Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 1 
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP 
KHOA 
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG 
Đề tài: “Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại công ty 
đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18” 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 2 
Lời nói đầu 
Việc chuyển mình từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế 
hàng hoá nhiều thành phần có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước là một tất yếu 
khách quan. Nền kinh tế này buộc các doanh nghiệp phải tự lo liệu các hoạt 
động sản xuất, kinh doanh của mình từ việc đầu tư vốn, tổ chức kinh doanh 
đến tiêu thụ sản phẩm. Do đó, cạnh tranh để tồn tại là điều không thể tránh 
khỏi. Bởi vậy, các doanh nghiệp phải năng động, biết tận dụng thế mạnh của 
mình và phải biết chớp thời cơ để sản xuất kinh doanh có hiệu quả và không 
ngừng nâng cao vị thế của mình trên thị trường. 
Tự chuyển mình và thay đổi hoàn toàn để thích nghi được với môi 
trường và không ngừng phát triển đó là một quy luật tất yếu đối với doanh 
nghiệp khi bước chân vào nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để làm được điều 
đó thì đòi hỏi mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thu 
được lợi nhuận. Lợi nhuận đã trở thành nền tảng cho sự phát triển và tồn tại 
của mỗi doanh nghiệp, lợi nhuận được coi là một tiêu chí quan trọng, và là 
mục tiêu cuối cùng mà tất cả các doanh nghiệp đều hướng tới. 
Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới có thể đầu tư mở rộng sản xuất kinh 
doanh, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trong đơn vị, đảm bảo 
khả năng thanh toán và tạo nguồn tích luỹ quan trọng cho nền kinh tế. Có lợi 
nhuận, doanh nghiệp sẽ có khả năng chiếm lĩnh thị trường, đánh bại các đối 
thủ cạnh tranh và khẳng định được vị trí của mình. Vì vậy có thể khẳng định, 
lợi nhuận có vai trò rất quan trọng đối với mọi đơn vị sản xuất kinh doanh, nó 
đã và đang trở thành mục tiêu hàng đầu của bất kỳ một doanh nghiệp nào 
trong nền kinh tế thị trường. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 3 
Trong thời gian thực tập tại Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và 
đô thị số 18, với kiến thức bản thân trong suốt 4 năm học tại trường Đại học 
Thương mại và đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô, các chú trong 
phòng tài chính – kế toán; em đã được tìm hiểu về tình hình tài chính, kế toán 
ở công ty. Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 thuộc Tổng 
công ty đầu tư và phát triển nhà Hà nội là một doanh nghiệp nhà nước hạch 
toán độc lập. Đơn vị với cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối hiện đại, đội ngũ 
cán bộ và công nhân viên được đánh giá là có năng lực chuyên môn cao đã 
giúp công ty kinh doanh ngày càng có hiệu quả. Thu nhập của cán bộ công 
nhân viên hàng năm tăng cao và đời sống của họ được cải thiện rõ rệt, đóng 
góp cho ngân sách nhà nước cũng thường xuyên tăng. Tuy nhiên, với thế và 
lực của công ty thì thực sự tiềm năng của công ty chưa được khai thác triệt để, 
nên đã làm hạn chế lợi nhuận của công ty. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài 
cho luận văn tốt nghiệp là: 
“một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại công ty đầu tư 
hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18” 
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ bản chất, nguồn gốc và vai trò của 
lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Qua đây, đánh giá khái quát tình hình 
hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của công ty, từ đó đưa ra một số 
giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa lợi nhuận cho công ty. Trên cơ sở này, đề 
tài được chia thành 3 phần cơ bản như sau: 
Chương i: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận doanh nghiệp trong 
nền kinh tế thị trường. 
Chương ii: Phân tích tình hình lợi nhuận tại Công ty đầu tư hạ 
tầng khu công nghiệp và đô thị số 18. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 4 
Chương iii: Các giải pháp nâng cao lợi nhuận tại Công ty đầu tư hạ 
tầng khu công nghiệp và đô thị số 18. 
Mặc dù được sự hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của Cô giáo Nguyễn Thị 
Minh Hạnh, cũng như sự giúp đỡ tận tình của các cô, các chú phòng Tài chính 
– Kế toán của công ty và sự nỗ lực của bản thân nhưng kết quả của đề tài nhất 
định còn nhiều sai sót cả về lý luận và thực tiễn. Em rất mong Cô giáo hướng 
dẫn, các thầy, cô trong bộ môn và các cô, các chú ở Công ty chỉ bảo thêm để 
giúp em hoàn thành tốt đề tài. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 5 
Chương i 
những vấn đề cơ bản về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 
I/ lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với các doanh nghiệp(dn). 
1. Nguồn gốc lợi nhuận: 
Theo sự phát triển chung của nhân loại thì có rất nhiều quan điểm khác 
nhau về nguồn gốc của lợi nhuận. 
Trường phái trọng nông với việc đánh giá cao vai trò của ngành nông 
nghiệp và coi nó là lĩnh vực duy nhất trong xã hội tạo ra của cải. ở đây, tiền 
lương công nhân là thu nhập theo lao động còn sản phẩm ròng là thu nhập của 
nhà tư bản gọi là lợi nhuận. Vậy lợi nhuận là thu nhập không lao động do 
công nhân tạo ra. 
Trường phái trọng thương cho rằng: “ Lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh 
vực lưu thông. Lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không 
ngang giá, do sự lừa gạt mà có. Còn lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, trừ 
khai thác vàng bạc, đều không tạo ra lợi nhuận”. 
C.Mác gọi AdamSmith là nhà lí luận tổng hợp thời kỳ công trường thủ 
công tư bản chủ nghĩa. Theo A.Smith, lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai 
trong sản phẩm của người lao động( có nguồn gốc là lao động không được trả 
công của công nhân). Nhưng mặt khác, ông lại cho rằng lợi nhuận là khoản 
thưởng cho sự mạo hiểm của nhà tư bản hoặc là khoản thưởng cho lao động 
của tư bản. 
Theo A.Smith, qui mô của tư bản quyết định qui mô của lợi nhuận. Ông đã 
nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi tức và lợi nhuận và cho rằng lợi tức là một 
bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 6 
chủ của nó để được sử dụng tư bản. A.Smith đã nhìn thấy xu hướng bình quân 
hoá tỉ suất lợi nhuận và xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư 
bản đầu tư tăng lên. Và ông cũng nhận ra được mối quan hệ đối kháng giữa 
lợi nhuận và tiền lương. Tăng lương không làm tăng lợi nhuận mà ngược lại 
nó làm giảm lợi nhuận; và ngược lại giảm lương sẽ làm tăng lợi nhuận và 
đằng sau đó là mối quan hệ giữa hai giai cấp vô sản và tư sản. 
Tuy nhiên, A.Smith vẫn còn có hạn chế trong lí luận lợi nhuận của mình 
như không thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận. Và ông 
cho rằng lợi nhuận là do toàn bộ tư bản đẻ ra kể cả trong lĩnh vực lưu thông 
và sản xuất do không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông. 
Một đại biểu xuất sắc của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh là 
D.Ricardo. Học thuyết của ông được xây dựng trên cơ sở phát triển quan điểm 
của A.Smith và trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động. Ông đã dựa vào đó để 
phân tích rõ nguồn gốc của lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh. Theo quan 
điểm của D.Ricardo, giá trị hàng hoá là do người công nhân tạo ra nhưng 
người công nhân chỉ được hưởng một phần tiền lương phần còn lại là lợi 
nhuận của nhà tư bản. Nói cách khác, nguồn gốc của lợi nhuận là từ việc bóc 
lột lao động người công nhân. Cơ sở của việc tồn tại lợi nhuận là tăng năng 
suất lao động và coi nó là qui luật tồn tại vĩnh viễn( giá trị thặng dư tương 
đối). Tuy nhiên, ông không phân biệt được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư 
và lợi nhuận mặc dù đã nhìn thấy sự tồn tại của lợi nhuận bình quân và xu 
hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận. 
Ra đời trong những năm 60-70 của thế kỉ, “ Kinh tế học của trường phái 
chính hiện đại” với đại biểu là Paul A.Samuelson thì lại có cách suy nghĩ khác 
về lợi nhuận. Theo Samuelson, trong kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực 
chi phối hoạt động của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp 
đến các khu vực sản xuất các hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 7 
các khu vực có ít người tiêu dùng. Với ông, lợi nhuận cũng đưa các nhà doanh 
nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất hiệu quả nhất. 
Kế thừa có chọn lọc các nhân tố khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ 
điển, kết hợp với những phương pháp biện chứng duy vật C.Mác đã nghiên 
cứu thành công học thuyết giá trị thặng dư.C.Mác khẳng định: Lợi nhuận có 
nguồn gốc từ giá trị thặng dư nhưng lại không phải là giá trị thặng dư mà chỉ 
là biểu hiện bề ngoài của giá trị thặng dư. 
C.Mác đã phân tích để thấy được rằng giữa chi phí thực tế và chi phí sản 
xuất tư bản chủ nghĩa có một khoản chênh lệch, lượng tiền lời do chênh lệch 
ấy mang lại gọi là lợi nhuận(ký hiệu là p). Như vậy, lợi nhuận là giá trị thặng 
dư nhưng được coi như là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước (C+V) được so 
với toàn bộ tư bản ứng trước mang hình thái chuyển hoá là lợi nhuận khi m 
chuyển thành p; (C+V) chuyển thành k thì khi đó giá trị của hàng hoá là = 
k+p. Trong đó, C là tư bản bất biến là là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức 
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị; V là tư bản khả biến là bộ phận tư bản 
dùng để mua sức lao động; m là giá trị thặng dư là giá trị do người lao động 
tạo ra mà không được trả công; (C+V) = k là chi phí sản xuất tư bản chủ 
nghĩa. 
Qua đây, ta thấy lợi nhuận đã che đậy quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa 
bởi vì lợi nhuận được so với k =(C+V) và như vậy thì lợi nhuận được coi là 
con đẻ của k nhưng thực chất lợi nhuận là biểu hiện bề ngoài của m mà m do 
V tạo ra cho nên p cũng do V tạo ra chứ không phải là k. 
Quan điểm của C.Mác về tư bản thương nghiệp là không tạo ra giá trị 
thặng dư nhưng nó được phân phối lợi nhuận bởi nó đã làm việc cho nhà tư 
bản. Theo C.Mác, lợi nhuận thương nghiệp là một bộ phận của giá trị thặng 
dư do công nhân sản xuất tạo ra mà nhà tư bản công nghiệp “ nhường” cho 
nhà tư bản thương nghiệp. Nhà tư bản thương nghiệp không phải bán hàng 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 8 
hoá cao hơn giá trị thì mới có lợi nhuận mà vì họ mua hàng hoá thấp hơn giá 
trị. Vậy lợi nhuận thương nghiệp là sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua của 
thương nghiệp và nó cũng tuân theo quy luật tỷ suất lợi nhuận do cạnh tranh. 
Tóm lại, kể từ khi xuất hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thì lợi 
nhuận không chỉ là cái đích của mỗi doanh nghiệp mà nó còn trở thành đề tài 
nghiên cứu, tranh luận của nhiều trường phái, nhiều nhà lý luận kinh tế. Mọi 
học thuyết, mọi nghiên cứu của họ tuy còn có hạn chế nhưng tất cả đều cố 
gắng chỉ cho mọi người thấy rõ nguồn gốc của lợi nhuận trong nền kinh tế. 
2. Khái niệm lợi nhuận của DN: 
Từ khi nước ta chuyển từ quan hệ bao cấp sang quan hệ hạch toán kinh tế 
hay nói cách khác là chuyển từ quan hệ theo chiều dọc từ trên xuống sang 
quan hệ theo chiều ngang mà trong đó mỗi DN là đơn vị hạch toán kinh tế độc 
lập. Điều kiện tiền đề thực hiện quá trình chuyển đổi này là phân định rõ 
quyền sở hữu và quyền sử dụng về tài sản và thực hiện quyền này về mặt kinh 
tế tức là các DN quốc doanh vẫn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Còn 
quyền sử dụng Nhà nước giao vốn cho DN, DN có trách nhiệm bảo tồn duy 
trì vốn. Thực hiện quyền này DN tự mình tổ chức hoạt động sản xuất kinh 
doanh. Từ nghiên cứu thị trường xác định mặt hàng sản xuất, lựa chọn công 
nghệ đến tiêu thụ sản phẩm. Dựa trên cơ sở tự chủ hoàn toàn mà nâng cao 
trách nhiệm vật chất của cả tập thể và cá nhân người lao động, thực hiện 
nghiêm ngặt chế độ thưởng phạt vật chất, khuyến khích người lao động bằng 
lợi ích vật chất. 
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi DN là người sản xuất hàng hoá, để đứng 
vững trên thị trường họ không thể không tính đến hiệu quả sản xuất kinh 
doanh hay chính là sản xuất kinh doanh có lợi nhuận. 
Họ thường xuyên so sánh đối chiếu đầu vào và đầu ra để sao cho chênh 
lệch lợi nhuận là cao nhất. Lợi nhuận luôn được coi là một tiêu chí quan 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 9 
trọng, là mục tiêu cuối cùng mà mỗi DN đề hướng tới. Khi tiến hành bất kỳ 
một hoạt động kinh doanh nào, người ta đều phải tính toán đến lợi nhuận mà 
mình có thể thu được từ hoạt động đó. 
Vậy lợi nhuận là gì? mà mọi DN đều đặt nó làm mục tiêu phấn đấu của 
DN mình. Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế của các 
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó là khoản chênh lệch giữa 
các khoản thu nhập thu được và các khoản chi phí đã bỏ ra để đạt được thu 
nhập đó trong một thời kỳ nhất định. Như vậy để xác định lợi nhuận thu được 
trong một thời kỳ nhất định, người ta căn cứ vào hai yếu tố: 
- Thu nhập phát sinh trong một thời kỳ nhất định. 
- Chi phí phát sinh nhằm đem lại thu nhập trong thời kỳ đó, hay nói cách 
khác chỉ những chi phí phân bổ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh 
đã thực hiện trong kỳ. 
Công thức chung xác định lợi nhuận như sau: 
Lợi nhuận = Tổng thu nhập – Tổng chi phí 
3. Kết cấu lợi nhuận. 
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở cộng với cơ chế hạch toán 
kinh doanh thì phạm vi kinh doanh của DN ngày càng được mở rộng. Do đó 
mà DN có thể đầu tư vào nhiều hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Về 
cơ bản hoạt động kinh doanh của DN bao gồm: 
- Hoạt động SXKD: là các hoạt động như sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, 
hàng hoá, dịch vụ của các ngành sản xuất kinh doanh chính, phụ. 
