Luận văn Tìm hiểu thuế giá trị gia tăng

Tài liệu Luận văn Tìm hiểu thuế giá trị gia tăng: Luận văn Đề Tài: Thuế giỏ trị gia tăng đề án lý thuyết tài chính tiền tệ đại học kinh tế quốc dân nguyễn thu hồng tài chính doanh nghiệp 41-d 1 MỤC LỤC Đề mục Nội dung Số trang Phần I Lời mở đầu 2 Phần II Những vấn đề chung về thuế GTGT 3 1 Khỏi niệm 3 2 Sự ra đời và phỏt triển của thuế GTGT 3 3 Tại sao lại chọn thuế GTGT 4 II Nội dung chủ yếu của thuế GTGT 6 1 Xỏc định phạm vi ỏp dụng 6 2 Cỏc hỡnh thức thuế GTGT 8 3 Thuế suất 9 4 Quản lý thuế GTGT 10 Phần III Tỡnh hỡnh ỏp dụng thuế GTGT trờn thế giới và bài học kinh nghiệm từ những nước đó ỏp dụng. 12 I Tỡnh hỡnh ỏp dụng thuế GTG T ở một số nước 12 1 Thuỵ Điển 12 2 Philipine 13 3 Trung Quốc 14 II Một số nước kinh tế phỏt triển vẫn chưa ỏp dụng thuế GTGT 15 1 Hoa Kỳ 16 2 Australia 17 III Bài học kinh nghiệm rỳt ra từ những nước đó ỏp dụng thuế GTGT. 17 Phần IV Sự cần thiết phải ỏp dụng thuế GTGT. 19 I Những tồn tại của hệ thống thuế hiện hành 19 II Sự cần thiế phải cả...

pdf47 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1063 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu thuế giá trị gia tăng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Đề Tài: Thuế giá trị gia tăng ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 1 MỤC LỤC Đề mục Nội dung Số trang Phần I Lời mở đầu 2 Phần II Những vấn đề chung về thuế GTGT 3 1 Khái niệm 3 2 Sự ra đời và phát triển của thuế GTGT 3 3 Tại sao lại chọn thuế GTGT 4 II Nội dung chủ yếu của thuế GTGT 6 1 Xác định phạm vi áp dụng 6 2 Các hình thức thuế GTGT 8 3 Thuế suất 9 4 Quản lý thuế GTGT 10 Phần III Tình hình áp dụng thuế GTGT trên thế giới và bài học kinh nghiệm từ những nước đã áp dụng. 12 I Tình hình áp dụng thuế GTG T ở một số nước 12 1 Thuỵ Điển 12 2 Philipine 13 3 Trung Quốc 14 II Một số nước kinh tế phát triển vẫn chưa áp dụng thuế GTGT 15 1 Hoa Kỳ 16 2 Australia 17 III Bài học kinh nghiệm rút ra từ những nước đã áp dụng thuế GTGT. 17 Phần IV Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT. 19 I Những tồn tại của hệ thống thuế hiện hành 19 II Sự cần thiế phải cải cách chính sách thuế 20 III Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam 20 Phần V Đánh giá tình hình triển khai thực hiện thuế GTGT ổ Việt Nam 23 I Những kết quả đạt được sau hơn 2 năm thực hiện 24 II Những yếu tố thúc đẩy việc triển khai thực hiện thuế GTGT đạt được những kết quả trên 31 III Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện 34 IV Các biện pháp xử lý vướng mắc và phương hướng sắp tới 39 ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 2 Phần VI Kết luận 45 LỜI MỞ ĐẦU Thuế là nguồn thu ổn định của Nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập quốc dân, thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế và là công cụ bảo vệ kinh tế trong nước, cạnh tranh với nước ngoài. Từ năm 1999 trở về trước, chúng ta đã sử dụng thành công cơ chế thuế cũ, tuy nhiên trong tình hình mới , do xu hướng toàn cầu hoá chung của thế giới, cơ chế thuế hiện hành ở Việt Nam đã lộ rõ một số mặt bất cập, dẫn đến khó khăn về quản lý, điều hành thuế và thất thu Ngân sách quốc gia. Vì vậy việc áp dụng một số luật thuế mới trong giai đoạn này là hết sức cần thiết. Trong đó thuế giá trị gia tăng (GTGT) đã có những đóng góp quan trọng cho tiến trình cải cách chính sách thuế của Nhà nước. Trên thế giới, thuế GTGT (hay còn gọi là VAT) đã có lịch sử lâu đời (bắt đầu xuất hiện năm 1917) và qua quá trình kiểm nghiệm ở nhiều nước trên thế giới, nó đã thể hiện được tính ưu việt của mình so với các loại thuế tương đương. Mặc dù vậy một số nước cũng đã áp dụng không thành công thuế GTGT do chưa chuẩn bị kỹ cơ sở hạ tầng cho một có chế thuế mới cũng như do chưa nắm bắt rõ bản chất loại thuế này. Chính vì vậy mục đích của đề án này là tìm hiểu bản chất của thuế GTGT, đánh giá tình hình thực hiện ở Việt Nam trong những năm vừa qua và đề xuất những biện pháp xử lý thuế trong thời gian tới nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống thuế ở Việt Nam. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 3 PHẦN II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG. I./ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG (GTGT). 1./ Khái niệm. Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. 2./ Sự ra đời và phát triền của thuế GTGT. Năm 1954 thuế GTGT lần đầu tiên ra đời tại Pháp dưới hình thức thuế đánh vào giai đoạn sản xuất. Đến năm 1968, thuế này được nhập vào thuế lưu thông đánh vào dịch vụ và thuế địa phương đánh vào lưu thông bán lẻ thành một loại thuế thống nhất chung thu ở giai đoạn bán lẻ (viết tắt theo tiếng Pháp là TVA). Từ đó đến nay do tính ưu viết của mình, thuế GTGT ngày càng được sử dụng rộng khắp ở nhiều nước trên thế giới. Thuế GTGT được sớm áp dụng ở Châu âu, chỉ hơn hai mươi năm sau khi ra đời hình thức sơ khai đầu tiên, nó đã được coi là một trong những điều kiện tiên quyết để gia nhập khối EC (năm 1977). Tính đến năm 1995, trên thế giới có tới hơn 100 nước áp dụng thuế GTGT. Riêng Châu á kể từ năm 80 trở lại đây đã có sự gia tăng vượt bậc về số lượng các thành viên sử dụng VAT. Đầu tiên là Triều Tiên (1977), tiếp đến là Indonexia (1985), Đài Loan (1986), Philipine (1988), Mông Cổ (1993), Trung Quốc (1994) và Việt Nam (1999). Việc áp dụng một phương pháp tính thuế mới ở một quốc gia không phải là vấn đề đơn giản, hệ thống thuế ảnh hưởng trực tiếp đến ngân sách và vấn đề phát triển ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 4 kinh tế của quốc gia đó. Chính vì vậy, không chỉ ở những nước đang phát triển mà ở một số nước kinh tế phát triển, do những quan điểm khác nhau trong việc nghiên cứu nên quyết định áp dụng thuế GTGT kéo dài trong nhiều năm như: Nhật Bản đưa ra đề nghị áp dụng GTGT từ những năm 1955 đến năm 1986 nhưng tháng 4 năm 1989 mới thực hiện. Newzeland: Phản đối kịch liệt thuế GTGT vào đầu những năm 80 nhưng đã ban hành GTGT tháng 5 năm 1986. Hy Lạp đồng ý chuyển sang GTGT khi ra nhập EC năm 1981 với tư cách một thành viên chính thức, nhưng đến tháng 1 năm 1987 mới ban hành GTGT. Canada ban đầu cũng rất phản đối việc ban hành GTGT thay thế cho thuế bán lẻ đang được lưu hành ở các bang song đến tháng 1 năm 1991, GTGT đã được ban hành. Thuỵ Sỹ đã phản đối đề nghị ban hành GTGT thay thế cho bán lẻ hiện hành. Song tháng 1 năm 1995, Thuỵ Sỹ đã ban hành GTGT. 3./ Tại sao lại chọn thuế GTGT. (1) thuế GTGT ra đời là một chu cầu tất yếu đối với nền kinh tế khi cơ cấu thuế cũ không còn đáp ứng được nhu cầu trong tình hình mới. Nói chung các yêu cầu đó có thế chia thành bốn dạng sau: Thứ nhất: Thuế doanh thu hiện hành không đáp ứng được yêu cầu thu và quản lý, có nhiều bất hợp lý (như trùng lặp, quá phức tạp gây tâm lý nặng nề, hiệu quả không cao). Thứ hai: Do quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, yêu cầu mở rộng lưu thông hàng hoá giữa các nước đòi hỏi bãi bỏ, giảm thuế ở cửa khẩu đối ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 5 với xuất nhập khẩu hàng hoá là rất quan trọng, nó giúp kích thích các nghành sản xuất dịch vụ trong nước, khuyến khích xuất khẩu những tiềm lực quốc gia và góp phần thúc đẩy những mặt hàng thiết yếu. Trong xu thế hiện nay, không thể tồn tại nền kinh tế đóng, hoặc gần như đóng do những rào cản thuế quan bất hợp lý. Thuế GTGT ra đời đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu trên. Thứ ba: Tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và có điều kiện thu hẹp các loại thuế khác. Đa số các cơ chế thuế hiện hành của các nước khi chưa áp dụng thuế GTGT đều cồng kềnh, phức tạp và có nhiều sự chồng chéo, điều đó gây khó khăn cho việc quản lý thuế của Nhà nước (như tính thuế, thu thuế, giải quyết các trường hợp quá hạn thuế, miễn thuế..) cũng như việc kinh doanh của người dân. Tình trạng này dễ dàng gây ra tâm lý ngại thuế, tránh thuế làm thất thu cho Ngân sách một khoản không nhỏ. Để giải quyết các vấn đề trên cần phải có một cơ chế thuế mới phù hợp và rõ ràng đối với tất cả mọi người, và thuế GTGT là một giải pháp. Thứ tư: Sự phát triển của kinh tế đòi hỏi sửa đổi hệ thống thuế cho phù hợp. Chúng ta đã biết rằng mỗi một thời kỳ phát triển kinh tế cần phải có một hệ thống chính sách quản lý cho phù hợp, không có một cơ chế nào dúng cho mọi lúc mọi nơi. Vấn đề quản lý thuế cũng không nằm ngoài quy luật ấy. (2) Như vậy thuế GTGT ra đời trước hết để đáp ứng tình hình mới, sau một thời gian được áp dụng và kiểm nghiệm, thuế GTGT được đại đa số các nước trên thế giới thừa nhận về những ưu điểm nổi bật của nó ở các mặt sau: a. Khắc phục được một số mặt hạn chế của thuế doanh thu hiện hành. Có khả năng mang lại nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước. Kinh nghiệm của các nước: Indonexia, Newzeland, Bồ Đào Nha và Tuinidi đã chứng minh rõ điều này. Đại đa số các nước áp dụng thuế GTGT, khoản thu từ số thuế này thường đảm bảo từ 12% đến 30% tổng số thu của Ngân sách Nhà nước (tương đương khoảng 5% đến 10% ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 6 tổng sản phẩm quốc dân). b. Tính trung lập: Với điều kiện số lượng đối tượng được miễn hạn chế và sự vận dụng thuế suất 0% chỉ hạn chế đối với hoạt động xuất khẩu, GTGT là một thứ thuế trung lập và không dẫn đến bất kỳ một sự méo mó nào. Điều này thể hiện tính ưu việt của thuế GTGT so với các loại thuế được nó thay thế. c. Tính đơn giản: Tính đơn giản của thuế GTGT bắt nguồn từ cơ chế đánh thuế và khấu trừ thuế của nó. Đối tượng nộp thuế GTGT sẽ thu số GTGT khi bán hàng và khấu trừ số thuế GTGT đã nộp khi mua vật tư, hàng hoá đầu vào, số chênh lệch còn lại nộp vào Ngân sách Nhà nước. (Việc tính thuế căn cứ vào các hoá đơn bán hàng và mua hàng). II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA THUẾ GTGT. 1./ Xác định phạm vi áp dụng. Về đối tượng chịu thuế: GTGT là loại thuế đánh vào sử dụng, có nghĩa là đánh vào người tiêu dùng, người nộp thuế là người kinh doanh, người chịu thuế là người tiêu dùng trực tiếp và gián tiếp nộp thuế thông qua người kinh doanh. Đối tượng nộp thuế: Tất cả các thể nhân và các pháp nhân có cung cấp hoặc nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Một số nước dùng doanh thu để giới hạn đối tượng nộp thuế. Ví dụ: Không phải là đối tượng nộp GTGT, đối với các doanh nghiệp có mức doanh thu hàng năm thấp hơn: + 200.000 pê xô (Philipines). + 200.000 Sek (Thuỵ Điển). ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 7 + 30.000 Can D (Canada). + 100.000 DDK (Đan Mạch). + 1.000.000 Sin D (Singapore). + 60.000 D (Indonexia). Có nước áp dụng hình thức thu khoán đối với đối tượng kinh doanh vừa và nhỏ. Như vậy, việc xác định đối tượng nộp thuế là để nhằm giới hạn đối tượng nộp thuế, loại trừ bớt số lượng lớn về quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ. Trong giai đoạn chuyển đổi từ thuế doanh thu sang áp dụng GTGT, thường có ba hình thức triển khai áp dụng GTGT. Hình thức thứ nhất: áp dụng GTGT toàn bộ, có nghĩa là áp dụng đối với các đối tượng nộp thuế hoạt động ở tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, buôn bán và bán lẻ. Điển hình áp dụng hình thức này là các nước: Thuỵ Điển, Pháp, Thái Lan, Hungari. Hình thức thứ hai: áp dụng GTGT từng phần, tức là áp dụng đến từng khâu của quá trình luân chuyển sản phẩm hàng hoá. Ví dụ: Indonexia, Nhà nước ban hành đạo luật từ năm 1983, nhưng do trình độ quản lý của cán bộ nghành thuế và nhận thức của người nộp thuế nên đến năm 1985, đạo luật thuế mới được thi hành và thực hiện theo từng bước như sau: + Năm 1985: Đối tượng nộp thuế là những người sản xuất. + Năm 1989: Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các đại lý bán buôn. + Năm 1993: Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các cửa hàng bán lẻ. Hình thức thứ ba: Thực hiện thí điểm GTGT đối với một số nghành. Điển hình ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 8 áp dụng hình thức này là Trung Quốc. GTGT được ban hành và thực hiện thí điểm từ năm 1980 đến 18/9/1994 được ban hành chính thức. Bước thí điểm chỉ áp dụng với các sản phẩm: xe đạp, quạt điện, kim khí, máy móc thiết bị, phụ tùng, động cơ, thép. Năm 1986 mở rộng diện đối với các sản phẩm công nghiệp nhẹ, vật liệu xây dựng, khoáng sản kim loại. Qua tổng kết đánh giá của các nước, trong ba hình thức tiến hành GTGT, hình thức toàn bộ là hiệu quả nhất. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị rất đầy đủ về luật, các văn bản hướng dẫn luật, trình độ hiểu biết của người nộp thuế, trình độ quản lý của từng cơ quan thuế, chứng từ hoá đơn, ý thức chấp hành luật... Hình thức áp dụng GTGT ở từng khâu kết quả bị hạn chế, còn hình thức áp dụng thí điểm ở phạm vi hẹp, ở một số ngành là không đem lại kết quả. 2./ Các hình thức tính thuế GTGT. ở các nước đã thực hiện GTGT hiện nay áp dụng một trong hai phương pháp khấu trừ theo hoá đơn và phương pháp tính chênh lệch theo báo cáo kế toán. a./ Phương pháp khấu trừ theo hoá đơn: Đây là phương pháp được hầu hết các nước áp dụng do: Tính thuế dựa vào hoá đơn đảm bảo xác định thuế có cơ sở để kiểm tra thuế. Có thể áp dụng chính sách thuế với nhiều thuế suất (nếu thu thuế theo chênh lệch chỉ có thể áp dụng một thuế suất). Có thể tính GTGT thu thuế theo thời gian ấn định một tháng, hai tháng hay một quí. b./ Phương pháp thu GTGT trên chênh lệch theo báo cáo kế toán: Phương pháp này xác định thuế phải dựa trên số liệu báo cáo kế toán của đơn vị áp dụng phương pháp này sẽ có những vấn đề sau: Thứ nhất: Các xí nghiệp coi GTGT chỉ là thuế bổ xung đánh vào lợi nhuận, còn ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 9 các nhân viên của họ thì coi đó là lại thêm một thứ thuế nữa đánh vào quĩ tiền lương. Thứ hai: Báo cáo chỉ kêt thúc một lần trong năm, vậy là tất cả các khoản thanh toán GTGT phải dựa vào kết toán năm. Thứ ba: Khó kiểm tra thuế phải nộp từng kỳ so với phương pháp sử dụng hoá đơn và không có cơ sở để tiến hành các cuộc kiểm tra chéo thuế giữa đơn vị mua và bán. Mô hình GTGT Nhật Bản được sử dụng theo phương pháp này (1/4/1989): Thu GTGT trên cơ sở báo cáo kế toán với một thuế suất là 3% và đã quyết định điều chỉnh lên 5% để thi hành từ tháng 4/1997. Nhật Bản không phát hành hoá đơn áp dụng riêng đối với thuế GTGT vì các doanh nghiệp phản ứng, theo phương pháp tính thuế hiện hành các doanh nghiệp tự tính và nộp thuế. Các doanh nghiệp nhỏ không phải nộp thuế GTGT. 3. Thuế suất. Thông thường, để đạt được số thu tương đương so với số thu hiện hành của thuế doanh thu mà nó thay thế, GTGT phải có mức thuế suất cao hơn (thường là gấp ba lần thuế suất doanh thu). Vì GTGT chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của hàng hoá hay sản phẩm qua mỗi lần luân chuyển hàng hoá (danh mục các nước áp dụng thuế GTGT và thuế suất GTGT). Có hai cơ chế thuế suất được áp dụng: + Cơ chế một thuế suất (không kể thuế suất 0% áp dụng với xuất khẩu và một số mặt hàng thiết yếu (nếu có). Trong số 100 nước thì có 44 nước áp dụng GTGT với cơ chế một thuế suất, trong đó Đan Mạch là một nước có mức thuế suất cao nhất (32%). Nhật, Singapore la nước có mức thuế suất thấp nhất (3%). ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 10 + Cơ chế nhiều thuế suất (không kể thuế suất 0%). Trong số các nước còn lại áp dụng GTGT với có chế nhiều thuế suất thì số lượng thuế suất giao động từ 2 đến 5 (trường hợp Colombia 5 thuế suất). Thuế suất thấp nhât la 1% (Bỉ, Thổ Nhĩ Kỳ), 2% (Nam Triều Tiên) và thuế suất cao nhất là 50% (Senegal), 45% (Trung Quốc), 38% (ý) và 36% (Hy Lạp). Phần lớn các nước áp dụng cơ chế ba thuế suất. Chỉ có một số nước áp dụng 4 và 5 thuế suất: Bỉ- Colombia. Mô hình thuế suất của khối EC: Qui định ngoài thuế suất 0% áp dụng cho xuất khẩu, hệ thống thuế suất chỉ gồm 2 thuế suất: Một mức thuế suất thấp nhưng không thấp hơn 5%; Một mức thuế suất cao thường hơn 15%. Qui định về thuế suất 0% và miễn thuế: thuế suất 0% được áp dụng trong đại đa số các nước chủ yếu đối với hoạt động xuất khẩu. Đối tượng áp dụng thuế suất 0% tức là được thoái trả lại số GTGT đã chịu trên hàng đầu vào, biện phấ này được đánh giá là hữu hiệu nhất đối với việc xuất khẩu. Một số nước áp dụng thuế suất 0% đối với các mặt hàng và dịch vụ khác nhau như Thuỵ Điển (đối với báo chí xuất bản hàng ngày, xang máy bay phản lực), Canada (đối với lương thực thực phẩm, các dịch vụ tài chính quốc tế. Đan Mạch và Trung Quốc không sử dụng thuế suất 0%. Miễn thuế (không áp dụng) GTGT: Các đối tượng được miễn thuế khác với các đối tượng được hưởng thuế suất 0% ở chỗ họ không có quyền khấu trừ đầu vào thuế đầu vào đã nộp. Qui định miễn chịu thuế có thể xuất phát từ nhiều lý do: Về kinh tế, xã hội, về tránh sự đánh thuế chồng chéo, về kỹ thuật: khó xác định giá trị tăng thêm như: Các dịch vụ về tài chính tín dụng, dịch vụ vận tải quốc tế về hàng không, đường sắt. Ví dụ : Thuỵ Điển qui định 29 mặt hàng và dịch vụ được miễn chịu thuế. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 11 Đan Mạch qui định 14 mặt hàng và dịch vụ được miễn chịu thuế. Đức qui định 5 mặt hàng và dịch vụ được miễn chịu thuế. 4./ Quản lý GTGT. Đăng ký thuế: Các đối tượng nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ đầu tiên là đăng ký thuế tại cơ quan thuế địa phưong nơi đặt cơ quan điều hành thường trú của mình theo mẫu thống nhất do cơ quan thuế cung cấp. Một số nước sử dụng mã số đăng ký thuế cũ (thuế doanh thu) và thêm vào đuôi của dãy số đăng ký một số bổ xung để chỉ rõ là số đăng ký GTGT. Riêng Nhật Bản không sử dụng hệ thống mã hoá số đăng ký trong công tác quản lý GTGT. Nộp thuế: Đa số các nước áp dụng GTGT thực hiện nộp thuế theo cơ chế tự kê khai tính và nộp thuế theo mẫu in sẵn do cơ quan thực hiện cung cấp. Nộp tờ khai và thanh toán thuế theo định kỳ hàng tháng, quí (tuỳ theo chế độ nộp thuế qui định cho từng loại đối tượng). Việc thoái thuế: Phần lớn được giao cho cơ quan thu thuế, trong trường hợp số thuế được khấu trừ lớn (xuất khẩu hàng hoá hoặc mua sắm tài sản giá trị lớn, đối tượng kinh doanh có quyền kê khai đề nghị cơ quan thuế thoái trả số tiền đã trả khâu trước. Cơ quan thuế kiểm tra và thoái trả tiền thuế đã trả ngay một lần hoặc thoái trả dần trong một thời gian tuỳ theo qui định của từng nước và khả năng ngân sách mỗi nước. Theo cách này cơ quan thuế thường có một tài khoản thu GTGT và sử dụng nguồn thu để thoái thuế, khoản còn lại nộp vào Ngân sách Nhà nước. Việc khấu trừ thuế GTGT: Các nước áp dụng khấu trừ theo hoá đơn đầu vào và cho khấu trừ toàn bộ số phát sinh từng kỳ, khi tính thuế GTGT phải nộp. Hầu hết các nước cho áp dụng khấu trừ thuế đầu vào của tài sản cố định nhằm khuyến khích đầu tư, cũng có nước không cho áp dụng như Trung Quốc. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 12 PHẦN III. TÌNH HÌNH ÁP DỤNG THUẾ GTGT TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ NHỮNG NƯỚC ĐÃ ÁP DỤNG. I./ TÌNH HÌNH ÁP DỤNG THUẾ GTGT Ở MỘT SỐ NƯỚC. 1./ Thuỵ Điển: Là một nước đi đầu trong việc áp dụng thuế GTGT (1969). Trước khi thực hiện GTGT, Thuỵ Điển đã thực hiện cơ chế thuế doanh thu với một thuế suất 10% áp dụng chủ yếu đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế. Mục tiêu của sự chuyển đổi là khuyến khích hàng xuất khẩu và thực hiện hoàn thuế đối với hoạt động xuất khẩu. Quá trình chuyển đổi thuế ở Thuỵ Điển được tiến hành qua hai giai đoạn: - Mùa xuân năm 1968 Bộ Tài Chính giải trình trước Quốc hội và các doanh nghiệp về kế hoạch, nội dung chuyển đổi cơ chế nộp thuế. - Mùa thu năm 1968 được Quốc hội thông qua và ban hành năm 1969 với ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 13 những nội dung cơ bản: Thứ nhất: Các đối tượng nộp thuế doanh thu đều chuyển sang nộp GTGT. Thời kỳ đó có 160.000 đối tượng nộp thuế doanh thu. Các dịch vụ không phải nộp thuế, 200.000 hộ nông dân năm ngoài cơ chế GTGT. Thứ hai: áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế nộp khâu trước. Thứ ba: Thuế suất lúc đầu áp dụng một mức thuế là 10% như thuế doanh thu nhưng do cơ chế khấu trừ nên làm giảm số thuế GTGT. Để bù đắp nguồn thu, Thuỵ Điển đã tăng phí bảo hiểm 1% trên tổng quĩ lương. Trong quá trình thực hiện Thuỵ Điển cũng đã điều chỉnh thuế suất và bổ sung thêm mức thuế vào. Thứ tư: Đối với những đầu tư trang thiết bị, máy móc khi thực hiện GTGT cung được khấu trừ. Thứ năm: Không qui định cho miễn giảm GTGT vì không thể dùng chính sách thuế GTGT để trợ cấp. 2./ Philipines: Khi Chính phủ mới ra đời (tháng 12 năm 1986) việc cải cách sửa đổi hệ thống thuế là việc làm trước tiên của nước này. Chương trình thuế năm 1986 bao gồm 29 khâu cải cách phải tiến hành và đã được soạn thảo. Một trong những cải cách về cơ cấu đưa ra trong chương trình là ban hành thuế GTGT. Được thể chế hoábăng Lệnh số 273, có hiệu lực thi hành từ 1/1/1988. Như vậy, để ban hành thuế GTGT, Philipines đã trải qua quá trình nghiên cứu và chuẩn bị. Ngày 1/1/1988, Philipines bắt đầu thực hiện GTGT. Có thể tóm tắt ở mấy điểm sau: - Thuế GTGT được xây dựng dể hợp lý hoá hệ thống đánh thuế hàng hoá ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 14 và dịch vụ chịu thuế, để đơn giản hoá việc quản lý thuế và làm cho hệ thống thuế Philipines công băng hơn. - Thuế GTGT được áp dụng trên diện rộng hàng hoá và một số dịch vụ, trên từng hoạt động bán hay nhập khẩu những hàng hoá dịch vụ đó. - Thuế suất qui định một mức là 10% đánh trên tổng giá bán hay tổng số tiền nhận được từ bán hàng hoá hay dịch vụ, thay cho thuế doanh thu đối với người sản xuất gồm 4 thuế suất: 0%, 10%, 20%, 30%, thuế trên dịch vụ: 15 thuế suất từ 0% đến 30%. Tuy nhiên, có miễn thuế đối với một số hoạt động kinh doanh được áp dụng để khuyến khích một số hoạt động như sản xuất nông sản, giảm bớt ảnh hưởng đến giá cả một số mặt hàng như dầu lửa, và để đơn giản việc quản lý thuế đối với doanh nghiệp nhẹ và các dịch vụ tài chính. - Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu. - áp dụng tính thuế theo phương pháp khấu trừ và cho khấu trừ đối với tài sản dùng trong thương mại hoặc kinh doanh. Kết quả thu thuế GTGT của Philipines được biểu hiện qua ba năm (bảng kèm theo) đã cho thấy tỉ lệ về số thu VAT so với số thu CP, GDP, GNP đều tăng sau 10 và 20 năm áp dụng cơ chế thuế mới. Năm Số thu từ VAT Số thu từ thuế Số thu của CP GDP GNP % số thu VAT/số thu thuế % số thu VAT/số thu CP Số thu VAT/ GDP Số thu VAT/ GNP 1 2 3 4 5 1/2 1/3 1/4 1/5 1988 13 90 113 826 823 14,5 11,8 1,6 1,6 1989 20 122 154 964 961 16,7 13,3 2,1 2,1 1990 12 69 79 527 527 17,1 14,8 2,2 2,2 3./ Trung Quốc: Là nước có chủ trương nghiên cứu ban hành thuế GTGT từ ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 15 năm 1980, sau 4 năm nghiên cứu, ngày 18/9/1984 chính thức ban hành. Trung Quốc đã tiến hành theo phương pháp thí điểm. Sau đây đề cập một số nhận xét của chuyên gia thuế Trung Quốc từ 28/6 đến 12/7/1993 do đồng chí Trần Xuân Thắng - Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê dẫn đầu). Chương trình thí điểm về thuế GTGT ở Trung Quốc đã gặp nhiều vướng mắc do các nguyên nhân chủ yếu: a. Chưa chuẩn bị kỹ về chế độ hướng dẫn thực hiện và xử lý các trường hợp vướng mắc thực tế. b. GTGT chỉ thực hiện cho một số sản phẩm ở khâu sản xuất, chưa thực hiện ở khâu lưu thông, dịch vụ, vì vậy, trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn vướng mắc, không xử lý triệt để, chính xác, chưa đạt được mục đích của GTGT là khắc phục triệt để thu thuế trùng lặp. Bên cạnh đó, GTGT của Trung Quốc có quá nhiều thuế suất, mức chênh lệch giữa các thuế suất cao từ 43% đến 12%. Vì vậy, khi thực hiện khấu trừ thuế phức tạp, căn cứ không chính xác, gây ra vận dụng tuỳ tiện, không kiểm soát được chặt chẽ việc khấu trừ tiền thuế ở cơ quan cấp dưới. Để khắc phục tình trạng này, đảm bảo thẹc hiện đơn giản, dễ kiểm soát, hiện nay Trung Quốc thực hiện khoán mức khấu trừ thuế cho các sản phẩm đầu vào, bước đầu có nhiều mức, nay thực hiện thống nhất một mức 7%. Do thu theo phương pháp khấu trừ chung cho một mức thoát ly hoá đơn, nên phạm vi khấu trừ thuế rộng thực tế có khi thuế thu thấp vì trong số thuế được khấu trừ có phần thuế chưa được tính nộp Ngân sách. Một trong những điều kiện tiên đề để thực hiện thành công GTGT là thực hiện cơ chế giá thị trường. Nhưng hiện nay Nhà nước Trung Quốc vẫn quản lý giá hơn 100 ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 16 mặt hàng, vì vậy, quá trình thực hiện GTGT của Trung Quốc gặp khó khăn. Thực hiện GTGT ở khâu sản xuất của Trung Quốc gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Để việc quản lý, thực hiện GTGT có hiệu quả, Trung Quốc phân ra từng đối tượng để có biện pháp thu thuế: Xí nghiệp qui mô nhỏ thu khoán, Xí nghiệp có qui mô lớn và vừa thu căn cứ vào sổ sách kế toán. Thực tế hiện nay GTGT chỉ áp dụng trong các xí nghiệp quốc doanh. II./ MỘT SỐ NƯỚC KINH TẾ PHÁT TRIỂN VẪN CHƯA ÁP DỤNG THUẾ GTGT. Cho dù GTGT là một loại thuế có nhiều ưu điểm nhưng cho đến nay có một sô nước kinh tế phát triển chưa áp dụng. Chúng ta sẽ nghiên cứu những nguyên nhân của vấn đề trên thông qua phân tích tình hình hai nước đại biểu là Mỹ và Austraylia Hoa Kỳ (Mỹ): Là một nước có nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới. Một cường quốc có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều lĩnh vực trên thế giới, tuy nhiên, cho đến nay Mỹ vẫn chưa chấp nhận GTGT. Vì vậy đau là những lý do ngăn cản con đường GTGT xâm nhập vào Mỹ? Về cơ bản Mỹ thoả mãn với hệ thống thuế doanh thu khâu bán lẻ cấp bang và liên bang hiện hành. Thuế suất doanh thu bán lẻ cấp bang tương đối thấp, trung bình khoảng 4,6%, diện đánh thuế cũng tương đối hạn chế. Ví dụ: ở Mỹ có 29 bang không đánh thuế lương thực thực phẩm, 25 bang miễn thuế cho hầu hết các dịch vụ. Cơ chế thuế hiện hành của Mỹ không gây trở ngại lắm cho hoạt động sản xuất dịch vụ trong nước. Chính vì vậy, nước Mỹ chưa thực sự có nhu cầu về một cơ chế thuế mới. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 17 Tuy nhiên, Mỹ cũng đã quan tâm đến GTGT trong thời gian tương đối dài (20 năm qua), và trong cuộc tranh luận gần đây, các chuyên gia đã nêu ra một số lý do để Mỹ ban hanh GTGT là: - GTGT sẽ thay thế 1 phần thuế đánh trên quĩ lương (bảo hiễm xã hội) (52 tỷ USD). - GTGT se thay thế 1 phần thuế thu nhập công ty (28 tỷ USD). - Một lý do nữa được đưa ra năm 1983 là GTGT còn có thể tài trợ cho quốc phòng (thực tế là để tăng số thu cho Ngân sách). Năm 1984, một sự thảo nữa được đưa ra với ý đồ dùng GTGT để thay thế cho thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty và thuế thừa kế, thuế suất GTGT là 15%. GTGT sẽ là động lực tạo nguồn thu chủ yếu cho Ngân sách. Năm 1985, Mỹ đưa ra một dự thảo về mô hình GTGT nữa, áp dụng theo phương án trực tiếp. Nói chung, các phương án đưa ra nhằmban hành GTGT cuối cùng cũng chỉ là để tăng số thu cho Ngân sách. Dù vậy các Nghị sĩ đã bác bỏ việc ban hành GTGT với nhứng lý do chủ yếu sau: a. Lo sợ về tính luỹ thoái của GTGT. b. Lo lắng về việc GTGT gây lạm phát. c. Cán bộ thuế bang và quận (địa phương) lo sợ về việc ban hành GTGT sẽ xâm phạm đến nguồn thu của họ. d. Cả cơ quan thuế bang và liên bang đều lo ngại việc áp dụng GTGT sẽ tác động về phương diện quản lý. Autralia: Autralia cũng là một trong những nước OECD đến nay chưa chấp nhận GTGT vì một số lý do như sau: ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 18 a. Lo sợ về chi phí quản lý cao. b. Lo sợ về khả năng trốn thuế tăng. c. Những yêu cầu về hoàn thuế khai tăng thêm có thể là một lỗ hổng cũng nghiêm trọng tương đương như lập hoá đơn sai. d. Chi phí cho việc cưỡng chế thuế tăng. Lo sợ về tính luỹ thoái. Như vậy, những lý do chủ yếu của việc chưa ban hành thuế GTGT ở Mỹ và Autralia là các lý do mang màu sắc chính trị chứ không phải về kinh tế, do đặc thù của các nước đó (quan hệ liên bang và bang đang ổn định, họ không muốn có sự xáo trộn đễ dàng gây nên tình hình mất ổn định chung). III./ BÀI HOC KINH NGHIỂMUT RA TỪ CÁC NƯỚC ĐÃ TÍNH THUẾ GTGT. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước áp dụng GTGT cà hội thoả, trao đổi kinh nghiệm với các chuyên gia thuế GTGT của các tổ chức quốc tế và một số nước có thể rut ra một số bài học kinh nghiệm như sau: 1. Thuế GTGT là một loại thuế có nhiều ưu điểm cần nghiên cứu áp dụng nhằm góp phần thúc dẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển theo cơ chế thị trường, mở rộng kinh tế đối ngoại, tạo nguồn thu ổn định và phát triển cho Ngân sách quốc gia. Nhưng không thể và không nên áp dụng thí điểm thuế GTGT trong phạm vi hẹp ở một số nghành và một số đơn vị. 2. Nội dung chính sách thuế GTGT ban hành phải được nghiên cứu kỹ, qui định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện được rõ ràng, thống nhất. Phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT với sự vận dụng và qui định phù hợp với từng nước. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 19 - Củng cố chế độ hoá đơn, chứng từ, hạch toán, kế toán, nhưng không thể đợi đến lúc thực hiện đầy đủ hoá đơn chứng từ mới áp dụng GTGT, vì việc áp dụng GTGT cũng thúc đẩy việc sử dụng hoá đơn chứng từ. - Cần làm tốt công tác tuyên truyền và hướng dẫn chế độ thuế này để mọi đối tượng, mọi người đều hiểu và thực hiện đúng. - Công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý thuế GTGT cho cán bộ thuế phải được quan tâm và chuẩn bị trưóc. - Phải từng bước hiện đại hoá trang thiết bị công cụ quản lý thuế, trong đó trang bị hệ thống máy vi tính là quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế nói chung, và thuế GTGT nói riêng. - Đồng thời với việc ban hành thuế GTGT cần sửa đổi hệ thống thuế đồng bộ nhằm xác định rõ phạm vi , mục tiêu điều chỉnh của từng loại thuế (thuế xuất nhập khẩu, thuế TTĐB...). Mức thuế và chính sách thuế cần có tính ổn định không nên thay đổi luôn. - Cần nhận thức đúng và đầy đủ tác động có thể xẩy ra trong giai đoạn đầu áp dụng GTGT để có phương án xử lý, trong đó vấn đề điều hành Ngân sách, quản lý giá cả là vấn đề quan trọng. PHẦN IV. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG THUẾ GTGT. I./ NHỮNG TỒN TẠI CỦA HÊN THỐNG THUẾ HIỆN HÀNH. Trong quá trình thực hiện, hệ thống chính sách thuế hiện hành đã được sửa đổi, bổ xung nhiều lần đáp ứng yếu cầu của tình hình thực tế. Nhưng cho đến nay, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển theo cơ chế thị trường, khu vực kinh tế Nhà nước được sắp xếp tổ chức lại, bước đầu hoạt động có hiệu quả; khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển đa dạng dưới nhiều hình thức, các xí nghiệp hoạt động ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 20 theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng tăng. Chính trong bối cảnh này, hệ thống chính sác thuế đã bộc lộ những khuyếm khuyết về các mặt: - Chưa bao quát hết các nguồn thu đã, đang và sẽ phát sinh trong nền kinh tế thị trường như: lãi cổ phần, lãi tiền gửi, thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần, thu nhập từ chuyển nhượng tài sản; chưa bao quát hết các hoạt động dich vụ. - Trong mỗi loại thuế phải cùng một lúc vừa thực hiện mụctiêu bảo đảm nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và thực hiện mục tiêu nhiều chính sách khác, do đó, làm cho nội dung chính sách thuế phức tạp, gây khó khăn trong quá trình thực hiện cả đối với cán bộ thuế cũng như đối tượng nộp thuế. - Về mặt kỹ thuật, hệ thống thuế hiện hành cũng như trong từng sắc thuế còn quá phức tạp, trùng lặp, nhất là thuế doanh thu, nên hiệu quả chưa cao, còn gây tâm lí chồng chéo nặng nề. - Trong chính sách còn có những điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, do đó, có thêt trở thành những cản trở trong quá trình mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới (đặc biệt là chính sách thuế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài cũng như trong nước. II./ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CẢI CÁCH HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THUẾ. Những thành tựu đã đạt được trong 10 năm đổi mới đã tạp tiền đề đưa kinh tế nước ta sang một giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đồng thời ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực trong nước và trên thế giới. Phương hướng phát triển kinh tế với các nước trong kỳ 1996 - 2000 như nới trên đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế mở rộng hợp tác trong thời gian tới. Vì vậy cải ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 21 cách thuế là một điều tất yếu nhằm mục đích: Thứ nhất: Khắc phục những nhược điểm của hệ thống thuế hiện hành, tạo sự thích ứng của nó trong cơ chế thị trường, bảo đảm yêu cầu động viên vào Ngân sách mà Đại hội lần thứ VII của Đảng đã đề ra cho những năm tới: ;àm cho thuế thực sự là một công cụ có hiệu lực của Nhà nước trong giai đoạn mới, thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế của đất nước theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ hai: Làm cho hệ thống chính sách thuế cũng như từng sắc thuế tiến tới những yếu tố tương đồng với thuée các nước và phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới. III./ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM. Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hoạt động cà vận hành của thị trường chưa thật linh hoạt, nhiều doanh nghiệp có trình độ công nghệ, kỹ thuật cũng như trình độ quản lý thấp, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh kém, chưa thích nghi và điều chỉnh nhanh nhạy để phù hợp với chính sách kinh tế mới. Vì vậy việc áp dụng thuế GTGT trong giai đoạn này là hết sức cần thiết. Thuế GTGT có những ưu điểm nổi bật có thể khắc phục được phần nào khó khăn khi thực hiện luật thuế cũ: Thứ nhất: Thuế GTGT có thể khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là không thu trùng lắp thuế nên có tác động tích cực đối với sản xuất dịch vụ. Đồng thời việc thực hiện thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệpcòn đòi hỏi các doanh nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế phải tăng cường quản lý như: ghi chép ban đầu, mở sổ sách kế toán và mua, bán hàng hoá có hoá đơn chứng từ, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trong tình hình mới. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 22 Về lưu thông hàng hoá, tuy trong bối cảnh nền kinh tế giảm phát kéo dài, nhưng vì thuế GTGT chỉ điều tiết trong phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên sẽ thúc đẩy việc lưư thông hàng hoá thuận lợi. Thứ hai: Thuế GTGT sẽ khuến khích đầu tư trong nước, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại. Thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả lại khi mua sắm tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh nghiệp. Đồng thởitong quá trình trực hiện, Chính phủ còn có những biện pháp khuyến khích thêm như đối với những công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành bàn giao. Năm 1998 sang năm 1999 mới thanh toán thì được nộp thuế theo mức thuế như cũ. Từ 01/09/1999 đã giảm 50% mức thuế GTGT cho xây dựng, lắp đặt. Nhờ đó số vốn đầu tư sẽ tăng lên. Thứ ba: Thuế GTGT sẽ góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất khẩu, giải quyết nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Thuật thuế GTGT qui định hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế xuất 0% và được hoàn thuế GTGT đầu vào nên đã khuyến khích xuất khẩu và tạo điều kiện để hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh về giá cả so với hàng hoá tương tự của các nước trên thị trường quốc tế. Thứ tư: Việc thực hiện thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu sẽ góp phần bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước. Kết hợp với cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 1999, thuế GTGT sẽ góp phần hạn chế tiêu dùng, nhất là hàng tiêu dùng cao cấp từ nước ngoài, thực hiện tiết kiệm cho sản xuất. Đối với vật tư, nguyên vật liệu nhập khẩu vẫn thực hiện thu thuế GTGT khi hàng nhập về, nhưng đã có xem xét điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu để ổn định sản xuất trong nước. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 23 Thư năm: Thuế GTGT còn góp phần cơ cấu lại nền kinh tế từ sản xuất thay thế nhập khẩu chuyển mạnh sang sản xuất hướng xuất khẩu. Thuế GTGT sẽ khuyến khích việc sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng nước ta có thế mạnh như nông sản, lâm sản, thuỷ sản... bằng các qui định cụ thể như không thu thuế GTGT đối với hàng do người sản xuất bán ra, cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các cơ sở chế biến, thương mại mua các mặt hàng, hoàn thuế đầu vào cho các cơ sở xuất khẩu các mặt hàng này nếu có hoá đơn GTGT đầu vào... Thứ sáu: Thuế GTGT không làm tăng giá cả hàng hoá. Bản chất thuế GTGT không làm tăng giá vì nó thay thế thuế doanh thu đã được kết cấu vào trong giá. Điều này cũng đòi hỏi các Bộ, Nghành địa phương phải có biện pháp quản lý hướng dẫn kịp thời và đúng đắn việc thực hiện thuế GTGT. Tránh tình trạng một số doanh nghiệp hay hộ kinh doanh chưa hiểu rõ, có thể sẽ cộng thêm thuế vào giá cũ để bán làm giá cả hàng hoá tăng thêm. PHẦN V. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM. Thực hiện chương trình cải cách thuế bước II, Quốc hội đã thông qua hai luật thuế mới: Luật thuế Giá trị gia tăng (thuế gián thu), Luật thuế thu nhập (thuế trực thu) và sửa đổi bổ xung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Đồng thời sửa đổi, bổ xung các luật thuế có liên quan như: Luật Nhân sách, Luật khuyến khích đầu tư trong nước...để thực hiện đồng bộ các luật thuế mới. Với nhận thức rằng việc triển khai thực hiện các Luật thuế mới được thi hành từ ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 24 01/01/1999, có tác động nhiều mặt đến tình hình kinh tế xã hội, nên thời gian đầu không tránh khỏi những khó khăn và lại càng khó khăn hơn khi kinh tế nước ta đang bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, thiên tai lại liên tiếp sảy ra. Ba yêu cầu phải đạt được khi thực hiện triển khai các luật thuế mới: - Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp ổn định được hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng cường hạch toán kinh tế, nâng cao năng lực quản lý, nâng cao cao khả năng cạnh tranh trong nước, trên thị trường quốc tế. - Bảo đảm không ảnh hưởng lơn đến kế hoạch thu của Ngân sách Trung ương trong những năm đầu thực hiẹen. Tạo điều kiện để Ngân sách địa phương ổn định nguồn thu, nâng dần tỷ lệ các địa phương cân đối Ngân sách và có đóng góp cho Ngân sách Trung ương. - Bảo đảm ổn định thị trường trong nước, tránh gây ra những biến động mạnh về giá cả, đặc biệt là giá vật tư, hàng hoá quan trọng dùng cho sản xuất và tiêu dùng thiết yếu để ổn định sản xuất và không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Nghị quyết số 18/1998/QH10 ngày 25/11/1988: "Chính phủ cần tập chung chỉ đạo thực hiện các luật thuế mới, nhất là luật thuế GTGT. Để chủ động giải quyết kịp thời những khó khăn cho các doanh nghiệp khi thực hiện Luật thuế GTGT nhằm ổn đinhj và phát triển sản xuất, kinh doanh. Quốc hội cho phép Chính phủ trong thời gian đầu thực hiện được áp dụng quy định tại Điều 28 Luật thuế GTGT để giảm thuế đối với hoạt động thương mại, dịch vụ du lịch, ăn uống, và không khống chế mức giảm tối đa 50% số thuế GTGT phải nộp. Sau một thời gian thực hiện, Chính phủ trình UBTVQH sửa đổi bổ sung các mức thuế suấttheo qui định tại Điều 8 của Luật thuế GTGT và báo cáo Quốc hội trong kỳ họp gần nhất. I./ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU HƠN HAI NĂM THỰC HIỆN. Trong hai năm đầu tiên triển khai các Luật thuế mới tuy gặp nhiều khó khăn, ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 25 nhưng với tinh thần chủ động, lại được sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Bộ chính trị, của UBTVQH, và sự điều hành thướng xuyên, cụ thể của Chính phủ, cùng với sự cố gắng của các nghành, các cấp, của các cơ quan đoàn thể, sự hưởng ứng của các đối tượng nộp thuế, sự đồng tình của nhân dân, sự nỗ lực của nghành tài chính, nghành thuế, đến nay sau một năm thực hiện các Luật thuế mới đã đi vào cuộc sống, sản xuất kinh doanh giữ được ổn định, bước đầu các Luật thuế mới đã phát huy được tác dụng trên các mặt. 1./ Về sản xuất kinh doanh. Với việc thực hiện Luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10% so với trước đâu. toàn bộ thuế GTGT của công trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng không tính vào giá công trình như thuế doanh thu, vì vậy chi phí khấu hao tài sản cũng giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp xây dựng mua sắm tài sản cố định có thuế GTGT đều được khấu trừ hoặc hoàn thuế. Mặt khác khi nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án, thì không thuộc diện chịu thuế GTGT trong thời gian ba ngày kể từ ngày nộp tờ khai. Từ khi thực hiện Gnhị định só 78?NĐ-CP giảm 50% mức thuế GTGT đối với sản phẩm xây dựng cơ bản thì mức thuế GTGT các doanh nghiệp xây lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào bình quân chỉ còn khoảng 1% đến 2%, thấp hơn so với mức 4% khi nộp thuế doanh thu, thậm chí còn được hoàn thuế. Thực hiện thuế GTGT còn thuc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá phát triển do thuế GTGT chỉ thu trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các khâu sản xuất, lưu thông đến khâu tiêu dùng cuối cùng với hai phương pháp tính thuế (phương pháp khấu trừ thuế, và phương pháp trực tiếp). Đã khắc phục nhược điểm của thuế doanh thu là thuế trùng lên thuế, đã thuc đẩu chuyên môn hoá, hiệp tác sản xuất, nhất là trong lĩnh vực sản xuất có khí như: sản xuất, lắp ráp xe đạp, xe máy, ô tô, ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 26 điện, điện tử... Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có qui định chế độ khuyến khích đối với đầu tư các cơ sở sản xuất mới thành lập được miễn thuế hai năm đầu, được giảm 50% trong hai năm sau nữa. Nếu đầu tư vào những lĩnh vực, nghành nghề, vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư sẽ được hưởng mức thuế suất thấp hơn so với các dự án khác (đầu tư trong nước hưởng thuế suất là 15%, 20%, 25%, đầu tư nước ngoài là 10%, 15%, 20%) và còn được ưu đãi miễn giảm thuế thời gian dài hơn. Thời gian được miễn giảm thuế cao nhất là 13 năm trong dó miễn thuế 4 năm đầu và giảm 50% thuế trong 9 năm tiếp theo. Ngoài ra, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp còn khuyến khích miễn, giảm thuế đối với các trường hợp đầu tư dây chuyền sản xuất mới, mở rộng qui mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất, di chuyển có sở kinh doanh. Đối với Nhà nước đã giảm mức thuế chuyển quyền sử dụng đát từ 10% xuống còn 2% đối với đát sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, đát làm muối và giảm từ 20% xuống 4% đối với đát ở, đất xây dựng công trình, đất khác. Các sơ sở kinh doanh chuyển quyền sử dụng đất thuê, không phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất. Đối với các cơ sở kinh doanh được Nhà nước giao đất xây dựng nhà ở để bán, xây dựng kết cấu hạ tầng cho thuê thì đất chuyển quyền được miễn thuế chuyển quyền sử dụng đất không chịu thuế GTGT tính trên giá đất chuyển quyền. Ngoài ra, Nhà nước còn giảm lệ phí trước bạ đất từ 2% xuống 1% lam cho thị trường đất đai, nhà cửa đã có dấu hiệ sôi dộng hơn trước. Đối với phí, lệ phí đã thống nhất áp dụng một mức thu phí, lệ phí chung cho cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước. Giảm lệ phí cấ giấy phép đặt văn phòng đại diện của nước ngoài từ 5000 USD/lần (tương đương với 70 triệu đồng Việt Nam) xuống còn 1 triệu đồng/ lần và không thu lệ phí đối với trường hợp gia hạn giấy phép đặt văn phòng đại diện. Trong quá trình thực hiện, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 27 hàng, dịch vụ gặp khó khăn do thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu nhưng chưa chuyển đổi kịp cho phù hợp với có chế thuế mới và chịu sự ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực như: than, cơ khí (trừ sản phẩm cơ khí tiêu dùng), luyện cán, kéo kim loại, máy vi tính, oá chất cơ bản, hoá dược, vận tải, bốc xếp, xây dựng, lắp đặt, khách sạn, ăn uống, du lịch, đã được UBTVQH, Chính phủ, Bộ tài chính thực hiện các biện pháp xử lý, tháo gữo khó khăn như: giảm mức thuế nhập khẩu của 569 mặt hàng là vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước với số thuế giảm gần 1000 tỷ đồng, giảm mức thuế GTGT cho 18 loaih hàng hoá, dịch vụ mở rộng diện khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ ấn định đối với một số mặt hàng... Bằng các nội dung chính sách và biện pháp tháo gõ khó khăn nêu trên, các Luật thuế mới đã góp phần khuyến khích đầu tư và ổn định sản xuất, kinh doanh. Trong năm 1999, tuy gặp nhiều khó khăn do số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm khoảng 12,3% nhưng tổng số vốn đầu tư vẫn tăng so với năm 1998, trong đó vốn đầu tư trong nước tăng khoảng 28,6%, vốn ODA tăng khoảng 16%. Thực hiện các luật thuế mới ngay sau thời gian khủng hoảng kinh tế tài chính tiền tệ nhưng sản xuất kinh doanh vẫn giữ được ổn định. NĂm 1999, tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng tăng lên so với năm 1998, cả năm đạt 4,8%. Tình hình tài chính của các doanh nghiệp vẫn giữ được ổn định và có thể chia ra theo các nhóm như sau: - Nhóm các doanh nghiệp thực hiện các luật thuế mới thuận lợi hơn do mức thuế phải nộp thấp hơn so với mức thuế cũ như: điện, xi măng, phân bón, thuốc trừ sâu, xây dựng, ăn uống, lắp đặt, bưu chính viễn thông, xổ số kiến thiết, khách sạn, du lịch... - Nhóm các doanh nghiệp thực hiện các luật thuế mới có mức thuế phải nộp tương đương với mức thuế cũ như: nghành dệt may, da giầy, điện tử, vật liệu xây dựng (trừ xi măng), đường sữa, bao bì... - Nhóm các doanh nghiệp đang lỗ thực hiện các luật thuế mới giảm lỗ ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 28 hoắc có lãi như: Dệt Nam Định, Tổng công ty vật tư Nông nghiệp, kẹo Hải Hà... - Nhóm các doanh nghiệp trước đây lỗ, thực hiện các luật thuế mới vẫn bị lỗ như: Dệt 8/3, đạm Hà Bắc, cơ khí Hà Nội, bia Đông Nam á, công ty điện tử Đống Đa, công ty điện tử Hanel... Để khuyến khích xuất khẩu, đại bộ phận hàng hoá xuất khẩu đều được áp dụng mức thuế suất 0%. Một số loại hàng chịu thuế xuất khẩu như: gạo, than đá, sản phẩm từ gỗ rừng trồng, bàn ghế, sản phẩm chế biến từ kim loại (dây đồng, dây nhôm...)trong năm 1999 cũng được giamt thuế xuất khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu. Cùng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như cho phép doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, thành lập quĩ hỗ trợ xuất khẩu... thì việc thực hiện Luật thuế GTGT có tác dụng rõ nét nhất, trực tiếp đến khuyến khích xuất khẩu. Theo qui định của luật thuế GTGT hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là được hoàn toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, việc hoàn thuế GTGT đầu vào đối với hàng hoá thực chất là Nhà nước trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu nên đã giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có lợi thế hơn trước do giảm được giá vốn hàng xuất khẩu và vì thế góp phần tăng khả năng cạnh tranh với hàng hoá trên thị trường quốc tế. Trong năm 1999 số tiền đã hoàn thuế, tăng vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoảng 1.800 tỉ đồng. Vì vậy trong điều kiện thị trường xuất khẩu bị hạn chế, giá xuất khẩu giảm nhưng với sự cố gắng của các nghanh, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và tác động của cơ chế chính sách nên tổng trị giá xuất khẩu của nước ta năm 1999 vẫn tăng so với năm 1998 là 23.18%. Trong đó những mặt hàng được hoàn thế đầu vào nhiều, xuất khẩu tăng so với năm 1998 như: cao su 37,7%, gạo 21,4%, thuỷ sản 14,4%, rau quả 39,6%, dệt may 16%, giày dép 36,4%, thủ công mỹ nghệ 48,6% điện tử 17,5%. Ngoài việc khuyến khích xuất khẩu, thuế GTGT cà thuế tiêu thụ đặc biệt vào hàng hoá xuất nhập khẩu đã có tác dụng cùng với thuế nhập khẩu bảo hộ có hiệu quả sản xuất trong nước. Nhất là khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại đa ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 29 phương, song phương phải cắt giảm thuế quan, thực hiện thuế suất ưu đãi hoặc phải cắt bỏ hàng rào phi thuế quan thì việc bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế GTGT và thuế tiêu thụ đặc biệt là biện pháp cực kỳ quan trọng. Tính đến năm 1999, đã giảm thuế theo chương trình CEPT là 3591 dòng hàng, trong đó riêng năm 1999 là 1872 dòng hàng. Đồng thoèi nân thuế nhập khẩu của 132 mặt hàng chủ yếu là hàng tiêu dùng trong nước đã sản xuất được để bảo hộ sản xuất trong nước. 2./ Về thị trường giá cả. Trong hai tháng đầu năm 1999, giá một số mặt hàng như: lương thực, thực phẩm, công nghệ phẩm, dược phẩm, y tế... có nhích lên so với tháng 12/1998 là do ảnh hưởng của Tết nguyên đán và một phần do một số doanh nghiệp, hộ tư nhân chưa hiểu rõ về thuế GTGT hoặc lợi dụng đã cộng thêm thuế GTGT vào giá cả để bán. Nhưng Chính phủ đã chủ động chỉ đạo về việc chuẩn bị hàng hoá phục vụ Tết, có quyết định miễn thuế GTGT trong 6 tháng đối với các cơ sở kinh doanh thương mại kinh doanh các mặt hàng lương thực, thực phẩm tươi sống và rau quả tươi. Đồng thời chỉ đạo các nghành, các cấp từ trung ương đến địa phương tăng cường quản lý tốt giá cả, thực hiện niêm yết giá cả và bán đúng giá niêm yết. Vì vậy, thị trường, giá cả đã trở lại ổn định và không có biến động lơn. như vậy, tình hình giá cả thị trương trong năm qua đã cho thấy rằng giá cả là do qui luạt cung cầu quyết ddịnh và do Nhà nước đã có biện pháp quản lý giá kịp thời đối với những mặt hàng có sự khan hiếm giả tạo. 3./ Về thu ngân sách Nhà nước. Triển khai các luật thuế mới được thiết kế trên cơ sở số thuế GTGT đảm bảo tương đương số thuế doanh thu, thuế thu nhập doanh nghiệp giảm gái 2000 tỷ để thực hiện chính sách ưu đãi về thuế suất, về miễn giảm thuế để khuyến khích đầu tư. Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao giảm để nâng mức khởi điểm chịu thuế và biể thuế của người trong nước và người nước ngoài. Phí, lệ phí giảm do thực hiện Nghị đinh 04 của Chính phủ nhiều khoản thu về phí, lệ phí phải cắt bỏ hoặc điều chỉnh ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 30 giảm mức thu. Để đảm bào thực hiện số dự toán thu năm 1999, Quốc hội giao, đảm bảo yêu cầu chi của Ngân sách Trung ương cũng như Ngân sách địa phương, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội cho áp dụng cơ chế điều hanh ngân sách năm 1999. Đối với những địa phương bị hut thu phần điều tiết cho ngân sách địa phương do tác động của thuế GTGT thì được Trung ương bù đủ, nếu thu vượt được hưởn 50% đối với số thu so với dự toán. Nguồn hoàn thuế do ngân sách Trung ương bố trí, không lấy từ ngân sách địa phương. Cơ chế trên cũng tạo sự yên tâm và quan tâm tích cực của các địa phương trong công tác chỉ đạo đieèu hành ngân sách nói ching, thu nói riêng. Mặt khác, do cơ chế chính sách được điều chỉnh, sửa đổi phù hợp hơn cũng góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh đối với các doanh nghiệp. Công tác chỉ đạo quản lý thu cũng chặt chẽ và tiến bộ nên kết quả thu năm 1999 đạt được dự toán Quốc hội thông qua. Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 106,8% so với dự toán. Số thu từ thuế và phí đạt 105,7% dự toán năm. Riêng số thu từ thuế GTGT thu đợc 16.590 tỷ đồng sau khi trừ số thuế phải hoàn, số còn lại tương đương với doanh thu tính theo mặt hàng năm 1999. Xét theo địa phương thì có 61/61 tinh, thành phố đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán năm nên khả năng các địa phương được thưởng lơn. Trong đó có 22/61 địa phương hoàn thành toàn diện cả ba chỉ tiêu chủ yếu là thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc doanh. Số địa phương hụt về thuế GTGT ngân sách Trung ương phải bù thêm chỉ có 14 địa phương và số phải bù cung không lơn. Tuy nhiên, tỷ lệ động viên thuế cà phí trên GDP của năm 1999 thấp (17,6%) chưa đạt mức độ động viên theo Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc đã đề ra la 20% đến 21% GDP. 4./ Về công tác quản lý hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp. Để từng bước thực hiện chính sách công bằng về thuế, đã điều chỉnh lại từ 11 mức thuế suất thuế lợi tức xuống còn 1 mức thuế suât thu nhập doanh nghiệp, đòi hỏi ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 31 các doanh nghiệp phải phấn đấu sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lý để thực hiện được các mức thuế suất mới. Do yêu cầu của việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Tính đúng thuế thu nhập doanh nghiệp trên nguyên tắc phải có hoá đơn, chứng từ, từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp người kinh doanh chú trọng tổ chức thực hiện tốt hơn công tác mở sổ sách kée toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Trong năm 1999, số lượng hoá đơn các doanh nghiệp sử dụng tăng gần gấp đôi so với năm 1998 và mức sử dụng hoá đơn tăng thể hiện sự chuyển biến một bước tiến mới trong công tác sử dụng hoá đơn và quản lý của doanh nghiệp. Sự chuyển biến nầy thể hiện rõ nhất trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đã thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, hơn 200.000 hộ kinh doanh cá thể đã thực hiện chế độ kế toán hoá đơn chứng từ chuyển từ hình thức nộp thuée khoán trước đây sang nộp thuế GTGT thep phương pháp kê khai trực tiếp. Đối với 6000 doanh nghiệp Nhà nước và hơn 2400 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công tác kế toán, hoá đơn chứng từ đã được củng cố, có nhiều tiến bộ so với các năm trước đây. Do làm tốt hơn công tác kế toán, hoá đơn chứng từ, các đối tượng nộp thuế đã chủ động khai lập và nộp tờ khai thuế hàng tháng tương đối đầy đủ và đúng thời hạn. Nếu như trong quí I/1999 chỉ có 75% số doanh nghiệp nộp tờ khai thuế GTGT thì đến quí IV/1999 đã tăng lên khoảng 97% đến 98% số doanh nghiệp nộp tờ khai thuế (trong đó 100% doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp tờ khai đầy đủ và đúng hạn) chỉ còn 2 đến 3% là chưa lập và nộp toè khai hoặc nộp toè khai chậm, cơ quan thuế phải ấn định số thuế phải nộp hàng tháng. Cũng do làm tôt công tác kế toán, hoá đơn chứng từ mà các đối tượng nộp thuế đã quyết toán tài chính, quyết toán thuế nhanh hơn so với các năm trước đây. Đến hết quí I/2000 đã có hơn 75% số doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp tự kê khai nộp báo cáo quyết toán tài chính, quyết toán thuế của năm 1999 cho cơ quan thuế. Như ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 32 vậy có thể khẳng đinh chính sách thuế mới găn nộp thuế với hoàn thuế đã găn với nghĩa vụ quyèen lợi của người nộp thuế, khuyến khích người nộp thuế chủ động thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. II./ NHỮNG YẾU TỐ THÚC ĐẨY VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN THUẾ GTGT ĐẠT ĐƯỢC NHỮNG KẾT QUẢ TRÊN. 1. Chính phủ, Ban chi đạo triển khai các luật thuế mới của Chính phủ, các Bộ, các Ngành, các địa phương đã bám sát sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Bộ chính trị, Quốc hội, của UBTVQH để tổ chức triển khai thực hiện các luật thuế mới. Trong quá trình triển khai Ban chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, các địa phương đã bám sát cơ sở sản xuất kinh doanh, phát hiện những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các luật thuế mới, nghiên cứu, đề xuất những giải phấp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp như: bổ xung vào danh mục hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT: máy bay, giàn khoan, tàu biển, thuê phim nhựa, phim video, sách báo, tạp chí nhập khẩu... Điều chỉnh giảm mức thuế suất cho 18 nhóm hàng hoá, dịch vụ ... Mở rộng việc khấu trừ đầu vào đối với phế liệu, đá, cát sỏi mua của người tự khai thác, hàng chịu thuế TTĐb mua của cơ sở sản xuất và các hàng hoá khac nếu có hoá đơn bán hàng, giảm thuế nhập khẩu cho các mặt hàng là nguyên liệu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước. Xử lý thuế đối với công trình xây dựng cơ bản hoàn thành năm 1999... Các ban chỉ đạo đã quản lý tốt thị trường, giá cả, đặc biệt là trong thời gian đầu áp dụng các luật thuế mới. Một số Ban chỉ đạo các Bộ, địa phwong hoạt động tương đối tốt như: Ban chỉ đạo thuộc Bộ công nghiệp, Bộ xây dựng, Bộ thương mại, Ban vật giá Chính phủ, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ban chỉ đạo thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Hải Dương, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Đồng Nai, Cần Thơ. 2. Công tác tuyên truyền, phổ biến luật về thuế, tập huấn nghiệp vụ có nhiều tiến bộ hơn so với các đợt triển khai các luật thuế trước đây. Ban Tư tưởng văn ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 33 hoá Trung ương và các địa phương đã phối hợp chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền, các đài báo Trung ương và địa phương đã phối hợp khá chặt chẽ với cơ quan thuế, để đẩy mạnh tuyên truyền giải thích các luật thuế mơi, phản ánh kịp thời những gương điển hình thực hiện tốt các luật thuế mới cũng như những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện các luật thuế mới. 3. Các cơ sở kinh doanh và mọi tầp lớp nhân dân đều hưởng ứng và đồng tình thực hiện các luật thuế mới do nhận thức được các luật thuế mới tiến bộ hơn và có nhiều ưu điểm hơn các luật thuế cũ. Có quyết tâm cao trong thực hiện luật thuế mới. Đồng thời phản ánh kịp thời những nhược điểm và vướng mắc để Chính phủ kịp thời điều chỉnh, chỉ đạo thực hiện. 4. Sự phấn đấu nỗ lực của ngành Thuế quan và ngành Hải Quan từ việc chuẩn bị triển khai đến việc tổ chức thực hiện các luật thuế mới, cụ thê: - Đã triển khai việc cấp mã số cho 1.105.560 đơn vị doanh nghiệp có vố đầu tư nước ngoài là 2.461 đơn vị. Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân là 36,680 đơn vị. Hợp tác xã. 15.970 đơn vị. Hộ cá thể là 1.024.456 hộ. Qua việc cấp mã số đã nắm chắc được số lượng đối tượng nộp thuế. - In và cung cấp đủ hoá đơn, chứng từ cho các doanh nghiệp. Đến ngày31/12/1999 số lượng hoá hơn đã phát hành là 1.456.300 quyển (tương ứng với 73.065.000 số hoá đơn). Trong đó, có 1.061.300 quyển hoá đơn GTGT và 404.000 quyển hoá đơn bán hàng thông thường. Ngoài ra còn có cho phép gần 1.000 Tổng công ty, công ty tự in hoá đơn để sử dụng riêng. - Đã cải tiến qui trình kê khai nộp thuế theo hướng nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc tự tính thuế, tự kê khai thuế và nộp thuế theo thông báo thuế. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp thực hiện chế độ tự kê khai và tính nộp thuế tương đối đầy đủ, đúng hạn. Đến nay, chỉ còn khoảng 2 đến 3% số đối tượng nộp thuế theo phương pháp kê khai là chưa nộp tờ khai, cơ quan thuế phải ấn định số thuế phải nộp hàng tháng. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 34 - Đã sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý thuế ở Cục thuế, Cục Hải Quan, Chi cục thuế, để đáp ứng được yêu cầu của quản lý thu theo các luật thuế mới. - Đã từng bước trang bị máy tính để hiện đại hoá công tác quản lý thuế. Đến nay, cơ bản đã trang bị xong số lượng máy tính cần thiết cho công tác quản lý thuế ở các cục thuế. III. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC CHÍNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN. 1. Vào thời điểm giao thời của sự thay đổi luật thuế: Sự vận động của nền kinh tế thị trường tất yếu đòi hỏi sự cận động của hệ thống chính sách thuế đẻe đảm bảo sự phù hợp của hệ thống thuế và lấp đi những kẽ hở để đối tượng nộp thuế lợi dụng, tuy nhiên chính thời điểm thay đổi của một chính sách thuế đôi khi tạo ra những kẽ hở mới cho cacs đối tượng nộp thuế lách qua. Vào thời điểm gần đây, khi luật thuế GTGT ra đời với thuế suất đầu ra tương đối cao thay vì cho hàng loạt các hoạt động có thuế suất thấp (1% đến 2%..) tại thời điểm 1/1/1999. Chính vì lý do này, hàng loạt các công trình xây dựng cơ bản, các công ty sản xuất kinh doanh ... đều cố gáng bằng cách này hay cách khác tăng khối lượng công trình hoàn thành bàn giao, tăng cường xác nhận các hợp đồng mua bán hoặc xuất hoá đơn bán hàng để có thể tránh được thuế GTGT với một mưcs thuế xuất đầu ra cao hơn rất nhiều. Những biểu hiện đó, ngoài việc làm ảnha hưởng lớn đến số thu của Nhà nước, còn làm giảm tính pháp lý, tínhcông bằng của hệ thống thuế. Sự thay đổi của hệ thống luật thuế là tất yếu đối với một nước có nền kinh tê đang phát triển và thường xuyên biến động. Tuy nhiên trên cơ sở biểu hiện này để có thể nghiên cứu, xây dựng một hệ thống chính sách sao cho những tác động xấu của chúng là nhỏ nhất đối với nền kinh tế. Đồng thời với việc ban hành một sự thay đổi của luật thuế, Bộ tài chính, Tổng cục thuế phải nghiên cứu cà đưa ra các phương án cụ thể để hạn chế tối đa việc lợi ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 35 dụng sự thay đôỉ này. Ví dụ tại thời điểm 1/1/1999, khi luật thuế GTGT bắt đầu có hiệu lực, Bộ tài chính có thể qui định tất cả các doanh nghiệp tổng kiểm tra kê kho vật liệu, kho thành phẩm có sự giám sát của cơ quan tài chính, tổng kiểm kê toàn bộ hoá đơn chứng từ do Bộ tài chính ban hành tại thời điểm 1/1/1999, tất cả các việc đó phải tiến hành đồng bộ, hàng loạt và tức thời. Khi đó sẽ hạn chế được một phần lớn thất tháo trong quá trình này. 2. Thuế suất thuế GTGT khá cao. Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, thuế suất thuế GTGT 10% tính cho các mặt hàng thông thường cho tiêu dùng là khá cao, làm giảm sức mua, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá gặp nhiều khó khăn. Một minh chứng cho thấy thuế suất thuế GTGT cao, đó là có trên 100 mặt hàng có thuế suất thuế GTGT cao hơn thuế suất thuế doanh thu và Nhà nước đã nhiều lần phải điều chỉnh giảm thuế. Mặc dù theo lý luận thuế GTGT do người tiêu dùng trả, không gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhưng nếu thuế suất cao, giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ sẽ cao, người tiêu dùng khó chấp nhận, tiêu thụ sẽ gặp khó khăn, các doanh nghiệp muốn bán được hàng buộc phải hạ giá bán và bị thua lỗ. Để tránh bị thua lỗ, các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất. 3. Thuế GTGT làm đảo lộn mức thuế phải nộp. Thuế GTGT được thiết kế với mức thu tương đương thuế doanh thu với mụ tiêu ổn định quan hệ phân phôí giữa Nhà nước với nền kinh tế xét trên tổng thể, nhưng thực tế có làm đảo lộn mức thuế phải nộp của các ngành khác nhau. Có ngành thuế phải nộp tăng gấp bội so với thuế doanh thu, có ngành lại thấp hơn nhiều. Tương quan phân phối giữa các ngành bị đảo lộn vướng mắc phát sinh không chỉ liên quan đến lỗ lãi mà còn liên quan đến vấn đề mới. 4. Thuế GTGT gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp về vốn. Qui định phải nộp thuế GTGT đối với những mặt hàng nhập kho nhưng chưa bán làm cho một số doanh nghiệp khó khăn trong vấn đề vốn. Đặc biệt với những ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 36 doanh nghiệp với số vốn ít thì qui định này làm cho họ thật sự điêu đứng. Nhiều doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay này khi áp dụng luật thuế GTGT phải vay thêm vốn để nộp cho phần thuế đầu vào, gánh nặng thiếu vốn đã nặng nay lại càng nặng thêm cho du sau này se được khấu trừ thuế hay hoàn thuế. Trường hợp các doanh nghiệp bán hàng đại lý khi chuyển hàng cho đai lý phải nộp ngay thuế GTGT, trong khi đó phải chỉ khi nào đại lý bán được hàng mới thu được thuế GTGT từ người mua. Như vậy vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng một cách bất hợp lý. 5. Tốc độ hoàn thuế cho doanh nghiệp còn chậm. Quá trình thủ tục xin hoàn thuế khá rắc rối, mất nhiều thời gian và công sức của ác doanh nghiệp. Để được hoàn thuế, các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn bộ hoá đơn, chứng từ lên cơ quan thuế rồi chờ nhân viên thuế xuống đơn vị kiểm tra, đối chiếu hoá đơn thực hiện băng phương pháp thủ công, kéo dài thời gian kiểm tra làm chậm việc hoàn thuế, bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực khác cũng gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp. 6. Tình trạng gian lận thuế ngày càng trở nên nguy hiểm hơn. Hiện nay hoá đơn bất hợp pháp đa dạng và phong phú chưa từng có và trở thành hàng hoá được mua bán công khai. Vấn đề này đã làm đau đầu cơ quan thuế hơn bao giờ hết. Trước đây khi thực hiện thuế doanh thu sử dụng hoá đơn giả, chỉ có thể ăn gian thuế trên số hàng bán ra, còn bây giờ, với hoá đơn giả, Nhà nước không những không thu được đồng nào mà ngược lại còn phải chi thêm để hoàn thuế. Bên cạnh đó, việc sử dụng hoá đơn bất hợp pháp tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giưa các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào không trốn thuế được sẽ mất dần sức cạnh tranh, những cơ sở trốn thuế sẽ có điều kiện hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh. Hậu quả là những doanh nghiệp làm ăn chân chính bị thua thiệt, sân chơi giữa các doanh nghiệp trở nên bất bình đẳng. Nếu tình trạng này không được ngăn chặn và xử lý kịp thời sẽ làm cho nguồn Ngân sách bị thâm hụt một khoản rất lớn và tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, làm giảm hiệu lực của luật thuế. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 37 7. Về việc khấu trừ thuế GTGT và xét giảm thuế GTGT. Cách tính thuế đầu vào được khấu trừ trong trường hợp kinh doanh hàng hoá chịu thuế GTGT còn nhiều phức tạp. Những qui định về khấu trừ khống và xét giảm thuế GTGT còn thiếu chặt chẽ, rườm rà, mang tính chắp vá. 8. Về hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn. Thực tế nền kinh tế nước ta có khoảng 4 vạn doanh nghiệp có khá nhiều tổ chức hạch toán và gần 1,6 triệu hộ chủ yếu lá sản xuất kinh doanh nhỏ. Cho nên khi thực hiện thuế GTGT đã đáp ứng hai phương pháp tính thuế cà hai loại hoá đơn, áp dụng phương pháp khấu trừ và hoá đơn GTGT đối với các doanh nghiệp đủ điều kiện hạch toán kế toán và áp dụng phương pháp trực tiếp thêm GTGT cà sử dụng hoá đơn thông thường đối với các hộ kinh doanh nhỏ. Việc áp dụng đồng thời hai cách tính thuế GTGT và hai loại hoá đơn trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay là cần thiết, song trên thực tế lại nảy sinh những bất cập gây trở ngại cho các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế không được khấu trừ đầu vào khi mua hàng hoá, dịch vụ của các đơn vị tính thuế theo phương pháp trực tiếp, gây mất công bằng trong các thành phần kinh tế, hoặc nảy ra tình trạng chống thuế. Ngoài ra, những bất cập trong kế toán thuế GTGT, trong chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường... cũng gây nhiều khó khăn cho công tác thu của ngành thuế và cho các hộ kinh doanh nhỏ. 9. Xử lý thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu. Trong hơn 6 tháng đầu năm, thuế suất hàng nhập khẩu, nhất là đối với nguyên, nhiên, vật liệu quá cao. Việc áp mã thuế thiếu chính xác, thời gian nộp thuế quá ngắn. Vấn đề hoàn thuế còn chậm và phức tạp trong kiểm tra hoá đơn. Do vậy nhiều doanh nghiệp phải chịu thêm lãi suất ngân hàng từ số tiền vay nộp thuế trước nhưng chậm được trả lại. Song mặt khác, chính nhiều doanh nghiệp cũng chưa nghiêm túc kê khai và hoàn thành các thủ tục cần thiết, dẫn đến tình trạng châm trễ trong việc hoàn thuế. 10. Vướng mắc về thủ tục. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 38 Trong Nghị quyết 90/1999_UBTVQH khoá IX qui định vật tư xây dựng loại trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để chế tạo tài sản cố định của doanh nghiệp không phải chịu thuế GTGT. Hoặc điều 4 luật thuế GTGT qui định không thu thuế GTGT đối với dây truyền thiết bị toàn bộ, đồng bộ. Đến nay vẫn chưa có hướng dẫn để thực hiện. Thí dụ: Phụ tùng, phụ kiện đi kèm, vật tư xây dựng cấu thành nên thiết bị có được hưởng tiêu chuẩn không thu thuế GTGT như máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải hay không thì đến nay vẫn chưa làm rõ. 11. Chưa nhất quán trong thực hiện nguyên tắc. Do phải xử lý những bất cập, chưa phù hợp với thực tê, để đảm bảo cho sản xuất kinh doanh bình thường, Chính phủ, Bộ tài chính đã phải giảm 50% thuế GTGT cho một số mặt hàng, mở rộng thêm một số đối tượng không chịu thuế GTGT... Tất cả những xử lý theo hướng "vướng đâu gỡ đấy" đã làm cho biểu thuế suất biến dạng di so với thiết kế ban đàu. Từ 3 mức thuế suất đến nay không còn là 3 mà đã trở thanh 4 đến 5 mức thuế suất. Trên thực tế gây nên sự bất hợp lý mới cho sự cạnh tranh bình đẳng của doanh nghiệp. Tạo ra hai sân chơi khác nhau trong nền kinh tế. Hiện nay thuế GTGT được tính theo hai phương pháp là phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ. Khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp thi những đơn vị này không được khấu trừ, trong khi trong giá trị hàng hoá đã có phần thuế GTGT nên đã làm cho thuế đánh chồng chéo lên thuế. Ngược lại, khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp có quan hệ giao dịch cung ứng dịch vụ, hàng hoá cho các đơn vị thực hiện thuế theo phương pháp khấu trừ thuế GTGT, thực chất đơn vị nhận phải trả phần thuế GTGT chìm trong giá bán mà đơn vị trực tiếp đã nộp. Từ cách thực hiện như trên ta thấy hiện đang tồn tại hai sân chơi khác nhau mà mỗi sân chơi chỉ chơi theo một hình, chính vì vậy đang hình thành hai xu hướng là một số đơn vị đang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ chuyển sang nộp theo phương pháp trực tiếp và ngược lại, tuỳ ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 39 thuộc vào chiến lược khách hàng của họ và dĩ nhiên là ngành thuế khó lòng giải quyết ngay đưọc. Hơn nữa, trong thực tế thu thuế tính thưo phương pháp trực tiếp rất khó chính xác, nên vẫn chủ yếu tính theo phương pháp khoán (đối với hộ nhỏ) như thuế doanh thu trước đay, chính điều này đã gây không ít lúng túng, khó khăn cho thưong nghiệp quốc doanh một khi họ phải cạnh tranh trực tiếp với các hộ buon ban tính thuế theo phương pháp trực tiếp. 12. Quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ còn chưa tốt. Tuy đại bộ phận doanh nghiệp đã chấp hoá đơnàh tốt chế độ hoá đơn, in và sử dụng hoá đơn giả, mua đi bán lại hoá đơn, viết không đúng doanh số trên hoá đơn để trốn thuế và chiếm đoạt tiền của Nhà nước trong khâu thoái thuế. IV. CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ VƯỚNG MẮC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG SẮP TỚI. 1. Về phương pháp tính thuế GTGT. Các văn bản về thuế GTGT ở nước ta đưa ra hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước, luật đầu tư nước ngoài, luật công ty, luật hợp tác xã và những hộ kinh doanh lớn, chấp hành tốt chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Phương pháp tính thuế trực tiếp trên thuế GTGT áp dụng chủ yếu đối với hộ kinh doanh cá thể chưa thực hiện tốt chế độ kế toán, chứng từ. Tương ứng vơi hai phương pháp tính thuê la hai loại hoá đơn GTGT và hoá đơn bán hàng thông thường. Qua gần 2 năm thực hiện thuế GTGT cho thấy, sử dụng hai phương pháp tính thuế gây ra nhiều bất cập trong việc khấu trừ thuế đầu vào. Mặt khác, để quản lý cơ sở áp dụng phương pháp tính trực tiếp phải huy động gần một nửa số cán bộ thuế với chi phí tương ứng, nhưng thu cho Ngân sách Nhà nước chỉ chiếm 10% trong tổng thuế GTGT. Vì vậy chỉ nên áp dụng một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Các hộ kinh doanh nếu không đủ điều kiện áp dụng phương pháp tính thuế này thì áp dụng phương pháp kê khai trực tiếp hoặc khoán thuế. Nếu hộ kinh doanh quá ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 40 nhỏ thì miễn thuế. Để tiến tới chỉ sử dụng một phương pháp tính thuế, cần từng bước triển khai công tác kế toán, hoá đơn chứng từ đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh để phân loại các cơ sở này vào 3 nhóm nói trên. 2. Về thuế suất GTGT. Chuyển 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 4 mức thuế suất thuế GTGT đó là giải pháp trước mắt, bước đệm để tiến tới chỉ dùng 2 mức thuế suất (trong đó thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu). Với 4 mức thuế suất như hiện nay, ngành thuế liên tục nhận được đơn xin giảm thuế và đã điều chỉnh giảm thuế đối với nhiều nhóm hàng. Nhưng điều chỉnh giảm thuế tạo ra những phản ứng dây truyền, lan rộng, gây nhiều tiêu cực. Kinh nghiệm các nước trong khu vực và trên thế giới chỉ áp dụng một mức thuế suất thuế GTGT (không tính mức thuế suất 0%). Tuy nhiên để giảm số lượng thuế suất còn 2 mức, thì phải bảo đảm các yêu cầu sau:. Một là: Xác định mức thuế suất phải bảo đảm không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của Ngân sách Nhà nước, đồng thời phải nuôi dưỡng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Hai là: Mức thuế suất phải bảo hộ được sản xuất trong nước, do phải giảm thuế nhập khẩu vào năm 2006 theo hiệp định AFTA. Ba là: Mức thuế suất phải bảo đảm công bằng quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp, đảm bảo ổn định thị trường trong nước, không có biến động lớn về giá cả và không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. 3. Về quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Trong quản lý và sử dụng hoá đơn chứng tà đã phát sinh những tồn tại vướng mắc sau. In và sử dụng hoá đơn bất hợp pháp (hoá đơn không theo qui định của luật thuế, hoá đơn thật nhưng ký hiệu và mã số trên hoá đơn là giả, hoá đơn ghi tổng giá trị hàng hoá không khớp giữa các liên...), buôn bán hoá đơn thật và hoá đơn giả, xuất hoá đơn khống, taoh điều kiện cho các đơn vị khác trốn thuế, bán hàng xuất hoá đơn nhưng không kê khai nộp thuế, báo mất hoá đơn nhưng trên thực chất là bán hoặc sử ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 41 dụng hoá đơn của đơn vị khác báo mất. Giải pháp cho vấn đề này, Bộ tài chính nên nghiên cứu lại giấy in hoá đơn, chứng từ và ký hiệu, mã hiệu của từng loại hoá đơn, chứng từ để chống in giả, nối mạng về quản lý và sử dụng hoá đơn của đối tượng nộp thuế trên máy vi tính trong toàn quốc. Mặt khác, Bộ tài chính cần phải phối hợp với các cơ quan pháp luật để kiểm tra, phát hiện và xử lý, nghiêm các trường hợp vi phạm về chế độ quản lý ,sử dụng hoá đơn, yêu cầu các doanh nghiệp phải tự kiểm tra nội bộ, mua bán hàng hoá, dịch vụ phải ghi rõ tên, địa chỉ, mã số thuế của người bán. Đồng thời mở rộng khuyến khích các doanh nghiệp tự in hoá đơn GTGT theo mẫu qui định của Bộ tài chính. 4. Về khấu trừ thuế. Hầu hết các nước áp dụng phương pháp khấu trừ thuế đều sử dụng phương pháp lấy thuế đầu ra trừ thuế đầu vao. Nếu hoá đơn đầu vào không ghi số thuế GTGT thì không được khấu trừ. ậ nước ta trong các văn bản luật mới ban hành đã qui định cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào (1% đến 5%) nhưng chỉ áp dụng đối với hàng hoá nông, lâm hải sản mua trực tiếp của người sản xuất không có hoá đơn, nhưng có bản kê. Sau gần 9 tháng thực hiện, Chính phủ ban hành Nghị định 78/1999 - NĐ - CP cho phép khấu trừ thuế đầu vào đôi với cả phế liệu (3% đến 5%), đối với hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đầu vào (4%) và tất cả hàng hoá, dịch vụ đầu vào khác có hoá đơn hàng hoá thông thường được khấu trừ 3%. Việc cho khấu trừ thuế đầu vào lại phát sinh những vướng mắc như: Có nhiều tỷ lệ khấu trừ khác nhau nên rất phức tạp trong quá trình thực hiện và không khuyến khích sử dụng hoá đơn chứng từ. Đối với hàng hoá nông, lâm, hải sản không cần hoá đơn, chỉ cần bản kê dẫn tới có trường hợp cơ sở sản xuất mua của người kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế, các doanh nghiệp không lấy hoá đơn bán hàng, tạo kẽ hở để cơ sở kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế. Các doanh nghiệp mua nông, lâm, hải sản sau đó sơ chế bán hàng trong nước thì được khấu trừ thuế nhưng nếu xuất khẩu lại không được trừ thuế đầu vào. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 42 Giải pháp trước mắt khi vẫn còn sử dụng 2 phương pháp tính thuế và các mức thuế suất như hiện nay: Đối với hàng hoá, dịch vụ đầu vào mua của người trực tiếp sản xuất kinh doanh không có hoá đơn, chỉ có bản kê, được khấu trừ 3% trên giá trị hàng hoá, dịch vụ, kể cả mua để xuất khẩu và chế biến hàng xuất khẩu. Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT mua của người kinh doanh có hoá đơn bán hàng thông thương, kể cà hàng hoá của cơ sở sản xuất thuộc diện tính thuế tiêu thụ đặc biệt, thì được khấu trừ 4% trên giá trị hàng hoá mua vào. Cho phép khấu trừ hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ bị huỷ bỏ, sau khi đã chấp nhận trả tiền của người mua hoặc trường hợp giảm giá, các khoản thu không đòi, được xử lý có đầy đủ chứng tà hợp lệ. Giải pháp lâu dài: Khi dã áp dụng một phương pháp tính thuế và 2 mức thuế suất như kiến nghị ở trên thì toàn bộ giá trị hàng hoá, dịch vụ đầu vào không thuộc diện tính thuế GTGT mà đầu ra tính thuế GTGT thì sẽ được khấu trừ 4% giá trị trên bản kê hoặc hoá đơn thông thường tính cho cả những hàng hoá, dịch vụ bán trong nước, xuất khẩu hoặc chế biến hàng xuất khẩu. 5. Vấn đề hoàn thuế GTGT. Trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT, thủ tục hoàn thuế rất phức tạp nên tiến độ hoàn thuế chậm, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. Nguyên nhân của tình hình trên một phần do doanh nghiệp chưa làm đúng thủ tục, một phần do cơ quan thuế chưa quen, văn bản hướng dẫn lại chưa rõ ràng. Trước tình hình đó, Bộ tài chính đã có các văn bản bổ xung là hoàn thuế trước kiểm tra sau và phải xử lý nghiêm những trường hợp vi pham. Các văn bản này đề cao trách nhiệm và quyền lợi của các doanh nghiệp, của người nộp thuế trong việc hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên vấn đề hoàn thuế vẫn còn nhiều bấp cập về thủ tục cũng như thời gian hoàn thuế. Cần đề cao hơn nữa trách nhiệm của cơ sở trước những hồ sơ xin ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 43 được hoàn thuế cà tăng cường kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế. 6. Việc ban hành hệ thống văn bản pháp lý. Qua gần 2 năm thực hiện luật thuế GTGT, Bộ tài chính đã có hàng trăm văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế, phần lớn các văn bản ban hành sau khi điều chỉnh bổ xung hoặc sửa đổi một số nội dung của văn banr trước. Do vậy, hàng trăm văn bản đều có hiệu lực thi hành. Việc làm này gây nhiều khó khăn, phức tạp trong điều hành tổ chức và quản lý thu thuế, chưa nói đến giữa các văn bản lại phát sinh mâu thuẫn, không nhất quán. Do đó trong lần cải cách thuế II chỉ nên có một luật thuế, một Nghị định Chính phủ, 1 đến 2 văn bản hướng dẫn của Bộ tài chính. 7. Hình thành và phát triển nhóm tư vấn thuế. Hình thành nhóm tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết đối với các đối tượng chịu thuế, nộp thuế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhiều nước trên thế giơi coi dịch vụ tư vấn thuế là một nghề, đây là dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, kinh nghiệm và sự hiểu biết về lĩnh vực thuế. Vì vậy nên sớm hình thành nhóm tư vấn thuế trong cơ cấu tổ chức bộ máy nghành thuế. Bộ phận này có tính độc lập tương đối với bộ phận trực tiếp quản lý thu thuế. Đồng thời để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn thuế, đề nghị có qui định chấp nhận chi phí tư vấn thuế là một loại chi phí hợp lý để tính thu nhập chịu thuế. 8. Cải cách hành chính thuế. Mục tiêu của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản hoá thủ tục, các văn bản thuế phải đảm bảo nguyên tắc, đơn giản, dễ hiều, dễ làm, dễ kiểm tra. Để đẩy mạnh công tác cải cách hành chính thuế, Bộ tài chính và ngành thuế nên chú ý những vấn đề sau: Rà soát lại toàn bộ những văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế, nghiên cứu, xem xét làm rõ cách giải thích, từ ngữ và nội dung, tính thống nhất và kế thừa của các văn bản. Mẫu kê khai thuế, nộp thuế cần thống nhất với chế độ kế toán, thống kê, đơn giản hoá các mẫu biểu qui định trong thu, nộp, hoàn thuế. 9. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế GTGT. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 44 Do thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới, đối tượng nộp thuế tự tính thuế, kê khai và nọp thuế nên công tác tuyên truyền hướng dẫn, giải thích thật cụ thể về nội dung chính sách thuế, quy trình quản lý thuế, cách ghi chép hoá đơn chứng từ, cách kê khai thuế, công khai quy trình miễn thuế, hoàn thuế, giảm thuế tới từng cơ sở tính, nộp thuế. Phối hợp ngành thuế với các cơ quan thông tin đại chúng, các tổ chức đoàn thể, xã hội trong tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế. Phần VI. Kết luận. Thuế GTGT nhìn từ vĩ mô đến vi mô đã thực sự đi vào cuộc sống. Sau hơn 2 năm áp dụng, chúng ta đã thu được những tín hiệu ban đầu rất khả quan. Số thu trong Ngân sách đã có xu hướng tăng, không có biến động lớn về giá cả, nền kinh tế phát triển ổn định, thương mại, dịch vụ, xuất nhập khẩu hàng hoá ngày càng được mở rộng. Sở dĩ đạt được như vậy là do Chính phủ Việt Nam đã chuẩn bị kỹ càng về mặt lượng cũng như mặt chất. Một nền kinh tế vận động phải là một nền kinh tế mở, một cơ chế tốt phải biết biến hoá linh động, chính vì vậy để có thể điều hành tốt thuế GTGT, trước hết mỗi người chúng ta phải thực sự hiểu rõ về bản chất và nội dung của nó, đó chính là mục đích của đề án này. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 45 Hy vọng rằng trong thời gian tới, chúng ta bám sát thực tiễn, nhanh chóng tìm tòi, sửa chữa những bất hợp lý để thuế GTGT và các luật thuế mới góp phần tích cực vào việc đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng đã đề ra. Đề án được viết trong điều kiện nhận thức của bản thân chưa sâu sắc, tài liệu tham khảo chưa phong phú nên không tránh khỏi nhiều sai sót. Rất mong có sự góp ý và sủa chữa của Thầy, Cô giáo, cùng bạn bè. Em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo đã trang bị kiến thức cho em. Đặc biệt là Thầy giáo Đặng Ngọc Đức - giáo viên trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề án này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ (Trường đại học kinh tế quốc dân_ khoa Ngân hàng tài chính). 2. Giáo trình quản lý thuế. 3. Sách hệ thống hoá các văn bản pháp luật về thuế GTGT đã được sửa đổi bổ xung. 4. Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2000. 5. Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2001. 6. Tạp chí kinh tế và phát triển. 7. Tạp chí phát triển kinh tế. 8. Tạp chí tài chính. 9. Tạp chí ngân hàng. 10. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. 11. Tạp chí thực tiễn kinh nghiệm. ®Ò ¸n lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n nguyÔn thu hång tµi chÝnh doanh nghiÖp 41-d 46 12. Tạp chí thương mại. 13. Tạp chí thống kê. 14. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐề tài Thuế giá trị gia tăng.pdf
Tài liệu liên quan