Tài liệu Luận văn Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nhằm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ..... 
KHOA .... 
Luận văn 
Thực trạng, giải pháp và 
kiến nghị nhằm triển khai 
nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị 
điện tử tại Công ty cổ phần 
bảo hiểm bưu điện 
 1 
LỜI NÓI ĐẦU 
Sắp bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của nền khoa học kĩ thuật đang phát 
triển với tốc độ nhanh chóng. Đất nước ta ngày càng hoà nhập hơn vào xu thế 
tiến bộ đó của thế giới, với những bước đi công nghiệp hoá, hiện đại hoá để 
trang bị cho cơ sở vật chất của chúng ta ngày càng tiên tiến hơn hiện đại hơn 
.Nhờ có chính sách đổi mới đúng đắn ấy của nhà nước về công nghệ thông tin 
và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt nam mà hiện nay chúng ta đã 
có một số thiết bị điện tử được sử dụng ngày càng nhiều vào các ngành như : 
Phát thanh truyền hình, Bưu chính viễn thông, các viện nghiên cứu, các bệnh 
viện lớn, các nhà máy xí nghiệp... Chúng ta đang thừa hưởng những công 
nghệ hiện đại vào cuộc sống và công việc hàng ngày thì cũng tồn tại song 
song với chí...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
93 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nhằm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ..... 
KHOA .... 
Luận văn 
Thực trạng, giải pháp và 
kiến nghị nhằm triển khai 
nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị 
điện tử tại Công ty cổ phần 
bảo hiểm bưu điện 
 1 
LỜI NÓI ĐẦU 
Sắp bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của nền khoa học kĩ thuật đang phát 
triển với tốc độ nhanh chóng. Đất nước ta ngày càng hoà nhập hơn vào xu thế 
tiến bộ đó của thế giới, với những bước đi công nghiệp hoá, hiện đại hoá để 
trang bị cho cơ sở vật chất của chúng ta ngày càng tiên tiến hơn hiện đại hơn 
.Nhờ có chính sách đổi mới đúng đắn ấy của nhà nước về công nghệ thông tin 
và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt nam mà hiện nay chúng ta đã 
có một số thiết bị điện tử được sử dụng ngày càng nhiều vào các ngành như : 
Phát thanh truyền hình, Bưu chính viễn thông, các viện nghiên cứu, các bệnh 
viện lớn, các nhà máy xí nghiệp... Chúng ta đang thừa hưởng những công 
nghệ hiện đại vào cuộc sống và công việc hàng ngày thì cũng tồn tại song 
song với chính nó là các rủi ro có thể xảy ra đối với các công nghệ đó . Chẳng 
hạn nếu giả sử hệ thống bưu chính viễn thông sử dụng các thiết bị điện tử mà 
gặp sự cố như sét đánh hoặc điều khiển sai kĩ thuật thì thiệt hại rất là to lớn vì 
các thiết bị này có đặc điểm là phải nhập ngoại với giá trị rất cao so với thu 
nhập của chúng ta . Để khắc phục những rủi ro có thể xảy ra thì bảo hiểm 
thiết bị điện tử ra đời như một nhu cầu tất yêú giúp các tổ chức, cơ quan, xí 
nghiệp... yên tâm, tin tưởng để sử dụng các thiết bị điện tử cho công việc của 
mình . 
Ở Việt nam, có thể coi bảo hiểm thiết bị điện tử là một trong những 
nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ mới nhất và đây là một nghiệp vụ khá phức 
tạp đòi hỏi kĩ thuật cao trong các công đoạn và trong cách tính phí... Do vậy 
nghiên cứu nghiệp vụ này là rất cần thiết đối với những người làm công tác 
bảo hiểm. Xuất phát từ cơ sở thực tiễn đó, nên trong quá trình thực tập tại 
công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện em đã chọn đề tài: “Thực tế triển khai 
nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện” 
Nội dung đề tài gồm một số phần chính như sau : 
Phần I: Những vấn đề lí luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị 
điện tử 
Phần II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại 
công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện 
Phần III: Một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng nghiệp 
 2 
vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. 
Phần I 
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ 
BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ 
A> KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ 
1-Sự cần thiết phải bảo hiểm thiết bị điện tử 
a-Khái niệm về thiết bị điện tử 
Thiết bị điện tử là các loại thiết bị có chứa linh kiện bán dẫn và các mạch 
điện tử, thông thường các thiết bị này không phải thực hiện phải thực hiện bất 
kỳ hoạt động cơ khí nào. Các hoạt động như truyền và lưu trữ thông tin đo 
lường và điều khiển, thử nghiệm, thẩm định và báo động đều do thiết bị điện 
tử thực hiện.Với ưu điểm là có tốc độ truyền cực nhanh và chính xác tuyệt 
đối, kích cỡ các linh kiện rất nhỏ, do đó chúng trở nên rất quan trọng trong 
mọi lĩnh vực của cuộc sống. Đơn giản lấy ví dụ như kĩ thuật điện tử được ứng 
dụng vào giải quyết vấn đề nghiêm trọng là nạn giao thông mật độ cao .Thông 
qua kĩ thuật máy tính, kĩ thuật điện tín và các kĩ thuật khác lắp trên ô tô và 
dọc đường để đạt được mục đích cải thiện tình hình an toàn giao thông và 
nâng cao khả năng giao thông trên đường. Hiện nay do mật độ xe cộ dày đặc 
mà mỗi năm Mỹ thiệt hại về kinh tế lên tới 100 tỷ đô la, số người chết do tai 
nạn giao thông mỗi năm tới 41.000 người và 5 triệu người bị thương. 