- Hoạt động tài chính: là hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn 
nhằm một mục đích là kiếm lời như góp vốn liên doanh, liên kết, đầu tư 
chứng khoán, cho thuê tài sản, cho vay vốn, hay mua bán ngoại tệ.... 
- Hoạt động khác: là các hoạt động ngoài hoạt động kinh doanh ở trên. 
Nó diễn ra không thường xuyên, không dự tính trước hoặc có dự tính 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 10 
nhưng ít có khả năng xảy ra ví như các việc thanh lý, nhượng bán tài 
sản cố định, giải quyết tranh chấp, vi phạm hợp đồng kinh tế; xử lý tài 
sản thừa, thiếu chưa rõ nguyên nhân... 
Căn cứ vào các hoạt động kinh doanh của DN mà lợi nhuận thu được cũng 
đa dạng theo phương thức đầu tư của mỗi DN. Lợi nhuận của DN thường 
được kết cấu như sau: 
3.1. Lợi nhuận kinh doanh: đây là bộ phận lợi nhuận được cấu thành bởi lợi 
nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ và lợi nhuận 
từ hoạt động tài chính. 
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ: tuỳ 
theo từng phương thức, từng hoạt động đầu tư mà DN xác định đâu là 
lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ. Lợi 
nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh được hình thành từ 
việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của doanh nghiệp. 
Những nhiệm vụ này được nêu trong quyết định thành lập doanh 
nghiệp. Bộ phận lợi nhuận này thường chiếm tỷ trọng tương đối trong 
tổng lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp. 
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh, 
các DN còn có thể tham gia vào các hoạt động tài chính. Hoạt động tài 
chính là hoạt động liên quan đến việc đầu tư vốn ra bên ngoài DN như: 
góp vốn liên doanh, liên kết kinh doanh, góp vốn cổ phần, hoạt động 
mua bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi và 
lãi cho vay thuộc nguồn vốn kinh doanh và quỹ...Các khoản lợi nhuận 
thu được từ hoạt động này góp phần làm tăng tổng lợi nhuận cho DN. 
3.2. Lợi nhuận khác: đó là các khoản lãi thu được từ các hoạt động riêng 
biệt khác ngoài những hoạt động nêu trên. Những khoản lãi này phát 
sinh không thường xuyên, có thể do chủ quan hoặc khách quan đưa tới. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 11 
Nó bao gồm lãi thu từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố định; lợi nhuận 
từ các khoản phải trả không xác định được chủ nợ; thu hồi các khoản 
nợ khó đòi đã được duyệt bỏ... 
Trên thực tế, tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận ở 
các DN là có sự khác nhau do phương thức kinh doanh cũng như lĩnh vực 
kinh doanh và môi trường kinh tế khác nhau. 
Môi trường kinh tế bên ngoài của mỗi DN cũng làm cho tỷ trọng lợi nhuận 
trong mỗi DN khác nhau. Nếu như trước kia, nền kinh tế thị trường chưa phát 
triển và thị trường chứng khoán chưa sôi nổi như ngày nay thì lợi nhuận từ 
hoạt động tài chính chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ. Ngược lại, khi thị trường chứng 
khoán với hoạt động tài chính cùng đà phát triển với nền kinh tế thị trường thì 
tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuậnlại có sự thay đổi. 
4. Vai trò của lợi nhuận: 
Kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều đợt cải tiến công tác quản lý ở nước ta 
đã chứng tỏ rằng: sẽ không có một nền kinh tế cũng như một DN hoạt động 
thực sự có hiệu quả chừng nào cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn thống 
trị, chừng nào chưa thừa nhận trên thực tế sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị 
và phạm trù của nó. Nắm được điều đó, Nhà nước ta đã chuyển nền kinh tế 
sang hoạt động theo cơ chế thị trường bao gồm nhiều thành phần kinh tế cùng 
song song tồn tại. Và lúc này cạnh tranh là điều tất yếu, các DN phải đấu 
tranh với nhau để tồn tại và thương trường trở thành chiến trường. Trong điều 
kiện này, DN có tồn tại và phát triển hay không điều đó phụ thuộc vào việc 
DN hoạt động có hiệu quả hay không? Qua đây, vai trò của lợi nhuận được 
bộc lộ rõ nét hơn không chỉ là duy trì sự tồn tại, phát triển của DN mà bên 
cạnh đó còn giúp cải thiện hơn nữa đời sống cho người lao động và góp phần 
vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân. 
4.1. Lợi nhuận đối với doanh nghiệp. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 12 
Lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là điều kiện tồn tại và 
phát triển của doanh nghiệp. Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ 
chế thị trường hiện nay, bất kỳ một DN nào muốn tồn tại và phát triển được 
thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải mang lại hiệu quả nghĩa là kinh doanh 
phải có lãi. Các DN lúc này phải độc lập, tự chủ, chịu trách nhiệm hoàn toàn 
trước mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện nguyên tắc lấy thu bù chi 
và đảm bảo có lãi. Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, DN 
phải bỏ ra những chi phí ban đầu như: chi phí nguyên vật liệu, lao động, máy 
móc, đất đai, vốn...Đồng thời để hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra 
liên tục thì hoạt động đó phải có thu nhập để bù đắp được chi phí bỏ ra và 
phải có lợi nhuận để tái đầu tư trở lại. Nếu hoạt động kinh doanh không có lợi 
nhuận thì DN đó sẽ lâm vào tình trạng suy thoái và có thể dẫn đến phá sản. 
Ngoài ra, lợi nhuận còn là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất 
kinh doanh của DN. Lợi nhuận cũng chính là thang điểm để DN tự đánh giá 
kết quả hoạt động của mình. Từ khâu đầu tiên là nghiên cứu thị trường, tìm 
kiếm sản phẩm, tiến hành sản xuất, cho đến phân phối và tiêu thụ sản phẩm. 
Hoạt động của DN trong nền kinh tế thị trường là nhằm đạt tới mục tiêu lợi 
nhuận trong khuôn khổ của pháp luật. Xuất phát từ mục tiêu đó, trong mọi 
hoạt động sản xuất kinh doanh các DN luôn tìm cho mình một con đường 
riêng tối ưu để có thể thoả mãn cao nhất nhu cầu của thị trường và đạt đến lợi 
nhuận tối đa. Tóm lại, động lực lợi nhuận đã giúp các DN không những tự 
hoàn thiện mình hơn mà còn thúc đẩy họ hoạt động ngày càng mở rộng. Và 
một lần nữa có thể khẳng định, lợi nhuận chính là tiền đề vật chất giúp DN 
tồn tại và phát triển, giúp mở rộng quy mô kinh doanh. 
4.2. Lợi nhuận đối với người lao động. 
Người lao động chính là nhân vật trung tâm và có ảnh hưởng trực tiếp 
đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và có ảnh đến lợi nhuận 
của doanh nghiệp nói riêng. Lợi nhuận chính là nguồn mà qua đây doanh 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 13 
nghiệp thể hiện được sự quan tâm đối với người lao động thông qua việc trả 
lương cũng như việc trích lập các quỹ khen thưởng, trợ cấp, quỹ phúc lợi, quỹ 
trợ cấp mất việc làm..Nếu DN làm ăn kinh doanh có lãi thì lợi nhuận mà DN 
thu về sẽ ngày càng cao, và sẽ có điều kiện để thoả mãn được nhu cầu ngày 
càng cao của người lao động. Nếu như lương cao, ổn định và được hưởng 
nhiều quyền lợi từ các quỹ thì đời sống người lao động không những được cải 
thiện mà từ đó còn khuyến khích họ hăng say hơn trong công việc, nâng cao 
năng suất lao động. Một khi nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần của cán bộ công 
nhân viên trong DN được thoả mãn thì tinh thần trách nhiệm của họ trong 
công việc sẽ cao và từ đó sẽ thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của DN 
phát triển. Điều này không những giúp doanh nghiệp đứng vững mà còn giúp 
nó mở rộng hơn nữa và không ngừng tìm kiếm lợi nhuận. 
4.3. Lợi nhuận đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. 
Trong nền kinh tế, khi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có 
lợi nhuận thì nguồn thu của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Đây là điều kiện để 
doanh nghiệp có thể tích luỹ, bổ sung vốn bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu 
động, thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng đối với doanh nghiệp mình. 
Khi mỗi doanh nghiệp với tư cách là một tế bào trong nền kinh tế thực hiện 
tái sản xuất kinh doanh mở rộng thì quá trình tái sản xuất xã hội cũng tất yếu 
là quá trình tái sản xuất mở rộng. Mặt khác, lợi nhuận của doanh nghiệp chính 
là cơ sở để doanh nghiệp tính và đóng góp thuế thu nhập vào ngân sách nhà 
nước. Đóng thuế chính là doanh nghiệp đã vừa thực hiện quyền và nghĩa vụ 
của mình đối với Nhà nước. Đây chính là nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn trong 
tổng thu của ngân sách nhà nước. Và đã đáp ứng nhu cầu tích luỹ vốn để thực 
hiện quá trình đầu tư phát triển kinh tế theo chức năng của Nhà nước. Có 
nguồn thu lớn thì Nhà nước sẽ có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, xây 
dựng các công trình công cộng nhằm nâng cao đời sống cho người dân...sẽ có 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 14 
điều kiện để Nhà nước thực hiện vai trò to lớn của mình trên các mặt văn hoá, 
kinh tế, chính trị và xã hội. 
Tóm lại, lợi nhuận có vai trò rất quan trọng không những đối với sự tồn 
tại và phát triển của doanh nghiệp mà còn đối với cả người lao động. Mỗi 
doanh nghiệp với tư cách là một tế bào của cơ thể sống là nền kinh tế, thì 
doanh nghiệp có mạnh thì nền kinh tế mới vững được. Điều đó phụ thuộc vào 
việc doanh nghiệp hoạt động có thu được lợi nhuận hay không. Qua đây, ta 
thấy lợi nhuận cũng có vai trò quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc 
dân, bởi lợi ích của mỗi doanh nghiệp bao giờ cũng gắn liền với lợi ích của 
Nhà nước, của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 
II/ Phương pháp xác định và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp 
1. Phương pháp xác định lợi nhuận. 
Như chúng ta đã biết, lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp bao gồm nhiều bộ 
phận khác nhau do hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là đa 
dạng và phong phú. Vì vậy mà mỗi bộ phận lợi nhuận thu được từ những hoạt 
động khác nhau thì sẽ có phương pháp xác định khác nhau. 
1.1. Đối với hoạt động kinh doanh. 
1.1.1. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ. 
 = -_ _ 
 Trong đó: 
+ Doanh thu bán hàng là toàn bộ tiền bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ 
phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ như: giảm giá hàng 
bán, hàng bán bị trả lại... Doanh thu này không bao gồm thuế giá trị gia tăng 
Lợi nhuận từ hoạt động 
sản xuất kinh doanh 
hàng hoá dịch vụ 
Doanh 
thu
bán 
hàng 
Chi phí 
kinh 
doanh 
hợp lệ 
Thuế gián 
thu trong 
khâu tiêu 
thụ 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 15 
nếu tính theo phương pháp khấu trừ, và bao gồm cả thuế giá trị gia tăng nếu 
tính theo phương pháp trực tiếp. 
+ Chi phí kinh doanh hợp lệ: là toàn bộ chi phí kinh doanh phân bổ cho 
các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được coi là tiêu thụ trong kỳ. Chi phí kinh 
doanh được xác định như sau: 
 = + + 
+ Thuế gián thu trong khâu tiêu thụ: gồm thuế giá trị gia tăng( nếu tính 
theo phương pháp trực tiếp), thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có). 
1.1.2. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính. 
 = - 
Trong đó: 
- Doanh thu từ hoạt động tài chính có thể bao gồm: 
+ Thu do chia liên doanh. 
+ Lợi tức cổ phiếu. 
+ Lãi tiền gửi ngân hàng hoặc lãi cho vay các đối tượng khác. 
+ Thu từ hoạt động kinh doanh chứng khoán( chênh lệch giá mua bán 
tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu). 
+ Thu từ việc cho thuê tài sản. 
+ Chiết khấu thanh toán được hưởng khi mua. 
+ Doanh thu tài chính khác... 
- Chi phí hoạt động tài chính là các khoản chi phí đầu tư tài chính ra ngoài 
doanh nghiệp, nhằm sử dụng hợp lý các nguồn vốn, tăng thêm thu nhập và 
Chi phí sản xuất 
kinh doanh hàng 
hoá dịch vụ 
Trị giá 
vốn 
hàng đã 
tiêu thụ 
CPBH 
phân bổ 
cho hàng 
tiêu thụ 
trong kỳ 
CPQLDN 
phân bổ cho 
hàng tiêu thụ 
trong kỳ 
Lợi nhuận từ hoạt 
động tài chính 
Doanh thu từ 
hoạt động tài 
chính 
Chi phí từ hoạt 
động tài chính 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 16 
nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các khoản chi phí này bao 
gồm: 
+ Chi phí thực hiện hoạt động liên doanh liên kết( không bao gồm phần 
vốn góp liên doanh). 
+ Chi phí cho thuê tài sản. 
+ Chi phí mua bán các loại chứng khoán, kể cả các tổn thất trong đầu tư 
(nếu có). 
+ Chiết khấu thanh toán dành cho khách hàng. 
+ Chi phí lập dự phòng giảm giá chứng khoán. 
+ Chi phí tài chính khác. 
1.2. Đối với hoạt động khác. 
 = - 
 Trong đó: 
- Thu nhập khác: là những khoản thu nhập phát sinh không thường xuyên từ 
những hoạt động riêng biệt. Là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự 
tính trước hoặc là những khoản thu xảy ra một cách không đều đặn. Những 
khoản thu nhập này có thể do chủ quan hay khách quan đưa đến gồm: 
+ Thu về nhượng bán thanh lý TSCĐ. 
+ Thu tiền được phạt do vi phạm hợp đồng. 
+ Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý, xoá sổ. 
+ Thu các khoản nợ không xác định được chủ. 
+ Các khoản thu nhập của những năm trước bị bỏ sót hay quên ghi sổ 
năm nay mới phát hiện. 
+ Các khoản thu nhập bất thường khác... 
