tiếp đó là một sân lớn là nơi khi mùa hội tới là nơi biểu diễn xếp chữ và bán hàng lưu niệm, sau sân lớn là ba phương đình với phương du ở giữa và hai bên phương đình làm nơi gác chuông, gác trống. Tiếp tới ba phương đình là một hồ bán nguyệt, xuống hồ bán nguyệt có hai cầu được lát bằng đá. đối xứng qua hồ, bên phải là nhà bia và lầu cậu, bên trái là nhà bia và lầu cô. Toàn khu phủ thờ ở Phủ Tiên Hương là sự liên kết của nhiều dãy nhà được nối liền với nhau. Trong một dãy nhà có sự phân chia thành nhiều gian riêng và gọi đó là một cung. Từ ngoài vào phía trước mặt gồm có những cung sau: Đầu tiên là cung Đệ Tứ thờ Tứ phủ công đồng hay còn gọi là ban Công Đồng. Đối xứng với cung Đệ Tứ bên trái là Ban Quan lớn Thủ phủ và bên phải là Ban Chầu Thủ phủ. Tiếp theo là Ban thờ Đức Vua cha Ngọc Hoàng và Hội Đồng các quan hay Ngũ vị vương quan. Đây là cung Đệ Tam. Sau cung Đệ Tam là cung Đệ nhị. Cung này thờ Tứ Vị Chầu bà và ba bộ long ngai. Cung Đệ nhất là cung thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Cung này ở trong cùng. Tuy nhiên, đa phần nơi thờ Mẫu Tứ phủ có nội cung (cung cấm). Nội cung của Phủ Tiên Hương có khám kính đặt tượng đồng Mẫu Liễu Hạnh cùng với hai Mẫu Quang cung Quế Anh phu nhân và Quỳnh cung Duy Tiên phu nhân đều được phong thần và sắc phong. Nội cung không phải ai cũng được vào và vào bất cứ lúc nào. Chỉ được vào khi có sự đồng ý của những người trong ban quản lý phủ và những ngày có lễ hội. Bên cạnh dãy nhà thờ những cung chính, còn có một dãy nhà được gọi là Ban Trần Triều. Trong dãy nhà này có đặt ban thờ Ban Trần Triều và Ban Đức Vương Phụ, Vương Mẫu. Phía sau dãy nhà chính là Động Sơn Trang, nơi này thờ bà Chúa Đệ Nhị Thượng ngàn Hai Chầu và mười hai cô Sơn Trang. Thứ hai, Phủ Vân Cát Làng Vân Cát giáng sinh thần nữ Cõi trời Nam bất tử hòa thân Vốn xưa đệ nhị cung tiên Phong lưu công chúa ở trên Thiên đình (Văn chầu Thánh Mẫu) Phủ Vân Cát nằm ở phía bắc thôn Vân Cát xã Kim Thái, di tích này cách Phủ Tiên Hương chừng 1 Km. Từ Phủ Tiên Hương đi thẳng tới ủy ban nhân dân xã Kim Thái, bên phải đi tới Lăng Mộ Thánh Mẫu, còn đi về bên trái là đi tới Phủ Vân Cát. Phủ nằm giữa đền làng Vân Cát và Chùa Long Vân nơi thờ Phật, vì thế tạo nên một quần thể thờ Phật- Mẫu - Thần. Phủ Vân Cát nhìn về dãy núi An Thái phía Tây. Văn bia “Thánh Mẫu cố trạch linh từ bi ký” được đặt ở Ngũ Vân Lâu trước phủ do Tổng tài quốc sư quán đời Nguyễn Cao Xuân Dục soạn năm Thành Thái Tân Sửu (1901) viết về quá trình xây dựng phủ Vân Cát: “ …là một lầu cổ miếu, chọn đất dựng nền từ thời Lê Cảnh Trị (1633- 1671), làm đơn giản mà đẹp, Khoảng đời Cảnh Thịnh (1794- 1800) hội nguyên Trần Gia Du, thiếu tả giám Trần Công Bản đã mở rộng ra. đến năm Kỷ Mão (1879) đời Tự đức, quan huyện Lê Kỳ đã sửa lợp lại, đến năm Thành Thái thứ 12(1900) thì hoàn thành ”. Từ ngoài vào, trước tiên ta gặp Ngũ Vân Lâu là gác chuông có năm cổng lớn được xây từ đời Tự đức, kế tiếp là một cái hồ bán nguyệt ghép bằng đá. Giữa hồ bán nguyệt có phương du nằm ở giữa và có hai cầu