Các thiết bị điện tử cho phép tự động hoá trong các quả trình công nghệ 
và kiểm tra sản phẩm ở các xí nghiệp dệt ,nhà máy chế tạo mô tơ, hoá chất 
trong hầm mỏ, nhà máy đóng tàu. Các thiết bị điện tử trực tiếp làm tăng năng 
xuất lao động ,nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện điều kiện làm việc. 
Chẳng hạn, trong việc học ngoại ngữ chỉ cần dùng máy vi tính và hệ thống loa 
âm thanh ta có thể nghe chính xác như người nước ngoài nói mà không phải 
có giáo viên trực tiếp dạy . 
Ta có thể áp dụng những thành tựu của điện tử trong những thiết bị sử 
dụng hàng ngày như vô tuyến truyền hình, máy ghi âm máy thu thanh. Ngoài 
 3 
ra do sử dụng cáp quang và hệ thống vệ tinh mà khả năng liên lạc toàn cầu sẽ 
được thực hiện một cách dễ dàng khả năng lựa chọn bất cứ chương trình vô 
tuyến và radio hoậc thậm chí thực hiện chương trình riêng từ băng ghi hoặc 
phím, khả năng thu tại nhà những bản in như; tin tức báo chí, những tư liệu 
khác nhau từ trung tâm tính toán . 
Để tìm hiểu một cách chi tiết về thiết bị điện tử phục vụ cho đề tài này, 
có thể phân loại thiết bị điện tử ra làm các loại như sau: 
- Các thiết bị EDP (Electronic Data processing) và các thiết bị điện tử 
dùng trong văn phòng (máy vi tính, máy tính trung tâm), các thiết bị ngoại vi 
như máy in, máy đếm, máy photocopy, máy chiếu... 
-Thiết bị viễn thông: thiết bị điện thoạI (ở các tổng đài điện tử), thiết bị 
truyền xa (hệ thống telex,selex .. .) 
- Thiết bị thu thanh truyền hình: các thiết bị rada, trạm vệ tinh mặt đất, 
các bộ kính thiên văn..., camêra truyền hình, thiết bị ghi hình, thiết bị tạo 
hình, phòng ghi và sao video. 
 - Thiết bị chiếu sáng và thiết bị hàng hải: thiết bị đèn chiếu, đèn pha, 
đèn huỳnh quang, các hệ thống tín hiệu, các hệ thống vô tuyến điện thoại và 
thiết bị hàng hải bằng điện tử . 
- Thiết bị y tế: thiết bị tia X quang dùng cho chẩn đoán, thiết bị bức xạ 
đẳng hướng dùng để trị liệu, thiết bị phân tích dùng trong y học ... 
- Các bộ truyền dẫn và phát tín hiệu: các hệ thống báo động ,hệ thống 
đồng hồ đo, máy dò tìm và các hệ thống liên lạc bên trong. 
Vì phạm vi bài viết có hạn, nên em chỉ đi sâu vào các thiết bị mà thực tế 
công ty Bảo hiểm Bưu điện (gọi tắt là PTI) đã triển khai về nghiệp vụ. Đó là 
thiết bị EDP, thiết bị viễn thông, thiết bị thu phát thanh, truyền hình. 
b, Sự cần thiết phải bảo hiểm thiết bị điện tử : 
Bước vào thế kỉ 21, sự phát triển của khoa học kĩ thuật sẽ là vấn đề then 
chốt cho sự đI lên của thế giới văn minh. Các máy móc thiết bị đa số liên 
 4 
quan đến điện tử, từ các máy tính cá nhân cho đến những vệ tinh đang bay 
quanh trái đất của chúng ta. Do đó đòi hỏi phải có sự đảm bảo về mặt tài 
chính nhằm tiến triển liên tục nhanh chóng và có hiệu quả . 
Các rủi ro được bảo hiểm trong bảo hiểm thiết bị điện tử cũng rất đa 
dạng, từ các rủi ro thiên tai: mưa, bão, lụt ... cho tới các rủi ro do con người 
gây ra như: sai lầm trong thiết kế, sai lầm của người điều khiển, hành động 
phá hoại ... chỉ cần một sai sót nhỏ, có thể rất nhỏ xảy ra cũng có thể dẫn đến 
nhứng hậu quả to lớn không thể lường trước được . Nó gây tác hại không chỉ 
cho một ngành hay một khu vực kinh tế quốc đân mà còn cho nhiều ngành 
nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau. Nó cũng có thể làm chậm hẳn lại sự tiến 
triển của một ngành khoa học. Đặc biệt ngày nay nhiều công trình, máy móc, 
thiết bị với các chức năng tự động hoá, chuyên môn hoá cao, có giá trị rất lớn. 