- Chi phí khác: là những khoản chi không thường xuyên như: 
Lợi nhuận khác Thu nhập khác Chi phí khác 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 17 
+ Chi phí thanh lý nhượng bán TSCĐ. 
+ Tiền phạt do vi phạm hợp đồng. 
+ Khoản tiền bị phạt thuế, truy thu thuế. 
+ Các khoản chi phí năm trước bị bỏ sót không ghi sổ nay phát hiện ghi 
bổ sung 
+ Chi phí bất thường khác... 
Qua đây, ta thấy việc xác định chính xác từng bộ phận lợi nhuận trong 
tổng lợi nhuận trong kỳ hoạt động của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan 
trọng. Bởi nó sẽ phản ánh đúng tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh toàn 
doanh nghiệp nói chung và ở từng lĩnh vực hoạt động nói riêng. 
2. Phân phối lợi nhuận. 
Phân phối lợi nhuận là một khâu không thể thiếu sau khi doanh nghiệp đã 
hoạt động có lãi. Phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp không chỉ đơn 
thuần là việc phân chia số tiền lãi thu được. Mà việc phân phối này còn phải 
đảm bảo nguyên tắc giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, 
doanh nghiệp và công nhân viên. Doanh nghiệp cũng phải dành phần thích 
đáng lợi nhuận để lại để giải quyết các nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình, 
đồng thời chú trọng đảm bảo lợi ích của các thành viên trong đơn vị. 
Tổng lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được về ngoài việc nộp thuế, bù đắp 
chi phí thiếu hụt trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh như chi phí 
nguyên nhiên vật liệu, chi phí thuê sử dụng máy thi công.., chia liên doanh 
liên kết...thì phần còn lại sẽ được trích lập vào các quỹ DN. Các DN khác 
nhau thì tỷ lệ trích lập các quỹ là khác nhau nhưng cùng chung một mục đích 
là: 
- Quỹ đầu tư phát triển được trích lập nhằm cải tiến, hiện đại hoá TSCĐ 
đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh; đầu tư cho việc phát 
triển thị trường và sản phẩm mới; bổ sung nhu cầu vốn lưu động tăng 
thêm... 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 18 
- Quỹ dự phòng tài chính được trích lập nhằm để bù đắp những thiệt hại, 
tổn thất do những rủi ro bất khả kháng trong hoạt động sản xuất kinh 
doanh đưa đến... 
- Quỹ khen thưởng, phúc lợi là một quỹ khuyến khích vật chất, nhằm 
nâng cao hơn nữa về đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động 
giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ đối với công việc. Quỹ này 
dùng để khen thưởng định kỳ hay đột xuất cho tập thể và cá nhân; hay 
dùng để xây dựng các công trình phúc lợi phục vụ đời sống và cải thiện 
điều kiện sinh hoạt, chăm lo sức khoẻ cho lao động trong doanh nghiệp. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 19 
III/ Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận. 
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có đứng vững hay không 
điều đó tuỳ thuộc vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. 
Lợi nhuận là một chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, là 
nguồn quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất. Trên phạm vi 
xã hội, lợi nhuận là nguồn để thực hiện tái sản xuất xã hội. Tuy vậy, lợi nhuận 
không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động của một 
doanh nghiệp. Bởi vì lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính cuối cùng nên nó chịu ảnh 
hưởng của nhiều nhân tố chủ quan, khách quan. Do vậy, để đánh giá chất 
lượng hoạt động của các doanh nghiệp, người ta phải kết hợp chỉ tiêu lợi 
nhuận với các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận như tỷ suất lợi nhuận trên doanh 
thu, tỷ suất lợi nhuận trên chi phí, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh... 
1. Tổng lợi nhuận. 
Tổng lợi nhuận là một chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số lãi sẽ được 
tạo ra trong năm. Chỉ tiêu này phản ánh cứ sau mỗi một năm hay một kỳ hoạt 
động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu đồng 
lợi nhuận. Nếu con số lợi nhuận thu về là lớn thì chứng tỏ doanh nghiệp đó 
hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả và ngược lại. Tuy nhiên, vì đây chỉ 
là chỉ tiêu tuyệt đối nên để có thể đưa ra được những đánh giá chính xác về 
chất lượng hoạt động của mỗi đơn vị thì cần phải kết hợp với các chỉ tiêu bên 
dưới. 
2. Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu. 
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là một chỉ tiêu tương đối phản ánh 
quan hệ tỷ lệ giữa tổng mức lợi nhuận với tổng doanh thu trong kỳ. 
 = x 100 
Tỷ suất lợi nhuận 
doanh thu bán hàng 
Tổng mức lợi nhuận kinh doanh 
Tổng doanh thu thực hiện trong kỳ 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 20 
 Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng doanh thu thu được thì doanh 
nghiệp sẽ có được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Do vậy, tỷ suất lợi nhuận doanh 
thu càng lớn thì kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh càng cao và ngược lại. 
Tuy nhiên, nếu thuần chỉ sử dụng tỷ suất này thì sẽ không đưa cho ta đánh giá 
chính xác về hiệu quả kinh doanh. Bởi có thể tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 
cao nhưng hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào lại không cao. 
3. Tỷ suất lợi nhuận/vốn kinh doanh. 
 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh là một chỉ tiêu tương đối phản 
ánh quan hệ tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận và tổng vốn kinh doanh sử dụng bình 
quân trong kỳ. 
 = xx 100 
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn nghĩa là cứ 100 đồng vốn 
đem đầu tư vào sản xuất kinh doanh thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. 
Doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư hay không đều được biểu hiện 
qua con số này và thông qua đó giúp doanh nghiệp nắm bắt được tình hình sử 
dụng vốn cũng như có biện pháp quản lý chặt chẽ sao cho vốn được sử dụng 
có hiệu quả nhất nhằm tối đa hoá lợi nhuận. 
4. Tỷ suất lợi nhuận/chi phí. 
Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí là chỉ tiêu tương đối phản ánh quan hệ tỷ lệ 
giữa tổng lợi nhuận với tổng chi phí kinh doanh trong kỳ. 
 = x 100 
Tỷ suất lợi nhuận 
trên vốn kinh doanh 
Tổng lợi nhuận trong kỳ 
Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ 
Tỷ suất lợi nhuận 
trên chi phí 
Tổng lợi nhuận trong kỳ 
Tổng chi phí kinh doanh trong kỳ 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 21 
 Qua chỉ tiêu này cho thấy cứ 100 đồng chi phí bỏ ra thì mang lại bao 
nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. Chỉ tiêu này giúp doanh nghiệp 
nắm được tình hình sử dụng chi phí trong đơn vị tiết kiệm hay lãng phí để từ 
đó đề ra biện pháp quản lý sao cho có hiệu quả. 
IV/ Các biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận. 
 Trong kinh doanh, lợi nhuận có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động sản 
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi có lợi nhuận chứng tỏ doanh nghiệp 
đã hoàn thành được kế hoạch của mình; có lợi nhuận chứng tỏ doanh nghiệp 
sẽ thực hiện được nghĩa vụ đối với Nhà nước...Tuy nhiên, liệu doanh nghiệp 
có đạt được mức lợi nhuận như đã đề ra hay không là còn phụ thuộc vào từng 
biện pháp cũng như kế hoạch kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Và để vượt 
qua mọi trở ngại đi đến cái đích cuối cùng là lợi nhuận cao thì doanh nghiệp 
cần phải có các biện pháp nâng cao lợi nhuận trên cơ sở phân tích kỹ các nhân 
tố ảnh hưởng tới lợi nhuận. 
1. Những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận: 
1.1. Những nhân tố khách quan: 
1.1.1. Chính sách kinh tế của Nhà nước: 
 Trên cơ sở pháp luật về kinh tế và các chính sách kinh tế, Nhà nước tạo 
ra môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh 
doanh và hướng các hoạt động của doanh nghiệp phục vụ cho chiến lược phát 
triển kinh tế-xã hội trong mỗi thời kỳ. Sự thay đổi trong chính sách kinh tế 
của Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói 
chung và tới lợi nhuận của doanh nghiệp nói riêng. Bởi điều tiết mọi hoạt 
động kinh tế ở tầm vĩ mô chính là vai trò chính của Nhà nước trong nền kinh 
tế thị trường này. Bằng các chính sách, luật lệ và các công cụ tài chính khác 
Nhà nước định hướng, khuyến khích hay hạn chế hoạt động của các doanh 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 22 
nghiệp. Trong đó thuế là một công cụ giúp cho Nhà nước thực hiện tốt công 
việc điều tiết vĩ mô của mình. Thuế là một hình thức nộp theo luật định và 
không có hoàn trả trực tiếp cho mọi tổ chức kinh tế. Vì vậy, thuế là một trong 
những khoản chi phí của doanh nghiệp, nên đóng thuế cao hay thấp sẽ ảnh 
hưởng không nhỏ tới lợi nhuận. 
1.1.2. Chính sách lãi suất: 
 Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài những kinh 
nghiệm, kiến thức thì vốn vẫn luôn là điều kiện vật chất không thể thiếu được 
đối với sự tồn tại và phát triển của DN. Vốn quyết định quy mô, hiệu quả kinh 
doanh, chỗ đứng vị thế của DN trên thương trường. Nhưng thông thường 
ngoài nguồn vốn tự có thì doanh nghiệp đều phải đi vay thêm vốn. Doanh 
nghiệp có thể vay bằng nhiều cách nhưng để có được khoản tiền đó thì doanh 
nghiệp phải trả cho người cho vay một khoản tiền gọi là lãi vay. 
Lãi vay phải được tính trên cơ sở tiền gốc, lãi suất và thời gian vay. Vì 
vậy, lãi suất phần nào quyết định đến số tiền lãi vay phải trả. Nếu số tiền phải 
trả này lớn thì lợi nhuận trong đơn vị sẽ giảm và ngược lại. 
1.1.3. Thị trường và cạnh tranh: 
 Thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp bởi 
muốn tồn tại và phát triển thì sản phẩm của doanh nghiệp phải đáp ứng được 
các nhu cầu của người tiêu dùng. Mọi biến động về cung cầu trên thị trường 
đều có ảnh hưởng tới khối lượng sản phẩm, hàng hoá mà doanh nghiệp định 
cung ứng . Vì vậy, doanh nghiệp phải định hướng nhu cầu cho khách hàng 
tiềm năng đối với sản phẩm hiện có và các sản phẩm mới. Mặt khác, doanh 
nghiệp cần quan tâm tới khả năng của các đối thủ cạnh tranh, của những sản 
phẩm thay thế cho những sản phẩm của doanh nghiệp bởi cạnh tranh là yếu tố 
không thể bỏ qua khi nhắc đến thị trường. Cạnh tranh là một yếu tố khách 
quan mà mọi DN đều phải đối mặt. Cạnh tranh xảy ra giữa các đơn vị cùng 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 23 
sản xuất kinh doanh một sản phẩm hàng hoá, hay những sản phẩm có thể thay 
thế lẫn nhau làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Cạnh tranh 
nhiều khi tạo ra những yếu tố tích cực giúp doanh nghiệp phát triển nhưng 
nhiều khi chính nó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng doanh nghiệp bị suy 
thoái, phá sản. Vì vậy, mỗi một doanh nghiệp khi bắt tay vào thực hiện một 
vấn đề gì cần nghiên cứu kỹ thị trường kèm theo các yếu tố cạnh tranh vốn có 
của nó để tránh tình trạng bị “ cá lớn nuốt cá bé”. 
1.1.4. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội: 
 Một đất nước mà tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ổn định không có 
khủng bố, chiến tranh...thì sẽ tạo ra một môi trường tốt kích thích doanh 
nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Ngược lại, sẽ tạo ra những bất lợi 
ảnh không nhỏ đến mọi kế hoạch trong kinh doanh của DN. Và nó sẽ làm cho 
lợi nhuận có xu hướng giảm. 
1.1.5. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật: 
 Một khi khoa học ngày càng tiến bộ thì đòi hỏi các doanh nghiệp cũng 
phải không ngừng tiếp thu những tiến bộ đó như cải tiến, hiện đại hoá máy 
móc; đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn cho người lao động sao cho theo kịp 
với thời đại. Nếu không thì mọi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra sẽ trở 
nên lạc hậu khó lòng đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu 
dùng và như vậy lợi nhuận lại giảm là điều không thể tránh khỏi. 
1.2. Những nhân tố chủ quan: 
1.2.1. Nhân tố con người: 
 Có thể nói con người luôn đóng vai trò trung tâm và có ảnh hưởng trực 
tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt 
trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp phải cạnh tranh 
nhau một cách gay gắt thì con người lại càng khẳng định được mình là yếu tố 
quyết định tạo ra lợi nhuận. Trình độ quản lý và trình độ chuyên môn cũng 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 24 
như sự nhanh nhạy của người lãnh đạo trong cơ chế thị trường ảnh hưởng trực 
tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp mà số 
lượng cán bộ công nhân viên có trình độ đại học, trình độ chuyên môn, kỹ 
thuật cao sẽ giúp nâng cao năng suất lao động, có thêm nhiều sáng kiến cải 
tiến đem lại lợi nhuận. Bên cạnh đó tinh thần trách nhiệm cũng như ý thức 
trong công việc của người lao động cũng rất quan trọng, quyết định đến sự 
thành bại của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp mà hội tụ đủ những con người 
như vậy thì doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ thành công với lợi nhuận thu về là 
cao nhất. 
1.2.2. Khả năng về vốn: 
 Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài những 
nhân tố quan trọng như con người, kinh nghiệm và kiến thức kinh doanh..thì 
vốn là yếu tố không thể thiếu đối với sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. 
 Vốn là tiền đề vật chất cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh 
nghiệp. Như vậy nó là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến 
hiệu quả sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp. 
Trong quá trình cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp nào “ trường 
vốn”, có lợi thế về vốn thì sẽ có lợi thế kinh doanh. Khả năng về vốn dồi dào 
sẽ giúp doanh nghiệp dành được thời cơ trong kinh doanh, có điều kiện mở 
rộng thị trường từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng doanh thu và tăng 
lợi nhuận. 
1.2.3. Về trình độ quản lý chi phí sản xuất kinh doanh: 
Chi phí sản xuất kinh doanh là những khoản chi phí phát sinh liên quan 
đến mọi hoạt động trong doanh nghiệp, liên quan đến việc sử dụng các yếu tố 
đầu vào có hiệu quả hay không. Chi phí là một nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp 
đến lợi nhuận bởi nếu chi phí được sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả 
thì lợi nhuận sẽ đạt tối đa còn nếu không sẽ ngược lại. Vì vậy, vấn đề đặt ra với 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 25 
mỗi doanh nghiệp là phải xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố tới chi phí để 
từ đó có những biện pháp sử dụng chi phí hợp lý góp phần tăng lợi nhuận. 
