Luận văn Hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất

Tài liệu Luận văn Hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất: LUẬN VĂN: Hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất Lời nói đầu Trong những năm gần đầy, nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi. Đặc biệt nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức với nền kinh tế nói chung và cho doanh nghiệp sản xuất nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường, chức năng thương mại được coi là bộ phận hữu cơ và quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể coi hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất là hoạt động mang tính nền tảng. Thật vậy, đối với mỗi doanh nghiệp sản phẩm được sản xuất ra là để bán cho người tiêu dùng, do đó tiêu dùng chiếm vị trung tâm và là đối tượng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói cách khác, sản phẩm sản xuất ra phải được tiêu thụ, đó là điều kiện kiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm đã trở thành một bộ phận chiếm vị trí đ...

pdf49 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 968 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất Lời nói đầu Trong những năm gần đầy, nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi. Đặc biệt nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức với nền kinh tế nói chung và cho doanh nghiệp sản xuất nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường, chức năng thương mại được coi là bộ phận hữu cơ và quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể coi hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất là hoạt động mang tính nền tảng. Thật vậy, đối với mỗi doanh nghiệp sản phẩm được sản xuất ra là để bán cho người tiêu dùng, do đó tiêu dùng chiếm vị trung tâm và là đối tượng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói cách khác, sản phẩm sản xuất ra phải được tiêu thụ, đó là điều kiện kiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm đã trở thành một bộ phận chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động thương mại của doanh nghiệp. Hiệu quả trong khâu tiêu thụ sản phẩm nệ thuộc rất lớn vào bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Chính vì những lý do trên nên đã thôi thúc em chọn đề tài “Hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất” . Em mong rằng thông qua nghiên cứu đề tài sẽ cung cấp cho em thêm nhiều kiến thức bổ ích cho việc học tập và nghiên cứu khoa học sau này. Đề tài bao gồm những phần: Chương I. Những vấn đề cơ bản về bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất Chương II. Thực trạng hoạt động quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long Chương III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở công ty may Thăng Long. Chương I. Những vấn đề cơ bản về bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất I. Bản chất và vai trò của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất: 1. Bản chất bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất: Trong các doanh nghiệp khác nhau, trong những điều kiện khác nhau thì người ta có những quan niệm khác nhau về bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm. Việc lựa chọn quan niệm về bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm sẽ ảnh hưởng tư tưởng, định hướng kinh doanh, đến việc sử dụng các công cụ và điều khiển hoạt động bán hàng. Xong có thể nói bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm đều có những điểm tương đồng. Có thể nói bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm là một mô hình nguồn lực, mô hình này do doanh nghiệp tạo ra để chuẩn bị sẵn sàng cho hoạt động trên thương trường của doanh nghiệp. Mọi hoạt động liên quan tới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp đều do bộ máy quản lý này điều hành thông qua lập kế hoạch, tổ chức và điều khiển hoạt động của lực lượng bán hàng nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra và đạt hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. Đó là hoạt động của những người thuộc lực lượng bán hàng hoặc người hỗ trợ trực tiếp cho lực lượng bán hàng, bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm có những hoạt động chủ yếu trên thương trường là: + Nghiên cứu thị trường. + Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. + Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán. + Lựa chọn các hình thức tiêu thụ sản phẩm. + Tổ chức các hoạt động xúc tiến yểm trợ cho công tác bán hàng. + Tổ chức hoạt động bán hàng. + Phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm. 2. Nhiệm vụ của bộ máy tiêu thụ sản phẩm: Nhiệm vụ: Bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp có những nhiệm vụ rất quan trọng trong việc thực hiện công tác bán sản phẩm ra thị trường cho doanh nghiệp, mà vệc tiêu thụ sản phẩm có vai trò trung tâm, hay nói cách khác nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tóm lại nhiệm vụ chính và cơ bản của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm như sau: - Bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm có nhiệm vụ nghiên cứu, tổng hợp các đơn hàng, nhu cầu của thị trường để từ đó có đề ra các phương án cung ứng sản phẩm của công ty cho các khách hàng có nhu cầu trong kỳ kế hoạch. - Các sản phẩm do công ty sản xuất ra sẽ được kiểm tra theo một quy trình nghiêm ngặt sao cho các sản phẩm đó sẽ phù hợp với các yêu cầu của các đơn hàng, các hợp đồng như là về mặt số lượng, chất lượng, giá cả, thời gian cung ứng… - Sản phẩm của công ty sau khi sản xuất xong sẽ được bộ máy quản lý thị trường sản phẩm nên những kế hoạch cho việc tiêu thụ, các kế hoạch đó phải phù hợp với các bộ phận, đơn vị khác trong công ty. Hay nói cách khác các bộ phận phải thống nhất với nhau, tạo điều kiện cho các hoạt động được thông suốt không gây cản trở cho nhau. - Lập kế hoạch tác nghiệp tiêu thụ sản phẩm và chuyển giao cho bộ phận thực hiện, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch tiêu thụ. - Kiểm tra và hoạch toán việc các đơn vị sản xuất trong doanh nghiệp thực hiện các kế hoạch sản xuất theo mặt hàng và số lượng. - Tham gia vào việc lập và điều chỉnh kế hoạch sản xuất hàng năm của doanh nghiệp. - Phối hợp với các bộ máy kỹ thuật của doanh nghiệp trong việc xây dựng và ban hành các nội quy và tiêu chuẩn kỹ thuật về việc tiếp nhận thành phẩm, bao gói, bảo quản, vận chuyển và giao hàng cho khách hàng và thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật đó với các bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm. - Sau mỗi kỳ kế hoạch kinh doanh bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp cần lập các báo cáo về việc thực hiện bán hàng trong kỳ. - Xây dựng và thực hiện các kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp trong từng thời kỳ sao cho phù hợp và có hiệu quả cao nhất. Như lập và thực hiện sản xuất các sản phẩm phù hợp với nhu cầu khách hàng, có những biện pháp vận chuyển hàng hoá tới tay khách hàng hợp lý giảm tối đa chi phí vận chuyển. - Số lượng các sản phẩm nhập kho, dự trữ chuẩn bị cho quá trình kinh doanh phải được nắm rõ hàng ngày để có điều chỉnh hợp lý sao cho phù hợp với tổng nhu cầu của khách hàng. - Sau khi thực hiện các đơn hàng cần lập các kế hoạch đánh giá hiệu quả đạt được, những mặt còn yếu kém trong quá trình kinh doanh, để từ đó có những điều chỉnh hợp lý, có những chiến lược phù hợp trong tương lai. Đánh giá thực hiện các đơn hàng còn giúp doanh nghiệp có kế hoạch tiêu thụ những sản phẩm bị trả lại, những sản phẩm tồn kho hay bổ xung lượng hàng còn thiếu. - Lập kế hoạch và thực hiện các chương trình quảng cáo cho sản phẩm của doanh nghiệp, sao cho nhiều người tiêu dùng biết đến sản phẩm, giữ vững khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới - Xây dựng các kế hoạch dự trữ tối ưu, sao cho phù hợp với nhu cầu kinh doanh của công ty. Nếu sản phẩm dự trữ quá nhiều thì gây ứ đọng sản phẩm không hiệu quả trong kinh doanh, nếu lượng dự trữ thiếu thì gây gián đoạn trong quá trình tiêu thụ. Chính vì vậy bộ máy quản lý cũng phải thường xuyên kiểm kê lượng sản phẩm trong kho trong từng giai đoạn, thời kỳ để có những điều chỉnh kịp thời. - Sản phẩm sản xuất ra nhập vào kho phái được quản lý chặt chẽ về số lượng, chất lượng, chủng loại và có những chứng từ xuất nhập liên quan. Trong quá trình bảo quản sản phẩm phải bảo đảm hàng hoá giữ nguyên giá trị, tránh tình trạng sản phẩm hư hỏng hay xuống cấp giảm giá trị. Sau khi sản phẩm nhập kho cần phân loại sắp xếp hợp lý để thuận tiện cho công tác xuất bán sản phẩm cho khách hàng. - Thực hiện ký kết hợp đồng với các khách hàng, đồng thời có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng như đã cam kết với khách hàng như: chủng loại sản phẩm, chất lượng, giá cả, thời gian thực hiện hợp đồng, phương thức thanh toán… - Khi có những tranh chấp sẩy ra đối với doanh nghiệp thì bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm có trách nhiệm chuẩn bị hồ sơ, đại diện cho doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp kinh tế đó. Các nhiệm vụ trên của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất tuỳ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, tính chất sản xuất, danh mục các sản phẩm, tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm… 3. Vai trò bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm : Trong các doanh nghiệp nói chung và trong các doanh nghiệp sản xuất nói riêng, thì quá trình tiêu thụ sản phẩm là rất quan trọng nó chiếm vị trí trung tâm. Chính vì vậy, bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm có vai trò rất quan trọng. Hoạt động của doanh nghiệp trên thương trường có hiệu quả hay không phần lớn là do bộ máy này quyết định. Có lẽ vậy mà bộ máy quản lý này cũng được hình thành sớm ngay từ khi doanh nghiệp bước vào sản xuất, và không ngừng được hoàn thiện nâng cao trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vai trò của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm được thể hiện qua các mặt: - Nó là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp: Bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm có hoạt động hiệu quả thì mới tạo ra năng lực, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Với những hoạt động hiệu quả của mình, bộ máy quản lý sẽ giúp doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm với khối lượng lớn từ đó làm tăng doanh thu, mở rộng thị trường, tiết kiệm chi phí và kết quả mang lại những lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. - Mỗi một cá nhân, bộ phận của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp đều có những tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp. Chính vì vậy quy mô, cơ cấu bộ máy quản lý có phù hợp với doanh nghiệp