Nếu tai nạn xảy ra có thể dẫn tới thiệt hại to lớn, thậm chí có thể dẫn đến phá 
sản. 
Cũng giống như loại hình bảo hiểm khác, bảo hiểm thiết bị điện tử nhằm 
ổn định hoạt động của các tổ chức kinh tế trong trường hợp chẳng may gặp 
các rủi ro nói trên. Với việc thu phí bảo hiểm của nhiều tổ chức kinh tế và cá 
nhân có liên quan trong xã hội để lập qũi bảo hiểm và quan hệ tái bảo hiểm có 
đủ khả năng bồi thường ngay tổn thất cho người được bảo hiểm, cho dù tổn 
thất có lớn tới mức nào đi chăng nữa, giúp họ nhanh chóng khắc phục hậu quả 
tổn thất, khôi phục sản xuất kinh doanh và đời sống. 
Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, mỗi tổ chức, đơn vị, xí nghiệp 
đều phảI tự chủ về mặt tài chính và chủ động trong kinh doanh. Với cơ sở vật 
chất sẵn có của mình, họ phải lo liệu làm sao sản xuất kinh doanh đạt được 
hiệu quả cao nhất. Cơ chế mới đó vừa thúc đẩy sự phát triển sản xuất của các 
xí nghiệp, mặt khác đòi hỏi các xí nghiệp phải tự chủ hơn trong sản xuất kinh 
doanh vì với việc xoá bỏ cơ chế bao cấp, các xí nghiệp sẽ không được Nhà 
nước trợ cấp trong các trường hợp làm ăn không có hiệu quả hoặc không may 
gặp phải rủi ro làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh. Điều đó, buộc các 
doanh nghiệp phải quan tâm đến vấn đề bảo hiểm. Nếu tham gia bảo hiểm, trong 
trường hợp gặp phải các rủi ro gây ra thiệt hại tới tài sản, tiền vốn của họ thì bảo 
 5 
hiểm sẽ bồi thường kịp thời các tổn thất đó, giúp người được bảo hiểm giải quyết 
ngay khó khăn về mặt tài chính, không cần xin ngân sách nhà nước trợ cấp. 
Căn cứ vào điều kiện tài chính của mình, chỉ với một khoản phí bảo hiểm rất 
nhỏ trả cho người bảo hiểm, khi gặp tổn thất người được bảo hiểm sẽ nhận 
được khoản tiền bồi thường của người bảo hiểm và sẽ chủ động nhanh chóng 
khôI phục ,đưa sản xuất kinh doanh trở lại bình thường . 
Ngoài ra, khi tiến hành bảo hiểm thiết bị điện tử Người bảo hiểm cùng 
với các ngành, các cơ quan hữu quan khác phối hợp tiến hành công tác đè 
phòng, hạn chế tổn thất nhằm ngăn chặn có hiệu quả các rủi ro có thể gây ra 
thiệt hại đối với tài sản, con người. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm thiết bị 
điện tử, các biện pháp đề phòng, chữa cháy, kiểm tra, giám định các thiết bị 
máy móc, đóng vai trò quan trọng. Theo thông lệ, trước khi tiến hành bảo 
hiểm, người bảo hiểm phải theo rõi, kiểm tra và đánh giá mức độ rủi ro của 
đối tượng được yêu cầu bảo hiểm, trên cơ sở đó sẽ đóng góp kịp thời cho 
người được bảo hiểm các biện pháp cần thiết để hạn chế kha năng xảy ra các 
rủi ro gây nguy hại cho tài sản được bảo hiểm. 
c,Vai trò và tác dụng của bảo hiểm thiết bị điện tử 
Bảo hiểm thiết bị điện tử (Electronic Equipment Insurance-EEI) có một 
số ưu điểm so với các loại hình bảo hiểm khác như : 
Một là, EEI đưa ra khái niệm bảo hiểm rộng rãi nhất trong ngành bảo 
hiểm. Dựa trên đơn bảo hiểm mọi rủi ro với rất ít các điều kiện loại trừ ,nó 
bảo đảm việc bồi thường sau khi tổn thất hay hư hỏng, thậm chí cả trong các 
trường hợp không đáng quan tâm hay không quan trọng đối với tài sản khác 
ví dụ như việc vận hành không có chuyên môn, dao động điện áp, ám khói 
,ẩm ướt và nổ đèn chân không .Tuy nhiên ,các hiểm hoạ ấy đã gây ra một rủi 
ro rất nghiêm trọng cho thiết bị điện tử có độ nhạy cảm về tần số và tính khốc 
liệt. Cũng như vậy, một nguyên nhân tương đối nhỏ nhưng cũng có thể ảnh 
hưởng lớn về tài chính đối với tính liên tục của hoạt động kinh doanh bởi vì 
các hoạt động này có thể hoàn toàn phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của 
“trái tim" thiết bị điện tử . 