1.2.4. Chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ : 
 Cạnh tranh là điều tất yếu khi mà trên thị trường có trăm người bán có 
vạn người mua. Để có thể cạnh tranh được thì sản phẩm, hàng hoá dịch vụ mà 
doanh nghiệp cung ứng ra thị trường phải đạt chất lượng cao và được người 
tiêu dùng chấp nhận. Chất lượng là yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận và nó giữ 
vai trò quyết định đến khối lượng sản phẩm, hàng hoá dịch vụ sẽ tiêu thụ ra 
thị trường. Khi doanh nghiệp sản xuất ra được những sản phẩm, hàng hoá có 
chất lượng cao thì mức tiêu thụ cũng sẽ cao và doanh thu cũng như lợi nhuận 
về doanh nghiệp sẽ tăng. 
2. Các biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận: 
Thông qua vai trò của lợi nhuận, chúng ta thấy lợi nhuận có ý nghĩa vô 
cùng quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn xã hội. 
Chính vì vậy, phấn đấu tăng lợi nhuận trên cơ sở phân tích kỹ các nhân tố ảnh 
hưởng tới nó đang là vấn đề được mỗi doanh nghiệp đặt lên hàng đầu. 
2.1. Tăng số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm tiến tới tăng doanh 
thu: 
Đây là một phương hướng quan trọng để tăng thêm lợi nhuận cho các 
đơn vị sản xuất kinh doanh. Nếu như các điều kiện khác không có gì thay đổi 
thì khối lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi 
nhuận của doanh nghiệp. Đầu tư theo chiều rộng như mở rộng qui mô sản 
xuất, xây dựng thêm nhiều phân xưởng, kho tàng, tuyển thêm nhiều lao 
động...cũng đồng nghĩa với việc tăng số lượng sản phẩm. Nhưng tăng số 
lượng sản phẩm chưa chắc đã làm tăng doanh thu bởi số lượng phải đi kèm 
với chất lượng. Vì vậy, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm luôn là 
mục tiêu mà mọi doanh nghiệp đều phấn đấu. Bên cạnh việc đầu tư theo chiều 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 26 
rộng các doanh nghiệp cũng cần phải mạnh dạn hơn nữa trong việc đầu tư 
theo chiều sâu như trang bị thêm nhiều máy móc thiết bị hiện đại, áp dụng 
tiến bộ khoa học kỹ thuật, thực hiện chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất 
hay đào tạo cán bộ công nhân viên có trình độ để theo kịp với sự phát triển 
chung. 
Nếu làm được điều đó thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ không những 
được người tiêu dùng chấp nhận mà còn làm cho doanh thu cũng như lợi 
nhuận tăng một cách đáng kể. 
2.2. Giảm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm: 
Giảm chi phí là biện pháp cơ bản để tăng thêm lợi nhuận cho doanh 
nghiệp và cũng tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể hạ thấp giá 
thành sản phẩm giúp cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, các đơn vị cần phải 
thực hiện tốt các biện pháp sau để có thể tiết kiệm chi phí cả về lao động sống 
lẫn lao động vật hoá: 
+ Tăng năng suất lao động sao cho số sản phẩm sản xuất ra trong một 
đơn vị thời gian tăng lên hoặc thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị 
sản phẩm giảm. Và để làm tốt được điều đó thì doanh nghiệp cần phải chịu 
khó đầu tư, đổi mới máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh; áp dụng 
các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến tạo tiền đề 
làm thay đổi căn bản điều kiện sản xuất. Ngoài ra, cần phải biết sử dụng hết 
công suất của máy móc nhằm giảm chi phí khấu hao trên một đơn vị sản 
phẩm. Nâng cao tay nghề và ý thức trách nhiệm của người lao động cũng là 
một giải pháp giúp tăng năng suất lao động. Bởi nếu người lao động có trình 
độ cao đồng thời được bố trí đúng ngành, đúng nghề thì họ sẽ phát huy hết 
khả năng của mình giúp đẩy nhanh tốc độ sản xuất. Bên cạnh đó doanh 
nghiệp cũng phải biết gắn bó họ với công việc, với doanh nghiệp; kích thích 
lòng say mê làm việc ở họ..thông qua tiền lương, tiền thưởng hay những sự 
quan tâm tới đời sống vật chất cũng như tinh thần của họ.. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 27 
+ Cần hạn chế đến mức thấp nhất các khoản chi phí không cần thiết. 
+ Cần phải biết tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu tiêu hao trong quá trình 
sản xuất. Bởi chi phí cho chúng thường chiếm tỷ lệ lớn trong giá thành sản 
phẩm nên nếu tiết kiệm được chi phí này ta sẽ góp phần làm hạ giá thành sản 
phẩm. Muốn vậy, ngay từ trước khi sản xuất doanh nghiệp phải lập kế hoạch 
chi tiết về nguyên vật liệu để tránh tình trạng ứ đọng hoặc thiếu trong quá 
trình sản xuất. Nên nhất thiết phải tổ chức tốt công tác cung ứng vật tư đảm 
bảo phù hợp với kế hoạch sản xuất đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, 
giám sát quá trình sản xuất nhằm ngăn chặn kịp thời tình trạng sử dụng lãng 
phí nguyên vật liệu.. 
+ Đẩy nhanh mức lưu chuyển nhằm giảm tỷ suất chi phí. 
+ Tinh giảm biên chế và giảm thiểu các khâu trung gian. 
+ Phải biết lập dự toán chi phí theo từng kỳ nhất định căn cứ vào kế 
hoạch đã vạch ra để tránh tình trạng chi phí bị sử dụng một cách không có 
hiệu quả. 
2.3. Tăng cường công tác quản lý tài chính: 
Nói đến lợi nhuận không thể không nhắc đến bộ máy quản lý tài chính 
nên muốn nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp cần phải tăng cường công tác 
quản lý tài chính chặt chẽ ở tất cả các khâu trong mọi quá trình hoạt động sản 
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bao gồm: 
2.3.1. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn. 
Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều đòi hỏi có vốn - một tiền đề vật 
chất không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị 
trường thì sử dụng vốn có hiệu quả chính là mục tiêu mà mọi doanh nghiệp 
đều hướng tới. Một khi qui mô sản xuất kinh doanh ngày càng lớn mạnh thì 
lượng vốn mà doanh nghiệp cần phải có ngày càng nhiều. Nó là điều kiện để 
doanh nghiệp có thể mở rộng qui mô sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu; 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 28 
nó quyết định tới hiệu quả kinh doanh, chỗ đứng, vị thế của doanh nghiệp trên 
thương trường. Bởi vậy, huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả chính 
là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động sản 
xuất kinh doanh và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Các nguồn vốn mà 
doanh nghiệp có thể khai thác gồm: vốn trong liên doanh, liên kết; vốn trong 
thanh toán; vốn tín dụng; vốn từ thị trường tài chính hoặc nguồn vốn huy 
động từ chính cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp..Tuy nhiên, cần phải 
đảm bảo giữ vững chữ tín trong công tác huy động vốn có thế doanh nghiệp 
mới có thể tranh thủ được sự giúp đỡ của các đơn vị bạn, của ngân hàng và 
các tổ chức tài chính tín dụng khác. 
Việc huy động vốn đã khó nhưng việc sử dụng đồng vốn đó sao cho có 
hiệu quả nhất mới là việc khó khăn hơn nhiều. Bởi vốn cũng như mọi thứ 
khác muốn có quyền sử dụng nó ta phải bỏ ra chi phí, nếu hoạt động sản xuất 
kinh doanh không có hiệu quả thì cũng đồng nghĩa với việc ta đã sử dụng lãng 
phí chi phí, làm giảm lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể thu về. Điều này đòi 
hỏi các đơn vị phải tận dụng nguồn vốn sao cho chi phí bỏ ra để được sử dụng 
vốn là thấp nhất nhưng hiệu quả đem về lại là cao nhất: 
+ Lên kế hoạch rõ ràng cho việc huy động và sử dụng vốn tránh tình 
trạng vốn về đến doanh nghiệp mà chưa biết sử dụng vào việc gì. 
+ Xác định rõ chi phí và lợi ích thu được từ việc huy động và sử dụng 
vốn. 
+ Xác định rõ lượng vốn cần huy động một cách chính xác để tiết kiệm 
chi phí sử dụng vốn. 
+ Sử dụng một cách tiết kiệm, tránh lãng phí thất thoát vốn. 
+ Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn. 
2.3.2. Xây dựng phương án sản xuất kinh doanh phù hợp với thực lực của 
doanh nghiệp. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 29 
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi bắt tay vào hoạt động đều phải vạch 
ra cho mình một phương án sản xuất kinh doanh hợp lý. Hợp lý có nghĩa là nó 
phải tận dụng được mọi điều kiện, mọi nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp, 
chi phí bỏ ra cho phương án phải là min trong khi hiệu quả thu về phải là 
max. 
 Điều này cũng giúp đóng góp những viên gạch xây nên móng vững 
chắc cho doanh nghiệp trên thị trường. Để xây dựng phương án kinh doanh có 
hiệu quả doanh nghiệp cần phải xác định được vị trí của mình trên thương 
trường, cũng như xác định những thuận lợi khó khăn của doanh nghiệp mình. 
Doanh nghiệp phải xác định được đối thủ cạnh tranh của mìnhlà ai, đối tượng 
cần phục vụ là ai..Tất cả mọi điều này đều có ý nghĩa đối với sự tồn tại và 
phát triển của doanh nghiệp. 
2.3.3. Phân phối và sử dụng lợi nhuận một cách hợp lý. 
Đây cũng là một công việc khó trong suốt quá trình hoạt đông của doanh 
nghiệp. Lợi nhuận là khoản thu được về sau mỗi một quá trình sản xuất kinh 
doanh; có lợi nhuận doanh nghiệp sẽ có điều kiện tái sản xuất mở rộng qui 
mô, có điều kiện nâng cao đời sống người lao động và thực hiện nghĩa vụ với 
nhà nước.. Cho nên, việc phân phối và sử dụng lợi nhuận cần phải dựa trên 
nguyên tắc sau: 
- Doanh nghiệp cần phải giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa Nhà 
nước, doanh nghiệp và người lao đông. 
- Doanh nghiệp cũng phải dành một phần thích đáng lợi nhuận để lại để 
giải quyết các nhu cầu sản xuất kinh doanh của đơn vị mình cũng như 
chú trọng tới lợi ích người lao động trong doanh nghiệp. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 30 
Chương II 
Phân tích tình hình lợi nhuận tại Công ty đầu tư hạ tầng khu công công nghiệp và đô thị số 
18. 
I/ Tổng quan chung về Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18. 
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty. 
Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 thuộc Tổng 
công ty đầu tư và phát triển nhà Hà nội là một doanh nghiệp Nhà nước hạch 
toán độc lập và là thành viên Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà nội. 
Công ty được thành lập từ năm 1968. 
Để phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của Thành phố, đặc biệt là 
phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và đô thị, ngày 10 tháng 12 
năm 2002, UBND Thành phố Hà nội đã ra quyết định số 8515/2002/QĐ-UB 
về việc đổi tên và bổ xung nhiệm vụ cho công ty với tên gọi mới là: 
 Tên tiếng Việt của công ty: 
Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18. 
 Tên tiếng Anh của công ty: 
N018 URBAN AND INDUSTRIAL ZONE INFRASTRUCTURE 
INVESTMENT COMPANY. 
 Tên viết tắt: 
UIZIDECOM 18 
 Trụ sở: số 193 – 195 Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội. 
 Giám đốc công ty: Nguyễn Huy Thăng. 
 Điện thoại: (84-4) 5.55701 – 5.565509 – 5.565514. 
Fax: (84-4) 5.565498 
 Địa chỉ Email: UIZIDECOM 
[email protected] 
 Mã số thuế: 0100100738-1 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 31 
 Tài khoản: 21110000000715 
 Tại: Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. 
2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của công ty. 
- Đầu tư phát triển các khu công nghiệp, Cụm công nghiệp. 
- Xây dựng và kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng khu công nghiệp và 
đô thị. 
- Kinh doanh, dịch vụ khu công nghiệp bao gồm: cho thuê lại đất đã xây 
dựng hạ tầng, cho thuê và nhượng bán nhà xưởng, văn phòng, kho bãi 
xây dựng sẵn. 
- Xây dựng công trình công nghiệp, dân dụng, công cộng và xây dựng 
khác. 
- Sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng. 
- Kinh doanh nhà. 
- Lập dự án đầu tư, tổ chức xây dựng các cơ sở kỹ thuật hạ tầng như giải 
phóng, san lấp mặt bằng, xây dựng điện hạ thế, cấp thoát nước, đường 
nội bộ, quy hoạch cây xanh, xây dựng di chuyển nhà máy. 
- Lắp đặt thiết bị các công trình công nghiệp và dân dụng: cấp thoát 
nước, thiết bị cơ điện, hệ thống thông tin, tín hiệu điều kiển nút giao 
thông thành phố. 
- Xây dựng, lắp đặt các công trình thuỷ lợi: Đê, kè, cống, trạm bơm, 
kênh mương, cửa van, đường ống và các công trình phụ trợ; Xây dựng 
công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị, san nền, đường sá, vỉa hè đến nhóm 
B. 
- Xây dựng, lắp đặt công trình thông tin, bưu điện gồm: mương, cống, 
bể, lắp ống luồn cáp. 
Giấy phép kinh doanh số: 110982 ngày 22 tháng 7 năm 1996 do Uỷ 
Ban Kế Hoạch Hà Nội cấp. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 32 
Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 là doanh 
nghiệp Nhà nước, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và được mở tài 
khoản tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. 
 3. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty. 
Cũng giống như các công ty, doanh nghiệp khác, Công ty đầu tư hạ 
tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh 
lãi hưởng lỗ chịu nhưng trước tiên là phải hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước. 
Nếu công ty thiếu vốn trong quá trình hoạt động thì với tư cách pháp nhân của 
mình, công ty có thể vay vốn tại ngân hàng để đảm bảo duy trì mọi hoạt động 
của công ty. 