đá dẫn ra ngoài. Phương du gồm có ba gian làm bằng gỗ lim, mái có góc uốn cong, xung quanh lan can được ghép bằng những tường hoa bằng đá với những mảng phù điêu trạm khắc một số loài hoa và những con voi. Phương du có bốn mặt thoáng, là nơi khách đứng xem kéo chữ vào ngày hội. Nội phủ có bốn cung. Cung đệ nhất và cung đệ nhị đều ba gian, được tôn tạo và mở rộng từ đời Tự đức năm Kỷ Mão (1879). Cả hai cung này đều bị gịăc Pháp phá hủy bằng ném bom, năm 1959 dân làng xây dựng lại cung đệ nhất còn cung đệ nhị mới được tôn tạo lại năm 1992.Cung đệ nhất là chính cung khép kín, cung này thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, tượng bằng đồng gồm có Mẫu Thượng Thiên ngồi giữa, Mẫu Thượng Ngàn bên trái, Mẫu Thoải bên phải. Cung đệ nhị thờ Tứ vị chầu Bà và Tam tòa quan lớn, cung này được tôn tạo lại năm 1992, đặc biệt có hai khám hai bên thờ Ông Hoàng Mười (bên phải) và Ông Hoàng Ba(bên trái) Tiếp là cung đệ tam, tại đây thờ Công đồng tứ Phủ, cung này có thờ Bà Chúa Bản đền. Cung đệ tứ hay còn gọi là tòa bái đường, cung này có thờ Quan Giám sát. Thứ ba, Lăng mộ Thánh Mẫu. Cùng với hai phủ chính, tại quần thể di tích Phủ Dầy còn có lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Lăng này ở giữa cánh đồng và nằm ở xã Tiên Hương. Thời Minh Mệnh (1820- 1840) quan huyện Vụ Bản cho người xây gạch quanh ngôi mộ cổ, tương truyền là mộ Liễu Hạnh nhưng chỉ xây một bệ nhỏ cho mọi người đến đặt lễ vì nhân dân trong làng thường hái những lá và thân cây mọc xung quanh bên ngôi mộ cổ về chữa bệnh. Tương truyền năm 1937, Vua Bảo đại lấy vợ đã lâu nhưng không có con nên Nam Phương Hoàng Hậu đến cầu tự ở Đền Sòng và được Mẫu ban cho Hoàng Tử Bảo Long. Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã báo mộng cho Hoàng Hậu biết mộ của mình ở ngôi Miếu xứ cây đa Phủ Dầy để trả ơn đó Vua Bảo Đại đã cho dựng lăng để trả ơn Mẫu Liễu Hạnh. Theo tác giả Trần đăng Ngọc thì: “Năm 1938 Vua Bảo đại đã cho “hội xuân Kinh” triều đình Huế tiến hành hưng công xây dựng khu lăng Mẫu hoàn toàn bằng đá xanh và 60 búp sen hồng” [ 45, tr.107]. Trung tâm của lăng là ngôi mộ Thánh Mẫu ghép bằng đá cao hình tám cạnh, chạm khắc theo hình quẻ dịch. Hướng chính của lăng là hướng Tây quay về phía núi Tiên Hương. Từ ngoài vào bước theo bậc tam cấp lên đến mộ phải qua 5 lớp tường toàn bằng đá được chạm khắc, mỗi lớp tường vuông đều có cửa, cửa được bổ trụ bằng đá vuông với ba mặt đều khắc câu đối và phía trên đặt các nụ sen bằng đá hồng nhạt tới 60 nụ sen đá. Bao quanh lăng mộ là vườn cây bóng mát quanh năm, có 4 cột trụ cao to bốn góc, tạo thành cảnh quan khu lăng mộ thêm trang nghiêm, long trọng. Ngôi mộ được đặt ngay chính trung tâm và ở chỗ cao nhất của cả khu lăng.Tại bốn cửa ở bậc cuối cùng đều có một bức bình phong bằng đá án ngữ. Phía sau cửa chính, nằm về hai phía góc đối diện với cửa ra vào là hai nhà bia với bốn cột vươn lên. Theo các tài liệu thì trước kia khu lăng mộ Thánh Mẫu không có nhà cho thủ từ ở, nhưng hiện nay thì đã xuất hiện nơi ở của thủ từ và bao