 6 
Hai là, điều khoản tiêu chuẩn trong bảo hiểm thiết bị điện tử có đưa ra 
điều kiện hoàn trả tiền trên cơ sở giá trị thay thế mới. Điều này đã đặt người 
được bảo hiểm vào một vị trí sẵn có nguồn tiền đầy đủ để thay thế ngay lập 
tức và không có sự khấu trừ thông thường theo điều kiện “mới thay cũ" . 
Ba là, Bảo hiểm thiết bị điện tử mở rộng cả với thiệt hại mọi lĩnh vực 
phần mềm và sự ứng dụng của nó. Ngày nay ,dữ liệu gốc và dữ liệu giao dịch 
được lưu trữ vào máy tính là nguồn thông tin phổ biến của mỗi công ty do đó 
cả phần mềm và dữ liệu là những tài sản rất có giá trị đối với mọi doanh 
nghiệp. Sự tồn tại và tính chính xác của chúng bị đe doạ bởi rất nhiều rủi và 
hiểm hoạ đa dạng khi so sánh với chính thiết bị đó . 
Các hoạt động có thể bị gián đoạn cho tới khi việc phục hồi đầy đủ thông 
tin được tiến hành. 
Bốn là, để chiều theo ý khách hàng, bảo hiểm thiết bị điện tử có thể thay 
đổi phù hợp với từng nhu cầu thông qua các bản sửa đổi bổ xung và cơ cấu 
định giá rủi ro. 
2. Lịch sử phát triển bảo hiểm thiết bị điện tử 
a) Khái quát về lịch sử bảo hiểm kĩ thuật 
So với các loại hình bảo hiểm khác như: Bảo hiểm hàng hải ,bảo hiểm 
cháy... thì bảo hiểm kĩ thuật ra đời chậm hơn. Có thể nói rằng: Bảo hiểm kĩ 
thuật ra đời cùng với sự xuất hiện của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và 
chính sự phát triển của khoa học kĩ thuật là động lực thúc đẩy sự lớn mạnh 
không ngừng của lĩnh vực bảo hiểm này. Ta có thể đưa ra một vàI số liệu để 
so sánh như sau: 
 - Bảo hiểm cháy ra đời từ năm 1667 
 - Bảo hiểm hàng hải ra đời vào năm1687 
 - Đơn bảo hiểm kĩ thuật đầu tiên xuất hiện vào năm 1859 
Đó là đơn bảo hiểm về máy móc và năm 1859 xuất hiện đơn bảo hiểm 
đầu tiên cho nồi hơi. 
 7 
Tuy sinh sau đẻ muộn hơn so với các loại hình bảo hiểm khác, nhưng với 
sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong thế kỷ 20 này, 
bảo hiểm kĩ thuật cũng đã tiến được những bước dài quan trọng và trở thành 
một trong những loại hình bảo hiểm quan trọng nhất hiện nay. Trong năm 
1972, tổng số phí BHKT tại CHLB Đức chỉ đạt 567 triệu DM, nhưng năm 
1981 đã tăng lên tới 1294 triệu DM 
BHKT hiện nay đã xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của hoạt động 
kinh tế, khoa học trên toàn thế giới, từ việc bảo hiểm các máy móc trong các 
xí nghiệp sản xuất ,các dụng cụ tinh vi trong y tế, trong các phòng thí nghiệp 
cho tới việc bảo hiểm cho công trình xây lắp khổng lồ, các công tá lắp ráp 
máy bay, tàu biển cỡ lớn và cho cả con tàu vũ trụ... công ty Munich Re, một 
công ty tái bảo hiểm đứng đầu thế giới,là một trong những công ty đã sáng lập 
và phổ biến rộng rãi loại hình bảo hiểm này cùng với các công ty khác trên thị 
trường bảo hiểm Lon don -trung tâm bảo hiểm thế giới. 
b) Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm thiết bị điện tử 
Bảo hiểm thiết bị điện tử là một nghiệp vụ bảo hiểm tuy ra đời muộn hơn 
so với các loại hình bảo hiểm khác nhưng đã phát triển rất nhanh và chiếm 
một tỷ lệ lớn trong doanh thu phí bảo hiểm kĩ thuật. Gọi là ra đời muộn nhưng 
nhìn lại lịch sử phát triển của loại hình bảo hiểm này, chúng ta thấy nó cũng 
đã có trên 70 năm phát triển. 
Từ những năm 20 của thế kỉ này đã xuất hiện những hợp đồng bảo hiểm 
thiết bị điện tử như là những phần bổ xung cho các hợp đồng thuê mướn và 
bảo dưỡng thiết bị .Vào năm 1921 công ty chuyên về bảo hiểm thiết bị điện tử 
đầu tiên trên thế giới đã được thành lập . 