Nhưng với đặc điểm là công ty xây dựng, thì sau khi ký kết được các 
hợp đồng, Công ty sẽ giao cho từng xí nghiệp với đích danh từng người phụ 
trách. Đây là hình thức khoán gọn cho từng xí nghiệp, từng đội xây dựng 
nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với từng người cán bộ, nhân viên 
trong công ty, đồng thời tạo cho họ chủ động trong công việc. 
Để có thể đảm bảo uy tín của Công ty và bàn giao hợp đồng đúng tiến 
độ cũng như chất lượng thì tại các công trình thi công, ngoài máy móc hiện 
đại sẵn có công ty có thể chủ động thuê thêm máy móc bên ngoài thi trường 
nhằm đáp ứng đúng yêu cầu kỹ thuật của từng công trình. 
Bên cạnh đó Công ty cũng không ngừng trang bị máy móc hiện đại 
cũng như chú trọng đến công tác đào tạo đội ngũ lao động gián tiếp nhằm 
nâng cao hơn nữa vị thế của công ty. 
 4. Tổ chức bộ máy quản lý và bộ máy kế toán tại công ty. 
* Nhân sự của công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18: 
Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ nghiệp vụ của công ty 
có năng lực chuyên môn được đánh giá cao, có kinh nghiệm tổ chức và quản 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 33 
lý thi công ở nhiều lĩnh vực, ở nhiều ngành nghề, cả ở những công trình có 
qui mô lớn, có yêu cầu kỹ thuật và chất lượng cao. 
Đội ngũ công nhân lành nghề, được đào tạo cơ bản, có tay nghề giỏi và 
tính kỷ luật cao. 
Nhân sự toàn công ty được tổ chức và biên chế thành 14 đầu mối quản 
lý gồm: 
+ Các phòng ban nghiệp vụ công ty. 
+ 5 xí nghiệp xây lắp số 2, 4, 5, 6, 8. 
+ 6 đội xây lắp tổng hợp ( gồm cả xây, lắp, điện, nước). 
+ 1 xưởng sản xuất gạch lát, đá ốp lát, cấu kiện bê tông trong xây dựng. 
+ Một xưởng sản xuất đồ mộc và trang trí nội thất. 
+ 1 xưởng sản xuất cửa cuốn, cửa nhôm, cửa xếp và các cấu kiện thép... 
+ 1 xưởng cơ khí và cơ điện. 
+ 1 đội cung ứng vật tư vận tải. 
Tổng số cán bộ, nhân viên toàn công ty là: 1.120 người. 
- Cơ cấu lao động: 
+ Gián tiếp : 128 người. 
+ Trực tiếp sản xuất: 892 người. 
- Phân loại trình độ nghiệp vụ: 
+ Trình độ đại học : 93 người. 
+ Trình độ trung cấp: 40 người. 
+ Công nhân kỹ thuật và công nhân hợp đồng lao động : 987 người. 
4.1. Bộ máy quản lý: 
Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 với mô hình tổ 
chức quản lý đứng đầu công ty là giám đốc, tiếp đó là các phó giám 
đốc, dưới là các phòng ban chức năng. Các bộ phận chức năng được uỷ 
quyền chỉ đạo ra quyết định, giải quyết những vấn đề chuyên môn do 
mình phụ trách, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả chất lượng quản lý.(Cơ 
cấu quản lý- trang bên). 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 34 
Sơ đồ 1: Bộ máy quản lý của Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18. 
Tổng công ty 
C.ty UIZIDECOM 18 
Giám đốc 
công ty 
P. Giám đốc P. Giám đốc P. Giám Đốc P. Giám đốc 
Phòng 
Kế hoạch tổng hợp 
Phòng 
Kỹ thuật quản lý XL 
Phòng 
Tài chính kế toán 
Phòng 
Tổ chức lao động 
Phòng 
Hành chính quản trị 
Các 
xưởng sản 
xuất 
Xí nghiệp 
xây lắp 2 
Xí nghiệp 
xây lắp 4 
Xí nghiệp 
xây lắp 5 
Xí nghiệp 
xây lắp 6 
Xí nghiệp 
xây lắp 8 
Trung tâm 
thiết kế 
BQL DA Cụm 
CN Ninh Hiệp 
Đội xây lắp 
 201 202 
Đội xây lắp 
 401 402 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 35 
Theo sơ đồ trên, các bộ phận có chức năng như sau: 
- Giám đốc Công ty là người chịu trách nhiệm chính mọi hoạt động của 
Công ty đồng thời là người có thẩm quyền cao nhất trong Công ty đại 
diện cho quyền lợi cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty. 
- Phó giám đốc là người giúp việc Giám đốc, điều hành một hay một số 
lĩnh vực hoạt động của công ty theo sự phân công và uỷ quyền của 
Giám đốc. 
- Phòng kế hoạch tổng hợp là phòng chuyên môn, có chức năng tham 
mưu cho lãnh đạo về công tác sản xuất kinh doanh, đưa ra các kế 
hoạch, dự án để đầu tư. 
- Phòng kỹ thuật quản lý xây lắp có nhiệm vụ quản lý mọi mặt hoạt động 
liên quan đến kỹ thuật trong công tác xây lắp. 
- Phòng tài chính kế toán có chức năng tham mưu cho lãnh đạo và lĩnh 
vực kế toán-tài chính. Theo dõi tập hợp mọi chi phí phát sinh, tổ chức 
các công việc kế toán từ việc tổ chức các chứng từ kế toán ban đầu đến 
công việc lập báo cáo tài chính.. 
- Phòng tổ chức lao động có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc những 
vấn đề trong tổ chức lực lượng sản xuất, đào tạo tuyển dụng hay cho 
thôi việc. Hàng tháng tổng hợp tình hình lao động, giải quyết mọi chế 
độ liên quan đến người lao động.. 
- Phòng hành chính quản trị là phòng quản lý mọi việc có liên quan đến 
công tác hành chính của toàn Công ty. 
4.2. Bộ máy kế toán Công ty: 
* Mô hình tổ chức phòng kế toán - tài chính:(trang bên) 
Theo mô hình này, bộ máy kế toán của công ty sẽ chịu trách nhiệm 
hạch toán và tổng hợp toàn bộ thông tin của toàn công ty. Còn các ban kế toán 
của xí nghiệp thường chỉ thực hiện một số phần việc kế toán nhưng không lập 
các báo cáo tài chính. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuý Hương 
 Trang 37 
Sơ đồ 2: Mô hình phòng kế toán - Tài chính của công ty. 
Kế toán trưởng công ty 
Kế toán 
tổng hợp và 
tính giá 
thành 
Kế toán 
thanh toán 
với khách 
hàng 
Kế toán 
thanh toán 
với ngân 
hàng 
Kế toán tiền 
lương và 
tạm ứng 
Kế toán 
theo dõi 
TSCĐ 
Tài vụ 
Ban kế toán xí 
nghiệp 
Ban kế toán xí 
nghiệp 
Ban kế toán xí 
nghiệp 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 38 
* Tổ chức bộ máy kế toán Công ty: 
Công ty đã tiến hành tập hợp đồng bộ các cán bộ kế toán để đảm bảo 
thực hiện khối lượng công việc kế toán trong từng phần hành cụ thể. Các cán 
bộ, nhân viên kế toán mà công ty đã lựa chọn đều được quy định rõ chức 
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, để từ đó tạo thành mối liên hệ có tính vị trí, lệ 
thuộc, chế ước lẫn nhau. Guồng máy kế toán hoạt động được có hiệu quả là 
do sự phân công, tạo lập mối liên hệ chặt chẽ giữa các loại lao động kế toán 
theo tính chất khác nhau của khối lượng công tác kế toán. Công việc kế toán 
cụ thể và tố chất của người lao động là hai điều kiện cơ bản để thực hiện sự 
phân công lao động kế toán. Ngoài ra, khi phân công lao động kế toán trong 
bộ máy còn cần phải tôn trọng các điều kiện có tính nguyên tắc khác như: 
Nguyên tắc bất vị thân, bất kiêm nhiệm, hiệu quả và tiết kiệm, chuyên môn 
hoá và hợp tác hoá lao động... 
Trong bộ máy kế toán, mỗi nhân viên kế toán phần hành đều có chức 
năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng về khối lượng công tác kế toán được giao. 
Các kế toán phần hành có thể chuyên môn hoá sâu theo từng phần hành hoặc 
có thể kiêm nhiệm một số phần hành theo nguyên tắc chung của tổ chức khoa 
học lao động kế toán. Kế toán phần hành phải có trách nhiệm quản lý trực 
tiếp, phản ánh thông tin kế toán, thực hiện sự kiểm tra qua ghi chép phản ánh 
tổng hợp; đối tượng kế toán phần hành được đảm nhiệm từ giai đoạn hạch 
toán ban đầu(trực tiếp ghi chứng từ hoặc tiếp nhận và kiểm tra) tới các giai 
đoạn kế toán tiếp theo( ghi sổ kế toán phần hành, đối chiếu kiểm tra số liệu 
trên sổ với thực tế tài sản, tiền vốn và hoạt động...lập báo cáo phần hành) 
được giao. 
Các kế toán phần hành đều có trách nhiệm liên hệ với kế toán tổng hợp 
để hoàn thành ghi sổ tổng hợp hoặc lập báo cáo định kỳ chung ngoài báo cáo 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 39 
phần hành. Quan hệ giữa các lao động kế toán phần hành là quan hệ ngang, có 
tính chất tác nghiệp, không phải quan hệ trên dưới có tính chất chỉ đạo. 
Phòng kế toán – tài chính của Công ty gồm: 
- Kế toán trưởng. 
- Kế toán tổng hợp và tính giá thành. 
- Kế toán thanh toán với khách hàng. 
- Kế toán thanh toán với ngân hàng. 
- Kế toán tiền lương và tạm ứng. 
- Kế toán theo dõi TSCĐ. 
- Tài vụ 
Trong đó: 
+ Kế toán trưởng có trách nhiệm giúp đỡ Giám đốc tổ chức hoạt động 
kinh tế trong Công ty một cách thường xuyên nhằm đánh giá đúng tình 
hình, kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Phát hiện những lãng phí 
thiệt hại đã xảy ra, những việc làm không có hiệu quả, những sự trì trệ 
trong sản xuất kinh doanh để có biện pháp khắc phục. 
+ Kế toán tổng tại công ty có nhiệm vụ tổng hợp số liệu, vào sổ cái các 
tài khoản. Từ đó tiến hành lập các báo cáo tài chính, kết hợp với kế 
toán trưởng tiến hành phân tích quyết toán của đơn vị. 
+ Kế toán thanh toán có nhiệm vụ phản ánh các khoản nợ phải thu, nợ 
phải trả, các khoản phải nộp, phải cấp cũng như tình hình thanh toán và 
còn phải thanh toán với các đối tượng(người mua, người bán, cấp trên, 
cấp dưới, với ngân hàng, ngân sách, công nhân viên...) 
+ Kế toán tài sản cố định theo dõi tài sản không những về mặt hiện vật 
mà còn theo dõi cả về nguyên giá và giá trị còn lại của từng loại. 
* Hình thức kế toán: 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 40 
Hình thức kế toán mà Công ty áp dụng là hình thức nhật ký – chứng từ. 
Đặc trưng cơ bản của hình thức nhật ký- chứng từ: sử dụng nhật ký 
chứng từ để theo dõi vế có của các tài khoản khi có nghiệp vụ kinh tế 
phát sinh và có phân tích theo các tài khoản đối ứng, sử dụng sổ cái của 
các tài khoản để tổng theo vế nợ của các tài khoản tại thời điểm cuối 
kỳ. Các sổ kế toán được sử dụng kết hợp kế toán tổng hợp với chi tiết, 
kết hợp ghi theo thời gian và ghi theo hệ thống. 
Các sổ kế toán được sử dụng trong hình thức nhật ký- chứng từ: nhật 
ký chứng từ, bảng kê, sổ cái tài khoản và các sổ kế toán chi tiết. 
Trình tự kế toán theo hình thức nhật ký chứng từ: hàng ngày khi có 
nghiệp vụ kinh tế phát sinh, căn cứ vào chứng từ kế toán ghi vào các nhật ký 
chứng từ có liên quan. Đối với các nhật ký chứng từ được ghi căn cứ vào các 
bảng kê hoặc sổ chi tiết thì số liệu trên các chứng từ kế toán được ghi vào 
bảng kê hoặc sổ chi tiết, cuối tháng tổng hợp số liệu trên bảng kê hoặc sổ chi 
tiết để ghi vào nhật ký chứng từ. Đối với các khoản chi phí phát sinh trong 
quá trình hoạt động cần phải tính toán phân bổ sẽ được tập hợp trên các bảng 
phân bổ, cuối kỳ được tính toán phân bổ để ghi vào các bảng kê, nhật ký 
chứng từ có liên quan. Cuối kỳ tổng hợp số liệu trên các nhật ký chứng từ để 
ghi vào sổ cái của các tài khoản, căn cứ vào số liệu tổng hợp trên sổ cái, trên 
bảng tổng hợp chi tiết và trên các nhật ký chứng từ, bảng kê để lập các báo 
cáo tài chính. 
Sơ đồ 3: Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức nhật ký chứng từ. 
Chứng từ gốc và 
các bảng phân bổ 
NKCT Bảng kê Sổ thẻ kế toán 
chi tiết 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 41 
Ghi chú: 
 : Ghi hàng ngày. 
 : Ghi cuối tháng. 
 : Đối chiếu, kiểm tra. 
5. Tình hình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 
Đơn vị tính: triệu đồng. 