mới giúp doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội và hạn chế các nguy cơ trên thương trường, nếu bộ máy quản lý quá cồng kềnh hay không phù hợp với doanh nghiệp đều có tác động xấu tới doanh nghiệp như: gây những tổn thất kinh tế, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, tinh thần và tâm lý của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp… - Các bộ phận, các ban ngành và cá nhân trong doanh nghiệp đều có những tác động qua lại với nhau tạo thành một tổng thể. Vì vậy bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp có hoạt động tốt hiệu quả sẽ là một trong những nhân tố giúp doanh nghiệp đề ra và thực hiện được các mục tiêu thành công tạo điều kiện giúp công ty phát triển vững chắc trong tương lai. II. Những nguyên tắc và yêu cầu tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất: 1. Nguyên tắc tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất : - Phù hợp với những yêu cầu khách quan của sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh: Sản phẩm của doanh nghiệp được hình thành và phát triển là dựa trên những yêu cầu nào đó của thị trường. Chính vì vậy nó luôn mang những đặc điểm đặc trưng nào đó trong quá trình vận động trên thị trường. Bất kỳ một sản phẩm nào đó luôn có chu kỳ sống nhất định trên thị trường, chu kỳ sống này có tác động rất lớn đến mọi quyết định, mục tiêu và chiến lược của doanh nghiệp. Nhưng cho dù có những đặc điểm khác nhau đó thì cuối cùng đối với các quyết định của doanh nghiệp cho sản phẩm luôn luôn có điểm chung đó là doanh nghiệp luôn giảm các chi phí liên quan như: chi phí vận chuyển, lưu kho lưu bãi…và tăng doanh thu tối đa sao cho đạt hiệu quả kinh tế là cao nhất. Tổ chức kinh doanh trong cơ chế thị trường bao gồm tổ chức vận động sản phẩm và tổ chức quan hệ mua bán. Vì vậy, tổ chức bộ máy bộ máy kinh doanh của doanh nghiệp phải được thiết lập trên cơ sở tổ chức vận động vật chất của sản phẩm kinh doanh một cách hợp lý điều này cũng phụ thuộc nhiều vào trình độ nhận thức, năng lực tổ chức quản lý kinh tế. - Tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp phải phù hợp với quy mô tính chất và loại hình hoạt động của doanh nghiệp: Mỗi một doanh nghiệp khác nhau thì đều có quy mô hoạt động là khác nhau như: số lượng sản phẩm sản xuất ra, doanh thu trong từng thời kỳ, giá trị sản phẩm… chính vì vậy khi tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm cần phù hợp với quy mô của doanh nghiệp, bộ máy đó không quá cồng kềnh nhưng cũng không quá bé gây cản trở khó khăn trong quá trình điều hành lưu thông mua bán sản phẩm của doanh nghiệp. Bộ máy quản lý càng phù hợp với quy mô bao nhiêu thì càng hiệu quả và không gây ngững lãng phí cho doanh nghiệp như: chi phí hoạt động của bộ máy, chi phí cho những lần giao dịch với khách hàng… Tính chất kinh doanh và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp như vấn đề về các loại hình kinh doanh: + Loại hình kinh doanh chuyên môn hoá + Loại hình kinh doanh tổng hợp. + Loại hình tổ chức đa dạng hoá kinh doanh Loại hình kinh doanh càng phức tạp bao nhiêu thì yêu cầu tổ chức bộ máy điều hành càng cao. Đặc điểm sản phẩm là phân tán hay tập trung, phương thức và phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp có rộng lớn hay không vấn đề này có thể tác động tới quy mô của bộ máy quản lý. - Tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc vào các mục tiêu và chiến lược của doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. Vào những thời điểm khác nhau thì doanh nghiệp có những mục tiêu và chiến lược khác nhau: ví dụ như doanh nghiệp có mục tiêu tối đa lợi nhuận hay tối đa doanh thu, có chiến lược nắm chắc thị trường hay rút ra khỏi thị trường…chính cơ cấu tổ chức bộ máy là phương tiện để thực hiện mục tiêu và chiến lược kinh doanh đó, vì vậy chính mục tiêu chiến lược kinh doanh là cơ sở, là xuất phát điểm để tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm chứ không phải là ngược lại. Đây là yếu tố chủ quan quyết định tổ chức bộ máy kinh doanh. Bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thường tương đối ổn định trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bộ máy này chỉ được thay đổi khi có những tác động mạnh mẽ từ môi trường kinh doanh hay sự thay đổi về người quản trị cấp cao. 2. Yêu cầu tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất : Bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm được ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp, bộ máy này không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Tuy nhiên để bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì trong quá trình tổ chức bộ máy cần tuân thủ những nguyên tắc sau: - Bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được xây dựng là để phục vụ cho quá trình kinh doanh sản phẩm cho doanh nghiệp trên thị trường chính vì vậy cơ cấu tổ chức của bộ máy của doanh nghiệp sản xuất phải phù hợp với quy trình nghiệp vụ kinh tế phát sinh và trình độ phát triển của doanh nghiệp. Tuỳ theo quy mô: số lượng sản phẩm sản xuất, doanh thu…, tính chất hoạt động kinh doanh: kinh doanh một loại sản phẩm hay nhiều loại sản phẩm, trình độ của các cán bộ kinh doanh, khả năng của các thiết bị phục vụ mà lựa chọn cơ cấu, mô hình phù hợp. Đảm bảo tính linh hoạt, năng động trong quá trình kinh doanh và với các tình huống xảy ra trong doanh nghiệp cũng như ngoài doanh nghiệp. - Phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các khâu và các cấp quản trị của doanh nghiệp. Chỉ có dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ đã xác định đúng đắn mới thiết kế được mô hình tổ chức phù hợp. Đó là điều có ý nghĩa quyết định đến chất lượng hoạt động quản trị và hiệu lực của cơ cấu tổ chức bộ máy. Cùng với việc xác định đúng đắn chức năng, nhiệm vụ của mỗi khâu, mỗi cấp quản trị cần phải quy định rõ mối quan hệ và phạm vi chức trách trong cơ cấu tổ chức để xác lập rõ mối quan hệ chỉ huy, lãnh đạo hay quan hệ phối hợp kinh tế- kỹ thuật, nghiệp vụ. Những quan hệ nói trên cần được thể hiện trong nội quy hoặc điều lệ tổ chức của doanh nghiệp. Các nội quy điều lệ của doanh nghiệp cần được quy định rõ ràng và phổ biến cho tất cả cán bộ công nhân viên được biết tuân thủ theo. - Trong quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp thì bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm phải không ngừng hoàn thiện, phát triển có thể về mặt chất hoặc mặt lượng sao cho ngày càng phù hợp với cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh nghiệp. Đây là một trong các yêu cầu quan trọng vì một mặt, do yêu cầu của thị trường là không cố định, nhu cầu này luôn luôn thay đổi, chính vậy cần có sự chuyển biến nội tại để thích ứng, mặt khác do trình độ của các cán bộ công nhân viên, trình độ hiện đại hoá các trang thiết bị quản lý và kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cũng thường xuyên được đổi mới. Những tiền đề nêu trên vừa là tiền đề vừa là điều kiện để không ngừng hoàn thiện và cải tiến cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của doanh nghiệp sản xuất để đảm bảo quá trình kinh doanh ngày càng đạt hiệu quả cao. Vì vậy, khi thiết kế và cải tiến tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh cần vận dụng tổng hợp, đồng bộ các yêu cầu và nguyên tắc mới mong mang lại kết quả tốt. iii. Nội dung hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất và hệ thống các chỉ tiêu đánh giá: 2.1. Nội dung hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất: Tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng tổng thể các biện pháp về tổ chức, kinh tế và kế hoạch nhằm thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tiêu thụ sản phẩm như nắm nhu cầu thị trường, tổ chức sản xuất, tiếp nhận sản phẩm, chuẩn bị hàng hoá và xuất bán theo yêu cầu của khách hàng với chi phí kinh doanh là nhỏ nhất. Như vậy, hoạt động quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất là quá trình quản lý mang tính nghiệp vụ cao, bao gồm nhiều công việc khác nhau liên quan tới các nghiệp vụ kỹ thuật sản xuất và các nghiệp vụ tổ chức quản lý quá trình tiêu thụ sản phẩm. Theo quan điểm kinh doanh hiện đại thì quản lý hoạt động tiêu thụ sản phẩm bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây. 2.1.1. Nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu là công việc đầu tiên và cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu thị trường là cơ sở để giúp doanh nghiệp nhằm trả lời các câu hỏi: sản xuất những sản phẩm gì? sản xuất như thế nào? sản xuất bán cho ai? Mục đích của nghiên cứu thị trường là nghiên cứu xác định khả năng tiêu thụ những loại hàng hoá (hoặc mhóm ) trên một điạ bàn nhất định trong một khoảng thời gian nhất định. Trên cơ sở đó nâng cao khả năng cung cấp để thoả mãn nhu cầu của thị trường. Nghiên cứu thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng, vì đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng, giá bán, mạng lưới và hiệu quảcủa công tác tiêu thụ. Nghiên cứu thị trường còn giúp doanh nghiệp biết được xu hướng, sự biến đổi nhu cầu của khách hàng, sự phản ánh của họ với sản phẩm của doanh nghiệp, thấy được các biến động của thu nhập và giá cả, từ đó có các biên pháp điều chỉnh cho phù hợp. Đây là công tác đòi hỏi nhiều công sức và chi phí. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có các bộ chuyên nghiên cứu thị trường, thì cán bộ kinh doanh thường phải đảm nhận công việc này. Khi nghiên cứu thị trường sản phẩm, doanh nghiệp phải giải đáp được các vấn đề sau: - Đâu là thị trường có triển vọng đối với sản phẩm của doanh nghiệp? - Khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường đó ra sao? - Doanh nghiệp cần phải xử lý những biên pháp gì có liên quan và có thể sử dụng những biện pháp nào để tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ? - Những mặt hàng nào, thị trường nào có khả năng tiêu thụ với khối lượng lớn phù hợp với năng lực và đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp? - Với mức giá nào thì khả năng chấp nhận của thị trường là lớn nhất trong từng thời kỳ. - Yêu cầu chủ yếu của thị trường về mẫu mã, bao gói, phương thức thanh toán, phương thức phục vụ… - Tổ chức mạng lưới tiêu thụ và phương thức phân phối sản phẩm. Trên cơ sở điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, doanh nghiệp tiến hành lựa chọn sản phẩm thích ứng với nhu cầu thị trường. Đây là nội dung quan trọng quyết định hiệu quả của hoạt động tiêu thụ, vì trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải sản xuất kinh doanh dựa trên cái mà thị trường cần chứ không phải dựa trên cái mà doanh nghiệp có sẵn. Sản phẩm thích ứng với nhu cầu thị trường phải được hiểu theo nghĩa thích ứng cả về số lượng, chất lượng, giá cả và thời gian mà thị trường đòi hỏi. Mô hình hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm: 2.1.2 Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm: Hàng hoá dịch vụ Thị trường Ngiên cứu thị trường Thông tin thị trường Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm Quản lý hệ thống phân phối Quản lý dự trữ và hoàn thiện sản phẩm Quản lý lực lượng bán Tổ chức bán hàng và cung cấp dịch vụ Phối hợp và tổ chức thực hiện các kế hoạch Thị trường Sản phẩm Dịch vụ Giá doanh số Phân phối và giao tiếp Ngân quỹ Xây dựng kế hoạch tiêu thụ là cơ sở quan trọng đảm bảo cho quá trình sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành nhịp nhàng, liên tục theo kế hoạch đã định. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là căn cứ để xây dựng kế hoạch sản xuất – kỹ thuật- tài chính doanh nghiệp… Bằng hệ thống các chỉ tiêu, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm phải phản ánh được các nội dung cơ bản như: khối lượng tiêu thụ sản phẩm về hiện vật và giá trị có phân theo hình thức tiêu thụ, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu thị trường tiêu thụ và giá cả tiêu thụ … Các chỉ tiêu kế hoạch tiêu thụ có thể tính theo hiện vật và giá trị, chỉ tiêu tương đối và tuyệt đối. Trong xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể sử dụng các phương pháp như phương pháp cân đối, phương pháp quan hệ động và phương pháp tỷ lệ cố định… Trong số những phương phảp trên, phương pháp cân đối được coi là chủ yếu. 2.1.3 Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán: Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán cho khách hàng là hoạt động tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh trong khâu lưu thông. Muốn cho quá trình lưu thông được liên tục, không bị gián đoạn thì các doanh nghiệp phải chú trọng đến các nghiệp vụ sản xuất ở kho như: tiếp nhận, phân loại, lên nhãn hiệu sản phẩm, bao gói, sắp xếp hàng hoá ở kho- bảo quản và ghép đồng bộ để xuất bán cho khách hàng. Tiếp nhận đầy đủ về số lượng và chất lượng hàng hoá từ các nguồn các nguồn nhập kho (từ các phân xưởng, tổ đội sản xuất của doanh nghiệp) theo đúng mặt hàng qui cách, chủng loại hàng hoá. Thông thường, kho hàng hoá của doanh nghiệp đặt gần nơi sản xuất sản phẩm. Nếu kho hàng đặt xa nơi sản xuất (có thể gần nơi tiêu thụ) thì doanh nghiệp phải tổ chức tốt việc tiếp nhận hàng hoá bảo đảm kịp thời, nhanh chóng, góp phần giải phóng nhanh phương tiện vận tải, bốc xếp an toàn sản phẩm, tiết kiệm chi phí lưu thông. 2.1.4 Lựa chọn các hình thức tiêu thụ sản phẩm: Tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng nhiều hình thức (kênh) khác nhau, theo đó sản phẩm vận động từ các doanh nghiệp sản xuất đến tay các hộ tiêu ding cuối cùng. Để hoạt động tiêu thụ có hiệu quả cần phải lựa chọn kênh tiêu thụ sản phẩm một cách hợp lý trên cơ sở tính đến các yếu tố như đặc điểm sản phẩm, các điều kiện vận chuyển… Căn cứ vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với người tiêu ding cuối cùng tiêu thụ sản phẩm có thể được thực hiện qua kênh trực tiếp hoặc kênh gián tiếp. Kênh tiêu thụ trực tiếp là hình thức doanh nghiệp xuất bán thẳng sản phẩm của mình cho người tiêu dùng cuối cùng không qua một khâu trung gian nào. Hình thức này có ưu điểm là giảm được chi phí lưu thông, thời gian sản phẩm tới tay người tiêu dùng nhanh hơn, các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng… Song nó cũng có những nhược điểm là doanh nghiệp phải tiếp xúc với nhiều bạn hàng, phải dành nhiều công sức, thời gian vao quá trình tiêu thụ, nhiều khi làm tốc dộ chu chuyển của vốn lưu động chậm hơn… Kênh tiêu thụ gián tiếp là hình thức mà doanh nghiệp xuất bán sản phẩm cuẩ mình cho người tiêu dùng cuối cùng có qua khâu trung gian. Sự tham gia nhiều hay ít của người trung gian trong quá trình tiêu thụ sẽ làm cho kênh tiêu thụ gián tiếp dài, ngắn khác nhau. Với hình thức tiêu thụ này doanh nghiệp có thể tiêu thụ khối lượng lớn một khối lượng hàng hoá trong thời gian ngắn nhất, từ đó thu hồi vốn nhanh, tiết kiệm chi phí bảo quản hao hụt… Tuy nhiên hình thức này làm cho thời gian lưu thông hàng hoá dài hơn, tăng chi phí tiêu thụ và doanh nghiệp khó có thể kiểm soát được các khâu trung gian… Như vậy mỗi hình thức đều có những ưu nhược điểm nhất định, nhiệm vụ của phòng kinh doanh là phải lựa chọn hợp lý các hình thức tiêu thụ sản phẩm sao cho phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. 2.1.5 Tổ chức các hoạt động xúc tiến yểm trợ cho công tác bán hàng: Xúc tiến là hoạt động thông tin marketing tới khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp. Các thông tin bao gồm thông tin về doanh nghiệp, về sản phẩm, về phương thức phục vụ và những lợi ích mà khách hàng sẽ thu được khi mua sản phẩm của doanh nghiệp, cũng như những tin tức cần biết từ phía khách hàng. Trong hoạt động kinh doanh có các hoạt động xúc tiến mua hàng và hoạt động xúc tiến bán hàng. Hoạt động xúc tiến bán hàng là toàn bộ các hoạt động nhằm tìm kiếm và thúc đẩy cơ hội bán hàng trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Xúc tiến bán hàng chứa đựng trong đó các hình thức, cách thức và những biện pháp nhằm đẩy mạnh khả năng bán hàng của doanh nghiệp. Xúc tiến bán hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc chiếm lĩnh thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thương trường, nhờ đó quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được đẩy mạnh cả về số lượng và thời gian. Yểm trợ là các hoạt động nhằm hỗ trợ, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt hạot động tiêu thụ ở doanh nghiệp. Xúc tiến và yểm trợ là các hoạt động rất quan trọng có tác dụng hỗ trợ và thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có điều kiện mở rộng các mối quan hệ với khách hàng, củng cố và phát triển thị trường. Những nội dung chủ yếu của hoạt động xúc tiến, yểm trợ bán hàng phải kể đến là: quảng cáo, chào hàng, khuyế mại, tham gia hội trợ, triển lãm… 2.1.6 Tổ chức hoạt động bán hàng: Bán hàng là một trong những khâu cuối cùng của hoạt động kinh doanh. Hoạt động bán hàng là hoạt động mang tính nghệ thuật, tác động đến tâm lý người mua hàng nhằm đạt mục tiêu bán được hàng. Người bán phải đặc biệt quan tâm đến quá trình tác động vào tâm lý của khách hàng vì những bước tiến triển về tinh thần, tâm lý, tính chủ quan khách quan diễn ra rất nhanh chóng trong khách hàng. Sự diễn biến tâm lý của khách hàng thường trải qua 4 giai đoạn: Sự chú ý – quan tâm hứng thú – nguyện vọng mua – quyết định mua. Vì vậy sự tác động của người bán hàng cũng phải theo trình tự có tính quy luật đó. Nghệ thuật của người bán hàng là làm chủ quá trình bán hàng về tâm lý, để điều khiển có ý thức quá trình bán hàng. Để bán được nhiều hàng các doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu của khách hàng như: chất lượng, mẫu mã, giá cả… và lựa chọn hình thức bán hàng phù hợp. Có rất nhiều hình thức bán hàng như: bán hàng trực tiếp, bán hang thông qua hệ thống đại lý, bán theo hợp đồng… 2.1.7 Phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Sau mỗi chu kỳ kinh doanh, doanh nghiệp cần phải phân tích, đánh giá hoạt động tiêu thụ sản phẩm nhằm xem xét khả năng mở rộng hay thu hẹp thị trường tiêu thụ, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các nguyên nhân ảnh hưởng tới kết quả tiêu thụ… nhằm kịp thời có các biện pháp thích hợp để thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm. Đánh giá hiệu quả tiêu thụ có thể xem xét trên các khía cạnh như: Tình hình tiêu thụ sản phẩm theo khối lượng, mặt hàng, trị giá, thị trường và giá cả các mạt hàng tiêu thụ. Kết quả của việc phân tích, đánh giá, quá trình tiêu thụ sản phẩm sẽ là căn cứ để doanh nghiệp có các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ và hoàn thiện quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trên mọi phương diện. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải tổ chức tốt công tác, đồng thời làm rõ được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện kế hoạch tiêu thụ. 2.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá: Sau khi kết thúc một thời kỳ kinh doanh nhất định, các doanh nghiệp cần đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của mình nói chung và đối với công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm nói riêng. Qua đó doanh nghiệp có thể rút ra những mặt tích cực đã đạt được và những hạn chế. để từ đó đề ra các mục tiêu, chiến lược kinh doanh hợp lý trong tương lai. Để đánh giá mức độ hiệu quả của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thường căn cứ vào các tiêu chuẩn sau: Tỷ số chi phí/khối lượng mua (bán). Chi phí ở đây là các chi phí liên quan tới hoạt động thương mại như: chi phí giao dịch, dự trữ, tiền lương, dịch vụ… tỷ số này để đấnh giá mức độ hiệu quả của bộ máy thương mại, tuy nhiên việc tính toán có thể gặp nhiều khó khăn. - Mức độ thực hiện các mục tiêu về thương mại: hệ thống mục tiêu này bao gồm: thời điểm, số lượng, chất lượng, chi phí , thị phần, doanh số, lợi nhuận, cải thiện hình ảnh doanh nghiệp, cải thiện dịch vụ khách hành. - Tuy nhiên chỉ tiêu lợi nhuận mới là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trườn. Giữa lợi nhuận và doanh thu có quan hệ mật thiết với nhau. Lợi nhuận = doanh thu – chi phí Doanh thu = giá bán * số lượng hàng hoá tiêu thụ. - Mức doanh lợi trên doanh số bán: P’1 = P*100/ DS. Trong đó: P’: Mức doanh lợi của một doanh nghiệp trong kỳ. P: Lợi nhuận của doanh nghiệp thực hiện được trong kỳ. DS: Doanh số bán thực hiện của doanh nghiệp trong kỳ. Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh số bán thực hiện mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp trong kỳ. Do đó có vai trò quan trọng trong việc chỉ ra cho doanh nghiệp thấy kinh doanh mặt hàng nào, thị trường nào mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. - Mức doanh lợi trên vốn kinh doanh: P’2 = P*100/VKD Trong đó: P’2: Mức doanh lợi của vốn kinh doanh trong kỳ (%). VKD: tổng vốn kinh doanh trong kỳ. Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Một đồng vốn kinh doanh mang lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Mức doanh lợi trên chi phí kinh doanh: P’3 = P*100/CFKD. Trong đó: P’3 : Mức doanh lợi của chi phí kinh doanh (%). Cfkd : tổng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Một đồng chi phí kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Hiệu quả kinh doanh còn được phản ánh qua một chỉ tiêu quan trọng là vòng quay vốn lưu động hoặc số ngày thực hiện 1 vòng quay (V), chỉ tiêu dùng để phản ánh hiệu quả sử dụng vốn: + Vòng quay chuyển vốn = doanh số bán / mức vốn lưu động bình quân +Số ngày thực hiện 1 vòng quay = số ngày trong kỳ* mức vốn lưu động bình quân/ doanh số Khi thực hiện đánh giá kết quả tiêu thụ phải nêu nên những mặt doanh nghiệp đã đạt được, và những mặt chưa đạt yêu cầu hiệu quả cao và nguyên nhân. Từ đó doanh nghiệp sẽ đề ra các phương hướng giải pháp hoàn thành các mục tiêu trong tương lai. iv. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất: Bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp chịu ảnh hưởng và tác động của rất nhiều các yếu tố, các ảnh hưởng đó có thể là xuất phát từ bên ngoài hay ngay bên trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần tìm hiểu rõ các yếu ảnh hưởng đó để có những biện pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cựu và tận dụng những ảnh hưởng tích cựu giúp hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp cũng chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố cơ bản Những yếu tố ảnh hưởng tới bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm: - Đặc điểm về mặt tổ chức: Cơ cấu tổ chức là bộ phận cơ bản cấu thành đặc điểm về mặt tổ chức của một doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức thể hiện mối quan hệ giữa các chức năng khác nhau trong một công ty, giữa các bộ phận liên chức năng và nội bộ một chức năng. Những nhân tố ảnh hưởng đến các quan hệ này là mức độ phân tán, mức chuyên môn hoá, tầm quản lý, quy mô tổ chức, quy mô của các bộ phận. Vì vậy bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm cần được tổ chức phù hợp với đặc điểm tổ chức của doanh nghiệp. - Đặc điểm môi trường (môi trường khách quan hoặc chủ quan): yếu tố này rất phức tạp và cần được doanh nghiệp quan tâm bởi tính hiệu quả của bộ máy thương mại ảnh hưởng bởi các yếu tố nội tại và các yếu tố bên ngoài của một tổ chức. Các yếu tố nội tại ở mức độ nào đó ảnh hưởng tới doanh nghiệp, có thể kiểm soát được và điều chỉnh nhanh chóng hơn tác động từ bên ngoài. Những yếu tố bên ngoài gồm kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hoá, xã hội và cạnh tranh là những yếu tố khách quan khó dự đoán, và có thể tạo ra những cơ hội cũng như những thách thức cho doanh nghiệp. Khi tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm phải tính đến ảnh hưởng của các yếu tố này, có như vậy doanh nghiệp mới tận dụng được các cơ hội và hạn chế những mặt tiêu cực. - Đặc điểm lực lượng lao động: Bất kỳ một tổ chức nào thì yếu tố con người là yếu tố quan trọng và là một trong những yếu tố được doanh nghiệp đầu tư phát triển, vì doanh nghiệp có tồn tại lâu dài, bền vững hay không, có hoạt động hiệu quả hay không là do yếu tố này quyết định một phần khá lớn. Một trong những nhân tố quan trọng để một cơ cấu tổ chức hoạt động hiêu quả là các nhân viên phải được bố trí trong cơ cấu tổ chức phù hợp với năng lực và sở thích của mình. Khả năng của các nhân viên trong việc thực hiện các trách nhiệm liên quan đến công việc của họ là nhân tố quyết định tính hiệu quả của một tổ chức. Mỗi cá nhân có những khả năng, mục tiêu, nhu cầu và quan điểm khác nhau. Những yếu tố này thường dẫn con người hành động theo những cách khác nhau, thậm chí khi họ được đặt trong những công việc như nhau. Vì vậy nhà lãnh đạo cần bố trí nguồn nhân lực hợp lý sao cho tạo điều kiện cho họ phát huy hết khả năng của mình trong công việc. - Chính sách và thực tiễn quản lý: chính sách ở cấp doanh nghiệp sẽ xác định mục tiêu chung của toàn bộ bộ máy tổ chức của doanh nghiệp. chính sách chung của toàn doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách của các bộ chức năng. Chính sách này cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến các quy trình và thực tiễn hoạt động của hoạt động thương mại ở doanh nghiệp. Chính vì vậy các chính sách đặt ra cần hợp lý với các mục tiêu, quy mô và điều kiện hiện có… của doanh nghiệp, các chính sách một mặt giúp hoạt động của cán bộ công nhân viên đi theo mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra, một mặt phải tạo điều kiện khuyến khích các cá nhân lao động hết mình vì doanh nghiệp. - Các tác động khác: Ngoài ra các nhân tố chủ yếu đã nêu ở trên thì khi tổ chức bộ máy quản trị thương mại doanh nghiệp cũng cần tính đến cả các nhân tố quan trọng như khối lượng vật tư hàng hoá mua bán, danh mục các loại hàng hoá và hệ thống giao thông vận tải…có như vậy bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mới phù hợp tối ưu, hoạt động mạng lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Chương II. Thực trạng hoạt động quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long I. Qúa trình hình thành và phát triển của công ty may Thăng Long: 1. Qúa trình hình thành và phát triển của công ty may Thăng Long: Ngày 8/5/1958 công ty may mặc xuất khẩu ra đời trực thuộc Bộ công nghiệp nhẹ, tiền thân của xí nghiệp may hiện nay. Ngay từ khi thành lập, xí nghiệp đã may một số áo sơ mi gửi mẫu chào hàng tại nước ngoài và được người tiêu dùng Liên Xô chấp nhận. Sau một năm hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty đã hoàn thành kế hoạch sản lượng là 391,120 sản phẩm, đạt 122,8% so với chỉ tiêu. Từ ngày thành lập, tính đến nay đã gần 40 năm, xí nghiệp vẫn luôn giữ vững truyền thống là một xí nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Trong những năm 60 các sản phẩm đã có mặt hầu hết ở các nước Đông Âu, Mông Cổ, Liên Xô, Hungari. Nay, sản phẩm của công ty đã mở rộng thị trường tới Nhật, Hồng Kông, Hàn Quốc… Nền kinh tế nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường, xí nghiệp đã nhanh chóng chuyển hướng kinh doanh vật tư, nguyên vậy liệu trước đây do nhà nước cung cấp, chuyển sang sản xuất bằng nguyên liệu do khách hàng đưa tới, đồng thời tham gia triển lãm giới thiệu sản phẩm tại nhiều nước. Từ đó mở rộng thị trường sang các nước như Mỹ, Anh… Ngày 4/3/1992 Bộ Công Nghiệp Nhẹ có quyết định đổi tên xí nghiệp thành Công ty may Thăng Long. Thời gian này công ty sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, hàng nội địa, gia công hàng mũ cho các nhu cầu của tập thể, cá nhân, tổ chức vật tư ngành may. Hàng năm công ty sản xuất 8 đến 9 triệu sản phẩm, trong đó sản phẩm xuất khẩu chiếm 95% và sản phẩm gia công chiếm 80 đến 90%. Công ty may Thăng Long chủ yếu sản xuất hàng gia công, đó là loại hàng mà nguyên vật liệu khách hàng gửi chi phí gia công (cả phần chi phí mua vỏ hộp). Loại hàng này chiếm 80% tổng sản phẩm của công ty. Từ năm 1993 đến năm 2000 công ty đầu tư sản xuất thêm những sản phẩm mới: quần áo may sẵn hợp thời trang và xu hướng thời đại, các sản phẩm trang trí nội thất. Giai đoạn này công ty khôi phục và ổn định sản xuất hơn phù hợp với cơ chế thị trường hơn. Từ năm 2003 đến nay công ty vẫn không ngừng đổi mới công nghệ, đa dạng hoá các mặt hàng sản xuất đặc biệt công ty đã đầu tư rất lớn vào nghiên cứu thiết kế các sản phẩm mới đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng trong nước cũng như ngoài nước. Đa phương hoá kinh doanh, mở rộng ra các thị trường mới ở khu vực Bắc Mỹ ( Mỹ,Canada), Châu Âu và một số khu vực khác. Công ty hiện nay tập trung sản xuất chủ yếu là quần áo may mặc sẵn, các sản phẩm gia công cho các công ty khác có nhu cầu, phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu với thị trường ngoài nước là chủ yếu, trong đó sản phẩm gia công vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất về doanh thu trong toàn bộ doanh thu của công ty. 2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty: - Nhiệm vụ: công ty may Thăng Long có nhiệm vụ: * Tổ chức sản xuất kinh doanh các sản phẩm theo đúng ngành nghề đăng ký kinh doanh và mục đích là ngày càng thoả mãn nhu cầu của khách hàng. * Bảo toàn và phát triển vốn được vốn nhà nước giao, bảo đảm và tăng cường vốn, mở rộng quy mô kinh doanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. * Thực hiện phân phối lợi ích theo kết quả lao động, chăm lo không ngừng cải thiện điều kiện làm việc, đời sống vật chất tinh thần, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ cho công nhân viên chức. Nghiên cứu khả năng sản xuất và nhu cầu thị trường trong nước và thế giới để cải tiến ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng, năng suất lao động… đáp ứng nhu cầu tiên dùng trong nước và ngoài nước. * Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. - Chức năng hoạt động: Chức năng hoạt động của công ty là sản xuất và kinh doanh các mặt hàng may mặc phù hợp với nhu cầu thị trường trong từng thời kỳ. Hiện nay sản phẩm chủ yếu mà công ty sản xuất, tiêu thụ là: + áo: áo sơ mi, áo jacket, áo phông… + quần: quần jean, quần lao động, bảo hộ… Ngoài ra công ty còn nhận gia công các mặt hàng cho các doanh khác có nhu cầu, đó là loại hàng mà nguyên vật liệu khách hàng gửi chi phí gia công (cả phần chi phí mua vỏ hộp). 3. Đặc điểm về bộ máy quản lý của công ty may Thăng Long: Công ty may Thăng Long là một đơn vị sản xuất kinh doanh với mô hình hạch toán kinh doanh độc lập có tư cách pháp nhân. Bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng, đứng đầu là ban giám đốc trực tiếp chỉ đạo các phòng ban kinh doanh và các phân xưởng sản xuất. Bộ máy quản lý, chức năng nhiệm vụ của các phòng ban như sau: * Đứng đầu là giám đốc của công ty (một người). Là người cao nhất trong bộ máy kinh doanh của công ty. Giám đốc là người chịu trách nhiệm về mọi mặt trong quá trình sản xuất và kinh doanh của công ty, đời sống của doanh nghiệp. * Phó giám đốc: chịu trách nhiệm trước giám đốc về những việc thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. * Phòng tổ chức nhân sự: Thực hiện quản lý con người của toàn công ty về việc luân chuyển công tác, bố trí nguồn nhân lực hợp lý. Thực hiện công tác chế độ về lao động tiền lương, tiền thưởng, chế độ hưu trí, quản lý về BHXH, BHYT, và các vấn đề liên quan, giúp giám đốc quản lý lao động, phân công công tác phù hợp với năng lực của cán bộ. * Phòng kỹ thuật: có nhiệm vụ xây dung các định mức kỹ thuật, nghiên cứu chất lượng, tổ chức giám sát về mặt tiêu chuẩn chất lượng của các sản phẩm, tổ chức các vấn đề bảo đảm an toàn vệ sinh công nghiệp, bảo hộ lao động. * Phòng kinh tế: có nhiệm vụ quản lý toàn bộ vốn của công ty, quản lý tính toán tài chính của công ty, làm thủ tục nhập xuất nguyên vật liệu, sản phẩm của công ty với các khách hàng. Phòng kinh tế còn thực hiện các cuộc đàm phán, giao dịch kinh doanh và giới thiệu sản phẩm của công ty với các đối tác, khách hàng tiêu dùng trong và ngoài nước. Sơ đồ: Tổ chức bộ máy quản lý của công ty. * Phòng kho vận: quản lý sản phẩm nhập, xuất vào kho của công ty, và phòng có trách nhiệm tổ chức lập các kế hoạch vận chuyển sản phẩm tới tay khách hàng như đã ký kết trong hợp đồng, vận chuyển sản phẩm tới các cửa hàng chi nhánh của công ty. Các phòng chức năng là những tổ chức bao gồm nhân viên kinh tế, hành chính…được phân công chuyên môn hoá theo chức năng quản trị, có nhiệm vụ giúp các giám đốc chuẩn bị các quyết định, theo dõi ,hướng dẫn và thực hiện kịp thời các quyết định quản lý. Trách nhiệm chung của các phòng chức năng là vừa hoàn thành tốt nhiệm vụ, vừa phải phối hợp chặt chẽ với các phòng khác nhằm đảm bảo cho tất cả các công tác của công ty được thực hiện tốt và đồng bộ, nhịp nhàng. Với mô hình tổ chức như vậy có những ưu điểm: các quyết định chính sách của công ty được đưa ra và thực hiện một cách nhanh chóng, vì phần lớn các quyết định chính sách là do người lãnh đạo đưa ra và trực tiếp thực hiện giám sát. Công ty may Thăng Long là doanh nghiệp sản xuất và gia công hàng may mặc theo quy trình khép kín từ cắt may, đóng gói, đóng hòm bằng các máy móc chuyên dùng với số Giám đốc Phó giám đốc Phòng tổ chức nhân sự Phòng kinh tế Phòng kỹ thuật Phân xưởng sản xuất Phòng kho vận Chi nhánh tại các vùng lượng sản phẩm lớn, được chế biến từ nguyên vật liệu chính là vải, chính vì vậy có ảnh hưởng lớn đến tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty. II. Thực trạng hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long: 1. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty may Thăng Long: Do đặc thù của doanh nghiệp quá trình sản xuất kinh doanh mới ở hình thức liên kết kinh tế cụ thể là gia công hàng may mặc và một số chủng loại hàng hoá khác cho khách hàng trong và ngoài nước nên thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty chủ yếu là do khách hàng và lòng tin của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường công ty may Thăng Long cần phải tự mình quyết định các vấn đề trung tâm cho việc tiêu thụ sản phẩm cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn là quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, tổ chức lại sản xuất, xúc tiến bán hàng nhằm múc đích đạt hiệu quả cao trong sản xuất và kinh doanh sản phẩm của doanh nghiệp. Sản phẩm của công ty may Thăng Long là những mặt hàng: áo sơ mi, áo khoá, jeacket, áo đông xuân và các loại quần áo jean. Các sản phẩm của công ty được sản xuất theo dây truyền hiện đại và mới mẻ, sản phẩm sản xuất ra qua các khâu kiểm tra nghiêm ngặt, chặt chẽ. Sản phẩm của công ty sản xuất với chất liệu tốt, mọi thành phẩm đều đảm bảo chất lượng và an toàn cho khách hàng để được thị trường chấp nhận. Hiện nay, với dây truyền hiện đại nên năng suất lao động cao, sản phẩm sản xuất ra nhiều có thể khi nào nhu cầu thị trường cần thì có thể đáp ứng kịp thời. Hiện nay, thị trường của doanh nghiệp không những trong nước mà đã mở rộng ra cả thị trường nước ngoài. - Thị trường trong nước: Trong những năm qua các sản phẩm của công ty may Thăng long sản xuất ra chủ yếu tiêu thụ ở nước ngoài, nhưng nay sản phẩm của công ty đã dần dần thâm nhập sâu vào thị trường trong nước, tỷ trọng sản phẩm được tiêu thụ trong nước tăng trưởng cao, ngày càng khẳng định tên tuổi của doanh nghiệp trên thị trường trong nước. Giữa các năm có sự chênh lệch đáng kể, chỉ tính riêng năm 2006 so với năm 2005 thì tổng doanh thu của năm 2006 tăng 12% so với năm 2005. Trong đó doanh thu FOB và nội địa của năm 2006 so với năm 2005 chiếm cao hơn. Do đó sản phẩm thị trường trong nước chủ yếu là phục vụ cho người tiêu dùng hoặc một số đoàn thể cơ quan, tổ chức nào đấy. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đặc biệt là từ năm 1992 thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong nước được đẩy mạnh, thị trường ngày càng được mở rộng. Ngoài việc tổ chức giới thiệu sản phẩm ở các nơi như Ngô Quyền, cửa hàng chưng bày sản phẩm của công ty ngay tại công ty ở 250 phố Minh Khai- Hà Nội, công ty đã mở thêm chi nhánh tại Hải Phòng, Nam Định, và các vùng khác. Báo cáo kết quả tiêu thụ sản phẩm của công ty được thể hiện qua biểu đồ: Biểu 1: Tình hình tiêu thụ sản phẩm tại một số tỉnh thành: Đơn vị: 1000 sản phẩm Khu vực 200 5 tỷ trọng(%) 2006 tỷ trọng (%) Miền bắc 356 67.6806 1 491 70.2432 Hà Nội 90 17.1102 7 145 20.7439 2 Hải Phòng 60 11.4068 4 87 12.4463 5 Nam Định 43 8.17490 5 67 9.58512 2 Quảng Ninh 65 12.3574 67 9.58512 1 2 Hải Hưng 24 4.56273 8 42 6.00858 4 Hà Tây 38 7.22433 5 40 5.72246 1 Thái Bình 36 6.84410 6 43 6.15164 5 Miền Trung 103 19.5817 5 121 17.3104 4 Vinh 24 4.56273 8 34 4.86409 2 Đà Nẵng 35 6.65399 2 51 7.29613 7 Thanh Hoá 44 8.36501 9 36 5.15021 5 Miền Nam 67 12.7376 4 154 22.0314 7 Tp. HCM 36 6.84410 6 87 12.4463 5 Quy Nhơn 17 3.23193 9 31 4.43490 7 Nha Trang 14 2.66159 7 36 5.15021 5 Tổng 526 100 699 100 Qua đây ta thấy các sản phẩm của công ty được tiêu thụ trong nước tại các khu vực như: Hải Phòng, Nam Định, Quảng Ninh… sản phẩm đã được người tiêu dùng chấp nhận. Tuy nhiên có một số nơi sản phẩm của doanh nghiệp người tiêu dùng chưa có sự hiểu biết rõ về sản phẩm của doanh nghiệp, chính vì vậy doanh nghiệp cần có kế hoạch tiếp cận thị trường để mở rộng thị thị trường tiêu thụ. Khi khách hàng hiểu rõ về sản phẩm của doanh nghiệp sẽ giúp họ tạo dựng được niềm tin với doanh nghiệp khi mua sản phẩm. - Vấn đề tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài: Trong những năm gần đây công ty Thăng Long đã đạt được các bước tiến lớn trong việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp tại thị trường nước ngoài. Sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng tạo dựng được vị trí vững chắc, và không ngừng mở rộng thị trường ngoài nước, các hợp đồng, đơn đặt hàng vẫn tiếp tục được ký kết. Đặc biệt là các nước Đông Âu cũ như Liên Xô, Ba Lan,…chính vì sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng và giá thành hợp lý nên công ty đang dần dần phát triển sang các nước như: Nhật Bản, Hồng Kông, Đức, Pháp…và đặc biệt là thị trường Bắc Mỹ. Điều đó ta có thể thấy qua bảng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp tại các thị trường: Biểu 2: Thị trường tiêu thụ sản phẩm ở một số nước: Đơn Vị: sản phẩm Chỉ tiêu 2005 2006 Tổng sản phẩm 2060.628 2458.483 Pháp 345.934 246.509 Đức 367.276 521.376 Hungari 672.926 764.287 Ha lan 201.243 287.397 Nhật 473.249 638.914 2. Kết quả công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long: a. Kết quả tiêu thụ sản phẩm của công ty : Trong thời gian qua công ty đã cố gắng đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm, khối lượng sản phẩm đã không ngừng tăng qua các năm. Biểu 3: Kết quả tiêu thụ sản phẩm với khối lượng mặt hàng. Đơn vị: 1000 (sản phẩm ). Khu vực 2005 2006 áo sơ mi áo jacket quần jean áo sơ mi áo jacket quần jean Tiêu thụ trong nước 34 242 67 437 357 84 Tiêu thụ xuất khẩu 978 673 621 951 715 598 Tổng mặt hàng tiêu thụ 1012 915 688 1388 1072 68 2 Qua biểu trên cho thấy tổng sản phẩm tiêu thụ của năm 2005 cao hơn năm 2006 khoảng 20,15%, đó chỉ là các số liệu thống kê chưa đầy đủ các sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng qua đây em xin trình bầy một phần nào đó Đối với ngành may mặc các sản phẩm của ngành càng ngày càng được tiêu thụ mạnh, tuy nhiên yêu cầu của người tiêu dùng càng ngày càng cao cả về giá cả hợp lý, chất lượng, chủng loại, mẫu mã phong phú. Vì vậy, trong công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm cho công ty cần phải chú ý đến điều này. b. Doanh thu tiêu thụ của công ty theo mặt hàng: Doanh thu của doanh nghiệp đã không ngừng tăng trong những năm gần đây, đây là do nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp ngày một tăng. Công ty đã ký kết được nhiều hợp đồng bán sản phẩm cả trong và ngoài nước. Mặt khác thị trường của công ty ngày càng được mở rộng. Chính vì các lý do trên mà sản phẩm bán ra trên thị trường ngày một tăng lên. Do đó góp phần làm doanh thu năm sau cao hơn năm trước, từ đó công ty cũng thực hiện đủ những yêu cầu như nộp ngân sách nhà nước, các hoạt động ủng hộ, bảo hiểm cho người lao động… Doanh thu tại các cửa hàng của công ty được thể hiện qua biểu: Biểu 4: Doanh thu một số mặt hàng tiêu thụ của công ty. Đơn vị: triệu đồng. Tên sản phẩm 2005 2006 Aó sơ mi các loại 34700 39500 Quần các loại 7750 8934 Aó khoác các loại 15425 18930 Aó jacket các loại 16346 19870 Tổng doanh thu 74221 87234 Qua biểu trên ta thấy doanh thu của các mặt hàng: áo sơ mi, quần các loại, áo khoác…tăng qua các năm. Doanh thu năm 2006 cao hơn năm 2005 khoảng 17,55%. Có được như vậy công ty may Thăng Long đã vận dụng các phương thức kinh doanh là: - Tiêu thụ sản phẩm theo phương thức bán hàng trực tiếp: để đảm bảo tiêu thụ sản phẩm trên thị trường rộng lớn với số lượng lớn, kịp thời chính xác, công ty đã xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ với các bạn hàng mà sản phẩm của công ty được trực tiếp bán cho người tiêu dùng và cũng có thể do yêu cầu của phần lớn khách hàng công ty đã có một số chi nhánh, cửa hàng và có đội ngũ bán hàng năng động nhanh nhẹn có thể cung cấp sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng. - Tiêu thụ theo phương thức đại lý: công ty đã áp dụng phân phối và bán sản phẩm cho các đơn vị và các tổ chức, cá nhân có nhu cầu kinh doanh và xin được làm đại lý cho công ty. Công ty đã tổ chức phân phối và bán sản phẩm cho họ, rồi từ đó sản phẩm của công ty được bán đến tận tay người tiêu dùng, tuy nhiên các hàng hoá do các đại lý bán gia có thể cao hoặc thấp hơn mức giá do công ty quy định. Điều đó cũng một phần tuỳ thuộc vào hình thức kinh doanh của các đai lý đó, đó là họ kinh doanh theo hình thức bán buôn (giá thường thấp hơn hoặc bằng mức giá công ty quy định ) hay theo hình thức bán lẻ (giá thường bằng hoặc cao hơn giá công ty quy định). - Tiêu thụ theo hình thức trung gian: Hiện nay chỉ có một số doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp nhỏ là áp dụng phương thức kinh doanh này. Họ có ít kinh nghiệm và am hiểu về thị trường…chính vì vậy trung gian thương mại có thể khắc phục được các tình trạng đó, giúp sản phẩm của công ty có thể thâm nhập vào thị trường dễ dàng hơn. Chính vì vậy công ty cần có chính sách phù hợp với các trung gian thương mại, họ không thể thiếu trong quá trình kinh doanh. Tuy vậy, cần chú ý phải luôn luôn tự chủ, không nên nệ thuộc quá nhiều vào các trung gian thương mại, vì họ có thể ép giá, gây khó khăn cho quá trình kinh doanh của công ty. Chính nhờ có những chính sách hợp lý đối với các hình thức kinh doanh trên mà số lượng sản phẩm của công ty bán ra thị trường đã tăng đáng kể. 3. Công tác hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty: a. Công tác giao dịch ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm : Để đáp ứng yêu cầu tiêu thụ sản phẩm trong quá trình sản xuất kinh doanh, công ty đã giao cho phòng ký kết hợp đồng sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của công ty thực hiện giao dịch mua bán với khách hàng trong và ngoài nước. Việc giao dịch ký kết hợp đồng này có thể diễn ra tại công ty hoặc tại các cửa hàng chi