Với nguồn gốc của nó trong những năm 1920 ở Đức, bảo hiểm điện áp 
thấp, như tên gọi của nó sau đó được bắt đầu như một loại hình bảo hiểm 
chuyên biệt cho thiết bị điện thoại, chủ yếu là để bảo vệ các công ty thuê bao 
điện thoại chống lại ảnh hưởng về mặt tài chính có tính chất hậu quả của tổn 
thất hay hư hỏng thiết bị. 
 8 
Trong những năm 30, phạm vi vủa những thiết bị được bảo hiểm được 
mở rộng bao gồm các hệ thống loa chuyên dùng, hệ thống tín hiệu ánh sáng 
và hệ thống báo cháy cũng như các thiết bị viễn thông khác, tiếp đến là xuất 
hiện của thế hệ máy tính điện tử . 
 Công nghệ máy tính hiện đại đã phát triển và được hoàn chỉnh bởi 
KONZADZNSE tai Đức vào năm 1941. Trong cùng thời gian đó ở Mỹ ,hình 
thành chuỗi máy tính điều khiển tự động, bước tiếp theo là sử dụng các ống 
điện tử cho việc tính toán. Máy tính lớn nhất ENIAC là một hệ thống khổng 
lồ với hơn 18000 ống điện tử, 1500 thiết bị ngoại vi khác và có mức tiêu thụ 
trên 150KW. Sau đó là một chương trình ghi nhớ được phát hiện bởi nhà toán 
học John Newman trong năm 1948. 
Cho đến năm 1950, có sự thay thế các ống điện tử bằng transito và diot. 
Từ trước đến năm 1960 vi mạch điện tử mở đường cho “cách mạng công 
nghiệp lần thứ 3" 
Tiếp đến năm 1970: những yếu tố rủi ro mới xuất hiện đòi hỏi phải có những 
điều kiện bảo hiểm mới dẫn đến sự ra đời đơn bảo hiểm thiết bị điện tử (EEI). 
Năm 1980 EEI trở thành hợp đồng bảo hiểm được yêu cầu nhiều nhất 
trong lĩnh vực bảo hiểm kĩ thuật. 
Không còn nghi ngờ gì nữa, sự phát triển nhanh chóng của ngành công 
nghiệp điện tử trong thế kỉ 20 cùng với sự xâm nhập có nhiều đổi mới của loại 
hình bảo hiểm thiết bị điện tử đã tạo ra loại hình bảo hiểm chuyên dụng này 
có tầm quan trọng hiện nay của thế giới bảo hiểm. Ngày nay nhiều doanh 
nghiệp không thể cạnh tranh khi thiếu vô số các loại công nghệ mà nghành 
điện tử cung cấp và trong trường hợp tổn thất hay hư hỏng thiết bị điện tử của 
mình nhiều công ty có thể không có khả năng tồn tại lâu dài. Tình hình này đã 
có lợi cho sự phát triển của loại hình bảo hiểm thiết bị điện tử trong quá khứ 
và sẽ phát triển liên tục trong nhiều năm tới . 
Hiện nay theo ước tính thì tại thị trường bảo hiểm đức, một thị trường 
được coi là phát triển nhất vê bảo hiểm kĩ thuật nói chung và bảo hiểm thiết bị 
điện tử nói riêng. Năm 1992 ở đức ,bảo hiểm thiết bị điện tử đã tạo ra doanh 
 9 
thu phí bảo hiểm vượt hơn 450.000.000 U S D chiếm gần 33% tổng doanh thu 
phí bảo hiểm kĩ thuật . 
Ở Việt nam, bảo hiểm thiết bị điện tử đến thời điểm này có thể coi là một 
trong những sản phẩm mới nhất được tổng công ty bảo hiểm Việt Nam 
(Baoviet) nghiên cứu triển khai bắt đầu vào tháng 10 năm 1996 
3. Một số điều kiện thuận lợi của Việt nam trong việc hình thành và 
phát triển nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử 
 Để hình thành và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử không 
thể đơn thuần áp dụng một cách máy móc, một sự tiếp thu thiếu chọn lọc từ 
nhiều nước trên thế giới mà ngoài tính lí thuyết đầy thuyết phục thì xuất phát 
điểm thứ hai đó là tình hình thực tế, nó có phù hợp có khả thi hay không. 
Cũng một nghiệp vụ bảo hiểm nhưng chỉ có thể thành công ở nước này nhưng 
lại hoàn toàn không triển khai được ở nước khác, điều này cũng chính là do 
điều kiện nội tại của bản thân mỗi nước, có đặc điểm và ưu thế riêng .Các 
điều kiện đó chính là: điều kiện về kinh tế, điều kiện về dân số và điều kiện về 
môi trường pháp lí. Ở Việt nam các điều kiện đó như sau : 
a,Điều kiện về kinh tế 
Kinh tế là một trong những biểu thức quan trọng nhất ảnh hưởng trực 
tiếp đến quá trình phát triển nghiệp vụ này. Khi một nền kinh tế nghèo nàn thì 
điều kiện đầu tư cho cơ sở vật chất sẽ không được trang bị hiện đại do đó sẽ 
không có bảo hiểm thiết bị điện tử. Nhưng thực tế là ở Việt nam kinh tế chưa 
phải là phát triển song những gì mà nền kinh tế đã đạt được như hiện nay quả 
là một điều kiện hết sức thuận lợi cho nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử phát 
triển. 