So sánh 
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 
ST TL% 
1. Doanh thu từ hđ SXKD h2-dv 60053 94283,21 34230,21 57 
2. Chi phí SXKD h2-dv 59155,54 92934,75 33779,21 57,1 
3. Tổng lợi nhuận 813,28 1398,31 585,03 71,93 
- Lợi nhuận kinh doanh 813,28 1319,42 506,14 62,23 
+ Lợi nhuận từ hđ SXKD h2-dv 897,46 1348,46 451 50,25 
+ Lợi nhuận từ hđ tài chính -84,18 -29,04 55,14 -65,5 
- Lợi nhuận khác - 78,89 78,89 - 
4. Nộp NSNN 3416,39 5846,69 2430,3 71,14 
5. Thu nhập bình quân 
1ng/1tháng 
1,3 1,35 0,05 3,85 
Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 
Nhìn chung, kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị là tốt. Bởi doanh 
thu từ hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ năm 2004 tăng 57% so với năm 
Sổ cái 
Báo cáo tài chính 
Bảng tổng hợp 
chi tiết 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 42 
2003, số tiền tăng 34230,21 triệu đồng. Chi phí sản xuất kinh doanh tăng 
57,1% nhưng là để đảm bảo tính hiệu quả trong việc quản lý và sản xuất kinh 
doanh. Tổng lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước là 585,03 triệu đồng với tỷ 
lệ tăng là 71,93% trong đó chiếm tỷ trọng lớn là lợi nhuận kinh doanh. Cả lợi 
nhuận từ hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ lẫn lợi nhuận từ hoạt động khác 
năm sau đều tăng so với năm trước, riêng chỉ có lợi nhuận từ hoạt động tài 
chính vẫn là con số âm. Đây chính là điều mà công ty đang từng bước khắc 
phục. Có lợi nhuận công ty thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình đối với 
nhà nước và hơn thế đời sống người lao động được cải thiện rõ rệt với tỷ lệ 
thu nhập bình quân 1người/1 tháng tăng 3,85%, số tiền tăng 0,05 triệu đồng. 
II/ Phân tích tình hình lợi nhuận của Công ty. 
1. Kết cấu lợi nhuận của Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô 
thị số 18: 
Trong nền kinh tế mở hiện nay, phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp 
là rất rộng. Các doanh nghiệp có thể tiến hành kinh doanh nhiều hoạt động ở 
nhiều lĩnh vực khác nhau miễn là thu được lợi nhuận cao cho doanh nghiệp 
mình. Do đó, lợi nhuận của các doanh nghiệp có thể bao gồm lợi nhuận từ 
nhiều hoạt động khác nhau trong doanh nghiệp. 
Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 là doanh 
nghiệp nhà nước, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và được mở tài 
khoản tại Ngân hàng đầu tư phát triển Hà nội; được Ban kế hoạch Hà nội cấp 
giấy phép kinh doanh. Đây chính là những điều kiện thuận lợi giúp Công ty 
tham gia hoạt động trên nhiều lĩnh vực. 
Hiện nay, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty chủ yếu là đầu tư 
phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; xây dựng và kinh doanh 
công trình kết cấu hạ tầng khu công nghiệp và đô thị; cho thuê đất, nhà xưởng 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 43 
hay xây dựng công trình công nghiệp, dân dụng, công cộng...Do đó, lợi nhuận 
mà Công ty thu được chính là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. 
Bên cạnh đó Công ty cũng tham gia vào hoạt động tài chính và các hoạt động 
khác. Xuất phát từ điều này, tổng lợi nhuận thu được của công ty đầu tư hạ 
tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 được cấu thành bởi ba bộ phận: lợi 
nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ, lợi nhuận từ hoạt 
động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động khác. 
 Sau đây, ta xem xét tỷ trọng của từng bộ phận trong tổng lợi nhuận của 
công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 qua 2 năm 2003 – 
2004. 
Bảng 2: Cơ cấu lợi nhuận tại công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18. 
Đơn vị tính: triệu đồng. 
Năm 2003 Năm 2004 So sánh 
Chỉ tiêu 
Stiền TT% Stiền TT% Stiền TL% 
1. Lợi nhuận từ hđ SXKD 
hàng hoá dịch vụ 
897,46 110,35 1348,46 96,43 451 50,25 
2. Lợi nhuận từ hđ tài chính 
-84,18 -10,35 -29,04 -2,08 55,14 -65,5 
3. Lợi nhuận khác. 
- - 78,89 5,65 78,89 - 
Tổng lợi nhuận 813,28 100 1398,31 100 585,03 71,93 
Nhìn vào cơ cấu lợi nhuận của công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp 
và đô thị số 18 trong 2 năm ta thấy lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh 
hàng hoá dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất, trên 90% tổng lợi nhuận. Và lợi 
nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh có xu hướng tăng dần qua mỗi năm. 
Năm 2004, lợi nhuận hoạt động SXKD hàng hoá dịch vụ đạt 1348,46 triệu 
đồng, chiếm 96,43% tổng lợi nhuận. So với năm 2003, tăng 451 triệu đồng 
với tỷ lệ tăng 50,25%. Ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh công ty còn tham 
gia vào hoạt động tài chính. Tuy nhiên, lợi nhuận từ hoạt động lại âm nên đã 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 44 
làm giảm tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng lợi nhuận từ hoạt động tài 
chính có xu hướng giảm qua các năm chứng tỏ doanh nghiệp đã chú trọng 
hơn đến hoạt động tài chính trong đơn vị. Lợi nhuận từ hoạt động này năm 
2003 là -84,18 triệu đồng còn năm 2004 là -29.04 triệu đồng như vậy đã 
giảm-65,5%. Do Công ty hoạt động trong nhiều ngành, nghề, lĩnh vực khác 
nhau nên lợi nhuận khác thường là khoản thu không ổn định. Năm 2003, công 
ty không có khoản thu từ lợi nhuận khác nhưng sang năm 2004 con số này là 
78,89 triệu đồng chiếm tỷ trọng 5,65% trong tổng lợi nhuận. 
2. Phân tích tình hình lợi nhuận tại công ty theo kết cấu: 
2.1. Phân tích tình hình lợi nhuận kinh doanh. 
2.1.1. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ. 
Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 là một đơn vị 
xây dựng, lắp đặt hay kinh doanh nên hoạt động chính của công ty là xây 
dựng các công trình, hạng mục công trình hay lắp đặt thiết bị các công trình, 
kinh doanh nhà, vật liệu...Vì vậy, đây chính là những hoạt động mang lại lợi 
nhuận chính cho công ty. 
Để xác định kết quả hoạt động kinh doanh – lợi nhuận của công ty chúng 
ta cần nghiên cứu doanh thu và chi phí trong từng hoạt động và phân biệt khái 
niệm doanh thu-chi phí và thu-chi mà trên thực tế đôi khi vẫn bị nhầm lẫn. 
Doanh thu và chi phí được phản ánh trên báo cáo kinh doanh và được 
sử dụng để xác định kết quả hoạt động của công ty. Thu, chi phản ánh các 
luồng tiền vào, luồng tiền ra của công ty thường trong thời kỳ ngắn: từng 
tuần, từng tháng và cho biết khả năng thanh toán đích thực hay khả năng chi 
trả của đơn vị. Các khoản thu và các khoản chi được thể hiện trong báo cáo 
lưu chuyển tiền tệ(Ngân quỹ). Đây là cơ sở quan trọng để nhà quản lý xây 
dựng kế hoạch tiền mặt của công ty. 
A/ Chi phí sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ: 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 45 
* Chi phí sản xuất kinh doanh - giá thành sản phẩm 
Mục tiêu cuối cùng của các công ty là tối đa hoá giá trị tài sản cho các 
chủ sở hữu. Bởi vậy, công ty phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định trong 
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo loại hình sản xuất kinh 
doanh của công ty mà tỷ trọng các bộ phận có thể không giống nhau. 
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nói chung và 
công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 nói riêng phải tiêu hao các loại 
vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, trả công cho những người 
lao đông...Với đặc điểm là một công ty xây dựng, giá vốn hàng bán trong 
công ty được xác định theo phương pháp tổng cộng chi phí, tức là toàn bộ chi 
phí mà công ty bỏ ra phục vụ cho hạng mục, công trình đó. 
Những khoản chi phí mà Công ty bỏ ra phục vụ cho từng công trình 
bao gồm: chi phí vật liệu, chi phí nhân công, chí phí sử dụng máy thi công, 
chi phí sản xuất chung. Trong đó các khoản mục chi phí kể trên được xác định 
như sau: 
- Chi phí vật liệu: là chi phí về các loại nguyên vật liệu cần thiết để tạo 
nên sản phẩm và căn cứ vào bảng kê xuất nguyên vật liệu cho công 
trình nào thì kế toán ghi đích thị cho công trình ấy. 
- Chi phí nhân công: là chi phí về tiền công, tiền lương, các khoản phụ 
cấp có tính chất lương của công nhân tham gia xây dựng. Chi phí này 
căn cứ vào hợp đồng giao khoán nhân công trực tiếp của từng công 
trình, hạng mục công trình thì ghi tiền lương trực tiếp cho công trình, 
hạng mục công trình đó. 
- Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ chi phí sử dụng xe, máy thi 
công phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất xây lắp công trình. Máy 
thi công phục vụ cho công trình nào thì được ghi cho công trình, hạng 
mục công trình đó. Trong trường hợp có những máy phục vụ cho nhiều 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 46 
công trình, hạng mục công trình cùng một lúc thì chi phí được phân bổ 
theo ca máy hoạt động. Căn cứ vào sổ vận hành của máy, kế toán xác 
định được ca máy hoạt động. Cuối tháng tổng hợp giờ máy chạy rồi căn 
cứ vào chi phí phục vụ cho máy thi công để phân bổ cho từng công 
trình, hạng mục công trình. 
Chi phí máy thi công phân bổ cho từng công trình, hạng mục công trình 
được xác định dựa trên công thức: 
 = x 
 - Chi phí sản xuất chung: là các khoản chi phí trực tiếp khác ngoài các 
khoản chi phí phát sinh ở trên. Căn cứ vào khối lượng xây lắp đã thực hiện 
trong kỳ chi phí sản xuất chung được phân bổ như sau: 
 = x 
* Chi phí quản lý doanh nghiệp (CPQLDN) 
Tại Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 hiện nay, chi 
phí QLDN bao gồm các khoản như sau: 
- Chi phí nhân viên bao gồm lương, bảo hiểm. 
- Trị giá vật liệu xuất dùng cho văn phòng. 
- Chi phí sửa chữa, khấu hao TSCĐ. 
- Chi phí tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại, dịch vụ thuê ngoài sửa 
chữa. 
- Chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí phát sinh bằng tiền khác. 
B/ Doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ: 
Chi phí máy thi công phân 
bổ cho từng công trình 
Tổng chi phí cho máy 
Tổng số giờ máy chạy 
Giờ máy 
chạy cá biệt 
Chi phí SXC phân bổ 
cho từng công trình 
Tổng chi phí SXC 
Giá trị sản lượng 
Giá trị sản lượng 
thực hiện 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 47 
Với đặc thù là một công ty thiên về xây dựng thì doanh thu hoạt động 
sản xuất kinh doanh của Công ty chủ yếu được xác định khi các công trình, 
hạng mục công trình hoàn thành có biên bản nghiệm thu kỹ thuật giữa bên A 
và bên B, lúc đó khối lượng hoàn thành bàn giao đó được coi là tiêu thụ hoặc 
công trình đã được quyết toán. Và doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh 
lúc đó được ghi nhận. 
C/ Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ: 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 48 
Bảng 3: Lợi nhuận hoạt động SXKD hàng hóa dịch vụ. 
Đơn vị: triệu đồng 
So sánh 
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 
Số tiền Tỉ lệ % 
1. Doanh thu từ hđ SXKD h2-dv 60053 94283,21 34230,21 57 
2. Chi phí SXKD h2-dv 59155,54 92934,75 33779,21 57,1 
 - Giá vốn 57505,09 90858,04 33352,95 58 
 - Chi phí quản lý 1650,45 2076,71 426,26 25,83 
3. Lợi nhuận SXKD h2-dv 897,46 1348,46 451 50,25 
Qua bảng số liệu đã tính toán ở trên, ta có nhận xét sau: 
Doanh thu từ hoạt động SXKD hàng hoá dịch vụ trong năm 2004 tăng 
mạnh so với năm 2003, với số tiền tăng là 34230,21 triệu đồng tương ứng với 
tỷ lệ tăng là 57%. Doanh thu của Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 
ở năm 2004 tăng nhanh chứng tỏ Công ty đã có nhiều cố gắng trong việc thi 
công các công trình, hạng mục công trình nhằm đáp ứng được yêu cầu ngày 
càng cao của khách hàng. Các công trình, hạng mục công trình do Công ty 
tiến hành thi công đều hoàn thành đúng tiến độ, công tác nghiệm thu kỹ thuật 
các công trình, hạng mục công trình được tiến hành kịp thời. Các công trình, 
hạng mục công trình mà Công ty trúng thầu và tiến hành thi công đều đạt chất 
lượng theo đúng như hợp đồng đã ký kết và được phía khách hàng đánh giá 
cao. 
Về tình hình chi phí SXKD hàng hoá dịch vụ, trong năm 2004, chi phí 
SXKD tại Công ty là 92934,75 triệu đồng, tăng 33779,21 triệu đồng so với 
năm 2003 với tỷ lệ tăng xấp xỉ tỷ lệ tăng của doanh thu. Trong đó, giá vốn sản 
phẩm năm 2003 là 57505,09 triệu đồng, còn sang năm 2004 thì giá vốn đạt là 
90858,04 triệu đồng tăng 33352,95 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 
58%. Giá vốn tăng nhanh hơn tốc độ tăng của doanh thu chứng tỏ có nhiều 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 49 
khoản mục chi phí tính vào giá vốn cũng tăng điều này đòi hỏi ban lãnh đạo 
Công ty cần có các biện pháp để tích kiệm chi phí trong từng khâu. 
Chi phí quản lý doanh nghiệp của Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô 
thị số 18 trong năm 2003 là 1650,45 triệu đồng, còn trong năm 2004 thì chi 
phí quản lý doanh nghiệp là 2076,71 triệu đồng. Qua đây, ta thấy rằng chi phí 
quản lý doanh nghiệp của Công ty năm 2004 tăng 426,26 triệu đồng với tỷ lệ 
tăng tương ứng là 25,83%. 
Từ việc phân tích trên chúng ta đều thấy rằng cả giá vốn lẫn chi phí 
quản lý doanh nghiệp năm sau đều tăng hơn năm trước. Điều này chứng tỏ 
rằng công tác quản lý chi phí ở Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 là 
chưa được tốt. Do đó, đòi hỏi Công ty cần phải đề ra được các biện pháp quản 
lý chi phí tốt hơn bởi chi phí tăng dù ít dù nhiều cũng ảnh hưởng tới kết quả 
hoạt động sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng tới lợi nhuận thu về của chính 
bản thân Công ty. 
Lợi nhuận thu về từ hoạt động SXKD hàng hoá dịch vụ của Công ty 
đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 trong năm 2004 tăng nhanh so với năm 
2003 với số tiền tăng là 451 triệu đồng tương ứng là tỷ lệ tăng là 50,25%. 