nhánh của công ty. Nhìn chung công tác ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm của công ty đơn giản nhưng vẫn giữ được nguyên tắc, bảo đảm an toàn và đúng pháp luật. b. Thực hiện hoạt động kho thành phẩm: Kho thành phẩm của công ty được chia ra làm hai loại: + Kho chứa sản phẩm để tiêu thụ nước ngoài. + Kho chứa sản phẩm để tiêu thụ trong nước. Các kho này do phòng kế hoạch trực tiếp quản lý. Biên chế của mỗi kho bao gồm: một thủ kho và hai phụ kho. Hoạt động của các kho luôn bảo đảm an toàn cho các sản phẩm kho bị hao hụt, giảm chất lượng khi lưu trong kho. - Nhiệm vụ của bộ máy quản lý này là: tiến hành nhập kho thành phẩm, bảo đảm không bị giảm chất lượng, giá trị, số lượng sản phẩm đưa vào kho. Đồng thời khi xuất kho chịu trách nhiệm bốc xếp rỡ và vận chuyển cho khách hàng như đã ký kết thoả thuận. Phòng kế hoạch và kinh doanh sẽ viết hoá đơn xuất kho. Phòng kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu quản lý sản phẩm trong kho để xuất khẩu, và đội vận chuyển sản phẩm tới cảng Hải phòng hoặc ra sân bay Nội Bài. Còn bộ phận kinh doanh trong nước chịu trách nhiệm quản lý sản phẩm của công ty trong kho. Từ đó mua bán với các khách hàng trong nước và các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty. Nói chung hoạt động kho thành phẩm của công ty được tiến hành nhanh chóng, đúng tiến độ và nguyên tắc của công ty cũng như nhà nước. c. Phương thức vận chuyển: Công ty may Thăng Long có các đội xe chuyên chở, vận chuyển hàng hoá. Các phương tiện vận chuyển này của công ty đều được phòng kế hoạch tổ chức và quản lý. - Đối với các khách hàng trong nước, khi mua sản phẩm của công ty thì tiến hành giao sản phẩm tại kho thành phẩm hoặc tại các cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm. Tại đó công ty tiến hành bốc xếp hàng lên xe cho khách hàng, nếu phương tiện vận chuyển là của khách hàng thì sau khi bốc xếp lên xe thì các phạm vi và trách nhiệm của công ty đã hết. - Đối với khách hàng tiêu thụ nước ngoài công ty căn cứ vào tiến độ giao hàng, nếu bảo đảm đúng thời gian thì đội xe của công ty sẽ vận chuyển ra cảng biển hoặc sân bay hàng không theo hợp đồng đã ký kết. Trường hợp hàng cần chuyển đi gấp với số lượng lớn thì công ty sẽ áp dụng phương thức vận chuyển và ký kết với bạn hàng và đề ra các thoả thuận mới có liên quan tới vấn đề phát sinh. Tuy nhiên, khi khách hàng tới mua hàng của công ty phần lớn họ tự vận chuyển lấy. Chính vì vậy, đội xe của công ty chủ yếu phục vụ nhu cầu vận chuyển nguyên vật liệu vào kho và chở ra các nơi quy định. d. Phương thức thanh toán: - Đối với các khách hàng trong nước công ty áp dụng hai hình thức thanh toán trong tiêu thụ sản phẩm. Đó là thanh toán ngay và thanh toán trả chậm. Khách mua sản phẩm của công ty có thể thanh toán bằng tiền mặt, chuyển khoản, séc, ngân phiếu… - Đối với hình thức thanh toán ngay thì khách hàng phải trả đủ tiền mới nhận hàng. Hình thức này áp dụng cho các khách hàng mua nhỏ, lẻ, số lượng ít. - Đối với hình thức thanh toán trả chậm được áp dụng cho các cửa hàng đại lý của công ty, các khách hàng mua với số lượng lớn, khách hàng truyền thống…nhưng thông thường không quá lâu và trong thời gian quy định, nếu trong thời gian đó có biến động về giá cả thì khách hàng phải chịu. Ngoài ra công ty còn dùng các hình thức sau trong thanh toán đó là: + Cho khách hàng trả sau toàn bộ giá trị sản phẩm đã mua. + Khách hàng trả từ 30%-50% giá trị sản phẩm đã mua. Các phương thức thanh toán đều đựơc công ty và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng mua bán đã ký kết. Đối với các sản phẩm gia công cho những khách hàng nước ngoài công ty thường áp dụng hình thức thanh toán ngoại tệ hoặc thông qua ngân hàng. Về phía công ty thường áp dụng hình thức thanh toán chủ yếu là theo tín dụng, hoặc qua ngân hàng. Ngân hàng được công ty uỷ quyền hoặc có trách nhiệm trả tiền cho công ty khi có đầy đủ các chứng từ có pháp lý. III. Những đánh giá chung về hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long: Tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long chính là thực hiện một mục đích của sản xuất đó là tiêu dùng nhằm đáp ứng được các nhu cầu mà người tiêu dùng cần. Đó là khâu lưu thông sản phẩm, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất phân phối và một bên là tiêu dùng. Trong mấy năm gần đây, sản phẩm của công ty đã có mặt ở hầu hết các thị trường trong nước và đã ngày càng tạo dựng uy tín với khách hàng. Bên cạnh đó hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty vẫn còn những mặt ưu điểm và hạn chế đó là: - Ưu điểm: Mặc dù, trong nền kinh tế thị trường có nhiều cạnh tranh gay gắt xong tập thể ban lãnh đạo của công ty cùng các cán bộ công nhân viên vẫn duy trì được tổng sản lượng tăng dần theo từng năm và luôn luôn ổn định được trên thị trường. Công ty may Thăng Long cùng các chi nhánh tại Hải Phòng và Nam Định đã thực hiện được nhiều mặt tích cực như đa dạng hoá sản phẩm, mẫu mã và luôn thay đổi phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng Ngoài ra công ty còn giúp đỡ các công ty khác cùng trong ngành hoạt động có hiệu quả hơn. Qua tất cả các công tác, các kết quả trên của công ty may Thăng Long chúng ta có thể thấy được cái thành đạt, ước mơ của công ty và tập thể cán bộ công nhân viên đã phần nào yên tâm trong công việc tiêu thụ sản phẩm cũng như trong công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty. - Hạn chế và nguyên nhân: a. Hạn chế: - Công tác nghiên cứu thị trường của công ty phần nào còn chưa được chú trọng quan tâm. Việc nghiên cứu nhu cầu thị trường, nhu cầu sản phẩm trên thị trường, khả năng cung cấp sản phẩm của đối thủ cạnh tranh còn được tiến hành sơ sài, đặc biệt chiến lược mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước vẫn còn chưa tương sứng với tiêm năng của công ty. - Công tác chuẩn bị sản xuất: trước hết là công tác lập kế hoạch sản xuất sản phẩm cho đến công tác tiêu thụ sản phẩm cho thị trường còn yếu. Do tình trạng sản xuất vẫn còn bị ngắt quãng, không ổn định. Sản phẩm còn phải chế tạo tại nhiều chỗ. - Tổ chức bộ máy nghiên cứu còn thụ động chưa bám sát được thị trường lên không thường xuyên lắm bắt được các thay đổi về nhu cầu của khách hàng, các xu hướng thời trang trong tương lai. Sản phẩm của công ty chủ yếu chỉ được tiêu thụ tại các thị trường lớn như các thành phố, tỉnh thành, thị trấn. Còn các vùng nông thôn và miền núi thì sản phẩm của công ty vẫn chưa có mặt nhiều. - Việc lập kế hoạch sản xuất tiêu thụ sản phẩm chưa thực sự lấy nhu cầu làm căn cứ xây dựng. Thiếu kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh, tình trạng lãng phí trong sản xuất, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm vẫn còn lớn và làm cho hiệu quả đạt được là thấp. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ chưa đầy đủ. - Công tác nghiệp vụ tiêu thụ, ký kết hợp đồng còn thiếu nhiều kinh nghiệm, các nghiệp vụ theo dõi tiêu thụ sản phẩm chưa được linh hoạt, hoạch định rõ ràng. Các nghiệp vụ báo cáo về tiêu thụ sản phẩm, báo cáo thống kê còn chưa đầy đủ, còn nhiều hạn chế chưa được giải quyết. - Công tác tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm còn chưa được mở rộng nhiều ở các nơi trong và ngoài nước. Còn nhiều các chi nhánh mạng lưới con, chưa đi sâu vào nghiên cứu và mở rộng thị trường. - Hoạt động xúc tiến khuyếch trương của công ty còn yếu như: quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng…các dịch vụ chăm sóc khách hàng trước, trong và sau bán sản phẩm chưa được quan tâm đúng mức. b. Nguyên nhân. Những mặt hạn chế của công ty suất phát từ nhiều nguyên nhân. Trong đó ta có thể kể đến là nguyên chủ quan (thuộc về doanh nghiệp) và nguyên nhân khách quan (do tác động của các yếu tố bên ngoài). Nguyên nhân chủ quan: - Trình độ của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của cán bộ quản lý. Các đơn vị, bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty còn chưa làm đủ các chức năng và nhiệm vụ của mình, sự phối hợp giữa các bộ phận còn lỏng lẻo lên làm cho quá trình tiêu thụ sản phẩm có phần bị ảnh hưởng, không được thông suốt. Nguyên nhân khách quan: - Khách hàng là đối tượng quan trọng hàng đầu đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với công ty nói riêng. Do vậy thói quen, thu nhập dân cư, thị hiếu…có tác động trực tiếp tới lượng hàng hoá tiêu thụ của công ty. Thu nhập người dân ta còn ở mức thấp,do vậy họ yêu cầu các sản phẩm có giá cả thấp và đẹp còn chiếm tỷ lệ khá cao. - Đối thủ cạnh tranh của công ty ngày càng nhiều, điều đó đã gây khó khăn cho công ty trong việc tiếp cận và mở rộng thị thị trường của mình Ngoài những nguyên nhân nói trên chúng ta còn thấy rằng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty còn chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường chính trị và pháp luật. Nhà nước chưa có những biện pháp ngăn chặn hàng hoá nhập lậu sắc đáng, hạn ngạch Quota, các hàng rào phi thuế quan của các nước mà công ty xuất khẩu sản phẩm sang ngày càng nhiều… điều đó đã gây khó khăn cho công ty may Thăng Long nói riêng và cho ngành dệt may nói chung. Chương III. Một số giảI pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở công ty may thăng long I. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp sản xuất hiện nay: Khu vực hoá toàn cầu hoá là một xu hướng tất yếu hiện nay, tự do hóa thương mại đã là một vấn đề mang tính toàn cầu.Tự do hóa thương mại trong phạm vi toàn cầu và từng khu vực cho phép các quốc gia mở rộng hoạt động buôn bán, gia nhập vào thị trường thế giới đồng thời cũng phải mở cửa thị trường của mình với bên ngoài. Đặc biệt hiện nay chúng ta đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu WTO. Qúa trình này mang lại những cơ hội và những thách thức đối nền kinh tế nước ta nói chung và đối với các doanh nghiệp sản xuất nói riêng. Điều đó được thể hiện là: Những cơ hội: + Tạo ra nhữnh khả năng mở rộng thị trường, giúp doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam vươn ra thị trường thế giới. Điều này rất quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất, vì sự hạn hẹp của sức mua trong thị trường nội địa. + Cho phép khai thác những lợi thế quốc gia về tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực dồi dào và rẻ ,các lợi thế về vị trí địa lý … lợi thế này chính là một trong những nguyên nhân quan trọng kích thích phát triển thương mại giữa các quốc gia. + Xóa bỏ thế cộ lập về kinh tế và thương mại. Các doanh nghiệp trong nước sẽ có những điều kiện tham gia thị trường ngoài nước, thị trường các thành viên của các tổ chức kinh tế mà Việt Nam tham gia và được đối sử công bằng, bình đẳng trong hợp tác kinh tế như các quốc gia khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp thâm nhập thị trường nước ngoài. + Tận dụng những kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế của thế giới....Qua đó, giúp các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, mẫu mã phong phú…nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Về bộ máy quản lý thì được tổ chức đơn giản nhưng hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trên thương trường. Những thách thức : + Sự gia tăng cạnh tranh :trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, phân công lao động kém phát triển, trình độ quản lý sản xuất, chât lượng sản phẩm và marketing yếu kém sẽ là những thách thức to lớn khi phải chịu sức ép của cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cũng như nguy cơ có thể bị hàng hóa của nước ngoài lấn át ngay cả ở trong thị trường trong nước . + Sự gia tăng các khả năng phụ thuộc của nền kinh tế vào bên ngoài :Mở rộng quan thương mại quốc tế cũng có nghĩa là gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới. Bất kỳ sự biến động nào của kinh tế và thị trường quốc tế, sự mất ổn định chính trị cũng như biến động từ bên ngoài đều có tác động trực tiếp và to lớn đến nền kinh tế của quốc gia, cũng như các doanh nghiệp sản xuất. + Sự gia tăng hoạt động của các tổ chức tội phạm quốc tế, các hoạt động kinh tế phi pháp, kinh tế ngầm ...là tất yếu khi mở cửa thị trường và hội nhập. Luật pháp cho đồng bộ và hoàn thiện, sự yếu kém trong việc quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước, bệnh tham nhũng, quan liêu còn phổ biến và trầm trọng như hiện nay ....là những môi trường tốt cho các hoạt động này. Các doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều các khó khăn khi thâm nhập thị trường mới và giữ vững thị trường đã có. Quá trình mở cửa, hội nhập với bên ngoài là một tất yếu. Song để khai thác những lợi thế và khắc phục những mặt tiêu cực của quá trình này cần phải chủ động và có những biện pháp hữu hiệu trong việc lựa chọn cơ cấu kinh tế. Tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm phù hợp, cũng như cần xác định một lộ trình thích hợp cho quá trình mở cửa và hội nhập. Cố gắng phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. II. Phương hướng của công ty may Thăng long trong thời gian tới: 1. Phương hướng của công ty trong thời gian tới: Trên cơ sở những cơ hội và thách thức của nền kinh tế thị trường hiện nay, và những lợi thế của mình. Công ty may Thăng Long đã đề ra những phương hướng cho công ty trong thời gian tới là: a. Phương hướng về thị trường tiêu thụ: - Công ty tiếp tục nắm chắc thị trường mà công ty đang nắm giữ, đồng thời mở rộng thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, phát huy hiệu quả những lợi thế mà công ty có. Hay nói cách khác công ty thực hiện đa phương hoá, đa dạng kinh doanh, vừa nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa giảm thiểu rủi ro cho công ty có thể sẩy ra do các yếu tố chủ quan hay khách quan. - Thị trường quần áo may sẵn của của công ty còn nhỏ, trong thời gian tới công ty sẽ tiếp tục nghiên cứu các chính sách về chất lượng, mẫu mã, về giá cả…của loại sản phẩm đó để có chỗ đứng trên thị trường. - Khu vực kinh doanh thương mại, giao dịch thương mại, tiếp tục giới thiệu văn phòng đại diện và bán sản phẩm tại các thị trường mới, kết hợp cùng với các hoạt động khác để thị phần của công ty nắm giữ ngày càng hoạt động có hiệu quả cao. b. Phương hướng về chiến lược kinh doanh: - Tiếp tục sản xuất và gia công các sản phẩm truyền thống mà đã được thị trường chấp nhận. - Đầu tư cho phát triển, nghiên cứu các sản phẩm mới có chất lượng cao, mẫu mã hợp thời trang và có giá thành hợp lý. - Nghiên cứu triển khai hợp tác kinh doanh dưới mọi hình thức, sao cho cả hai bên cùng có lợi, nhằm phát huy hết lợi thế, tối đa hoá lợi nhuận và nâng cao sức cạnh tranh của công ty trên thị trường. Một trong các hình thức hợp tác kinh doanh đó là nhận gia công sản phẩm cho các công ty khác có nhu cầu. Theo hình thức này, các bên đặt gia công sẽ giao nguyên vật liệu chính, phụ và cả vỏ hộp. Công ty nhận gia công sau một thời gian sản xuất như đã cam kết trong hợp đồng sẽ giao thành phẩm và nhận phí gia công. Sản phẩm mà công ty sản xuất ra phải đáp ứng các nhu cầu tiêu chuẩn mà công ty đặt gia công yêu cầu. Nhận gia công sản phẩm hiện nay là một hướng đi đúng đắn đối với công ty may Thăng Long. Nhận gia công sẽ giúp công ty hoạt động hiệu quả, công suất máy móc thiết bị sẽ được hoạt động tối đa, sử dụng nhân công có hiệu quả. c. Về quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh: - Triệt để tuân thủ quy trình sản xuất, nhằm giảm thiểu số lượng các sản phẩm lỗi, nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm giá thành sản phẩm. Hình thành các sản phẩm có chất lượng đạt tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, được khách hàng chấp nhận. - Giảm chi phí sản xuất kinh doanh nâng cao sức cạnh tranh của công ty, đặc biệt là các sản phẩm như quần áo may sẵn. - Tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý, sao cho vừa đơn giản nhưng đạt hiệu quả cao trong công tác quản lý, kiểm tra, đôn đốc, hoạch định chiến lược… - Đổi mới trang thiết bị phục vụ cho công tác quản lý và hoạt động sản xuất có hiệu quả, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tự hào về công ty của cán bộ, công nhân viên. III. Một số giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở công ty may Thăng Long: 1. Về phía nhà nước: Nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của nhà nước. Chính vì vậy vai trò của nhà nước là rất quan trọng, các chính sách quy định pháp luật có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động đạt hiệu quả cao nếu chúng hợp lý, tuy nhiên nó cũng có thể gây cản trở cho sự phát triển của cả nền kinh tế. Vì vậy để hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất thì câc chính sách của nhà nước cần có một số yêu cầu: - Các chính sách của nhà nước phải thông thoáng, hợp lý với xu thế của thời đại tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động quản lý kinh doanh được thuận lợi, thông suốt. - Chính sách của nhà nước ngày càng giảm sự tác động trực tiếp vào doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự tổ chức, quyết định hoạt động của doanh nghiệp mình, tự hoạch toán kinh doanh và các vấn đề khác của mình. Chính sách của nhà nước chỉ mang tính định hướng và quản lý tầm vĩ mô. 2. Về phía công ty: a. Tuyển mộ và tuyển chọn nhân viên: - Quá trình tuyển mộ và tuyển dụng nhân viên, cán bộ quản lý cho bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm phải được tiến hành tốt ngay từ đầu. Vì công tác này ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân lực trong tổ chức, có ý nghĩa quan trọng đối với chiến lược kinh doanh. Tuyển mộ, tuyển chọn tốt sẽ giúp cho công ty có được những con người có kỹ năng phù hợp với sự phát triển của công ty trong tương lai. Quá trình này cũng cần phải gắn liền từ kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch nguồn nhân lực của công ty. Các nhân viên được tuyển chọn có trình độ chuyên môn cần thiết cho công việc để đạt năng suất lao động cao, tuyển chọn được những người có kỷ luật, trung thực, gắn bó với công việc của tổ chức. - Côn ty may Thăng Long có thể tiến hành tuyển mộ tuyển chọn thông qua các nguồn: + Nguồn nội bộ: đó chính là các nhân viên của các bộ phận khác trong công ty. Nếu họ đáp ứng được các yêu cầu, có khả năng thì có thể tuyển dụng họ vào các công việc khác. + Nguồn từ bên ngoài: thu hút các nhà quản lý có khả năng ở các doanh nghiệp khác bằng các chính sách đãi ngộ hợp lý, thu hút những sinh viên tại các trường thông qua các kỳ thực tập, tài trợ học bổng cho sinh viên để tìm kiếm những sinh viên thực sự có khả năng, hoặc có thể tìm kiếm thông qua các đợt tuyển dụng cúa công ty… b.Xây dựng cơ cấu hợp lý, bố trí nhân lực và thôi việc: - Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý phải phù hợp với quy mô, yêu cầu của doanh nghiệp và của môi trường khách quan. Cụ thể là công ty kinh doanh trong ngành nghề gì, sản phẩm của công ty có đa dạng hay không, mức độ chuyên môn hoá, thị trường tiêu thụ của công ty có rộng lớn hay không…để từ đó công ty có chiến lược xây dựng bộ máy quản lý phù hợp với nhu cầu của công ty, sao cho bộ máy đó đạt hiệu qủa cao trong kinh doanh đóng góp vào sự phát triển bền vững của công ty trong hiện tại và trong tương lai. - Bố trí, sắp xếp cán bộ nhân viên phải hợp lý: Đó là các hoạt động có định hướng khi bố trí nguồn nhân lực vào các công việc, bố trí thông qua bố trí lại, thuyên chuyển, đề bạt và xuống chức… Công ty sẽ động viên được các nhân viên của mình hoạt động có hiệu quả, và đóng góp vào công việc một cách cao nhất nếu công việc này được tiến hành hợp lý. - Mặt khác tiến hành thôi việc đối với những người vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, không đáp ứng được yêu cầu công việc… cũng cần được quan tâm. Các dạng của thôi việc như: giãn các cán bộ quản lý trong bộ máy, sa thải, tự thôi việc. Tuy nhiên công việc này cũng cần thực hiện nghiêm túc và cẩn thận sao cho có hiệu quả tới mức có thể nhất, bởi vì ít nhiều cũng gây ra các tổn thất khó khăn nhất định cho cả hai phía. c. Tạo động lực cho hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm;: Để sử dụng và giúp bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì việc tạo động lực giữ vai trò rất quan trọng. Bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm chỉ có thể đạt được hiệu quả năng suất cao khi có những nhân viên làm việc tích cực và sáng tạo. Công ty may Thăng Long có thể sử dụng các biện pháp tạo động lực: - Xác định nhiệm vụ và tiêu chuẩn thực hiện công việc cho nhân viên: + Xác định mục tiêu hoạt động của tổ chức và cho cán bộ quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty hiểu rõ các mục tiêu đó. + Xác định nhiệm vụ cụ thể và tiêu chuẩn thực hiện công việc cho cán bộ công nhân viên. + Đánh giá thường xuyên và công bằng mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ công nhân viên giúp họ làm việc tốt hơn. - Tạo điều kiện thuận lợi để người lao động hoàn thành nhiệm vụ: như loại trừ các trở ngại cho việc công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm, cung cấp các trang thiết bị cần thiết, bố trí nguồn nhân lực hợp lý… - Kích thích lao động Công ty có thể sử dụng một số công cụ kích thích lao động: + Sử dụng tiền lương như một công cụ cơ bản để kích thích vật chất đối với người lao động. Đây là công cụ khá hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Do đó, nó phải được sử dụng như là một đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ nhất. Tiền lương phải được trả thoả đáng so với công sức mà cán bộ công nhân viên đóng góp cho công ty. + Sử dụng hợp