Sau khi có chính sách đổi mới về kinh tế, mở cửa ra thị trường thế giới 
thì thị trường việt nam về công nghệ thông tin đã được khởi sắc từ đầu những 
năm 90. Bước khẳng định cho sự phát triển thị trường này là tác động vĩ mô 
của nhà nước về chính sách công nghệ thông tin. Ngày 7 tháng 4 năm 1993 
chính phủ ban hành Nghị định 49/CP xác định chính sách, quan điểm và mục 
tiêu của việc phát triển công nghệ thông tin đến năm 2000 . 
Các công ty máy tính tầm cỡ thế giới bắt đầu bước vào thị trường Việt 
Nam như Compaq, IBM, ACER ... 
 10 
Một yếu tố hết sức thuận lợi nữa là khi nền kinh tế Việt nam có mức độ 
tăng trưởng cao và ổn định thì đi đôi với nó là yêu cầu phục vụ về thông tin, 
phục vụ về sức khoẻ cho người dân, phục vụ sinh hoạt giải trí hết sức được 
quan tâm. Đó là các nghành như: truyền hình,thiết bị phục vụ y tế, các trung 
tâm điện tử, viện nghiên cứu... bắt buộc phải có các thiết bị điện tử có giá trị 
lớn nhập từ nước ngoài về. Do đó muốn bảo đảm cho chúng trong điều kiện 
hết sức phức tạp ở Việt nam, các cơ quan như truyền hình bệnh viện, bưu 
điện, phải tham gia nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. 
Bảng 1:Minh hoạ về tốc độ tăng trưởng GDP của Việt nam trong thời gian 
1994-1998 
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 
Tốc độ tăng trưởng(%) 8,8 9,5 9,3 9,0 6,1 
 Môi trường kinh tế nói chung đang tạo điều kiện thuận lợi cho những 
nước kém phát triển như Việt nam những cơ hội thuận lợi để mau chóng hội 
nhập vào mạng lưới thông tin quốc tế . Tính toàn cầu hoá của mạng lưới 
thông tin quốc tế biến bất cứ một quốc gia nào không phải là chiều đi hay 
chiều đến thì cũng trở thành nơi quá cảnh của các luồng thông tin và do đó 
việc nâng cao tính đồng bộ của hệ thống thông tin toàn cầu trở thành yêu cầu 
khách quan . Với một đất nước hơn 70 triệu dân, mặt bằng thông tin còn 
nhiều trống vắng nhưng lại có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, rõ ràng thị 
trường công nghệ thông tin Việt nam có sức hút lớn đối với các nhà đầu tư 
nước ngoài trong lĩnh vực này . Trong những năm gần đây, dưới tác động của 
chính sách đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã mở ra những nhu cầu to 
lớnvề thông tin trong hoạt động kinh doanh và mức sống của dân cư được 
nâng lên đã kéo theo những nhu cầu mới trong giao tiếp và trao đổi thông tin 
không những trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong đời sống tình cảm tinh thần 
và nâng cao kiến thức. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống 
đang và sẽ mở rộng thị trường công nghệ thông tin ngày càng lớn hơn . Đồng 
thời chính sách mở cửa và quá độ sang kinh tế thị trường còn hình thành một 
khuôn khổ thể chế mới cho các quan hệ hợp tác và đầu tư quốc tế phát triển 
hơn nữa, đặc biệt là thời kì sau khi quan hệ giữa Việt nam và Mỹ được bình 
thường hoá . Trong lúc đó, việc Việt nam trở thành thành viên chính thức của 
ASEAN, quan hệ kinh tế Việt nam với Nhật bản, với các nước EU và các 
 11 
quốc gia khác trên thế giới đang tiến triển tốt, đã giúp cho thị trường công 
nghệ thông tin có điều kiện không hạn chế trong việc tìm kiếm đối tác liên 
doanh đáp ứng kịp thời đòi hỏi của tình hình mới. 
b, Điều kiện về dân số : 
Dân số là một trong những vấn đề quan trọng, là cơ sở để công ty PTI dự 
đoán tiềm năng trong tương lai, những lỗ hổng của thị trường mà công ty 
chưa khai thác được. Do đó nghiên cứu dân số để tìm ra được thực tế của nó 
trên các mặt này sẽ là một trong những điều kiện tiên quyết giúp công ty 
thành công trên con đường kinh doanh bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ này nói 
riêng. 