Trong đó, năm 2003 lợi nhuận đạt được là 897,46 triệu đồng, còn năm 2004 
con số này lên tới 1348,46 triệu đồng. Nguyên nhân chính làm cho lợi nhuận 
của Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 tăng nhanh trong năm 2004 
đó là do các công trình, hạng mục công trình mà Công ty đảm trách thi công 
hoàn thành nhiều ở năm 2004, bàn giao đúng tiến độ, chất lượng được đảm 
bảo, công tác nghiệm thu kỹ thuật được tiến hành dưới sự giám sát cao và lấy 
được uy tín từ khách hàng. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 50 
2.1.2. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính. 
Đơn vị tính: triệu đồng. 
So sánh 
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 
Số tiền Tỷ lệ% 
1. Doanh thu từ hoạt động tài chính 116,07 299,24 183,17 157,81 
2. Chi phí từ hoạt động tài chính 200,25 328,28 128,03 63,94 
3. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính -84,18 -29,04 55,14 -65,5 
Bảng 4: Lợi nhuận hoạt động tài chính. 
Qua bảng phân tích ta thấy: 
Trong Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18, chi phí cho hoạt 
động tài chính như phí trả lãi tiền vay, phí bảo lãnh hay chi cho một số hoạt 
động khác có liên quan trong hai năm 2003 và năm 2004 đều phát sinh tăng. 
Bởi ngành xây dựng cơ bản là một ngành đòi hỏi thời gian thi công dài, nguồn 
vốn lớn cho nên để đảm bảo hoạt động của Công ty được diễn ra liên tục, đảm 
bảo tiến độ thi công đúng thời hạn, Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 
18 đã phải vay vốn từ Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội và do đó làm 
phát sinh các khoản chi phí trên. 
Năm 2003, chi phí cho hoạt động tài chính của Công ty là 200,25 triệu 
đồng trong khi đó thu về từ hoạt động này mới chỉ ở con số là 116,07 triệu 
đồng dẫn tới làm giảm lợi nhuận trong tổng lợi nhuận là 84,18 triệu đồng. 
Sang năm 2004, khoản chi phí dành cho hoạt động tài chính của Công 
ty là 328,28 triệu đồng, tăng 128,03 triệu đồng so với năm 2003 tương ứng 
với tỷ lệ tăng 63,94%. Tốc độ tăng của doanh thu từ hoạt động tài chính năm 
2004 so với năm 2003 là 157,81%, tương ứng với số tiền tăng 183,17 triệu 
đồng. Con số này tăng nhanh chứng tỏ Công ty đã chú trọng hơn nữa trong 
việc tham gia vào các hoạt động khác như hoạt động kinh doanh chứng 
khoán, góp vốn cổ phần, hay cho thuê tài sản... Điều này kéo theo sự thay đổi 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 51 
về lợi nhuận, trong năm 2003, lợi nhuận từ hoạt động tài chính là -84,18 triệu 
đồng nhưng sang năm 2004 còn là -29,04 triệu đồng. 
2.2. Phân tích tình hình lợi nhuận khác. 
Đơn vị tính: triệu đồng. 
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 
1. Thu nhập khác - 88,64 
2. Chi phí khác. - 9,75 
3. Lợi nhuận khác. - 78,89 
Bảng 5: Lợi nhuận khác. 
Qua những số liệu trên ta thấy, tại Công ty đầu tư hạ tầng khu công 
nghiệp và đô thị số 18 trong năm 2003 hầu như không có phát sinh thu nhập 
từ các hoạt động như thanh lý, nhượng bán tài sản hay hoàn nhập dự phòng. 
Do đó nó không góp phần làm tăng tổng lợi nhuận của toàn Công ty. Nhưng 
sang năm 2004, lợi nhuận khác tăng 78,89 triệu đồng so với năm 2003 là do: 
thu nhập khác tăng 88,64 triệu đồng trong khi đó chi phí cho hoạt động này 
chỉ tốn 9,75 triệu đồng. Như vậy, thu nhập tăng với tốc độ nhanh hơn chi phí 
tăng sẽ kéo theo lợi nhuận tăng. 
Tóm lại, qua phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả hoạt đông sản 
xuất kinh doanh của Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18, ta có thể 
đưa ra một số nhận xét như sau: 
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đầu tư hạ tầng 
KCN và đô thị số 18 trong năm 2004 tăng nhanh so với năm 2003, 
chứng tỏ Công ty đã hoạt động ngày càng có hiệu qua hơn. Điều này có 
thể khẳng định được rằng để có được kết quả như ngày nay đó là nhờ 
vào sự cố gắng, nỗ lực vượt bậc của toàn thể cán bộ công nhân viên 
cũng sự chỉ đạo, kiểm tra sát sao của ban giám đốc Công ty. Qua đó, ta 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 52 
cũng thấy rằng chất lượng của các công trình, hạng mục công trình mà 
Công ty nhận thi công đã được nâng lên khá cao, tiến độ thi công và 
yêu cầu về kỹ thuật luôn được Công ty chú trọng và đảm bảo. Chính vì 
thế mà trong cơ chế thị trường với muôn vàn sự cạnh tranh quyết liệt 
giữa các doanh nghiệp cùng ngành nhưng Công ty đầu tư hạ tầng KCN 
và đô thị số 18 vẫn đang đứng vững và ngày càng khẳng định được 
mình là một trong những Công ty hoạt động mạnh của Tổng công ty 
đầu tư và phát triển nhà Hà Nội. 
- Chi phí cho hoạt động khác của Công ty tăng cao hơn so với thu nhập 
thu về, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận toàn Công ty. Do 
đó, Công ty cần có biện pháp quản lý chi phí tốt hơn nhằm làm giảm 
bớt chi phí trong quá trình tham gia vào các hoạt động khác ngoài hoạt 
động sản xuất kinh doanh chính. 
3. Phân tích tình hình thực hiện lợi nhuận trong mối quan hệ với 
doanh thu, chi phí, và vốn kinh doanh tại Công ty đầu tư hạ tầng 
KCN và đô thị số 18: 
Lợi nhuận là mục đích cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi 
nhuận càng cao, Công ty càng tự khẳng định vị trí và sự tồn tại của của mình 
trong nền kinh tế thị trường. Nhưng nếu chỉ thông qua số lợi nhuận của Công 
ty thu được trong kỳ cao hay thấp để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất 
kinh doanh tốt hay xấu thì có thể đưa ra những kết luận sai lầm, bởi lẽ số lợi 
nhuận này có thể không tương xứng với lượng chi phí đã bỏ ra. Để khắc phục 
kiếm khuyết này chúng ta cần xem xét thêm các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận. 
Căn cứ vào nguồn số liệu của Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 
18 trong hai năm 2003 và năm 2004, ta có bảng sau: 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 53 
Bảng 6: Tình hình thực hiện lợi nhuận trong mối quan hệ doanh thu, chi phí và vốn kinh 
doanh. 
Đơn vị tính: triệu đồng. 
So sánh 
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 
Số tiền Tỷ lệ% 
1. Tổng doanh thu 60169,07 94671,09 34502,02 57,34 
2. Tổng chi phí 59355,79 93272,78 33916,99 57,1 
3. Vốn kinh doanh bình quân 52216,6 111251,85 59035,25 113,06 
4. Vốn chủ sở hữu bình quân 4359,45 10511,95 6152,5 141,13 
5. Lợi nhuận kinh doanh 813,28 1319,42 506,14 62,23 
6. Tỷ suất LNKD/DT (%) = 5/1 1,35 1,39 - 0,04 
7. Tỷ suất LNKD/CP(%) = 5/2 1,37 1,41 - 0,04 
8. Tỷ suất LNKD/VKDbq(%)= 5/3 1,56 1,19 - 0,37 
9. Tỷ suất LNKD/VCSHbq(%)=5/4 18,66 12,55 - -6,11 
Từ kết quả trên ta thấy: Doanh thu, lợi nhuận, vốn kinh doanh và vốn 
chủ sở hữu của Công ty trong năm 2004 đều tăng so với năm 2003. Tổng 
doanh thu tăng với số tiền là 34502,02 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 
57,34%, lợi nhuận kinh doanh cũng tăng cao với tỷ lệ 62,23% tương ứng với 
số tiền tăng 506,14 triệu đồng. Bên cạnh đó, vốn kinh doanh bình quân và vốn 
chủ sở hữu bình quân của Công ty cũng tăng với số tiền là 59035,25 triệu 
đồng(vốn kinh doanh), 6152,5 triệu đồng(vốn chủ sở hữu). 
3.1. Đánh giá tỷ suất lợi nhuận kinh doanh/Tổng doanh thu: 
Chỉ tiêu này được tính bằng công thức sau: 
 TSLNKD/DT = x 100 
Đây chính là tỷ lệ giữa lợi nhuận kinh doanh đạt được trong kỳ với tổng 
doanh thu mà Công ty thu được trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt 
động sản xuất kinh doanh của Công ty. Nếu như trong năm 2003, cứ 100 đồng 
doanh thu thu được sẽ mang lại cho Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 
18 là 1,35 đồng lợi nhuận, thì sang năm 2004 cứ 100 đồng doanh thu mà 
LNKD 
DT 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 54 
Công ty thu về đã mang lại 1,39 đồng lợi nhuận với tỷ lệ tăng là 0,04%. Như 
vậy so với năm 2003 thì tỷ suất lợi nhuận kinh doanh trên tổng doanh thu của 
Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 có tăng lên nhưng con số này 
cũng chưa đáng kể. 
3.2. Đánh giá tỷ suất lợi nhuận kinh doanh/Tổng chi phí: 
Tỷ suất này được xác định thông qua công thức: 
 TSLNKD/CP = x 100 
Tỷ suất này được dùng để phản ánh tình hình kiểm soát chi phí của 
Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18. Thông qua chỉ tiêu này ta có thể 
thấy được hiệu quả của việc quản lý chi phí trong Công ty. Trong năm 2003 
cứ 100 đồng chi phí mà Công ty bỏ ra thì thu về được 1,37 đồng lợi nhuận. 
Còn sang năm 2004 thì cứ 100 đồng chi phí bỏ ra Công ty lại thu về được 
1,41 đồng lợi nhuận với tỷ lệ tăng là 0,04%. Tuy kết quả dạt được chưa cao 
nhưng điều này cũng chứng tỏ rằng trong năm 2004 công tác quản lý chi phí 
của Công ty đã được quan tâm. Công ty không ngừng tìm ra nguyên nhân gây 
lãng phí chi phí và cũng đề ra giải pháp khắc phục kịp thời để không ngừng 
hạ thấp chi phí, nâng cao lợi nhuận hơn nữa cho chính bản thân Công ty. 
3.3. Đánh giá tỷ suất lợi nhuận kinh doanh/Vốn kinh doanh bình quân: 
Chỉ tiêu này được dùng để phản ánh mức sinh lời của đồng vốn kinh 
doanh bỏ ra trong quá trình hoạt động của Công ty. Chỉ tiêu này được xác 
định bằng công thức sau đây: 
 TSLNKD/VKDbq = x 100 
Trong năm 2003, cứ 100 đồng vốn kinh doanh được sử dụng trong kỳ 
đã mang lại cho Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 là 1,56 đồng lợi 
nhuận. Nhưng sang năm 2004 thì tỷ suất lợi nhuận kinh doanh trên vốn kinh 
doanh bình quân giảm với tỷ lệ 0,37%. Có nghĩa là cứ bỏ ra 100 đồng vốn 
 LNKD 
VKDbq 
LNKD 
CP 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 55 
kinh doanh thì Công ty chỉ thu được về 1,19 đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu về tỷ 
suất lợi nhuận kinh doanh trên vốn kinh doanh bình quân giảm trong năm 
2004, chứng tỏ rằng Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 đã sử dụng 
chưa thật sự có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh so với năm 2003. Cho nên 
Công ty cần phải xem xét nhằm có biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả 
sử dụng vốn kinh doanh hơn nữa, qua đó sẽ góp phần làm tăng lợi nhuận cho 
Công ty. 
3.4. Đánh giá tỷ suất lợi nhuận kinh doanh/Vốn chủ sở hữu bình quân: 
Tỷ suất này được sử dụng để đo lường khả năng sinh lời của nguồn vốn 
chủ sở hữu. Thông qua chỉ tiêu tỷ suất này ta có thể biết được 100 đồng vốn 
chủ sở hữu bỏ ra thì thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất này được 
tính bằng công thức: 
 TSLNKD/VCSHbq = x 100 
Qua số liệu từ bảng trên ta thấy, trong năm 2003 Công ty cứ bỏ ra 100 
đồng vốn chủ sở hữu vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì thu được 18,66 
đồng lợi nhuận. Nhưng con số này lại giảm với tỷ lệ là 6,11% trong năm 
2004- cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra Công ty chỉ thu về được có 12,55 
đồng lợi nhuận. Từ đó cho thấy nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty được sử 
dụng chưa có hiệu quả cao. Điều này đặt ra nhiều câu hỏi cho lãnh đạo Công 
ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 là phải làm cách nào để sử dụng vốn 
hữu hiệu hơn nữa, tạo đà cho việc tăng doanh thu và không ngừng nâng cao 
lợi nhuận cho Công ty. 
4. Phân phối lợi nhuận tại Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18: 
Phân phối lợi nhuận là quá trình phân chia và sử dụng các khoản lợi 
nhuận thu được sau một kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc phân phối lợi 
nhuận đúng đắn sẽ trở thành động lực thúc đẩy quá trình hoạt động sản xuất 
 LNKD 
VCSHbq 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 56 
kinh doanh phát triển và ngược lại, nếu phân phối lợi nhuận không đúng sẽ 
kìm hãm sự phát triển, lớn mạnh của Công ty. Từ đó làm hiệu quả sản xuất 
kinh doanh bị giảm sút, ảnh hưởng nhiều đến doanh thu và lợi nhuận thu về. 
Xác định được vai trò của việc phân phối lợi nhuận mà trong quá trình 
phân phối lợi nhuận tại Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18, ban lãnh 
đạo của Công ty luôn đặt việc giải quyết hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa 
Nhà nước – doanh nghiệp – người lao động lên hàng đầu. Hơn nữa phải đảm 
bảo mối quan hệ cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tái sản xuất giản đơn 
với tái sản xuất mở rộng. Lợi nhuận thu được trong quá trình hoạt động sản 
xuất kinh doanh của Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 sẽ được tiến 
hành phân phối như sau: 
Lợi nhuận trong kỳ hoạt động sau khi được các nhân viên kế toán tính 
toán chính xác, thì Công ty sẽ thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách nhà nước, bù 
đắp các khoản chi phí như chi phí nguyên nhiên vật liệu, chi phí máy thi 
công..còn thiếu trong quá trình thi công và rồi tiến hành trích lập các quỹ của 
Công ty. Tại Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 các quỹ chuyên 
dùng được trích lập đó là quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, phúc lợi và 
quỹ dự phòng tài chính. 