lý các hình thức khuyến khích tài chính như: tăng lương tương xứng với công việc, các tiền thưởng, phàn thưởng…để nâng cao sự nỗ lực và thành tích lao động của người lao động. Đặc biệt khi các nhân viên hoàn thành tốt các mục tiêu đề ra và đạt các thành tích khác. + Sử dụng hợp lý các hình thức khuyến khích phi tài chính để thoả mãn tối đa nhu cầu tinh thần cho cán bộ công nhân viên. như: khen ngợi, tổ chức thi đua, xây dựng bầu không khí tâm lý- xã hội trong tập thể lao động, tạo cơ hội học tập, phát triển, cơ hội thăng tiến… d. Các chính sách, quy định của công ty: Các chính sách, quy định của công ty là rất cần thiết, nó giúp các thành viên trong công ty đi đúng hướng và mục tiêu đã đề ra…chính vì vậy công ty may Thăng Long cần có quan tâm thích đáng vào vấn đề này. Tuy nhiên các chính sách, quy định không phải là cứng nhắc mà cần linh hoạt thích ứng các điều kiện thay đổi sao cho hợp lý nhất. Các quy định và chính sách cần chú ý những điểm cơ bản: + Gắn liền với kỷ luật lao động, phân chia trách nhiệm và phân công lao động rõ ràng cho từng bộ phận quản lý tiêu thụ sản phẩm, cho từng cán bộ công nhân viên. + Các chính sách phải phù hợp với tình hình của công ty, nó giúp cho các hoạt động quản lý được thông suốt đạt hiệu quả và luôn đi đúng hướng với các mục tiêu và chiến lược đã đề ra. + Các quy định hạn chế các mâu thuẫn phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, các chính sách có khả năng tổng hoà sức mạnh của tập thể trong lao động kinh doanh. Tuy nhiên khi mâu thuẫn phát sinh các chính sách, quy định cần linh hoạt giải quyết mâu thuẫn hợp lý và giữ quyền lợi cho các bên liên quan. e. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Đào tạo nâng cao trình độ quản lý của cán bộ quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long là rất cần thiết, điều này sẽ giúp cho họ có ý thức trong công việc, làm việc có hiệu quả và khoa học đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai của công ty. Để làm được điều đó công ty cần thực hiện một số biện pháp: + Cử cán bộ đi đào tạo nghiệp vụ quản lý kinh tế, đặc biệt là nghiệp vụ quản lý tiêu thụ sản phẩm, vì đây là khâu có vị trí quan trọng giúp công ty tồn tại và phát triển ổn định lâu dài. + Hàng năm tiến hành đào tạo, phổ biến về các kiến thức quản lý mới, những thay đổi trong nền kinh tế kể cả trong nước lẫn ngoài nước, những chính sách quan trọng của nhà nước mà công ty cần quan tâm… + Tổ chức các buổi sinh hoạt văn hoá, nói chuyện với các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý, nâng cao tinh thần tự giác cho cán bộ. Bên cạnh đó có thể phát động các phong trào thi đua phấn đấu đạt các mục tiêu đề ra trong lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm. f. Đầu tư đổi mới cơ sở vật chất: Trong nền kinh tế hiện nay thì các trang thiết bị hiện đại phục vụ trong quá trình sản xuất kinh doanh là không thể thiếu, nó làm cho quá trình sản xuất được tiến hành nhanh hơn và đạt hiệu quả cao, và biên giới không gian và thời gian như mờ nhạt dần. Chính vì lý do đó công ty may Thăng Long cần xem xét đầu tư công nghệ trang thiết bị phục vụ cho quá trình quản lý, đặc biệt khi thị trường của công ty là một thị trường rộng lớn không chỉ trong nước mà cả ngoài nước. Tuy nhiên trước khi chọn mua đổi mới công nghệ công ty phải tính đến các yếu tố: trình độ của cán bộ trong bộ máy quản lý thị trường sản phẩm, quyết định mua hay thêu thiết bị, công nghệ thông tin là của ai…phải tuỳ thuộc vào tình hình tài chính của công ty để quyết định. + Yếu tố con người trong bộ máy quản lý thị trường sản phẩm là rất quan trọng. Nếu trang thiết bị quá hiện đại, tiên tiến thì có thể không phù hợp, khi đó ta cần cử các cán bộ đi bồi dưỡng, đào tạo. + Vấn đề về nguồn nhập trang thiết bị cũng rất quan trọng, công ty cần nhờ các chuyên gia tư vấn sao cho nhập trang thiết bị phù hợp với công ty, giá thành hợp lý. Vấn đề đổi mới trang thiết bị phục vụ cho quá trình quản lý tiêu thụ sản phẩm là vấn cần thiết đối với công ty may Thăng Long. Tuy nhiên đây là quá trình cần thời gian dài, công ty không thể quyết định vội vàng mà cần tuỳ thuộc vào hoàn cảnh chủ quan, khách quan để tiến hành. Kết luận Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp sản xuất có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong thời gian qua, công ty may Thăng Long đã đạt được những thành công nhất định trong hoạt động kinh doanh các sản phẩm may mặc và một số hoạt động khác. Để có được thành công đó là nhờ ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên luôn phấn đấu và hoàn thành những công việc được giao. Với mục tiêu phát triển doanh nghiệp ổn định trong môi trường kinh doanh ngày càng khốc liệt thì công ty cần hoàn thiện, nâng cao chất lượng của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm hơn nữa. Công tác này nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh của công ty trên thị trường. Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng đề án để giải quyết vấn đề trên em đã vận dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng kết hợp với quan điểm tư duy kinh tế mới trong kinh doanh, trong quản trị để đánh giá cụ thể công tác hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất. Khi nghiên cứu đề tài này, trên cơ sở những tài liệu và thực tế của công ty may Thăng Long, em so sánh biến động qua một số năm gần đây. Qua đó thấy được ưu điểm, nhược điểm, những mặt còn tồn tại và nguyên nhân của nó. Kết hợp với cơ sở lý luận lôgic, khoa học em đề ra một số giải pháp khắc phục những nhược điểm còn tồn tại góp phần hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở công ty may Thăng Long. Tài liệu tham khảo - Thời báo kinh tế. - Tạp chí nghiên cứu và trao đổi. - Giáo trình Kinh tế thương mại, NXB Thống Kê, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. - Martin Hilb, Quản trị nhân sự tổng thể, Nhà xuất bản thống kê 2003. - Giáo trình Quản trị Doanh Nghiệp Thương Mại, NXB Lao Động- Xã Hội, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. - Giáo trình Quản trị Nhân Lực, NXB Lao Động- Xã Hội, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. - Hội nhập WTO cơ hội và thách thức, NXB Thống Kê. Mục lục Lời nói đầu Trang Chơng I. Những vấn đề cơ bản về bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất………………………3 I. Bản chất và vai trò của bộ máy quản lý II. tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất…………………..3 1. Bản chất bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm 2. ở doanh nghiệp sản xuất…………………………………………………..3 3. Nhiệm vụ của bộ máy tiêu thụ sản phẩm…………………………………4 4. Vai trò bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ……………………………….7 III. Những nguyên tắc và yêu cầu tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất……………8 1. Nguyên tắc tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất ……………………………………………………….8 2. Yêu cầu tổ chức bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất …………………………………………………….10 iii. Nội dung hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất và hệ thống các chỉ tiêu đánh giá…………………………………………………………………………………..12 2.1. Nội dung hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất……………………………………………………...12 2.1.1. Nghiên cứu thị trờng……………………………………........................12 2.1.2 Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm…………………………………………14 2.1.3 Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán……………………………………….…15 2.1.4 Lựa chọn các hình thức tiêu thụ sản phẩm………………………………15 2.1.5 Tổ chức các hoạt động xúc tiến yểm trợ cho công tác bán hàng………...17 2.1.6 Tổ chức hoạt động bán hàng……………………………………….……18 2.1.7 Phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm………………19 2.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá………………………………………...…19 iv. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất………………………………….…21 Chơng II. Thực trạng hoạt động quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long……………………………………..……24 I. Qúa trình hình thành và phát triển của công ty may Thăng Long…………………………..……………..…24 1. Qúa trình hình thành và phát triển của công ty may Thăng Long…….…24 2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty…………………………………………25 3. Đặc điểm về bộ máy quản lý của công ty may Thăng Long………….……26 II. Thực trạng hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long……………………………………29 1. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty may Thăng Long………....…29 2. Kết quả công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long…..…33 a. Kết quả tiêu thụ sản phẩm của công ty …………………………………33 b. Doanh thu tiêu thụ của công ty theo mặt hàng………………..……………34 3. Công tác hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty……………………………………………………………………36 a. Công tác giao dịch ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm ……………………36 b. Thực hiện hoạt động kho thành phẩm………………………...……………36 c. Phương thức vận chuyển……………………………………………………37 d. Phương thức thanh toán………………………………………….…………37 III. Những đánh giá chung về hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long………………………………………..…38 1. Ưuđiểm………………………………………………..……………………39 2. Hạn chế và nguyên nhân……………………………..……………………39 a. Hạn chế………………………………………………..……………………39 b. Nguyên nhân…………………………………………………….………40 Chơng III. Một số giảI pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở công ty may thăng long………………….42 I. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp sản xuất hiện nay………………………………………………………………..…………42 II. Phương hướng của công ty may Thăng long trong thời gian tới……………………………………………………………………………44 1. Phương hướng của công ty trong thời gian tới……………………...………44 a. Phương hướng về thị trường tiêu thụ……………………………..…………44 b. Phương hướng về chiến lược kinh doanh…………………...………………45 c. Về quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh…………………………………45 III. Một số giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở công ty may Thăng Long…………………………..……………46 1. Về phía nhà nớc………………………………………….…………………46 2. Về phía công ty………………………………………………..……………47 a. Tuyển mộ và tuyển chọn nhân viên……………………………...…………47 b.Xây dựng cơ cấu hợp lý, bố trí nhân lực và thôi việc…………………….…47 c. Tạo động lực cho hoạt động của bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm……………………..…………………48 d. Các chính sách, quy định của công ty……………………...………………49 e. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực………………………………………50 f. Đầu t đổi mới cơ sở vật chất…………………………………...……………51 Kết luận…………………………………………………………….……………52 Tài liệu tham khảo…………………………………………….……………53

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Hoàn thiện bộ máy quản lý tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất.pdf
Tài liệu liên quan