Bảng 2 :Công nghệ thông tin và dân số các nước 
Stt Quốc gia Dân số (triệu 
người) 
Số máy tính/1000người 
1 Việt nam 72 0,5 
2 Trung quốc 1178 1,00 
3 Ấn độ 903 1,00 
4 Philipin 68 4,00 
5 Thái lan 59 9,00 
6 Hàn quốc 45 37,00 
7 Đài loan 21 74,00 
8 Nhật 125 97,00 
9 Hồng kông 6 101,00 
10 Singapo 3 125,00 
11 New Zealand 3 147,00 
12 Úc 18 192,00 
13 Mỹ 258 287,00 
Nguồn :PC WoRLD 12/1995 
Từ bảng trên cho ta thấy mức cầu của công nghệ thông tin một số nước 
trên thế giới. Qua bảng này ta thấy số máy vi tính /1000người dân của Việt 
nam là rất thấp, chứng tỏ rằng Việt nam còn là một thị trường công nghệ 
 12 
thông tin tiềm năng lớn. Do đó bảo hiểm trong lĩnh vực này có nhiều cơ hội 
để phát triển và đạt kết quả khả quan trong tương lai. 
c,Điều kiện môi trường pháp lí: 
Chúng ta không thể phủ nhận được tầm quan trọng của môi trường luật 
pháp đối với nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử . Một môi trường luật bảo 
hiểm thông thoáng ra đời sớm sẽ có nhiều ưu thế đối với các công ty bảo 
hiểm. Ở Việt nam bước đầu đã có được ưu thế đó : 
+ Từ cuối năm 1993 chính phủ Việt nam ban hành nghị định 100/CP 
định hướng phát triển thị trường bảo hiểm Việt nam với việc cho phép các 
thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm kể cả thành phần 
kinh tế tư nhân và nước ngoài. Cho phép các loại hình bảo hiểm tồn tại và 
phát triển bao gồm công ty bảo hiểm gốc, công ty chuyên tái bảo hiểm kể cả 
mạng lưới trung gian bảo hiểm (môi giới và đại lí ) 
Một môi trường như vậy sẽ tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm nói chung 
và bảo hiểm thiết bị điện tử nói riêng tồn tại và phát triển một cách ổn định và 
vững chắc . 
+ Bộ tài chính đã ban hành các văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thực 
hiện nghị định 100/CP (thông tư 46):qui định chế độ quản lí tài chính đối với 
doanh nghiệp bảo hiểm (thông tư 45):qui định chế độ hoa hồng bảo hiểm 
(thông tư 76 và 02 )qui định tái bảo hiểm bắt buộc (qui định 1235)hướng dẫn 
bảo hiểm các công trình xây dựng theo nghị định 117/CP(thông tư 105) 
+ Luật bảo hiểm đang được nghiên cứu và soạn thảo 
Các văn bản pháp qui khác liên quan đến hoạt động bảo hiểm đang được 
soạn thảo ,hoàn chỉnh sửa đổi bổ xung như :chế độ kế toán áp dụng cho các 
doanh nghiệp bảo hiểm ,luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam 
Tất cả những tình hình trên thể hiện một môi trường pháp lí tương đối ổn 
định và đang được hoàn thiện theo một định hướng phù hợp xu thế chung của 
thế giới. 
 13 
B- NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ 
I- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI BẢO HIỂM CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT 
BỊ ĐIỆN TỬ 
1- Đối tượng bảo hiểm 
Trong bảo hiểm thiết bị điện tử đối tượng bảo hiểm là các loại máy móc 
thiết bị điện tử (tức là những máy móc thiết bị có lắp cac mạch và các linh 
kiện điện tử )dùng trong các ngành các lĩnh vực khác nhau như bưu điện ,viễn 
thông, tin học, y tế, điện ảnh, phát thanh truyền hình ,hàng hải ,hàng không, 
khí tượng khoa học kĩ thuật vv..... 
2-Phạm vi bảo hiểm 
Phạm vi bảo hiểm thiết bị điện tử được chia ra làm 3 phần. Đó là bảo 
hiểm vật chất đối với các thiết bị điện tử, bảo hiểm cho phương tiện lưu trữ dữ 
liệu bên ngoài và bảo hiểm chi phí gia tăng. Người tham gia bảo hiểm có thể 
tham gia một hoặc cả 3 phần này và khi đó mức phí bảo hiểm và quyền lợi 
của người được bảo hiểm cũng phụ thuộc tương ứng vào việc lựa chọn các 
phạm vi bảo hiểm này. 
Phần I-Tổn thất vật chất đối với thiết bị 
Công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm những thiệt hại vật 
chất bất ngờ không lường trước xảy ra đối với thiết bị điện tử do các nguyên 
nhân như: cháy nổ, sét đánh trực tiếp hoặc gián tiếp, đoản mạch, nước, sơ 
xuất của người sử dụng và các sự cố ngẫu nhiên khác không bị loại trừ theo 
các điều kiện của đơn bảo hiểm . 