quanh khu lăng mộ là có hàng rào bằng sắt. Bên cạnh khu lăng mộ còn có một gian ngôi nhà trong đó điện thờ được bài trí như sau: Ban thờ Mẫu nằm chính giữa, từ ngoài bước vào thì bên phải ngay cạnh ban thờ Mẫu là ban thờ Bà Cai Bản mệnh, tiếp là ban thờ đức Thánh Trần. Bên trái của Ban thờ Mẫu là ban thờ quan lớn đệ nhất và ban thờ Nhị Vị Cô Nương. * đền Sòng: đền Sòng (Sùng Sơn) ngày nay ở phường Bắc Sơn- Bỉm Sơn- Thanh Hóa, theo truyền thuyết đây là nơi diễn ra cuộc đại chiến giữa Liễu Hạnh với thuật pháp Nội đạo Tràng và quân lính triều đình. Cũng chính nơi này Bà đã dùng phép thuật, để trừ ma tà quỷ ác để cứu giúp chúng sinh. Trong tiềm thức người dân nơi đây là nơi thật sự linh thiêng, là nơi Thánh Mẫu hiển linh. ở Phủ Dầy tuy là nơi có lễ hội được tổ chức hàng năm rất lớn vào tháng 3 âm lịch, là quê hương của Liễu Hạnh. Nhưng theo truyền thuyết ở Phủ Dầy là nơi Mẫu Liễu Hạnh giáng trần lần thứ nhất, được đầu thai vào một cô gái, nên không có phép thuật. Vì vậy trong dân gian có câu: Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh và Nhất vui là hội Phủ Dầy Vui là vui vậy không tày Sòng Sơn Đền Sòng nằm ở nơi sơn cảnh hữu tình, ngôi đền này được xây dựng vào thời Cảnh Hưng. Một học giả người nước ngoài tên là H.Breton trong “Revue Indochnoise” (1922) cũng ghi nhận: “ Tại đây có ngôi Đền Sùng Sơn. đền này dựng vào thời cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông (1740- 1786) ngay tại nơi chúa Liễu Hạnh tái hiện xuống trần” [1, tr.43]. Về việc xây dựng đền thì không ai biết chính xác là vào ngày tháng năm nào ? và chưa xác định được ai đã bỏ tiền của, công đức xây dựng đền? Tuy nhiên, trong dân gian lại có truyền thuyết khác kể về lịch sử ngôi đền đó là: Có một Ông lão được Nữ Chúa báo mộng phải xây dựng một ngôi đền để thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Hôm sau ông lão cầm một cây gậy tre và cắm xuống mảnh đất đã chọn và khấn rằng: “Nếu Thánh Mẫu bằng lòng đồng ý chọn nơi đây làm nơi xây đền thì xin làm cho cây tre được mọc lên tươi tốt”. Một thời gian sau cây tre trở nên xanh tốt, bén rễ đâm chồi lá tốt tươi lạ thường. Và người dân đã xây dựng ngôi đền trên mảnh đất ấy. Lúc mới xây dựng ngôi đền không được rộng rãi, khang trang và đẹp như bây giờ, trải qua nhiều lần sửa chữa, cải tạo thì Đền Sòng mới được như ngày hôm nay. Đền Sòng nhìn về phía Tây Bắc, cạnh đền có một chiếc cầu bằng đá do Hoàng Thái Hậu nhà Lê xây dựng từ năm thứ 33 Triều Cảnh Hưng.Khi Bà đi qua Đền Sòng, thấy cảnh sắc tuyệt đẹp và do lòng mến mộ nơi đây, nên Bà đã bỏ tiền bạc ra để tu sửa đền và xây nên chiếc cầu đá đó. Bên cạnh đền có núi, dưới có suối. Phía trước đền có một hồ nước tự nhiên hình bán nguyệt, nước trong xanh quanh năm, chưa bao giờ cạn nước và hồ có tên là: Hồ Cá thần. Hồ Cá thần có mạch nước ngầm chảy từ Dốc Xây theo chân núi qua hang động núi đá vôi đưa nước về hồ. Hồ có hai khe nước nhỏ chảy lượn vòng quanh tạo nên khu đất trước đền giống như một hòn đảo c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan