Luận văn Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport )

Tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport ): Luận văn Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport ) LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam là một đất nước đang trong giai đoạn phát triển, đi lên từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém do phải gánh chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Việc tự mình tạo ra máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nhằm đáp đứng nhu cầu trong nước gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chính sách và bước đi phù hợp cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà cụ thể là cho phép hay chỉ định một số doanh nghiệp trong nước nhập khẩu các thiết bị máy móc toàn bộ từ nước ngoài về để phát triển nền sản xuất yếu kém trong nước. Việc Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó có hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ, đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho họ có cơ hội thâm nhập vào thị...

pdf71 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1076 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport ), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport ) LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam là một đất nước đang trong giai đoạn phát triển, đi lên từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém do phải gánh chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Việc tự mình tạo ra máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nhằm đáp đứng nhu cầu trong nước gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chính sách và bước đi phù hợp cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà cụ thể là cho phép hay chỉ định một số doanh nghiệp trong nước nhập khẩu các thiết bị máy móc toàn bộ từ nước ngoài về để phát triển nền sản xuất yếu kém trong nước. Việc Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó có hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ, đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho họ có cơ hội thâm nhập vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, thị trường thế giới với với tính năng động vốn có của nó đã tạo ra môi trường cạnh tranh hết sức khốc liệt với đầy rẫy những khó khăn thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, các doanh nghiệp phải hết sức nhạy bén trong mọi vấn đề của sản xuất kinh doanh, phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh thông qua việc đảm bảo chi phí cá biệt ở mức thấp nhất, có như vậy doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước cũng như sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nên em đã chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport )” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Nội dung chính của đề tài này gồm 3 chương: Chương I: Giới thiệu khái quát về công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty XNK thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport). Chương III: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Technoimport. Chương I GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ VÀ KỸ THUẬT I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty 1. Thông tin chung về công ty Công ty Xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (gọi tắt là TECHNOIMPORT) có tên tiếng anh: Vietnam National Complete Equipment and Technics Import – Export Corporation. Tiền thân của công ty là Cục kiêm Tổng công ty nhập khẩu thiết bị toàn bộ và trao đổi kỹ thuật, thành lập ngày 28 tháng 1 năm 1959 theo Quyết định số 63/BNT ngày 28/1/1959 của Bộ Ngoại thương trước đây và bây giờ là Bộ Thương Mại. Công ty có trụ sở chính tại 16 – 18 Tràng Thi, Hà Nội, Việt Nam. Tel: 8.254.974 Fax: 8.254.059 E–mail: technoimport@netnam.vn Tổng giám đốc: Ông Vũ Chu Hiền. Từ một tổ chức nhỏ ban đầu, bao gồm một số cán bộ chủ chốt thuộc phòng viện trợ và phòng thiết bị của Bộ Ngoại Thương, ngày nay Technoimport đã trở thành một doanh nghiệp lớn thuộc Bộ Công Thương tổng số cán bộ công nhân viên lên đến 90 người với tổng số vốn là hơn 30 tỷ đồng (năm 2007). Ngoài trụ sở chính tại Tràng Thi, Hà Nội, Technoimport còn có mạng lưới các chi nhánh tại các thành phố lớn của Việt Nam là Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng và có văn phòng đại diện tại nhiều nước trên thế giới như: Cộng hoà Liên Bang Nga, Pháp, Mỹ, Úc, Thụy Điển, Hungari, Cuba, Singapore, Ý. Chức năng nhiệm vụ của công ty Nhiệm vụ của Công ty là chuyên xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, máy móc, thiết bị phụ tùng, vật tư, dịch vụ kỹ thuật và nhiều loại hàng hoá phục vụ cho mọi nghành, mọi địa phương trong cả nước. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ là quá trình liên tục diễn ra từ đàm phán ký kết hợp đồng cho đến khâu lắp ráp, vận hành chạy thử cho ra sản phẩm. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ khác với nhập khẩu các loại máy móc hay hàng hoá thông thường, nó yêu cầu nhà nhập khẩu đảm bào tính hiệu quả của sản phẩm đầu ra. Các quy trình thủ tục nhập khẩu dài hơn các mặt hàng khác. Việc đàm phán ký kết, thanh toán phụ thuộc hoàn toàn vào đặc trưng này. Thông thường đối với một thiết bị toàn bộ, nhà nhập khẩu phải tiến hành rất nhiều khâu, từ khâu tham gia đấu thầu nhập khẩu (do thiết bị toàn bộ có giá trị lớn, việc sử dụng, ứng dụng phải được cấp phép của rất nhiều bộ nghành) đến khâu đàm phán ký kết hợp đồng mua bán với khách hàng nước ngoài, cuối cùng giai đoạn ký kết hợp đồng, chuyển giao dây chuyền, lắp đặt, vận hành, hướng dẫn sử dụng, đảm bảo chất lượng sản phẩm đầu ra và cuối cùng là giai đoạn bảo hành thiết bị. Có thể nói để hoàn thành một hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ, cả doanh nghiệp nhập khẩu, hãng sản xuất, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp sử dụng cuối cùng đều có liên quan trong hợp đồng. Bởi vậy, việc ký kết hợp đồng không chỉ diễn ra giữa người nhập khẩu và xuất khẩu mà còn có sứ tham gia của người sản xuất và người sử dụng cuối cùng. Mỗi bên đều phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình trong thời gian hiệu lực của hợp đồng. Nếu không toàn bộ dây chuyền thiết bị sẽ không phát huy hết khả năng sản xuất vốn có gây thất thu cho doanh nghiệp và toàn bộ xã hội nói chung. Do vậy, việc gắn kết trách nhiệm pháp lý của các bên trong hợp đồng là rất cần thiết, là đặc trưng của nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Hơn nữa, trong toàn bộ quy trình nhập khẩu thiết bị, các bên tham gia phải hoàn tất trách nhiệm của mình, không xao lãng, phung phí làm mất tính hiệu quả của dây chuyền thiết bị. Vì đây không chỉ là tài sản riêng của doanh nghiệp mà nó còn có ảnh hưởng đến trình độ phát triển lực lượng nói chung và tính cạnh tranh nói riêng. Do vậy việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ không thể tràn lan, đại trà mà phải do doanh nghiệp có uy tín, kinh nghiệm tiến hành để đảm bảo tính hiệu quả cao của dây chuyền nhập về. 2. Quá trình phát triển của công ty được chia thành 2 giai đoạn Giai đoạn 1: từ năm 1959 đến năm 1989 Đây là thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế đất nước sau chiến tranh, giai đoạn 1959 – 1989 Technoimport đã nhập khẩu hơn 500 công trình thiết bị toàn bộ trong phạm vi cả nước, trong số đó nhiều công trình trọng điểm có tầm quan trọng lâu dài đối với đời sống kinh tế xã hội của đất nước, và trong giai đoạn từ 1990 đến nay là gần 200 công trình thiết bị máy móc, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước thông qua việc nhập khẩu hàng loạt các công trình thiết bị toàn bộ như: Các nhà máy nhiệt điện và thuỷ điện, đường dây và trạm biến thế, mỏ than, nhà máy cơ khí chế tạo, các nhà máy luyện cán thép, nhà máy xi măng, nhà máy phân bón, hoá chất, nhà máy sợi, nhà máy dệt, nhà máy giấy, nhà máy in, công trình thuỷ lợi, y tế, thông tin, bưu chính viễn thông, các trường đại học, bảo tàng, cung văn hoá, và rất nhiều hạng mục công trình phục vụ cho các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Technoimport đã trở thành một thương hiệu quen thuộc với các ngành, địa phương và chủ đầu tư trong cả nước. Giai đoạn 2: từ năm 1989 đến nay Đây là thời kỳ đổi mới, Công ty đã tiến hành hoạt động hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường với nhiều loại hình kinh doanh phong phú và đa đạng. Technoimport là một doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu với ngành nghề kinh doanh: xuất nhập khẩu và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, máy móc vật tư, phương tiện vận tải và các loại hàng công nghiệp, hàng tiêu dùng; nhận uỷ thác giao nhận, vận chuyển nội địa hàng công trình hàng hoá xuất nhập khẩu đến mọi địa điểm theo yêu cầu của khách hàng; kinh doanh nội địa các loại hàng hoá nói trên; cung cấp dịch vụ tư vấn về đầu tư và thương mại; hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế khác; ký hợp đồng xuất khẩu lao động đi các nước, tiếp tục phát huy thế mạnh truyền thống và kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật, coi trọng công tác tư vấn đầu tư thương mại phục vụ các địa phương và các nghành trong việc hiện đại hoá và đầu tư chiều sâu các công trình hiện có, tính toán hiệu quả đầu tư và nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật cho các dự án mới, mở rộng và đa dạng mặt hàng xuất nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu thị trường, gắn kinh doanh với sản xuất để tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu, tăng cường hợp tác, liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước. Các mặt hàng kinh doanh hiện nay của Technoimport rất đa dạng phong phú: + Mặt hàng xuất khẩu của Technoimport bao gồm: máy móc thiết bị, khoáng sản, lâm sản được nhà nước cho phép, than đá, rau quả, hàng thủ công mỹ nghệ, cao su cũng như các sản phẩm bằng cao su và chứa cao su, nông sản cũng như nông sản đã chế biến, tơ tằm, sợi các loại. + Các mặt hàng nhập khẩu bao gồm: Vật liệu xây dựng, sản phẩm hoá chất phân bón, vật tư nuôi trồng thuỷ sản, thiết bị y tế thiết bị thí nghiệm, máy móc thiết bị lẻ, thiết bị vận tải, dây chuyền công nghệ, nhiên liệu, kim loại, nguyên liệu sản xuất, hàng công nghiệp tiêu dùng, và thiết bị toàn bộ Với những thành tích và đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế đất nước, Technoimport đã vinh dự được chủ tịch nước tặng thưởng huân chương lao động hạng ba năm 1963, huân chương lao động hạng nhì năm 1984, hai lần được nhận huân chương lao động hạng nhất năm 1989 và năm 1997. Ngoài ra công ty còn được Chính phủ tặng cờ thi đua “ Là đơn vị dẫn đầu ngành thương mại” liên tục trong những năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, và cờ thi đua của Bộ Thương mại về thành tích trong 10 năm đổi mới, bằng khen của Tổng cục an ninh, bằng khen của UBND thành phố Hà nội. Bước vào thế kỷ 21, lấy mục tiêu công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước làm phương hướng kinh doanh xuất nhập khẩu, Technoimport tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm của mình nhằm phục vụ tốt hơn nữa mọi nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. II. Đặc điểm chủ yếu của công ty 1. Đặc điểm về sản phẩm Thiết bị toàn bộ là một tập hợp máy móc, thiết bị vật tư dùng riêng cho một dự án có trang bị công nghệ cụ thể, có thống số kỹ thuật được mô tả và quy định cụ thể trong thiết kế dự án dùng để sản xuất ra một loại sản phẩm cụ thể. Nội dung của hàng hóa là thiết bị toàn bộ, trong buôn bán quốc tế người ta thường hiểu thiết bị là tập hợp những máy móc và dụng cụ cần thiết cho việc thực hiện quá trình công nghệ nhất định. Trong nhiều trường hợp đó chỉ là những công cụ linh kiện cho một dây chuyển sản xuất đi kèm với các tài liệu kỹ thuật. Những thiết bị nhập về này luôn được nhà sản xuất tách rời nhau, chẳng hạn những máy móc thiết bị chính cho một dây chuyền sản xuất sau đó mới đến linh kiện bổ trợ, các tài liệu hướng dẫn vận hành cuối cùng là lắp ráp, vận hành, chạy thử do các chuyên gia của nhà máy sản xuất tiến hành. Sau khi hệ thống vận hành tốt nhà sản xuất mới chính thức bàn giao lại cho người mua cuối cùng. Thông thường việc mua bán thiết bị toàn bộ còn kèm theo việc chuyển giao công nghệ mà đối tượng của nó là các bằng phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật, giấy phép sử dụng phát minh sáng chế. Do thiết bị toàn bộ đa dạng, nhiều chủng loại nên việc mua bán thiết bị toàn bộ cũng đa dạng với nhiều hình thức tiến hành. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ là quá trình liên tục diễn ra từ đàm phán ký kết hợp đồng cho đến lắp ráp, vận hành, chạy thử cho ra sản phẩm. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ khác với nhập khẩu các loại máy móc hay hàng hóa khác, nó yếu cầu nhà nhập khẩu đảm bảo tính hiệu quả của sản phẩm đầu ra. Do thiết bị toàn bộ có giá trị lớn, việc sử dụng, ứng dụng phải được cấp phép của rất nhiều bộ nghành, nó ảnh hưởng đến trình độ phát triển, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước nên nhập khẩu thiết bị toàn bộ không thể tran lan, đại trà mà phải do doanh nghiệp có uy tín, có kinh nghiệm tiến hành đảm bảo việc nhập khẩu đạt được hiệu quả cao. Là một Công ty được Bộ Công Thương giao nhiệm vụ chính là nhập khẩu các thiết bị toàn bộ và kỹ thuật nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện đại hoá đất nước, do đó hoạt động nhập khẩu và đặc biệt là hoạt động nhập khẩu uỷ thác đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Biểu 1: Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của công ty 50% 24.5% 10.5% 15% Thiết bị toàn bộ Thiết bị lẻ NVL sản xuất Hàng tiêu dùng (Nguồn : Báo cáo tổng kết cơ cấu hàng xuất nhập khẩu năm 2007) Thiết bị toàn bộ là nhóm hàng chủ yếu của Công ty, với doanh số luôn chiếm vị trí cao nhất, 50,0% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, nó thể hiện rõ nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã giao cho Công ty trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Với bề dầy kinh nghiệm, Công ty rất thận trọng trong việc nhập khẩu các thiết bị, dây chuyền, tránh nhập những công nghệ lạc hậu, lỗi thời. Nhóm mặt hàng chủ lực thứ hai là thiết bị lẻ, maý móc phụ tùng (chiếm 24,5%) và nguyên liệu sản xuất (chiếm 15,0%) mà Công ty nhập khẩu cho các nhà máy, xí nghiệp trong cả nước, hầu hết là theo các hợp đồng nhập khẩu uỷ thác. Kinh doanh các mặt hàng này theo hình thức uỷ thác có ưu điểm là không mất vốn mà vẫn thu được lợi nhuận, bên cạnh đó thị trường lại được mở rộng thêm. 2. Đặc điểm về thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Thị trường là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưỏng tới hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Là thị trường có tính chất một chiều: các nước đang phát triển bao giờ cũng ở địa vị người mua và các nước phát triển là người bán. Do tính chuyển giao kỹ thuật công nghệ bao giờ cũng theo hướng từ nước phát triển nhất sang nước phát triển kém hơn, sau đó đến các nước đang phát triển, cuối cùng là các nước kém phát triển. Gần đây có xu hướng chuyển giao thiết bị toàn bộ và kỹ thuật trong nội bộ các nước phát triển với nhau. Điều này do quá trình quốc tế hoá ngày càng cao, sâu sắc, hợp tác và đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển diễn ra càng nhiều, việc lập các liên doanh, đặt các chi nhánh ở các lãnh thổ để thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường cơ sở để phát triển việc chuyển giao thiết bị toàn bộ, khoa học và kỹ thuật. Về vấn đề thị trường, đặc biệt thị trường nhập khẩu luôn là vấn đề nan giải, bức xúc đòi hỏi phải tập trung giải quyết. Trước khi chuyển sang cơ chế thị trường, Công ty chỉ có quan hệ chủ yếu với các nước Liên xô cũ và các nước Đông Âu. Sau khi Liên Xô cũ và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, Công ty đã có nhiều cố gắng và bước đầu đạt được một số thành công trong việc mở rộng và thâm nhập thị trường, đến nay Công ty đã có quan hệ với 68 nước trên thế giới và hàng trăm khách hàng. Khu vực nhập khẩu chính của Công ty là: Pháp, Đức, Vương quốc Bỉ, Hà Lan, Mỹ, CH.Séc, Nhật Bản, Thái Lan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Italia, Úc, Singapore, Tây Ban Nha, Indonesia, Trung Quốc, Anh, Ucraina, Nga, Ai-Xơ-Len, Thụy Điện, Đài loan, Malaysia, Áo, Ấn Độ, Đan Mạch, Phần Lan, Nauy, Slovakia, Mexico, Hungarie, Canada, Thụy Sĩ, Philippine, Brasil. Sau đây là bảng kim ngạch nhập khẩu theo thị trường một số nước chủ yếu của Công ty từ năm 2003 đến năm 2007. Bảng 1: Kim ngạch nhập khẩu theo thị trường (đơn vị: triệu USD) Nước Năm 2003 Năm 2004 So năm trước (%) Năm 2005 So năm trước (%) Năm 2006 So năm trước (%) Năm 2007 So năm trước (%) Nhật Bản 26,7 30,3 113,5 34,3 113,2 34,6 100,8 30,9 89,3 Pháp 10,0 13,6 136,0 15,7 115,4 16,0 101,9 16,4 102,5 Hàn Quốc 4,2 4,9 116,7 4,1 83,6 4,0 97,5 4,5 112,5 Trung Quốc 11,5 11,4 99,1 13,4 117,5 14,6 108,9 14,9 102,1 Nga 1,7 1,5 88,2 1,6 106,6 1,4 93,3 0,8 57,1 Italia 0,4 0,5 125,0 1,1 220,0 0,9 81,8 1,0 111,1 Mỹ 19,5 21,9 112,3 22,4 102,2 23,0 102,6 22,7 98,7 CHLB Đức 3,4 3,9 114,7 4,7 120,5 4,9 104,2 4,80 97,9 (Nguồn: Phòng kế hoạch tài chính) 3. Đặc điểm về lao động Là một doanh nghiệp thương mại nên Technoimport không có nhiều lao động như doanh nghiệp sản xuất. Bảng 2: Cơ cấu lao động theo tính chất lao động TT Chỉ tiêu Số lượng (người) Tỉ trọng (%) 1 Nhân viên hành chính 83 92,3 2 Cán bộ quản lý 3 3,3 3 Nhân viên phục vụ, vệ sinh 4 4,4 4 Tổng số 90 100 (Nguồn : Phòng tổ chức cán bộ) Bảng 3: Cơ cấu lao động theo giới tính TT Giới tính Số lượng (người) Tỉ trọng (%) 1 Số lao động nam 39 43,3 2 Số lao đông nữ 51 56,7 3 Tổng số lao động 90 100 (Nguồn : Phòng tổ chức cán bộ) Bảng 4: Bảng theo dõi số lượng cán bộ tại các phòng ban năm 2006 TT Phòng ban Số lượng (người) 1 Ban giám đốc 3 2 Phòng kế hoạch tài chính 10 3 Phòng tổ chức 2 4 Phòng hành chính quản trị 14 5 Trung tâm tư vấn 7 6 Phòng xuất nhập khẩu số 1 6 7 Phòng xuất nhập khẩu số 2 8 8 Phòng xuất nhập khẩu sô 3 6 9 Phòng xuất nhập khẩu số 4 6 10 Phòng xuất nhập khẩu số 5 11 11 Phòng xuất nhập khẩu số 6 9 12 Phòng xuất nhập khẩu số 7 8 13 Tổng số 90 (Nguồn : Phòng tổ chức cán bộ) Tuy số lượng cán bộ không nhiều nhưng chất lượng lại rất tốt hầu hết tất cả các nhân viên của công ty đều được đào tạo qua trường lớp với học thức khá rộng trình độ nghiệp vụ cao với bằng cấp và bề dày kinh nghiệm trong kinh doanh do đòi hỏi của tính chất công việc (theo số liệu từ phòng tổ chức cán bộ: hơn 90% có trình độ từ đại học trở lên) trừ một số những người lao động phụ làm các công việc như quét dọn, trông xe, thường trực. Chính điều này đã giúp cho tỷ lệ thành công cũng như hiệu quả của các hợp đồng xuất nhập khẩu của công ty là khá cao. 4. Bộ máy tổ chức quản lý của công ty Tổng giám đốc Các phó tổng giám đốc Các phòng chức năng Các phòng nghiệp vụ Trung tâm tư vấn đầu tư và thương mại Chi nhánh tại TP.HCM Phòng tổ chức cán bộ Phòng kế hoạch tài chính Chi nhánh tại Hải Phòng Chi nhánh tại Đà Nẵng Các văn phòng đại diện tại nước ngoài Trung tâm XNK và hiệp tác lao động Phòng hành chính quản trị Phòng xuất nhập khẩu 1 Phòng xuất nhập khẩu 2 Phòng xuất nhập khẩu 3 Phòng xuất nhập khẩu 4 Phòng xuất nhập khẩu 5 Phòng xuất nhập khẩu 6 Phòng xuất nhập khẩu 7 Các đơn vị trực thuộc Sơ đồ 1: Bộ máy tổ chức của công ty Qua sơ đồ, ta thấy bộ máy tổ chức của Công ty được bố trí theo cơ cấu trực tuyến - chức năng. Cơ cấu tổ chức quản lý và cơ cấu thực hiện các dịch vụ của Công ty có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện công việc. Thông tin của lãnh đạo cấp cao nhanh chóng được truyền đạt cho cán bộ cấp dưới và nhanh chóng có được thông tin phản hồi. 4.1. Các bộ phận quản trị của Công ty Đứng đầu bộ máy quản trị là tổng giám đốc có quyền quyết định điều hành hoạt động của Công ty theo đúng kế hoạch, chính sách pháp luật của nhà nước và chịu trách nhiệm trước tập thể lao động về kết quả kinh doanh của công ty. Giúp việc cho tổng giám đốc là 2 phó tổng giám đốc: - Phó tổng giám đốc phụ trách quản lý các phòng chức năng giúp tham mưu cho tổng giám đốc về các công tác quản lý tài chính, hành chính và tổ chức cán bộ. Các phòng chức năng trực thuộc sự quản lý của phó tổng giám đốc này là: + Thứ nhất, phòng Kế hoạch tài chính: gồm 1 kế toán trưởng kiêm trưởng phòng kế toán 3 phó phòng và 6 nhân viên khác. Giữ vai trò giám đốc đồng tiền cho mọi hoạt động của Công ty, thực hiện theo cơ chế hạch toán tập trung. Mọi vấn đề liên quan đến tài chính dưới bất kỳ hình thức nào đều phải qua phòng kế hoạch tài chính trước khi trình lãnh đạo phê duyệt. + Thứ hai, phòng Tổ chức cán bộ: gồm 2 thành viên Là đơn vị chức năng tham mưu cho Tổng giám đốc về tổ chức bộ máy tổ chức, quản lý nhân sự về mọi mặt và giải quyết các vấn đề có liên quan khác dướp sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng giám đốc + Thứ ba, phòng Hành chính quản trị: gồm 1 trưởng phòng và 13 thành viên, là đơn vị có nhiều bộ phận, với nhiều chức năng nhưng có chung một mục đích là phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty được thuận lợi và có hiệu quả. - Phó tổng giám đốc kinh doanh phụ trách quản lý các vấn đề liên quan tới các nghiệp vụ và dịch vụ của công ty. Trực thuộc phó tổng giám đốc kinh doanh là các phòng: + Phòng XNK 1: Chức năng chính là nhập khẩu thiết bị thông tin, thiết bị phụ tùng cho các nhà máy luyện kim và cơ khí, an ninh quốc phòng, thiết bị cho các xí nghiệp in (in ngân hàng, in các ấn phẩm có giá trị cao). + Phòng XNK 2: Chức năng chính là kinh doanh ôtô, xe máy, xăm lốp, phụ tùng. + Phòng XNK 3: Hoạt động nhập khẩu chủ yếu các công trình hoá chất, phân bón, các mặt hàng về khoáng sản, dầu khí, địa chất, thiết bị phòng thí nghiệm, thiết bị thi công làm đường. + Phòng XNK 4 : Nhập khẩu chủ yếu thiết bị máy móc, phụ tùng, nguyên liệu cho các công trình thuỷ lợi. + Phòng XNK 5: Chủ yếu nhập khẩu thiết bị máy móc, phụ tùng, nguyên liệu cho các công trình văn hoá xã hội, công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm. + Phòng XNK 6: Hoạt động chủ yếu là nhập khẩu công trình vật liệu xây dựng, thiết bị vật liệu xây dựng, thiết bị vật tư nghành cấp thoát nước, nghành chiếu sáng, trang trí nội thất, thiết bị văn phòng. + Cuối cùng là phòng XNK 7: Hoạt động nhập khẩu các loại thiết bị máy móc khác nhau, chủ yếu thiết bị và nguyên liệu sản xuất cho các nhà máy bia, thiết bị thông tin liên lạc, thiết bị thi công. 4.2. Các đơn vị trực thuộc - Trung tâm tư vấn và đầu tư thương mại: Nhiệm vụ là tham mưu cho Tổng giám đốc, cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, cho các chi nhánh trong toàn Công ty về những vấn đề liên quan đến hoạt động của Công ty. Cung cấp các dịch vụ tư vấn như: Soạn thảo hồ sơ mời thầu, xét thầu và soạn thảo, đàm phán ký kết hợp đồng. - Trung tâm xuất nhập khẩu và hợp tác lao động quốc tế : Chức năng chính là xuất nhập khẩu lao động - Chi nhánh Công ty tại Hải Phòng: Hoạt động tất cả các lĩnh vực xuất nhập khẩu của Công ty nhưng hoạt động chủ yếu là giao nhận vận tải. - Chi nhánh Công ty tại Đà Nẵng: hoạt động kinh doanh nhập khẩu khu vực miền Trung và hoạt động giao nhận vận tải tại cửa khẩu Đà Nẵng - Các chi nhánh văn phòng ở nước ngoài: Tìm hiểu, nghiên cứu thị trường nước ngoài, giúp giao dịch với các đối tác một cách thuận lợi và mở rộng thị trường. III. Hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây. 1. Kết quả kinh doanh của công ty trong những năm gần đây Trước những năm 90, Technoimport là doanh nghiệp độc quyền trong nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Là một doanh nghiệp nhà nước, với ưu thế độc quyền chỉ có Technoimport mới được phép nhập khẩu thiết bị toàn bộ, Công ty đã nhập khẩu hơn 500 công trình thiết bị toàn bộ trong phạm vi cả nước. Ngày nay, dù có sự biến động lớn về kinh tế, tiền tệ, đổi mới về cơ chế quản lý, phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt trong cơ chế thị trường, mất đi ưu thế độc quyền, song Technoimport đã đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Bảng 5: Tình hình tài sản có và tài sản nợ từ năm 2003 – 2007 Các chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tỷ đồng Tỷ đồng So với năm trước (%) Tỷ đồng So với năm trước (%) Tỷ đồng So với năm trước (%) Tỷ đồng So với năm trước (%) Tổng tài sản 137,19 153,04 111,6 150,39 98,3 160,50 106,7 165,93 103,4 Tổng nợ phải trả 105,25 120,74 114,7 117,23 97,1 127,26 108,6 130,84 102,8 Vốn lưu động 27,98 28,43 101,6 28,78 101,2 29,14 101,3 28,44 97,6 Doanh thu 155,30 170,51 109,8 152,71 89,6 156,23 102,3 159,86 102,3 Lợi nhuận trước thuế 0,40 0,80 200,0 1,63 203,7 0,46 28,2 0,45 97,8 Lợi nhuận sau thuế 0,27 0,62 229,6 1,16 187,1 0,33 28,4 0,32 97,0 ( Nguồn : Báo cáo tài chính năm 2006 ) Theo bảng tóm tắt tài sản có và tài sản nợ trên thì doanh thu trong 3 năm 2003, 2004, 2005 không có sự thay đổi lớn. Năm 2004 có tăng 15 tỷ tướng ứng tăng 9,8% so với năm 2003 nhưng năm 2005 lại giảm đi 10,4% so với năm 2004, chỉ đạt 152,71 tỷ. Lợi nhuận sau thuế lại có sự thay đổi đáng kể: từ năm 2003 đến năm 2005 tăng 0,89 tỷ, năm 2004 đạt 62 triệu tăng 129,6% so với năm 2003, năm 2005 tăng 87,1% so với năm 2004 tướng ứng là 0,54 tỷ. Điều này cho thấy năm 2005 công ty hoạt đông khá hiệu quả. Sang đến năm 2006 thì doanh thu đạt 156,23 tỷ cao hơn so với năm 2005 là 2,3% nhưng lợi nhuận sau thuế lại giảm 71,6% và tình trạng này tiếp tục diễn ra trong năm 2007 khi doanh thu tiếp tục tăng 3,6 tỷ (tăng tướng ứng 2,3%) so với năm trước nhưng lợi nhuận sau thuế lại giảm 3%, chỉ đạt được 32 triệu. Trong nội bộ Công ty có sự chênh lệch khá cao giữa các phòng kinh doanh và các chi nhánh trong Công ty, chi nhánh trong thành phố Hồ Chí Minh có doanh thu cao nhất Công ty, tiếp theo là trung tâm xuất nhập khẩu lao động và hợp tác quốc tế, sau đó là phòng xuất nhập khẩu 5 và đến các chi nhánh, phòng ban khác. Bảng 6: Tình hình xuất nhập khẩu trong 4 năm 2003 – 2007 (đơn vị: USD) Các chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Xuất khẩu (thực hiện) 5.463.733 5.741.821 5.454.073 6.835.917 6.564.801 Nhập khẩu (thực hiện) 115.627.975 142.600.207 101.982.538 123.887.116 108.501.129 Xuất nhập khẩu (thực hiện) 121.031.708 148.342.028 107.436.611 130.723.033 115.065.930 Xuất nhập khẩu (kế hoạch) 95.001.341 102.023.403 97.433.749 111.300.000 103.943.929 Thực hiện so với kế hoạch (%) 127,4 145,4 110,3 117,5 110,7 ( Nguồn : báo cáo tổng kết kế hoạch kim ngạch xuất nhập khẩu ) Qua bảng tình hình xuất nhập khẩu trên, trong cả 4 năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007 Công ty đều hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao, làm tròn nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước, bảo toàn và phát triển vốn do nhà nước cấp. Năm 2003, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức 127,4% tăng 27,4% tương ứng là 26.030.367 USD so với kế hoạch đề ra. Đặc biệt, năm 2004 đánh dấu sự thành công vượt bậc của công ty với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức 145,4% tương ứng đạt 148.342.029 USD, tăng 45,4% so với mức kế hoạch, tương ứng tăng 46.318.626 và điều này cũng thể hiện rõ khi cả doanh thu và lợi nhuận đều tăng lên đáng kể. Năm 2005, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 110,3% tương ứng đạt 107.438.112 USD cũng vượt mức kế hoạch đề ra, tăng 10,3% tương ứng tăng 9.944.362 USD, tuy không tăng bằng năm 2004 nhưng lợi nhuận lại nhiều hơn chứng tỏ trong năm 2005 Công ty hoạt động có hiệu quả hơn năm 2004. Năm 2006, tuy tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 117,5% tương ứng đạt 130.723.033 USD tăng so với kế hoạch đặt ra 17,5% tương ứng tăng 19.423.033 USD, tổng kim ngạch tăng nhưng lợi nhuận lại giảm sút so với năm 2005. Năm 2007 kim ngạch xuất nhập khẩu tiếp tục giảm so với năm 2006 nhưng vẫn tăng so với kế hoạch chứng tỏ Công ty đã lường trước được những khó khăn và có kế hoạch phù hợp. Cũng qua những số liệu, có thể dễ dàng nhận ra sự chênh lệch giữa nhập khẩu và xuất khẩu. Nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn, vượt trội so với xuất khẩu trong tương quan xuất nhập khẩu của Công ty, nhập khẩu chiếm 95,5% 96,1%; 94,9%; 94,8%; 94,3% lần lượt các năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007 trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty. Trong đó chủ yếu là kết quả của hoạt động nhập khẩu uỷ thác cho thấy thế mạnh cũng như hoạt động chủ lực của Công ty. Tuy xuất khẩu có phần khiêm tốn hơn nhiều so với nhập khẩu, song kim ngạch xuất khẩu đang tăng dần lên một cách rõ rệt, điều này khẳng định phương hướng của Công ty trong tương lai là tăng cường hoạt động xuất khẩu theo hướng tích cực hơn. Những kết quả trên cho thấy Công ty đã chuẩn bị khá kỹ cho kế hoạch cổ phần hóa vào năm 2008 tới đây. 2. Cơ cấu mặt hàng và thị trường xuất khẩu Tuy không phải là hoạt động chủ lực của Công ty nhưng mặt hàng xuất khẩu của Công ty rất đa dạng và phong phú như máy móc thiết bị, khoáng sản, lâm sản được nhà nước cho phép, rau quả, than đá, hàng thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, hàng công nghiệp tiêu dùng, cao su, các sản phẩm bằng cao su, các sản phẩm chứa cao su, nông sản, nông sản đã chế biến, tơ tằm, sợi các loại. Trong đó: Biểu 2: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty: 57.5% 9.2% 10.2% 18.1% 5% Cao su Bao PP Quần áo Lao động Mặt hàng và dịch vụ khác (Nguồn : Báo cáo tổng kết cơ cấu hàng xuất nhập khẩu năm 2007) (Bao gồm: hành sấy, tiêu đen, ống hút, mây tre, than gáo dừa, gốm sứ mỹ nghệ…) Nhìn vào bảng trên, chúng ta có thể thấy, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty là cao su, chiếm 57,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu còn các mặt hàng khác chiếm tỷ trọng không nhiều. Trong những năm gần đây, công ty đã đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và hoạt động này đã mang lại nguồn thu đáng kể, ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của công ty. Khu vực xuất khẩu chính của Công ty là các thị trường: Hàn Quốc, Đức, Nhật Bản, Hà Lan, Pháp, Úc, Thái lan, Đan Mạch, Thụy Sỹ, Cambodia, Đài Loan, Philipine, Ba Lan… 3. Tư vấn đầu tư và thương mại Bên cạnh hoạt động xuất nhập khẩu đựơc coi là lĩnh vực kinh doanh chủ lực, công ty cũng chú trọng đến việc cung cấp dịch vụ về tư vấn đầu tư và thương mại như: tư vấn soạn thảo hồ sơ mời thầu và soạn thảo - đàm phán - ký kết hợp đồng thương mại cho các dự án. Một số các dự án mà Công ty đã tham gia tư vấn như nhà máy nước Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoà Bình, Lào Cai, Vũng Tàu, Sơn La, Sơn Tây; nhà máy xi măng Hoàng Mai, Tam Điệp; nhà máy đường Kiên Giang, Minh Hải… Đây là lĩnh vực kinh doanh đem lại nguồn thu đáng kể cho doanh nghiệp với doanh thu năm 2007 đạt 3,8 tỷ VNĐ1 mà hoạt động này lại không phải sử dụng đến vốn kinh doanh. Chính vì vậy, trong thời gian vừa qua, công ty đã và đang chú trọng đến lĩnh vực kinh doanh này. 1 Bản thuyết minh Báo cáo tài chính năm 2007 của công ty. Chương II THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẢU THIẾT BỊ TOÀN BỘ TẠI CÔNG TY I. Đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty những thành tựu đạt được và những vấn đề còn tồn tại 1. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Việt Nam cũng như của Công ty thời kỳ trước 1990 Sau khi giành được độc lập, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng nỗ lực quyết tâm xây dựng đất nước. Trải qua cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nền kinh tế Việt Nam ở buổi ban đầu còn vô cùng nghèo nàn, lạc hậu và hết sức thiếu thốn, cơ sở vật chất hầu như ở con số không. Từ đầu những năm 1950, đã có một số ít công trình thiết bị toàn bộ được nhập khẩu về Việt Nam thông qua việc ký kết biên bản hợp tác song phương giữa hai chính phủ, song quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật chỉ thực sự bắt đầu khi Tổng công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport) ra đời năm 1959. Đây là doanh nghiệp Nhà nước đầu tiên được thành lập để hoạt động trong lĩnh vực tư vấn về kình tế, đồng thời cũng là doanh nghiệp duy nhất được Nhà nước giao nhiệm vụ nhập khẩu các công trình thiết bị toàn bộ cho tất cả các Bộ ngành, địa phương, kể cả cho an ninh quốc phòng trong suốt một thời gian dài từ 1959 – 1988. Trong suốt thời kỳ bao cấp, thiết bị toàn bộ được nhập về theo các Hiệp định vay nợ viện trợ hoặc thương mại. Trong các quy định này rõ số vốn vụ thể cấp cho từng công trình và phân công đơn vị xuất nhập khẩu của cả hai bên. Việc tiến hành giao dịch với bạn hàng nào hoàn toàn phụ thuộc vào Nhà nước và được quy định sẵn trong các Hiệp định thương mại, vay nợ song phương hoặc đa phương được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài. Trong thời kỳ này, bạn hàng cung cấp thiết bị toàn bộ và kỹ thuật cho Việt Nam chủ yếu là các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu của các nước Đông Âu, đứng đầu là Liên Xô (cũ), ngoài ra còn có một số công ty của các nước Tây Âu và Bắc Âu như Công hoà Liên Bang Đức, Thụy Điển, Phần Lan.... Việc tìm kiếm thị trưòng để nhập khẩu không là vấn đề phải quan tâm nhiều nhất trong thời kỳ này. Các bạn hàng quen thuộc và các khu vực thị trưòng lâu năm đã được quy định rõ trong các hiệp định. Chính vì vậy, thay cho các cuộc đàm phán về thương mại, đơn vị chuyên trách chỉ phải lập đơn hàng đúng hạn như đã ghi trong hợp đồng cũng theo biểu thời gian đã được quy định trong các hiệp định đó. Bảng 7: Cơ cấu nhập khẩu thời kỳ 1986 – 1990 (đơn vị : %) Tỷ trọng nhập Năm 1986 Năm 1987 Năm 1988 Năm 1989 Năm 1990 Hàng nguyên liệu 57,0 58,7 56,2 59,0 59,2 Máy móc thiết bị 34,7 30,7 34,8 33,5 27,4 Hàng đã chế biến 8,3 10,6 9,0 7,5 13,4 Tổng 100 100 100 100 100 (Nguồn: Tổng cục thông kê, 1990) Với bối cảnh như vậy, vốn để nhập khẩu thiết bị toàn bộ chủ yếu là từ các nguồn như vốn viện trợ không hoàn lại, tín dụng chính phủ, tín dụng của các tổ chức quốc tế cho vay thông qua các hiệp định cấp chính phủ hoặc thoả thuận quốc tế, tín dụng ngân hàng, tín dụng xuất khẩu thoả thuận và ký kết trong hợp đồng mua bán dưới sự bảo đảm của Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam... và nguồn vốn dự trữ của Nhà nước hoặc vốn tự có của các doanh nghiêp (dù rằng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong giai đoạn này). Căn cứ vào các nguồn vốn vay và viện trợ nói trên cùng với nguồn vốn ngân sách, Nhà nước sẽ cân đối và cấp vốn cho đơn vị chuyên trách tiến hành nhập khẩu. Cho đến những năm cuối thập kỷ 70, Công ty đã nhập một số lượng lớn công trình thiết bị, máy móc góp phần xây dựng cơ sở vất chất kỹ thuật cho đất nước từ các nguồn vốn vay và viện trợ của nhiều nước và các tổ chức quốc tế (cả tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa), từ đó có được sự tin tưởng của Nhà nước, của các chủ đầu tư trong nước cũng như các đối tác nước ngoài. Từ sau năm 1978 – 1979, hàng loạt các nước (chủ yếu là các nước tư bản chủ nghĩa) và tổ chức quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tê (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB).... đã ngừng cấp vốn vay và viện trợ cho Việt Nam, chỉ có Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác lại tăng cường trợ cấp ODA với ưu đãi lớn. Vì thế, nhìn chung cơ cấu bạn hàng và thị trường vẫn không thay đổi nhiều (chủ yếu vẫn là Liên Xô và các nước Đông Âu). Thời kỳ 1986 – 1990 là thời kỳ mà nguồn tài trợ cho Việt Nam chủ yếu từ các nước SEV, chiếm tới 70% nguồn viện trợ ghi qua ngân sách nhà nước, đại bộ phân từ Liên Xô cũ dưới hình thức nhập khẩu công trình thiết bị toàn bộ. Tính đến 1990, Việt Nam đã nhận được 12,6 tỷ Rúp chuyển nhượng ODA từ Liên Xô, trong đó thời điểm nhiều nhất đạt tới 1800 triệu Rúp chuyển nhượng, gồm gần 100 dự án thuộc nhiều lĩnh vực. Bảng 8: Cơ cấu thị trường thiết bị toàn bộ của Công ty 1987 - 1989 Năm Cơ cấu thị trường Liên Xô Đông Âu Các nước tư bản chủ nghĩa Triệu rúp % Triệu rúp % Triệu rúp % 1987 392,76 89,80 26,46 6,05 18,00 4,15 1988 316,00 57,46 200,00 36,36 34,00 6,18 1989 205,08 38,12 250,69 46,60 82,15 15,28 (Nguồn: Báo cáo tồng kết của Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật và tổng cục thống kê 1990) Với các nguồn vốn vay nước ngoài khác, trong những năm này Công ty đã nhập khẩu gần 500 công trình thiết bị toàn bộ cỡ lớn và nhỏ phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước, trong đó có thể kể đến các công trình như: Các nhà máy thủy điện Hoà Bình, Trị An; các trạm biến thế và đường dây 110KV, 220KV; các mỏ than Cẩm Phả; các công trình thủy lợi và thông tin bưu chính viễn thông... Sự hỗ trợ của Liên Xô và một số nước Đông Âu có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự nghiệp khôi phục và phát triển kinh tế cũng như bảo vệ Tổ quốc. Hiệu quả của sự hợp tác ấy càng rõ rệt trong hoàn cảnh nước ta phải đối phó với chiến tranh, khắc phục hậu quả, khôi phục và phát triển sản xuất. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, hiệu quả hợp tác lẽ ra đã lớn hơn nhiều nếu như không có những khiếm khuyết nhất định trong các mặt sau: + Sự hợp tác một chiều khiến cho nền kinh tế phụ thuộc. Do vây, đến năm 1991 khi Liên Xô và Đông Âu tan rã đã gây không ít khó khăn cho công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam, có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của Công ty, điều này cũng thật dễ hiểu khi Công ty đã dựa quá nhiều vào Nhà nước. + Cơ chế hợp tác mang nặng tính bao cấp đã làm cho những dự án chương trình hợp tác kém hiệu quả, kém phát huy tác dụng gây ra những hiệu quả mà giờ đây nền kinh tế vẫn đang phải gánh chịu. Nhiều khi các bên cho rằng bản chất của nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong giai đoạn này là nhận viện trợ không hoàn lại nên tinh thần trách nhiệm của bên xuất khẩu không cao, không nghiêm chỉnh trong thực hiện hợp đồng, chất lượng của công trình thiết bị toàn bộ không đảm bảo, trình độ kỹ thuật lạc hậu so với thế giới. Một số công trình thiết bị toàn bộ vay nợ của Liên Xô có luận chứng kỹ thuật và thiết kế thiếu chính xác, tinh toàn không đồng bộ thiếu cân đối vốn trong nước, việc xây dựng kéo dài... Khi xây dựng song lại không đủ khả năng đưa vào hoạt động hiệu quả do thiết bị công nghệ lạc hậu. + Người nhập khẩu đã vấp phải nhiều khó khăn trong quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong giai đoạn này. Nhìn chung Công ty luôn ở thế bất lợi là bị chào giá cao. Hiện tượng này là do sự không thông nhất giữa các nước trong việc định giá công trình thiết bị toàn bộ, có nơi thì chào giá thiết bị của mình sản xuất căn cứ vào giá của sản phẩm cùng loại được sản xuất ở các nước khác; một số nước lại tỏ ra tùy tiện trong việc định giá bán theo lợi nhuận của họ. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho công tác đàm phán ký kết giá cả, nhiều hợp đồng đã phải đàm phán căng thẳng mà vẫn không đi đến thoả thuận. + Ngoài vấn đề về giá, còn rất nhiều những tồn tại khác, kết quả của tệ làm ăn quan liêu bao cấp. Thời gian thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường bị kéo dài, có khi vượt cả thời gian quy định từ 1 – 2 năm. Thời gian dành cho khâu khảo sát thị trường từ 2 – 3 năm, trong khi cũng với một công trình như vậy, các nước tư bản chỉ cần thực hiện trong vài tháng hoặc nhiều nhất là một năm. Việc cấp vốn đôi khi thường vô cùng phức tạp nhưng hợp đồng nhập khẩu ký với các nước xã hội chủ nghĩa lại rất ngắn gọn đơn giản, chỉ 2 – 3 trang, nhiều lắm là 10 trang. Trong hợp đồng đôi khi phía ta buộc phải chấp nhận những điều khoản hết sức vô lý như thời hạn giao hàng thường được quy định một các rất chung chung mơ hồ : “Thời hạn giao hàng từ 1985 đến 1987 ...”. Những quy định kiểu này làm cho phía người nhập khẩu Việt Nam bị động, không biêt chính xác lúc nào sẽ nhận được hàng. Nhiều khi nhà xưởng, bộ máy hành chính đã xây dựng hoàn chỉnh song vẫn phải đợi 1 – 2 năm, gây ra thiệt hại lãng phí lớn cho ngân sách Nhà nước. Mặc dù còn rất nhiều tồn tại và khó khăn trong quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật của Công ty nhưng cũng đã có rất nhiều công trình thiết bị toàn bộ trong số hơn 500 công trình lớn nhỏ được nhập khẩu trong thời gian này đã và đang đóng góp có hiệu quả cho phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay. Tuy rằng trình độ khoa học kỹ thuật của đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật của Công ty được đào tạo trong thời gian này còn chưa cao so với trình độ thế giới nhưng cũng đã giúp nước ta qua được một chặng đường khời đầu cần thiết để tiến vào những lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao hơn. 2. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty từ sau 1990 đến nay – Giai đoạn trưởng thành và lớn mạnh của Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật Kể từ khi sau năm 1990, cùng với chính sách đổi mới nền kinh tế, thị trường thiết bị toàn bộ cũng bước sang một giai đoạn hoạt động sôi nổi hơn bao giờ hết. Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước rất chú trọng quan tâm tới vấn đề cải tiến kỹ thuật mua sắm thiết bị nhằm đẩy mạnh tiến trình công nghệ hóa, hiện đại hóa đất nước. Cho đến nay, nguồn vốn phục vụ cho mục tiêu này được Công ty huy động từ các nguồn lợi nhuận để lại, vốn khấu hao cơ bản, tín dụng dài hạn của ngân hàng, vốn ngân sách Nhà nước, vốn vay nước ngoài.... Trong đó, các nguồn vốn từ lợi nhuận để lại và vốn khấu hao cơ bản chỉ chiếm một tỷ lệ hết sức nhỏ bé do trong thời gian qua số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn đạt mức lãi đáng kể là rất ít. Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp , tín dụng dài hạn của ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư cho máy móc thiết bị. Nguyên nhân là do môi trường kinh doanh nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng còn nhiều bất trắc rủi ro nên không phải doanh nghiệp nào cũng được vay vốn trung hạn và dài hạn. Vì vậy, để có đủ sức nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, cùng với quá trình đẩy mạnh cổ phần hóa, việc biến các nguồn lực nước ngoài thành một phần nội lực là một nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong giai đoạn này nguồn vốn nước ngoài đã thực sự góp phần quan trọng đối với các hợp đồng nhập khẩu của Công ty khi bối cảnh trong nước và đặc biệt là quốc tế có nhiều thuận lợi với những sự kiện nổi bật như:  Tháng 02/1994, Mỹ xóa bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam.  Tháng 08/1994, Thượng viện Mỹ bãi bỏ lệnh cấm viện trợ cho Việt Nam áp dụng từ hơn 2 thập kỷ qua.  Ngày 27/05/1995, Việt Nam gia nhập hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).  Năm 1997, gia nhập tổ chức kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC).  Từ 10/12/2001, hiệp định thương mại Việt – Mỹ bắt đầu có hiệu lực.  Năm 2003, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh. Việt Nam bắt đầu thực hiện lộ trình hội nhập AFTA, đồng thời đạt được nhiều tiến bộ trong các cuộc đàm phán chuẩn bị cho việc gia nhập WTO vào năm 2005, ký Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản, ký Hiệp định Hàng không với Hoa Kỳ… Các hoạt động đối ngoại cũng sôi động trong năm 2003, đặc biệt là các cuộc hội thảo Việt Nam – châu Phi đã thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác song phương và đa phương giữa Việt Nam và các nước trên nhiều lĩnh vực, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Gần đây,  Năm 2005, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội Việt Nam khóa XI đã thông qua 3 bộ luật quan trọng là Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và Luật Đấu thầu. Với những ưu điểm như cởi mở, thuận tiện, minh bạch và đơn giản hơn, giới bình luận hy vọng điều này sẽ tạo bước đột phá lớn làm năng động hóa môi trường kinh doanh của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hướng mọi nguồn lực trong nước và quốc tế vào tiến trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.  Năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đồng thời, Mỹ cũng đã thông qua Quy chế Quan hệ Thương mại bình thường vĩnh viễn (PRNT) với Việt Nam. Ngày 20/12 Tổng thống Mỹ G.Bush đã ký ban hành đạo luật cả gói HR 6111, trong đó có PNTR với Việt Nam. Đây là dấu mộc son mới trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ, báo chí quốc tế đồng loạt đưa tin và coi đây là một bước ngoặt lịch sử. Đây không chỉ là một quy chế thương mại để bảo đảm các doanh nghiệp hai nước được hưởng đầy đủ các quy định của WTO. Việc thông qua PNTR đã đóng lại một quy chế phân biệt đối xử của Mỹ từ thời chiến tranh lạnh, đối với các nước khối xã hội chủ nghĩa và đã áp dụng lên Việt Nam từ 32 năm trước đây. Với những sự kiện đó, quá trình tiếp cận đến luồng vốn quốc tế của Việt Nam cũng như của Công ty đã gạt bỏ được những trở ngại chủ yếu nhất, mở ra triển vọng mới sáng sủa cho việc huy động nguồn lực bên ngoài. Nhờ đó, cơ cấu nhập khẩu máy móc thiết bị toàn bộ của Việt Nam đã có sự biến chuyển tốt trong những năm vừa qua. Bảng 9: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam 2003 – 2007 Năm Kim ngạch xuẩt nhập khẩu Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu Tỷ USD So với năm trước (%) Tỷ USD So với năm trước (%) Tỷ USD So với năm trước (%) 2003 45,66 20,17 25,49 2004 58,45 128.0 26,50 131,4 31,95 125,3 2005 69,42 118,7 32,44 122,4 36,98 115,7 2006 84,72 122,0 39,83 122,8 44,89 121,4 2007 111,26 131,3 48,56 121,9 62,70 139,7 (Nguồn: Tổng cục Hải quan) Trong đó ta có : Bảng 10: Cơ cấu nhập khẩu máy móc thiết bị toàn bộ của Việt Nam (đơn vị: %) Tỷ trọng nhập Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Máy móc thiết bị 62,7 60,6 61,9 65,1 66,7 Hàng nguyên liệu 17 16,2 15,5 13,8 12.4 Hàng đã chế biến 20,3 23,2 22,6 21,1 20,9 Tổng 100 100 100 100 100 (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Nhìn bảng trên ta thấy có sự thay đổi vị trí giữa các loại mặt hàng, tỉ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị đã tăng mạnh đều chỉ có năm 2004 có giảm chút ít so với 2003 (giảm 2,1%). Sự thay đổi này có sự đóng góp rất lớn của Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật. Là một doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực nhập khẩu máy móc thiết bị, trong những năm gần đây, để tăng doanh thu và đa dạng hoá sản xuất, Công ty có mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình sang lĩnh vực tư vấn và một số lĩnh vực khác nhưng hoạt động xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật vẫn chiếm ưu thế. Chúng ta có thể nhìn thấy kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty qua bảng dưới đây: Bảng 11: Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty (đơn vị: Triệu USD ) Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị Tỉ trọng (%) Giá trị Tỉ trọng (%) Giá trị Tỉ trọng (%) Giá trị Tỉ trọng (%) Giá trị Tỉ trọng (%) Tổng kim ngạch XNK 121,03 100 148,34 100 107,44 100 130,72 100 115,06 100 Kim ngạch nhập khẩu 115,62 95,5 142,60 96,1 101,98 94,9 123,89 94,8 108,50 94,3 Kim ngạch xuất khẩu 5,41 4,5 5,74 3,9 5,46 5,1 6,83 5,2 6,56 5,7 Tồng kim ngạch XNK so với năm trước (%) 100 122,5 72,4 121,7 88,0 ( Nguồn: Báo cáo công tác các năm từ 2003 đến 2007 của công ty ) Từ bảng tổng kết trên đây có thể thấy, kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty có khá nhiều biến động trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến năm 2007; cụ thể, năm 2003 đạt 121,03 triệu USD nhưng đến năm 2005 giảm xuống còn 107,44 triệu USD, đến năm 2006 thì tăng khá mạnh (130,72 triệu USD) nhưng chỉ đạt 115,06 triệu USD vào năm 2007. Cũng theo bảng trên, kim ngạch nhập khẩu của công ty mà chủ yếu là nhập khẩu thiết bị toàn bộ vẫn chiếm tỷ trọng cao và khá ổn định qua các năm. Điều này thể hiện sự hiệu quả trong việc thực hiện các hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật của Công ty. Với việc nước ta đã gia nhập WTO, ngày càng nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ nên thị trường bị chia nhỏ dẫn đến kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của công ty cũng có sự biến động nhưng với sự nỗ lực của mình Công ty vẫn thực hiện tốt các hợp đồng nhập khẩu của mình, điều này tạo thêm được sự tin tưởng từ phía các đối tác giúp nâng cao hiệu quả việc thực hiện nhập khẩu của công ty trong giai đoạn tới. Bên cạnh đó, công ty đang gia tăng mọi nỗ lực để chuẩn bị tiến tới cổ phần hoá thành công vào năm 2008 nên một số hoạt động của công ty bị ngưng lại. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc giảm kim ngạch nhập khẩu của Technoimport, nó thể hiện rõ bằng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2007 chỉ là 115,06 tỷ . Các đối tác chính cung cấp hàng máy móc thiết bị chủ yếu vẫn là Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Đức, Pháp... Các máy móc thiết bị nhập từ các nước như Hàn Quốc, Đài Loan hoặc Trung Quốc... thường không phải là loại hiện đại song có một ưu điểm là giá hạ hơn so với các thiết bị nhập ở các nước công nghiệp tiên tiến. Ngoài ra các thiết bị này cũng có thể thích hợp trong một số lĩnh vực như thiết bị xi măng lò đứng; các thiết bị chế biến mía đường thay thế các lò thủ công với công suất thấp; các nhà máy sản xuất giày dép, chế biến mủ cao su... Thiết bị toàn bộ nhập khẩu từ các nước công nghiệp phát triển thường là thiết bị trong các nghành cơ khí chính xác, sản xuất gạch men, luyện thép, luyện kim, dầu khí, thiết bị viễn thông.... Về xu hướng biến động của kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu chúng ta có thể theo dõi ở hình dưới đây: Biểu 3: Giá trị kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu qua các năm của công ty Giá trị ( Triệu USD ) 115.62 142.6 101.98 123.89 108.5 5.41 5.74 5.46 6.83 6.56 0 20 40 60 80 100 120 140 160 Năm KNNK KNXK 2003 2004 2005 2006 2007 ( Nguồn: Báo cáo công tác các năm từ 2003 đến 2007 của công ty) Trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến năm 2007, kim ngạch nhập khẩu của công ty luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu với giá trị trung bình qua các năm là 118,5 triệu USD, trong khi kim ngạch xuất khẩu trung bình chỉ đạt 5,8 triệu USD. Nhưng nhìn vào biểu đồ trên chúng ta có thể thấy rằng, kim ngạch xuất khẩu của công ty đã tăng lên trong mấy năm gần đây, duy chỉ có năm 2004 là tỉ trọng nhập khẩu có giảm so với năm 2003. Sở dĩ có được kết quả này là do trong những năm gần đây, công ty đã chú trọng vào việc khuyến khích các phòng xuất nhập khẩu tham gia vào hoạt động xuất khẩu mà đi đầu trong hoạt động này là các phòng XNK 4, phòng XNK 5 và phòng XNK 6. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của công ty nhìn chung còn mang tính chất nhỏ lẻ và mang tính thời vụ. Chính vì vậy, trong thời gian tới công ty cần có các biện pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa lĩnh vực kinh doanh này. Như đã nói ở trên, mặt hàng nhập khẩu chủ lực của Technoimport là thiết bị toàn bộ và kỹ thuật. Chính vì vậy, mặt hàng này luôn chiếm giá trị và tỷ trọng lớn trong cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu của công ty. Điều này được thể hiện cụ thể trong bảng dưới đây: Bảng 12: Kim ngạch nhập khẩu thiết bị toàn bộ theo cơ cấu hàng nhập khẩu (đơn vị: Triệu USD) Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 GT TT (%) GT TT (%) GT TT (%) GT TT (%) GT TT (%) Kim ngạch nhập khẩu 121,03 100 148,34 100 107,44 100 130,72 100 115,06 100 Thiết bị toàn bộ 62,45 51,6 70,90 47,8 50,39 46,9 74,51 57,0 57,53 50,0 Thiết bị lẻ 28,32 23,4 34,71 23,4 24,60 22,9 28,10 21,5 28,19 24,5 NVL sản xuất 21,42 17,7 30,26 20,4 14,72 13,7 16,34 12,5 17,26 15,0 Hàng tiêu dùng 8,84 7,3 12,47 8,4 17,73 16,5 11,77 9,0 12,08 10,5 ( Nguồn: Phòng Kế hoạch- Tài chính ) Từ bảng tổng hợp trên đây có thể thấy được, mặt hàng nhập khẩu chủ lực của công ty vẫn là thiết bị toàn bộ. Tuy nhiên, giá trị nhập khẩu của mặt hàng này qua các năm lại không ổn định. So với năm 2003 và năm 2004, năm 2005 giá trị nhập khẩu thiết bị toàn bộ giảm mạnh chỉ đạt được 50,39 triệu USD tương ứng giảm 29% so với năm 2004 và giảm 19,9% so với năm 2003. Năm 2006, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này có xu hướng tăng mạnh, có thể đây là kết quả của quá trình quốc tế hóa khi nước ta đang trong quá trình đàm phán trở thành thành viên của WTO, giá trị đạt được là 74,51 triệu USD tăng 47,8% so với năm 2005. Sang năm 2007, kim ngạch mặt hàng này lại giảm, chỉ còn 27,53 triệu USD, giảm 22,8% so với năm 2006. Sở dĩ có điều này là vì công ty phải cạnh tranh với nhiều công ty trong nước khác cùng kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Ngoài ra, kim ngạch các mặt hàng thiết bị lẻ, nguyên vật liệu sản xuất và hàng tiêu dùng cũng chiếm một tỷ trọng nhất định trong tổng kim ngạch các mặt hàng nhập khẩu của công ty. Việc nhập khẩu các mặt hàng này không tốn nhiều chi phí như thiết bị toàn bộ mà thời gian thực hiện hợp đồng lại ngắn nên công ty vẫn chú trọng để quay vòng và tăng thêm vốn cho việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Tuy nhiên, kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này cũng rất thất thường, chứng tỏ công ty đang đứng trước một số khó khăn cần phải phải khắc phục. Đánh giá hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ của công ty Bảng 13: Hiệu quả sử dụng chi phí, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ STT Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 DT thuần từ NK ( Triệu VNĐ ) 6.608 6.792 7.816 8.964 9.368 2 Tổng chi phí NK ( Triệu VNĐ ) 4.956 4.654 4.830 6.279 7.674 3 Lợi nhuận ròng NK ( Triệu VNĐ ) 1.652 2.138 2.986 1.749 1.694 4 Tỷ suất phí (%) 75 68,5 61,7 70,0 81,9 5 Hệ số sinh lời của chi phí (%) 0,33 0,46 0,62 0,28 0,22 (Nguồn: Tổng hợp Báo cáo công tác năm và Báo cáo tháng hoạt động nhập khẩu hàng hoá từ năm 2003 đến năm 2007 của công ty) Qua bảng trên đây, ta thấy hiệu quả sử dụng chi phí nhập khẩu thiết bị toàn bộ của công ty còn khá lớn. Điều này thể hiện qua chỉ tiêu tỷ suất phí còn tương đối cao, cụ thể: năm 2003 là 75%, năm 2004 giảm xuống còn 68,5%, năm 2005 tỷ suất phí có giảm nhưng vẫn tương đối cao 61,7% và các năm 2006, 2007 lần lượt là 70,0% và 81,9% cho thấy mức chi phí cho việc nhập khẩu mặt hàng này còn chiếm một tỷ lệ cao trong tổng doanh thu thu được. Một trong những yêu cầu của hoạt động quản trị sản xuất kinh doanh là phải giảm được đến mức tối đa tỷ suất phí nhằm đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và tăng tích luỹ vào lợi nhuận. Thế nhưng, chỉ tiêu này ở Technoimport vẫn chưa hề giảm được trong suốt quãng thời gian từ năm 2003 đến năm 2007 mà còn có phần tăng nhanh vào các năm 2006, 2007. Điều này cho thấy, việc quản lý chi phí nhập khẩu thiết bị toàn bộ - hoạt động mang lại doanh thu chính cho công ty vẫn chưa hiệu quả. Bên cạnh chỉ tiêu tỷ suất phí, hệ số sinh lời cũng góp phần vào việc phân tính hiệu quả sử dụng chi phí của công ty. Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được từ một đơn vị chi phí cho hoạt động nhập khẩu. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao. Nhìn vào bảng trên, chúng ta thấy hệ số sinh lời của Technoimport là tương đối thấp, chỉ có năm 2005 là đạt được 0,62% còn các năm khác là tương đối thấp. Năm 2003, chỉ tiêu này đạt 0,25%, nghĩa là cứ bỏ ra 1.000.000 VNĐ thì công ty thu về được 2.500 VNĐ. Năm 2004 là 0,46% và có chiều hướng giảm mạnh vào các năm sau, cụ thể là năm 2006 và năm 2007 tỷ lệ tương ứng của chỉ tiêu này lần lượt 0,28% và 0,22%. Điều này nói lên là công ty đang gặp vấn đề trong việc quản lý và sử dụng vốn Hiện nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong khi nhu cầu về mặt hàng này lại không tăng nhanh. Chính vì vậy, công ty cần phải quản lý và sử dụng chi phí một cách hợp lý nhất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên khi đánh giá hiệu quả nhập khẩu vẫn lưu ý tới những mặt tồn tại của công tác nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong giai đoạn này trong đó có thể kể đến: - Trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm định kỹ thuật và công nghệ nhập khẩu cũng như chất lượng máy móc thiết bị nhập về còn hạn chế, chính sách đầu tư cho nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ cao còn chưa thật đúng dẫn đến hiệu quả nhập khẩu thiết bị không cao. Theo đánh giá thì trình độ công nghệ máy móc nói chung ở trong nước rất thấp, so với các nước tiên tiến trên thế giới, máy móc thiết bị hiện tại lạc hậu từ 2 – 4 thế hệ so với thế giới và được hình thành từ nhiều nguồn, pha trộn của nhiều nước, nhiều thế hệ kỹ thuật khác nhau (chỉ tính riêng những thiết bị chủ yếu đã do gần 20 nước sản xuất dẫn đến tiêu hao nhiều năng lượng và nhiên liệu, gây ô nhiễm môi trường, chất lượng sản phẩm thấp, khả năng xuất khẩu kém) - Công tác nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong thời gian qua tuy đã khắc phục được một số khó khăn nảy sinh trong giai đoạn trước song do cơ chế thay đổi, những khó khăn mới cũng nảy sinh. Không chỉ chịu sự tác động của các chính sách của nước bạn, mỗi khi tiến hành ký kết dự án và nhập khẩu công trình thiết bị toàn bộ giờ đây Công ty đang phải chạy theo những văn bản, những quy định pháp lý mới liên tục được ban hành để điều chỉnh hoặc có liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ mà tính nhất quán của chúng so với hệ thống các văn bản trước hầu như không có hay không toàn diện. Điều đó đã gây rất nhiều khó khăn cho những người phải trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực này, gây khó khăn cho chủ đầu tư và các bên liên quan trong quá trình triển khai dự án, và dẫn tới hiệu quả nhập khẩu thiết bị không được như đã định. Việc phân tích và đưa ra con số cụ thể của các chỉ tiêu nêu trên đã cho chúng ta có một cái nhìn khái quát và tương đối chính xác về hiệu quả sử dụng chi phí cũng như hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật của Technoimport. Và để khắc phục thực trạng nêu trên, Công ty cần tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm tháo gỡ những khó khăn còn tồn tại. II. Quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty Hình thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ chủ yếu tại Công ty là nhập khẩu uỷ thác, chính vì vậy chúng ta đi vào xem xét, nghiên cứu, phân tích hoạt động nhập khẩu uỷ thác tại Công ty. Trước hết, để tiến hành hoạt động nhập khẩu uỷ thác các khách hàng trong nước (chủ đầu tư) phải gửi đến cho Công ty một đơn đặt hàng, trong đó nêu rõ tên hàng, quy cách, số lượng, chất lượng, thời gian giao hàng dự kiến, phương thức thanh toán, các yêu cầu bảo hành, vận hành, chạy thử và các yêu cầu khác. Trong trường hợp nhập khẩu bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, nguồn vốn ODA... thì cần có thêm các văn bản: - Giấy phép hoặc quyết định đầu tư - Văn bản phê duyệt kết quả đấu thầu - Hồ sơ dự thầu, biên bản mở thầu, biên bản đánh giá chọn thầu Đối với hình thức chọn thầu khác (chào hành cạnh tranh) thì phải có chào hàng cạnh tranh ít nhất 3 bản, bảng phân tích chọn chào hành và quyết định chọn nhà thầu. - Luận chứng kinh tế, kỹ thuật (báo cáo khả thi) cùng văn bản phê duyệt. - Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư (nếu dự án thuộc diện ưu đãi) Sau khi đã có trong tay đơn hàng và các văn bản, tài liệu cần thiết có liên quan, Công ty sẽ tiến hành các nghiệp vụ cụ thể sau: Do đặc trưng của nhập khẩu thiết bị toàn bộ đòi hỏi lượng vốn lớn và thời gian thực hiện thường dài nên hình thức nhập khẩu chủ yếu của công ty là nhập khẩu uỷ thác. Công ty đứng ra nhập khẩu thay cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhưng không có khả năng hoặc không được quyền nhập khẩu trực tiếp và thu phí uỷ thác. Sau khi nhận được đơn đặt hàng và tài liệu kỹ thuật, công ty sẽ tiến hành các bước cụ thể sau: 1. Nghiên cứu thị trường Trên cơ sở những yêu cầu mà nhà đầu tư đặt ra, công ty tiến hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. Việc nghiên cứu thị trường trong nước để biết được mức giá của mặt hàng cùng loại và những thông tin về mã số thuế, thuế suất và phụ thu của mặt hàng đó. Nghiên cứu thị trường nước ngoài để tìm hiểu tình hình sản xuất, giá cả, uy tín, chất lượng của nhà cung cấp thiết bị toàn bộ cũng như điều kiện địa lý, tập quán thương mại, quan hệ thương mại của nước đó với Việt Nam. Đây là một khâu quan trọng giúp công ty có được danh sách những công ty thích hợp nhất, từ đó đưa ra quyết định quan trọng trong việc lựa chọn đối tác giao dịch. 2. Gọi chào hàng Sau khi nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, công ty phát thư gọi chào hàng về việc cung cấp thiết bị toàn bộ cho các hãng đã tìm hiểu từ bước trên, trong đó nêu rõ các thông số kỹ thuật của thiết bị, tiêu chuẩn về sản phẩm do thiết bị làm ra, công nghệ, thời gian giao hàng, phương thức thanh toán.... 3. Lựa chọn đối tác giao dịch Kể từ khi nhận được chào hàng từ phía đối tác nước ngoài, công ty cùng với chủ đầu tư nghiên cứu, xem xét, lựa chọn đối tác tốt nhất đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của chủ đầu tư, đồng thời có thuận lợi cho phía Việt Nam nhất về kỹ thuật, công nghệ, giá cả, điều kiện thanh toán, giao hàng, bảo hành... 4. Lập phương án kinh doanh Trên cơ sở kết quả thu thập được, các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu tiến hành lập phương án kinh doanh, trong đó bao gồm các nội dung như phân tích tình hình hàng hoá, thị trường và khách hàng, đánh giá những khó khăn cũng như thuận lợi và lên kế hoạch sử dụng vốn, tính toán các chi phí, đề ra các mục tiêu hành động cụ thể... Sau khi phương án kinh doanh được lập xong và trình lên Tổng giám đốc phê duyệt, công ty tiến hành đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng. 5. Đàm phán và ký kết hợp đồng - Lập dự thảo hợp đồng: Với những đối tác có quan hệ lần đầu, cả Technoimport và đối tác đều lập dự thảo hợp đồng rồi gửi cho nhau xem xét. Còn với những đối tác đã có quan hệ làm ăn lâu năm, việc làm này thường do công ty đảm nhiệm. Việc lập dự thảo hợp đồng càng chi tiết, đầy đủ và chính xác càng thuận lợi cho việc đàm phán và ký kết hợp đồng sau này. - Đàm phán hợp đồng: Việc đàm phán ký kết hợp đồng tại Technoimport có thể được tiến hành qua thư, fax hay gặp gỡ trực tiếp. Nhưng cho dù bằng hình thức nào đi nữa thì nội dung đàm phán cũng liên quan đến các vấn đề cơ bản như: giá cả, vận chuyển, thanh toán, bảo hành.... - Ký hợp đồng ngoại thương: Sau khi việc đàm phán được hoàn tất, Technoimport và phía đối tác nước ngoài tiến hành ký kết hợp đồng ngoại thương. Hợp đồng được ký kết phải quy định cụ thể các điều khoản: Tên hàng, quy cách phẩm chất, giá cả, giao hàng, thanh toán... Bên cạnh đó, hợp đồng còn quy định cụ thể từng phần công việc, trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi bên trong quá trình chuyển giao. 6. Ký hợp đồng uỷ thác Hợp đồng uỷ thác được ký kết giữa chủ đầu tư và Technoimport, trong đó quy định cụ thể các điều khoản liên quan đến hàng hoá và nghĩa vụ trách nhiệm của mỗi bên. Ngoài ra, trong hợp đồng còn nêu rõ mức phí uỷ thác thông thường khoảng 1% nhưng không được thấp hơn 150USD. 7. Thực hiện hợp đồng Sau khi việc ký hợp đồng ngoại thương và hợp đồng uỷ thác được hoàn tất, công ty tiến hành ký quỹ mở L/C bằng tiền đặt cọc của chủ đầu tư, thường là 10% trị giá hợp đồng ngoại thương. Khi hàng hoá và chứng từ của người bán đã về, công ty tiến hành nhận chứng từ đi mở tờ khai hải quan, nộp thuế các loại rồi tiến hành nhận hàng và giao ngay cho chủ đầu tư kèm theo hoá đơn bán hàng. Công ty tiến hành thanh lý hợp đồng với ngân hàng và chủ đầu tư sau khi khách hàng nội địa đã thanh toán tiền hàng. Cuối cùng, công ty hạch toán hợp đồng uỷ thác và lưu hồ sơ. III. Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty 1. Yếu tố chủ quan 1.1. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp Trong sản xuất, kinh doanh, nguồn nhân lực của doanh nghiệp có thể sáng tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sản xuất nhằm tạo ra nguồn tiềm năng lớn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cũng chính nguồn nhân lực sáng tạo ra những kiểu dáng mới phù hợp hơn với nhu cầu của người tiêu dùng, làm cho sản phẩm (dịch vụ) của doanh nghiệp có thể bán được, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nguồn nhân lực còn tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình độ sử dụng các nguồn lực khác (máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...) nên tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng, nguồn nhân lực trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp nhập khẩu từ khâu tìm kiếm khách hàng, đối tác, đàm phán, ký kết hợp đồng....cho đến khâu cuối cùng. Chính vì vậy, doanh nghiệp có đạt được hiệu quả trong kinh doanh hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng của đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp mình. Cho đến nay ở Công ty nói riêng và trong các doanh nghiệp có liên quan nói chung vẫn chưa có các nhóm chuyên viên thông thạo mọi lĩnh vực công nghệ trong một dự án cho nên nhiều khi đã chuẩn bị mở thầu nhưng chủ đầu tư và thậm chí cả các chuyên viên tư vấn chưa thể hình dung được loại máy móc, thiết bị và công nghệ nào cho phù hợp nhất với dự án của mình. Nhập khẩu một công trình thiết bị toàn bộ có nghĩa là sẽ nhập khẩu hàng trăm, thậm chí hàng nghìn loại máy móc thiết bị khác nhau, do đó không một tổ chức tư vấn nào của Việt Nam có thể hoàn toàn am hiểu các công nghệ đi kèm. Trong nhiều trường hợp phương án kỹ thuật và công nghệ đã được xem xét cẩn thận nhưng do không thể tính được hết các vấn đề nảy sinh khi áp dụng một công nghệ nào đó tại một địa điểm và trong một thời gian cụ thể nên dẫn tới tình trạng cùng một loại công nghệ song ở nơi này phát huy hiệu quả cao, còn ở nơi khác lại không có hiệu quả. Thêm vào đó, sự chênh lệch về trình độ quản lý và sử dụng công nghệ cũng dẫn đến sự khác nhau về hiệu quả phát huy kỹ thuật của công nghệ nhập khẩu. Xác định đúng loại công nghệ cần nhập khẩu cho dự án là khó khăn đầu tiên và có thể coi là lớn nhất đối với việc ra quyết định đầu tư nhập khẩu công trình của chủ đầu tư trong điều kiện hiện nay. Ngày nay, trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển làm cho hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm (dịch vụ) rất cao. Điều này đòi hỏi nguồn nhân lực ngày càng phải tinh nhuệ. Chính vì vậy, vai trò của nguồn nhân lực trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh tại doanh nghiệp ngày càng quan trọng. 1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ hiện có của doanh nghiệp Công cụ lao động là phương tiện mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động. Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với quá trình phát triển của công cụ lao động. Sự phát triển của công cụ lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố hết sức quan trọng tạo ra tiềm năng tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh. Chất lượng hoạt động của doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của trình độ kỹ thuật, tính đồng bộ của máy móc thiết bị, chất lượng công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị... Tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn cho máy móc thiết bị ở Việt Nam do Bộ khoa học Công nghệ có trách nhiệm lập và kiểm tra. Tuy nhiên hiện nay việc thực hiện các tiêu chuẩn này có nhiều bất cập, bản thân các tiêu chuẩn được quy định cũng còn sơ sài, chưa đầy đủ. Việc nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng thực hiện theo Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 04/04/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 - 2005 và phải đảm bảo các quy định về an toàn, vệ sinh lao động, bảo vệ môi trường và chất lượng sản phẩm và dịch vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam. Thông tin từ Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết: Phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng máy móc công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế hệ với 76% máy móc, dây chuyền công nghệ thuộc thế hệ những năm 1960 - 1970, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang...; chỉ có 10% doanh nghiệp có công nghệ hiện đại, 38% ở mức trung bình, 52% thuộc loại lạc hậu và rất lạc hậu; tỷ lệ sử dụng công nghệ cao của Việt Nam hiện mới chỉ đạt khoảng 2%, trong khi đó Thái-lan là 31%, Singapore là 73%, Malaysia 51% (theo tiêu chí để đạt trình độ nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là trên 60%). Ðầu tư cho đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu, một tỷ lệ quá thấp so với các nước trong khu vực như Ấn Ðộ là 5%, Hàn Quốc 10%. Tỷ lệ đổi mới máy móc thiết bị của Việt Nam hàng năm cũng chỉ đạt 8 - 10%, trong khi ở các nước trong khu vực có tỷ lệ tương ứng là 15 - 20%. Riêng về công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, hiện có tới 58% doanh nghiệp chế biến nông sản Việt Nam có công nghệ lạc hậu. Điều có thể nhận thấy ngay được là phần lớn máy móc thiết bị công nghệ của ta tụt hậu ngay từ đầu, từ lúc mua sắm dây chuyền “thiết bị mới”. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu thông tin nên không biết công nghệ nào là tiên tiến. Chẳng hạn: Tổng tiêu hao năng lượng để sản xuất một tấn NH3 của Nhà máy phân đạm Bắc Giang lên tới 61,94 GJ (đơn vị tính về tiêu hao năng lượng), trong khi một nhà máy khác của công ty hoá chất sử dụng than chỉ tốn từ 42,79 đến 43,86 GJ. Một thực tế khác là vì không biết trình độ công nghệ chung trên thế giới đến mức nào mà chỉ so với ta thì thấy tiến bộ hơn rất nhiều và các doanh nghiệp “hí hửng mua về”. Đến khi sản xuất, phải cạnh tranh trên thị trường thì mới “ngã ngửa” rằng thiết bị công nghệ vừa mua quá lạc hậu so với thế giới. Và “câu chuyện” về việc hô hào tiếp tục đổi mới, cải tiến tại diễn ra. Thực tế dây chuyền vừa mua về chưa thu được đồng vốn nào thì lấy gì mà đổi mới. Tình trạng này đặc biệt nghiêm trọng đối với doanh nghiệp Nhà nước (là nơi tiêu “tiền chùa” và công nghệ càng lạc hậu thì càng có “lợi” cho kẻ đầu cơ thông qua việc mua). Tình trạng lạc hậu dây chuyền và công nghệ sản xuất cũng xảy ra phổ biến ở các doanh nghiệp tư nhân vì thiếu thông tin. Một số trường hợp công nghệ lúc mua là loại tiên tiến nhất, nhưng do xác định công suất quá lớn so với khả năng nguyên liệu lúc bấy giờ, cho nên 10 - 15 năm sau vẫn chưa thu hồi được vốn, không có tiền đổi mới công nghệ nên thành lạc hậu. Hiện nay, công nghệ kỹ thuật phát triển nhanh chóng với chu kỳ công nghệ ngày càng được rút ngắn, đóng vai trò to lớn, mang tính quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tìm được giải pháp đầu tư đúng đắn, chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ tiên tiến của thế giới, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực để có thể làm chủ được khoa học kỹ thuật hiện đại, sáng tạo ra công nghệ kỹ thuật mới, ... làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3. Trình độ tổ chức quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp Với khối lượng đồ sộ thiết bị máy móc, hàng hoá và dịch vụ kèm theo nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật đòi hỏi một số vốn tương ứng rất lớn. Huy động trong nước đủ lượng vốn cho nhập khẩu nhiều công trình thiết bị toàn bộ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện hiện nay là điều chưa thể thực hiện được đối với các doanh nghiệp trong nước hiện nay. Câu hỏi luôn đặt ra đối với các nhà nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật là làm sao để sử dụng nguồn vốn bỏ ra một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, một thực tế đặt ra là việc huy động được nguồn vốn quý báu ấy không phải dễ dàng, song làm sao để cho nguồn vốn đó phát huy tác dụng tích cực còn khó hơn nhiều. Là một doanh nghiệp thương mại nên nguồn vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn kinh doanh của Công ty. Chính vì vậy, Công ty nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì sẽ nâng cao hiệu quả của Công ty. Tuy nhiên việc sử dụng vốn lưu động còn nhiều hạn chế, không chỉ do việc quản lý còn chưa hiệu quả, Công ty còn chưa sử dụng vốn lưu động một cách hiệu quả. Trong quản lý Công ty, nguồn vốn lưu động chưa phân bố về các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu nên nguồn vốn lưu động trong Công ty bị chia nhỏ đến 7 lần. Nguồn vốn này tuy lớn nhưng khi bị chia nhỏ ra như vậy thì không thể đảm bảo trả nợ cho các hợp đồng nhập khẩu vì vậy các hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ có giá trị lớn,Công ty phải thường xuyên vay vốn ngân hàng. Mặt khác, thời gian thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường rất dài nên mức lãi suất phải trả ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kinh phí kinh doanh. Nếu nguồn vốn lưu động của công ty được quản lý tập trung thì việc vay nợ ngân hàng sẽ giảm đi rất nhiều, điều này sẽ giảm chi phí, tăng lợi nhuận, tăng hiệu quả kinh doanh của Công ty. Bên cạnh việc sử dụng nguồn vốn lưu động, Công ty còn phải phát huy hiệu quả nguồn vốn cố định. Trong Công ty, nguồn vốn cố định chiếm 20% trong nguồn vốn kinh doanh, một tỷ lệ hợp lý đối với một doanh nghiệp kinh doanh thương mại đơn thuần. Nguồn vốn cố định bao gồm giá trị văn phòng, phương tiện thông tin liên lạc, việc sử dụng hiệu quả tài sản cố định cũng là vấn đề đặt ra đối với công ty. Hiện nay thiết bị văn phòng vẫn còn sử dụng một cách không hợp lý, có những thiết bị dư thừa như điện thoại nhưng cũng có những thiết bị còn thiếu như máy tính (có phòng kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ có 2 máy tính/6 cán bộ. Mà việc sử dụng máy tính là rất cần thiết cho nhu cầu kinh doanh). Không thể phủ nhận một điều rõ ràng là một phần nguồn vốn của nhập khẩu đó không từ đâu khác mà chính là từ lợi nhuận thu được từ xuất khẩu. Mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Xuất khẩu để tạo vốn cho nhập khẩu và nhập khẩu nhằm góp phần nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, hỗ trợ và đẩy mạnh cho xuất khẩu. Vì thế, nếu thiết bị toàn bộ được nhập khẩu về không được đánh giá đúng và sử dụng một cách hiệu quả thỉ sẽ kìm hãm sự phát triển và gây lãng phí cho nền kinh tế. Do vậy, việc có những chính sách đồng bộ và đúng đắn để giải quyết vấn đề nâng cao hiệu quả xuất khẩu cũng là yếu tố rất quan trọng có ảnh hưởng tích cực tới nhập khẩu nói chung và nhập khẩu thiết bị nói riêng. Vốn là nhân tố quan trọng thường xuyên, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp phải chú trọng ngay từ khâu hoạch định nhu cầu vốn kinh doanh để làm cơ sở cho việc lựa chọn các phương án sử dụng vốn, huy động các nguồn vốn hợp lý trên cơ sở khai thác tối đa mọi nguồn lực hiện có, tổ chức chu chuyển, tái tạo và bảo toàn vốn. Đồng thời, khi tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp cũng cần phải chú trọng việc nghiên cứu biến động của thị trường tiền tệ đặc biệt là sự biến động của các ngoại tệ mạnh như USD, JPY, EURO... Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với môi trường kinh doanh có rất nhiều biến động. Chính vì vậy, nhân tố quản lý đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và việc quản lý tốt nguồn vốn của Công ty là rất cần thiết, góp phần quan trọng đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho Công ty. Hy vọng trong một tương lai không xa, Việt Nam sẽ không cần phải vay vốn nước ngoài cũng như trông chờ vào viện trợ nước ngoài để nhập khẩu thiết bị và kỹ thuật để rồi sau đó Việt Nam sẽ là nước xuất khẩu máy móc thiết bị và công nghệ trên thị trường quốc tế. 2. Yếu tố khách quan 2.1. Môi trường chính trị pháp luật Môi trường pháp lý bao gồm các văn bản luật và dưới luật. Mọi quy định trong các văn bản này đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp cùng tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh trên cơ sở vừa cạnh tranh, vừa hợp tác. Chính vì vậy, việc tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh là vô cùng quan trọng bởi nó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình mà còn điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô khác. Hiện nay, các quy định về thủ tục nhập khẩu máy móc thiết bị cho các dự án do quá nhiều cơ quan thuộc nhiều cấp ban hành, dẫn đến nảy sinh mâu thuẫn giữa các văn bản làm ách tắc nhập khẩu, gây thiệt hại vê thời gian và tiền bạc cho chủ đầu tư mặc dù trong đó có nhiều chủ đầu tư sử dụng nguồn vốn Nhà nước cấp hoặc bảo lãnh. Mặc dù mọi dự án đều đã được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhưng khi tiến hành nhập khẩu hàng hóa thiết bị và vật tư cho dự án thì lại một lần nữa phải xin phép Bộ Thương mại, khi xin phép lại phải xuất trình toàn bộ các văn bản trong quá trình lập báo cáo khả thi. Đối với máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được do Bộ Công nghiệp quyết định, nhưng để được miễn thuế nhập khẩu thì lại phải xin phép Bộ Thương mại một lần nữa mặc dù theo luật định, đã là hàng trong nước không sản xuất được thì chỉ cần bộ quản lý nghành xác nhận là được miễn thuế nhập khẩu. Những quy định phiền hà như thế này gây khó khăn không ít cho người nhập khẩu đôi khi làm mất cơ hội kinh doanh của công ty đối với đối tác nước ngoài. Bởi vì thiết bị toàn bộ là một mặt hàng nhạy cảm, nhanh chóng lỗi thời, giá trị của hợp đồng lớn với mức giá biến động cao. Nếu không tận dụng được thời cơ nhập khẩu sẽ làm giảm tính hiệu quả của thiết bị nhập về, điều này đòi hỏi dự án nhập khẩu của Công ty phải được nhanh chóng cấp phép. Ngoài ra, khi tiến hành hoạt động kinh doanh, đặc biệt là khi tham gia vào các hợp đồng ngoại thương đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật của quốc gia mình mà còn phải nắm chắc và tôn trọng luật pháp ở nước sở tại cũng như Tập quán và các Điều ước quốc tế khác. Việc làm này tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần tìm hiểu thật kỹ lưỡng nhân tố này trước khi tham gia ký kết để tránh những rủi ro không đáng có sau này. 2.2. Các chính sách pháp lý và quy định của Nhà nước Môi trường kinh tế là các nhân tố bên ngoài như các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách tiền tệ...có tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các chính sách này có thể ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ thể; do đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nằm trong ngành hay vùng kinh tế nhất định. Việc xử lý tốt các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ tỷ giá hối đoái, đưa ra các chính sách thuế phù hợp với trình độ phát triển kinh tế và đảm bảo tính công bằng, ... đều là những vấn đề hết sức quan trọng, tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có liên quan. Ngay các chính sách nhập khẩu máy móc thiết bị và khoa học công nghệ trực tiếp của Việt Nam đã được xây dựng nhằm khuyến khích và hỗ trợ mua công nghệ mới, song chính luật thuế và hệ thống thu thuế lại đã đặt ra hạn chế cho quá trình mua công nghệ đối với các nhà máy. Thủ tục nhập khẩu khó khăn do sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong các văn bản pháp quy cũng như những quy định chồng chéo về nhập khẩu thậm chí đối với tư liệu sản xuất, dịch vụ công nghệ đã làm hạn chế bớt việc tiếp cận kịp thời để có thể làm chủ các nguồn công nghệ cao của nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho một số ngành công nghiệp hoạt động thuận lợi, gây mất lòng tin của đối tác nước ngoài cũng như giảm khả năng thu hút vốn đầu tư và xin vay vốn nước ngoài. Những điều này có thể gây lãng phí về thời gian trong khi chờ đợi phê duyệt, làm chậm tiến độ triển khai dự án, làm cho phía nước ngoài kém tin tưởng vào các thoả thuận đã giành được trên bàn đàm phán, bởi vì những thoả thuận đó lại còn phải chờ đợi sự phê duyệt của các cơ quan quyền lực ở phía sau, từ đó sẽ tạo ra một tâm lý không tích cực cho các đối tác nước ngoài khi hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Trong khi đó vấn đề tạo ra được một tinh thần tin cậy vào thiện chí của các bên chính là một trong những cơ sở bảo đảm cho việc thực hiện thuận lợi hợp đồng sau này. 2.3. Những vướng mắc về thuế Việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ phục vụ cho các dự án với mục đính thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước do vậy chúng được hưởng nhiều ưu đãi về thuế khi nhập khẩu. Tuy nhiên, do các văn bản trong lĩnh vực này được ban hành liên tục và quá nhiều nên đã dẫn đến tình trạng chồng chéo gây khó khăn cho người nhập khẩu, chủ đầu tư và các bên có liên quan. Chẳng hạn như khái niệm thiết bị toàn bộ và thiết bị đồng bộ vẫn chưa được làm rõ, chỉ có khái niệm duy nhất về thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ được đưa ra trong Quyết định số91/TTg ban hàng ngày 31/11/1992 mà hoàn toàn không có khái niệm thiết bị đồng bộ nên xảy ra tình trạng bất động giữa doanh nghiệp và hải quan về chế độ áp dụng thuế đối với từng loại thiết bị nhập khẩu và đây là nguyên nhân mà các lô hàng thiết bị toàn bộ của các dự án do doanh nghiệp nhập về không có máy chính bị cơ quan hải quan áp mã tính thuế đối với hàng thiết bị lẻ và chủ đầu tư buộc phải nộp trong thời gian quy định. Những ách tắc như thế này trong quá trình làm thủ tục thông quan đã dẫn đến những khoản thuế phải nộp khi nhập lô hàng lên đến hàng tỷ đồng, mà nếu chủ đầu tư chưa kịp thu xếp nguồn vốn vay tạm thời để nộp thuế thì lại gây rắc rối cho hoạt động kinh doanh của người nhập khẩu, do người nhập khẩu đứng ra nhập uỷ thác và làm thủ tục thông quan cho hàng hóa nên nếu không hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, lô hàng đó sẽ bị cưỡng chế thuế, và toàn bộ hàng hóa của người nhập khẩu tại mọi cửa khẩu trên phạm vi toàn quốc sẽ không được phép tiếp tục làm thủ tục thông quan mà phải chờ giải quyết, khiến cho phát sinh thêm hàng chục tỷ đồng do chi phí lưu kho bãi, tiền bồi thường do tàu không được giải phóng và hàng loạt tổn thất khác. Thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT) là khoản thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh nhằm tránh tình trạng đánh thuế chông lên thuế, tuy vậy, phương thức tính thuế GTGT cùng với những quy định về áp dụng luật thuế giá trị gia tăng tỏ ra thiếu chính xác và chưa toàn diện, gây trở ngại cho người nhập khẩu. Theo luật thuế giá trị gia tăng quy định giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu. Như vậy, có thể nhận thấy là thuế GTGT đã đánh chồng lên thuế nhập khẩu. Hàng nhập khẩu khi mới đến cửa khẩu thì chưa thể xuất hiện khoản giá trị gia tăng, khoản này chỉ có thể xuất hiện khi hàng hóa được luân chuyển, còn thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa không thể được coi là phần giá trị tăng thêm của hàng hóa. 2.4. Những vấn đề đặt ra đối với thủ tục hải quan cho thiết bị nhập khẩu Thủ tục hải quan là những việc phải làm của người có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, có phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh hoặc của người được uỷ quyền (gọi tắt là người khai hải quan) theo quy định của luật Hải quan và các luật khác có liên quan. Trình tự khai báo chung đối với hàng hóa xuất nhập khẩu là: - Khai báo trên tờ khai hải quan. - Nộp, xuất trình chứng từ, hồ sơ kèm theo tờ khai hải quan. - Xuất trình hàng hóa, phương tiện vận tải để cơ quan hải quan kiểm tra. - Thực hiện yêu cầu của các cơ quan chức năng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu (kiểm tra chất lượng, kiểm dich, phân tích, giám định hàng hoá…). - Nộp thuế, lệ phí và các khoản phải thu khác. - Tiếp nhận hàng hóa, hành lý, phương tiện vận tải sau khi thông quan. Theo quy trình này thì việc quy định các doanh nghiệp khai báo hải quan tự phải chịu trách nhiệm kê khai, áp mã tính thuế đối với hàng hóa. Như vậy là hải quan đã dồn hết trách nhiệm sang doanh nghiệp, còn doanh nghiệp phải tiếp tục chịu trách nhiệm trong 5 năm. Rõ ràng rằng trách nhiệm của hải quan là kiểm tra tờ khai, nếu tờ khai được khai đúng thì không có lý do gì yêu cầu doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tờ khai đó trong 5 năm, điều này là quá nặng nề. Bên cạnh đó, bên nhập khẩu gặp phải nhiều khó khăn khi hải quan yêu cầu giám định tràn lan đối với hàng hóa nhập khẩu mỗi khi họ cảm thấy kết quả giám định không phù hợp với thực tế hàng hóa. Đây là điều không hợp lý vì bản thân hải quan không phải là một tổ chức giám định, kết quả giám định thông thường không phải chỉ đơn thuần là những gì nhìn thấy mà đòi hỏi phải có hệ thống máy móc tiêu chuẩn kiểm tra... Do vậy hải quan không thể đưa ra lý do như vậy để từ chối kết quả giám định và yêu cầu tiến hành giám định tràn lan. Hiện nay, hoạt động của Công ty cũng đang gặp khó khăn do bị cưỡng chế hải quan. Do tranh chấp về giá tính thuế nhập khẩu ô tô cũ theo GATT giữa chi nhánh công ty tại Hải Phòng và Tổng cục hải quan, sự việc đã lên tới thanh tra chính phủ và mặc dù Technoimport khẳng định mình không làm sai nhưng cuộc tranh luận vẫn chưa kết thúc. Cơ quan điều tra vẫn chưa có kết luận chính xác mặc dù dự kiến ban đầu là đầu tháng 12 năm 2007 sẽ có kết luận chính thức, song đến thời điểm này 28/1/2008 doanh nghiệp chỉ nhận được câu trả lời là đang trong quá trình điều tra. Và trong khi đợi kết luận chính thức thì doanh nghiệp vẫn đang bị cưỡng chế hải quan, với thời hạn giải toả cưỡng chế là một tháng. Sự việc trên đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín doanh nghiệp, doanh nghiệp không thể kinh doanh mặt hàng ô tô nhập khẩu cũng như các mặt hàng khác vì bị cưỡng chế thuế, có thể bị phá sản. Thực tế hiện nay doanh nghiệp gần như chỉ hoạt động cầm chừng, cả Công ty chờ một văn bản giải toả cưỡng chế của hải quan. Tình hình ngày càng trở lên nghiêm trọng khi Hải quan không thông quan cho những lô hàng đã cập cảng, Công ty buộc phải tìm cách khác để đảm bảo thực hiện hợp đồng đối với doanh nghiệp trong nước như làm thủ tục chuyển chủ sở hữu lô hàng sang một nhà nhập khẩu uỷ thác khác, chấp nhận bồi thường cho khách… Đã có rất nhiều khách hàng quen thuộc ngần ngại khi tiếp tục ký hợp đồng với Công ty, nguy cơ mất khách hàng và gia tăng chi phí đang tạo áp lực lớn đối với lãnh đạo và đội ngũ cán bộ Công ty. Đặc biệt, việc mất uy tín đối với các đối tác mới là tổn thất to lớn. 2.5. Các yếu tố khác Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, giá cả tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh và bao gồm các yếu tố: giá cả nhập khẩu, giá cả lưu thông và tỷ giá hối đoái: - Giá hàng hoá nhập khẩu: Trong cơ cấu tổng chi phí kinh doanh nhập khẩu, giá vốn hàng hoá nhập khẩu chiếm tỷ trọng chủ yếu, do đó giá mua hàng hoá tác động mạnh đến giá trị tổng chi phí kinh doanh. Việc mua hàng với giá cao làm tăng chi phí dẫn đến lợi nhuận giảm, ngược lại mua hàng với giá thấp làm giảm chi phí kinh doanh từ đó cho phép tăng lợi nhuận. - Chi phí lưu thông: Sau chi phí mua hàng thì chi phí lưu thông là bộ phận chi phí chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí hoạt động kinh doanh nhập khẩu, bao gồm chi phí vận chuyển, chi phí bốc dỡ hàng, chi phí thuê nhân công... Nếu tất cả các những chi phí này tăng lên sẽ làm cho tổng chi phí hoạt động kinh doanh tăng, với điều kiện doanh thu không đổi thì lợi nhuận sẽ giảm xuống, kéo theo tỷ suất lợi nhuận và các chỉ tiêu hiệu quả khác giảm. Đây là nhân tố khách quan nhưng nếu doanh nghiệp tính toán để lựa chọn phương tiện vận chuyển phù hợp, tối ưu hoá quá trình vận chuyển cũng như sử dụng hiệu quả nhà kho, bến bãi... thì sẽ có tác dụng làm giảm chi phí nhằm tăng lợi nhuận cũng như hiệu quả kinh doanh. - Tỷ giá hối đoái: Trong kinh doanh nhập khẩu, chi phí nhập hàng được tính bằng đồng ngoại tệ còn chi phí lưu thông được tính bằng cả ngoại tệ lẫn nội tệ. Chính vì vậy, tỷ giá hối đoái có tác động và ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh: tăng tỷ giá ngoại tệ so với đồng nội tệ sẽ làm cho hoạt động nhập khẩu giảm lợi nhuận do phải dùng nhiều đồng nội tệ hơn để mua hàng làm cho chi phí kinh doanh tăng lên, ngược lại khi tỷ giá này giảm xuống thì nhập khẩu sẽ được lợi do chi phí kinh doanh giảm xuống. Trong tình hình hiện nay, khi mà các ngân hàng đang dư thừa ngoại tệ và giá đồng USD đang xuống thấp thì việc nghiên cứu tỷ giá hối đoái để lựa chọn đồng tiền thanh toán phù hợp cho các hợp đồng ngoại thương sẽ giúp các doanh nghiệp tăng được hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại đơn vị mình. Chương III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ I. Một số các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn và góp phần thúc đẩy quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam nói chung Mục tiêu của Việt Nam là sớm trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa có nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bắt kịp với trình độ phát triển của các nước trong khu vực. Khoa học và kỹ thuật công nghệ là nền tảng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần nhận thức và kết hợp được công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống, tranh thủ đi nhanh và hiện đại hóa những khâu quyết định. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một biện pháp quan trọng giúp Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với tri thức khoa học và kỹ thuật công nghệ tiên tiến trên thế giới. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ sẽ thực sự phát huy tác dụng tích cực đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa và phát triển kinh tế xã hội nếu chúng ta tháo gỡ được những vướng mắc, khắc phục được những vấn đề còn tồn tại để có thể sử dụng được tối ưu đồng vốn nhập khẩu, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập vào WTO thì để có được một chỗ đứng trên trường quốc tế điều cốt lõi là cần phải có một nền kỹ thuật công nghệ cao. Do đó, việc nhanh chóng hoàn thiện công tác nhập khẩu thiết bị toàn bộ trở nên vô cùng cấp thiết. 1. Lập kế hoạch xây dựng phát triển tổng thể nền kinh tế Nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật là một hoạt động kinh tế, do vậy cơ sở để phát triển nền kinh tế nói chung cũng đồng thời là nền tảng để nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Vì thế, cần phải lập một kế hoạch xây dựng phát triển tổng thể để tránh tình trạng nhập khẩu không có kế hoạch, nay có tiền thì nhập khẩu, mai có nước cấp viện trợ thì mua, để cuối cùng chỉ là sự nhập khẩu chắp vá, lãng phí và không hiệu quả của cả nền kinh tế như đã diễn ra ở nước ta trong nhiều thời gian qua. Công việc lập kế hoạch tổng thể cho nền kinh tế là công việc của mọi Nhà nước trên thế giới, đối với Việt Nam cho đến nay vẫn do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đảm nhiệm. Chúng ta đã lập ra các kế hoạch phát triển tổng thể 1 năm, 2 năm, 5 năm, 10 năm, 25 năm, mà nếu thực hiện tốt sẽ có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với các kế hoạch tổng thể là khả năng thực hiện chúng rất khó, thậm chí có kế hoạch không thể thực hiện được. Nguyên nhân của tình trạng này là do Bộ Kế hoạch và Đầu tư không nhận được các thông tin cần và đủ về tình hình thực tế. Các căn cứ để xác lập kế hoạch hoàn toàn chỉ dựa vào báo cáo của các Bộ khác. Bản thân các báo cáo này cung chỉ là sự tập hợp các báo cáo của cấp dưới, thiếu sự kiểm tra, giám sát trực tiếp của người lập. Chính vì thế, kế hoạch lập ra không thể thực hiện được, các cơ quan quản lý Nhà nước không biết căn cứ vào đâu để điều chỉnh kế hoạch cụ thể của mình. Là một bộ phận trong các hoạt động kinh tế, nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng vì sự thiếu khả thi của các kế hoạch kinh tế. Các dự án mua sắm máy móc thiết bị sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước và vốn vay nước ngoài đã phải chịu ảnh hưởng nặng nề do chính sách ưu đãi phải thay đổi liên tục vì tình hình khủng hoảng kinh tế và nền chính trị ở một số nước đối tác không ổn định, khiến cho việc lập dự án trở nên bị động, bản thân dự án cũng không ổn định, phải thay đổi cho phù hợp với chính sách của Nhà nước và tình hình kinh tế khu vực cũng như trên thế giới. Việc nhập khẩu thiết bị hiện nay vẫn chưa có một kế hoạch dài hạn, chỉ đơn thuần phụ thuộc vào kế hoạch phát triển của các ngành có liên quan. Chẳng hạn ngành công nghiệp hóa chất vạch ra kế hoạch tiếp tục đầu tư cho ứng dụng và khai thác hiệu quả công nghệ kỹ thuật chuyển giao của nước ngoài trong giai đoạn từ 2000 – 2015, vì vậy sẽ xây dựng một số nhà máy sản xuất phân đạm, bột nhẹ, sản phẩm hoá chất cơ bản ứng dụng công nghệ thời kỳ tới. Cần có một chính sách xuất nhập khẩu hợp lý thời kỳ tới, chẳng hạn như: Chính sách xuất nhập khẩu cẩn trung thành với phương châm “Phát triển xuất khẩu là điều kiện tiên quyết để mở rộng nhập khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, là tiền đề của sự tăng trưởng”. Chính sách và cơ chế quản lý nhập khẩu phải đáp ứng yêu cầu đổi mới, hiện đại hóa thiết bị và kỹ thuật công nghệ, bảo đảm vật tư, hàng hóa thiết yếu mà nền kinh tế chưa đáp ứng được, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, chính sách khoa học công nghệ cần được chú trọng và phát triển, phải tranh thủ nhập khẩu công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, cấm nhập khẩu công nghệ lạc hậu so với công nghệ trong nước đang sử dụng và dễ gây ô nhiễm môi trường, ưu tiên hiện đại hóa thiết bị công nghệ đối với các ngành công nghiệp then chốt, mũi nhọn; đặc biệt quan trọng là phải có chính sách thông thoáng, biện pháp mạnh dạn để tranh thủ kỹ thuật công nghệ, phải yêu cầu nhà cung cấp nước ngoài chuyển giao đủ bí quyết công nghệ, cần có chính sách “đi tắt, đón đầu”, “ săn bắt kỹ thuật và các tài nguyên kinh doanh”. Chúng ta cần phải cố gắng tiếp thu kỹ thuật công nghệ mới từ nước ngoài, đồng thời phấn đấu để có thể tự mình điều hành được nhà máy trong tương lai, giúp cho Việt Nam vừa tranh thủ được công nghệ và vốn của nước ngoài, vừa không ngãi phải lo sẽ bị nước ngoài chi phối về kinh tế. Do vậy, yêu cầu cấp bách được đặt ra hiện nay là phải xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh tế tổng thể cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và kế hoạch hợp lý đối với nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật công nghệ nói riêng. Đặc biệt là các kế hoạch nên có sự mềm dẻo cần thiết để các cơ quan thực hiện có thể tự quyết định đối với một số vấn đề cho phù hợp với tình hình thực tế mà không ảnh hưởng tới toàn bộ kế hoạch chung. 2. Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và tăng cường năng lực cho nguồn tài “nguyên sức người” Con người luôn là yếu tố quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trước mắt cần xây dựng một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn vững vàng không chỉ về kỹ thuật và thương mại mà còn am hiểu luật pháp và giỏi ngoại ngữ. Hiện nay ở nước ta đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu thiết bị toàn bộ, từ những người lập dự án, thẩm định công nghệ kỹ thuật, phê duyệt hợp đồng, cho đến những cán bộ tư vấn là những người trực tiếp tham gia công tác nhập khẩu máy móc công nghệ... vẫn chưa có đủ kinh nghiệm và trình độ để thực hiện nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả nhất. Để khắc phục vấn đề này cần có những chính sách thích hợp cải cách hệ thống giáo dục đại học và sau đại học theo hướng chú ý hơn tới đào tạo cán bộ thực hành, cần thực hiện một chương trình đào tạo sau đại học có chọn lọc về một số lĩnh vực khoa học và kỹ thuật lựa chọn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động gửi sinh viên tốt nghiệp đại học xuất sắc tới các trường hàng đầu ở nước ngoài để tu nghiệp; thành lập các chương trình ngắn hạn để bồi dưỡng cho các giáo sư của các trường đại học cập nhập được những thành tựu mới trong một số lĩnh vực khoa học kỹ thuật chọn lọc; có chính sách đãi ngộ tốt đối với người có năng lực như hình thành một chương trình hỗ trợ kinh phí ngắn hạn cho các cán bộ nghiên cứu trẻ trở về sau khi hoàn thành học tập cao học từ nước ngoài. Đó có thể được xem như là những công cụ về mặt chính sách có hiệu quả nhằm nâng cao tiềm năng nghiên cứu và trình độ khoa học kỹ thuật của con người. Đội ngũ trí thức ở Việt Nam cần được khuyến khích thoả đáng để có cơ hội và tăng cường khả năng tìm tòi nghiên cứu, thu nhận thêm những kiến thức bổ ích về thương phẩm, kỹ thuật công nghệ đang liên tục thay đổi trên thế giới và nắm chắc quy định của pháp luật quốc tế trong hoạt động nhập khẩu thiết bị và kỹ thuật công nghệ. 3. Tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước Chiến lược phát triển kinh tế tổng hợp của đất nước cho dù đã được chuẩn bị kỹ càng nhưng để thực hiện đạt hiệu quả cần có sự phối hợp của tất cả các bộ phận của nền kinh tế, ở Việt Nam, khả năng phối kết hợp hoạt động giữa các Bộ, ngành, các cấp và địa phương vẫn còn yếu. Nhà nước có quy định trách nhiệm cho từng cơ quan, ban ngành, nhưng lại thiếu rạch ròi về trách nhiệm cụ thể của mỗi Bộ, ngành trong quá trình thực hiện những hạng mục có sự tham gia của nhiều chủ thê, khiến dẫn đến tình trạng trách nhiệm chồng chéo lên nhau, hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một hoạt động chịu sự quản lý của rất nhiều cơ quan Nhà nước trên mỗi khâu thực hiện. Mặc dù có nhiều cơ quan quản lý như vậy, nhưng chỉ có một cơ quan chịu trách nhiệm thực sự duy nhất là chủ đầu tư hoặc Ban quản lý dự án. Do sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước này, trong nhiều trường hợp phát sinh mâu thuẫn trong cách xử lý của nhiều cơ quan quản lý đối với cùng một hạng mục dự án nên dẫn đến trường hợp chủ đầu tư mất nhiều thời gian, phải bỏ ra thêm nhiều chi phí không cần thiết. Chủ đầu tư có phần nào giống như một đốc công, gần như không có quyền quyết định đối với những vấn đề quan trọng liên quan tới dự án mà luôn phải chờ ý kiến của các cơ quan quản lý có thẩm quyền. Nhà nước nên tăng cường quyền hạn và trách nhiệm cho chủ đầu tư, đối với các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ nên giao cho vai trò giám sát, kiểm tra việc điều hành dự án của chủ đầu tư. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính, phân định quyền hạn trách nhiệm đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, tuy nhiên việc thực hiện còn chậm. Để tăng tốc độ giải quyết công việc, tăng sự liện kết giữa các cơ quan, Nhà nước đã áp dụng tin học vào quản lý. 4. Hoàn thiện và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về lĩnh vực này tỏ ra còn nhiều thiếu sót và còn nhiều vấn đề chưa thực sự phù hợp với điều kiện hiện nay với thông lệ quốc tế khi nước ta đã ra nhập WTO, khiến cho nhiều doanh nghiệp đối tác nước ngoài và bản thân các doanh nghiệp thực hiện việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ gặp phải nhiều vướng mắc trong quá trình hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Các nhà làm luật của Việt Nam cần cân nhắc kỹ lưỡng để chuyển đổi theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Tất nhiên, không nên chuyển đổi theo hướng áp dụng nguyên mẫu mà là chuyển đổi dần dần, xây dựng hành lang pháp lý thống nhất không chỉ phù hợp pháp luật quốc tế mà còn phù hợp với những đặc thù riêng của nền kinh tế xã hội nước ta. Các văn bản pháp quy trước khi ban hành cần tham khảo ý kiến của các Bộ, ngành cũng như các chuyên gia đủ năng lực, các đơn vị mà phạm vi hoạt động của họ sẽ phải chịu sự điều chỉnh của những văn bản này. Chẳng hạn như tham khảo ý kiến nhận xét về tính phù hợp của văn bản so với các văn bản ra đời trước đó, tính khả thi và mức độ dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện theo những quy định đó, tính không rõ ràng của văn bản dẫn đến sự hiểu nhầm và ban hành những quy chế tuỳ tiện... Đặc biệt cần có văn bản quy định thống nhất quyền hạn của các Bộ, ngành tương ứng, tránh những vướng mắc khi có sự mâu thuẫn giữa các văn bản của các cơ quan có thẩm quyền tương đương (do hiện nay thẩm quyền của các Bộ có sự chồng chéo lẫn nhâu), cùng một vấn đề những có nhiều quan điểm về cách giải quyết giữa các Bộ khiến cho người thực thi không biết phải theo ai, dẫn đến việc giảm hiệu quả sử dụng đồng vốn nhập khẩu và gây ách tắc cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 5. Nâng cao hoạt động nghiên cứu thị trường Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung thì vấn đề thị trường đóng vai trò quyết định đến tình hình kinh doanh của các hoạt động kinh tế và đặc biệt là hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ thì vấn đề thị trường lại càng quan trọng vì do nhu cầu nhập khẩu các máy móc thiết bị trong hệ thống thiết bị toàn bộ có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến, phù hợp với thị trường trong nước cần. Do đó, việc nghiên cứu thị trường cần phải được nghiên cứu một cách kỹ càng thông qua việc thu thập thông tin, tiếp cận thị trường để lựa chọn mặt hàng nhập khẩu tốt, thị trường xuất khẩu có uy tín, phù hợp và có khả năng đáp ứng nhu cầu của mình một cách tối đa nhất và qua đó tránh tình trạng chúng ta đã nhập khẩu các máy móc thiết bị quá cũ và lạc hậu không những không giúp Việt Nam trong việc phát triển trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ trong nước mà còn biến nước ta trở thành bãi rác với các máy móc thiết bị lạc hậu. Chính vì vậy hoạt động nghiên cứu thị trường trong hoạt động nhập khẩu cần phải được tăng cường và đẩy mạnh, từng bước hiện đại hóa phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế của thương mại thế giới, đặc biệt là thương mại điện tử. Xây dựng hệ thống thông tin dự báo thị trường; hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng cho các doanh nghiệp. 6. Cải thiện hoạt động vay vốn và quản lý vốn vay nước ngoài Hoạt động vay vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc tạo vốn cho nhập khẩu thiết bị công nghệ vào Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan có trách nhiệm chủ yếu trong việc định hướng và quản lý vốn vay nước ngoài của doanh nghiệp nhưng vẫn không tránh khỏi có nơi, có lúc chưa nắm vững thực tế, vì vậy chưa theo dõi chặt chẽ các hạn mức vay trả theo định kỳ, dẫn đến việc chính bản thân Ngân hàng chưa kế hoạch hóa được khả năng vay trả nợ cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài theo đúng và phù hợp các kỳ hạn trả nợ vay. Đây là điều mà Nhà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport ).pdf
Tài liệu liên quan