Trong đó, quỹ đầu tư phát triển được Công ty trích lập nhằm cải tiến, 
hiện đại hoá tài sản cố định. Quỹ này được Công ty sử dụng để tạo khả năng 
tài chính nhằm chủ động hơn trong việc mở rộng quy mô sản xuất kinh 
doanh. Quỹ này được trích lập cũng góp phần bổ sung vốn cho Công ty trong 
quá trình tiến hành thi công các công trình, hạng mục công trình. Đây cũng 
chính là quỹ có tỷ lệ trích lập cao nhất trong Công ty đầu tư hạ tầng KCN và 
đô thị số 18. 
Quỹ dự phòng tài chính được Công ty trích lập nhằm đảm bảo cho hoạt 
động sản xuất kinh doanh của Công ty được tiến hành một cách thường 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 57 
xuyên, liên tục khi gặp phải những khó khăn trong kinh doanh. Đồng thời, khi 
trích lập quỹ này Công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 cũng đề phòng 
được phần nào những tổn thất thiệt hại do những nguyên nhân khách quan bất 
khả kháng mang lại. 
Quỹ khen thưởng và phúc lợi được trích lập nhằm khuyến khích người 
lao động hăng say hơn trong công việc, nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh 
thần tự giác cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong Công ty. 
Sau khi trích lập các quỹ, nếu lợi nhuận của Công ty vẫn còn thì phần 
lợi nhuận còn lại đó sẽ được các nhân viên kế toán chuyển vào quỹ đầu tư 
phát triển. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 58 
Chương III 
Các giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại công ty đầu tư hạ tầng KCN 
và đô thị số 18 
I/ Những nét chung về tình hình lợi nhuận của công ty: 
1. Những mặt đã đạt được và kết quả. 
Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 là một doanh 
nghiệp lớn, tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực. Là 
một thành viên của Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội nên Công ty 
luôn có những đóng góp nhất định vào sự phát triển chung của Tổng công ty. 
Hiện nay, công ty đầu tư hạ tầng KCN và đô thị số 18 đang là một trong 
những công ty hoạt động có hiệu quả nhất của Tổng công ty đầu tư và phát 
triển nhà Hà Nội. Dưới sự lãnh đạo tài tình của ban giám đốc, Công ty đã và 
đang từng bước khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế bằng những 
bước phát triển mạnh mẽ và vững chắc. 
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, công ty đầu tư hạ tầng KCN và 
đô thị số 18 đã đạt được một số thành tựu nhất định. Từ chỗ cơ sở vật chất 
còn nghèo nàn, máy móc thiết bị lạc hậu, đến nay Công ty đã có một hệ thống 
máy móc và cơ sở vật chất, nhà xưởng, văn phòng khang trang hiện đại. Công 
ty cũng đã trang bị hệ thống máy vi tính cho các phòng ban, hoàn thành việc 
triển khai phần mềm máy vi tính, nâng cao chất lượng của công tác kế toán. 
Công ty cũng không ngừng nâng cao chất lượng lao động, cải thiện điều kiện 
làm việc và ổn định thu nhập cho cán bộ công nhân viên. Hiệu quả hoạt động 
sản xuất kinh doanh cũng dần đi vào ổn định. 
Để có được kết quả như trên là do có sự kết hợp giữa đội ngũ lãnh đạo 
năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm trước mọi 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 59 
công việc của Công ty. Với tập thể cán bộ công nhân viên nhiệt tình, có ý 
thức và trách nhiệm cao đã tạo cho Công ty được sự tin tưởng từ phía khách 
hàng và số lượng hợp đồng được ký kết giữa Công ty với đối tác ngày càng 
tăng. Đồng thời sự kết hợp đó đã tạo động lực mạnh mẽ giúp cho Công ty 
vượt qua được khó khăn kể từ khi thành lập, nâng cao được hiệu quả sản xuất 
kinh doanh và qua đó nâng cao được vị thế của công ty trong Tổng công ty 
đầu tư và phát triển nhà Hà Nội cũng như trên thương trường. Cũng chính nhờ 
đó mà số lượng các công trình, hạng mục công trình Công ty trúng thầu ngày 
càng nhiều. Các công trình, hạng mục công trình do Công ty tiến hành thi 
công toàn bộ hoặc chỉ tham gia thi công một phần luôn được khách hàng đánh 
giá cao. Chất lượng các công trình, hạng mục công trình không ngừng được 
nâng cao, công tác nghiệm thu kỹ thuật công trình được tiến hành tốt, tiến độ 
thi công và hoàn thành bàn giao công trình, hạng mục công trình luôn được 
Công ty đảm bảo như trong các hợp đồng đã ký kết với khách hàng. 
Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty đầu tư xây dựng hạ tầng khu công 
nghiệp và đô thị số 18 có tính linh hoạt cao thường xuyên được điều chỉnh 
phù hợp với thực tế của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chế độ, chính 
sách do Nhà nước ban hành đều được Công ty thông báo cụ thể cho cán bộ 
công nhân viên và được vận dụng cho thích hợp với hoạt động của Công ty. 
Đồng thời, công ty cũng chú trọng tới công tác đào tạo, nâng cao trình độ 
chuyên môn cho cán bộ công nhân viên trong Công ty. Bộ máy kế toán đã trở 
thành công cụ đắc lực của hệ thống quản lý kinh tế. Bộ máy kế toán của Công 
ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 được tổ chức tương đối gọn 
nhẹ, linh hoạt, đội ngũ nhân viên kế toán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ 
vững vàng. Công tác kế toán được thực hiện liên tục đảm bảo cung cấp những 
thông tin kịp thời cho ban lãnh đạo Công ty để từ đó làm cơ sở cho việc quản 
lý, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 60 
Bên cạnh đó, doanh thu của Công ty cũng không ngừng tăng lên. Doanh 
thu của Công ty tăng chứng tỏ Công ty đã có một kế hoạch kinh doanh, một 
phương án sản xuất kinh doanh tương đối phù hợp. Trong năm 2004, doanh 
thu của Công ty tăng nhanh so với các năm trước, so với năm 2003 tăng 
34230.21 triệu đồng tương ứng tỷ lệ tăng là 57%. Để có được kết quả như 
ngày hôm nay, Công ty đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 
18 đã có rất nhiều cố gắng trong sản xuất kinh doanh. Song song với việc xây 
dựng phương án kinh doanh hợp lý, Công ty còn đề ra nhiều biện pháp để 
khuyến khích công nhân viên hăng say hơn, tích cực hơn trong công việc 
thông qua việc quan tâm về vật chất lẫn tinh thần đối với người lao động. 
Doanh thu tăng cũng tạo điều kiện để Công ty hoàn thành tốt nghĩa vụ đóng 
góp đối với Ngân sách Nhà nước, tạo việc làm ổn định và nâng cao chất 
lượng cuộc sống cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong Công ty. Đối với 
những công trình, hạng mục công trình mà Công ty đã và đang thi công không 
chỉ đạt được những lợi ích cho bản thân Công ty mà còn cả về mặt xã hội, nó 
góp phần tạo ra cảnh quang chung làm đẹp cho đất nước, góp phần vào quá 
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có thể nói những công trình do 
Công ty đảm trách đã góp phần làm thay đổi diện mạo của cả nước trong 
những năm gần đây. 
Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đầu tư hạ tầng khu công 
nghiệp và đô thị số 18 ngày càng có hiệu quả điều đó được thể hiện ở lợi 
nhuận thu về cho Công ty ngày càng cao. Công ty có điều kiện để tái sản xuất 
theo chiều rộng, lẫn chiều sâu. 
2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân: 
Nhìn chung trong những năm gần đây, Công ty đầu tư hạ tầng khu công 
nghiệp và đô thị số 18 đã không ngừng đổi mới và phát triển trong hoạt động 
sản xuất kinh doanh của chính bản thân Công ty nhằm tăng hiệu quả của hoạt 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 61 
động sản xuất kinh doanh trên thương trường, qua đó không ngừng nâng cao 
lợi nhuận cho Công ty. Hiện tại, Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và 
đô thị số 18 đã đạt được khá nhiều thành công trong lĩnh vực xây dựng, tên 
tuổi của Công ty cũng được nhiều đối tác biết đến và lợi nhuận thu về cho 
Công ty cũng vì thế ngày càng tăng. Bên cạnh những thành quả đạt được, hoạt 
động sản xuất kinh doanh và tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty cũng 
đã gặp phải không ít những khó khăn làm trở ngại tới kết quả hoạt động sản 
xuất kinh doanh của Công ty. Từ đó, Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp 
và đô thị số 18 đã bộc lộ những hạn chế nhất định, mà nếu ban lãnh đạo Công 
ty không có những biện pháp khắc phục kịp thời thì nó sẽ tác động và làm ảnh 
hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng 
tới lợi nhuận của Công ty. 
Chúng ta có thể thấy được một số hạn chế làm ảnh hưởng tới lợi nhuận 
của Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18: 
Thứ nhất, vốn một tiền đề vật chất không thể thiếu được đối với sự tồn 
tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu của Công 
ty lại chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng vốn kinh doanh vì thế Công ty phải 
đi vay thêm vốn. Và để có được khoản tiền đó thì doanh nghiệp phải trả cho 
người cho vay một khoản tiền gọi là lãi vay. Và do khoản tiền này hàng kỳ 
chiếm một con số đáng kể nên nó cũng làm giảm lợi nhuận của Công ty. 
Thứ hai, Công ty sử dụng đồng vốn chưa thực sự hiệu quả, tỷ suất lợi 
nhuận trên vốn kinh doanh cũng như tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu 
năm 2004 giảm so với năm 2003. Các khoản nợ phải trả tăng làm tăng chi phí 
lãi vay. Bên cạnh đó các khoản phải thu tăng và tồn đọng lâu với số lượng 
lớn, mặc dù đơn vị đã có nhiều biện pháp thu hồi, đôn đốc trực tiếp con nợ 
một cách thường xuyên song kết quả còn nhiều hạn chế. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 62 
Thứ ba, các khoản chi phí trong Công ty có sự biến động không ổn 
định. Không những chi phí quản lý tăng mà giá vốn hàng bán cũng tăng theo, 
nhiều khi tỷ lệ tăng còn nhanh hơn tỷ lệ tăng của doanh thu và lợi nhuận. Hơn 
nữa, nó còn chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng doanh thu làm suy giảm lợi 
nhuận. 
Thứ tư, trong quá trình hoạt động của mình, Công ty đầu tư xây dựng 
hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 thường vấp phải những thủ tục hành 
chính khá rườm rà. Việc huy động vốn của Công ty luôn gặp phải không ít 
khó khăn. Ai cũng biết ngành xây dựng cơ bản luôn đòi hỏi một khối lượng 
vốn tương đối lớn trong khi đó hiện không phải công ty nào cũng có đủ lượng 
vốn cần thiết để phục vụ cho hoạt động của công ty mình kể cả những công ty 
lớn có tên tuổi. Do đó, Công ty phải tiến hành huy động vốn từ nhiều cách 
như có thể từ cán bộ công nhân viên, hay huy động vốn của khách hàng thông 
qua hình thức trả chậm...nhưng lượng vốn huy động từ nguồn này không được 
là bao nhiêu. Nguồn vốn huy động từ bên ngoài chủ yếu của Công ty đầu tư 
hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 là do đi vay vốn tại Ngân hàng đầu tư 
và phát triển Hà Nội. Khi cần vay vốn Công ty phải lập kế hoạch rồi trình lên 
ban lãnh đạo Công ty duyệt sau đó mới gửi tới Ngân hàng xin vay vốn. Ngân 
hàng sẽ xem xét tính khả thi của kế hoạch vay vốn mà Công ty gửi lên, nếu 
xét thấy khả thi Ngân hàng mới tiến hành cho vay vốn. Vì vậy, nếu quãng thời 
gian này ngày càng bị kéo dài thì sẽ làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh 
của Công ty bị ảnh hưởng khá nhiều. Nó làm cho tốc độ thi công của các công 
trình, hạng mục công trình nhiều khi bị chậm lại. Do đó nó ảnh hưởng trực 
tiếp tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, ảnh hưởng tới 
lợi nhuận cuối cùng và nó sẽ làm cho uy tín của Công ty đối với khách hàng 
bị giảm sút. 
 Nguyên nhân khách quan: 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 63 
- Đó là những biến động chung của nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng 
kinh tế chưa thực sự cao, nền kinh tế còn thiếu sức cạnh tranh, đầu tư 
phát triển trầm lặng và đầu tư trực tiếp của nước ngoài cho lớn. Tất cả 
những điều này đều tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của 
Công ty đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và đô thị số 18 trên các mặt: 
đầu tư, xây dựng, kinh doanh nhà cho thuê, sản xuất.. 
- Những bất cập trong các chính sách, thủ tục về quản lý đầu tư xây dựng 
chậm trễ trong việc triển khai các dự án của Công ty. Bên cạnh đó dư 
âm của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn. 
- Giá cả thị trường thường xuyên biến động, cạnh tranh ngày càng gay 
gắt giữa các đơn vị cùng ngành gây sức ép mạnh về giá cả và chất 
lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mà Công ty cung cấp. 
- Thời tiết diễn biến bất thường, lúc thì mưa lũ lúc thì nắng nóng kéo dài 
gây tình trạng thiếu điện sản xuất như hiện nay trên diện rộng trong cả 
nước. Điều này tác động gián tiếp đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh 
doanh của Công ty. 
 Nguyên nhân chủ quan: 
- Công tác quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong 
Công ty Còn gặp ít khó khăn. việc tinh giảm bộ máy quản lý và đội ngũ 
cán bộ công nhân viên chưa thực sự triệt để. Công tác tổ thức, tuyển 
dụng lao động trong các phòng ban đơn vị cần phải chú trọng hơn nữa. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp TrÇn ThÞ Thuý H¬ng 
 Trang 64 
- Kinh phí đào tạo nâng cao trình độ lao động chưa được đầu tư thoả 
đáng nên nhiều khi vẫn còn sự mâu thuẫn giữa chất lượng và số lượng 
cán bộ công nhân viên trong đơn vị. 
- Nguồn vốn tự có của Công ty đ