Ngoài ra, nếu các thiết bị điện tử đã được công ty PTI bảo hiểm theo 
phần I nói trên người được bảo hiểm có thể mua bảo hiểm thêm cho các phần 
II và III như đề cập dưới đây. 
Phần II:Phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài 
Công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm những chi phí để 
sửa chữa hoặc thay thế các phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài trong trường 
hợp chúng bị tổn thất do các rủi ro được bảo hiểm như qui ddịnh ở phần I gây 
 14 
ra và các chi phí để khôi phục lại những thông tin đã mất .Phần II chỉ có hiệu 
lực khi người được bảo hiểm tham gia cả phần I của đơn bảo hiểm này 
Phần III-Chi phí gia tăng 
Nếu hệ thống xử lí dữ liệu điện tử (EDP) bị tổn thất vật chất thuộc pham 
vi bảo hiểm, công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các chi phí 
cho việc tạm thời thuê mướn các thiết bị thay thế cũng như các chi phí về 
nhân công và các chi phí gia tăng khác theo qui định của Đơn bảo hiểm nhằm 
đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của người được bảo 
hiểm không bị gián đoạn khi tổn thất xảy ra. 
II-RỦI RO BẢO HIỂM VÀ NHỮNG ĐIỂM LOẠI TRỪ 
1-Rủi ro bảo hiểm 
Có thể nói rủi ro bảo hiểm là một trong những khái niệm cơ bản cùng 
với "bảo hiểm", "đối tượng bảo hiểm". Rủi ro bảo hiểm là yếu tố cấu thành 
phạm vi bảo hiểm, là tiêu chuẩn để xác định một sự cố có phải là sự cố bảo 
hiểm hay không. Và do đó, rủi ro bảo hiểm là khái niệm chi phối mạnh mẽ kết 
cục xử lí một khiếu nại bảo hiểm, một vấn đề tài chính -pháp lí tập trung và 
phức tạp nhất trong lĩnh vực bảo hiểm . 
Thiết bị bảo hiểm phải chịu rất nhiều yếu tố rủi ro có thể dẫn đến tổn 
thất. Một số rủi ro chính là :các rủi rỏ về kĩ thuật như: Cháy, nước, động đất, 
bão, sét đánh. 
Các yếu tố môi trường như :sự thay đổi về nhiệt độ, độ ẩm, khói bụi ... 
Tăng điện áp đột ngột ,chập mạch điện, hỏng hóc cơ học, lỗi do bất cẩn, cẩu 
thả của những người vận hành, phá ngầm trộm cắp . 
Tất cả các rủi ro thường hay xảy ra đối với thiết bị điện tử kể trên đều 
được bảo hiểm theo Đơn bảo hiểm thiết bị điện tử của PTI .Đơn bảo hiểm 
thiết bị điện tử là dạng đơn bảo hiểm mọi rủi do, chỉ không bảo hiểm những 
nội dung được ghi trong phần “các điểm loại trừ “Như vậy, có thể thấy phạm 
vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm này là rất rộng so với các loại đơn bảo hiểm 
khác có thể bảo hiểm cho loại hình tài sản này, ví dụ như đơn bảo hiểm cháy 
 15 
,nổ, sét đánh (trực tiếp) và một và rủi ro khác không điển hình đối với các 
thiết bị điện tử (như rủi ro do máy bay và các phương tiện hàng không khác 
rơi vào ; gây rối, bạo loạn, đình công, giông bão.... Nhưng hầu hết những rủi 
ro được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm cháy không phải là rủi ro điển hình cuả 
thiết bị điện tử. 
 16 
Bảng 3: Bảo hiểm cho các TBĐT 
(Các rủi ro chính được bảo hiểm theo các đơn BH khác nhau) 
Các rủi 
ro 
bảo hiểm 
Loại 
hình 
bảo hiểm 
Cháy (bao 
gồm cả các 
tổn thất phát 
sinh từ các 
công việc 
chữa cháy 
và cứu hộ) 
Sét 
đánh, 
nổ, đâm 
va của 
máy 
bay 
Cháy 
xém, 
cháy 
âm ỉ 
phủ bụi 
bồ 
hóng 
Thiệt hại 
do điện 
(đoản 
mạch, 
quá điện 
áp..) 
Trộ
m 
cắp 
Cướp 
bóc, phá 
hoại 
ngầm, 
hành 
động cố 
ý 
Rò rỉ 
nước 
Lũ 
lụt, 
ngập 
nước 
Vận 
hành 
sai (bất 
cẩn, 
cẩu thả, 
thiếu 
kỹ 
năng..) 
Bảo 
hiểm 
TBĐT 
  
  
  
  
  
  
  
  
  
BH Cháy 
  
Chỉ sét 
đánh 
trực 
tiếp, nổ 
hoá học 
BH 
Trộm 
 
BH thiệt 
hại do 
nước 
  
BH Máy 
móc 
 Chỉ sét 
đánh 
gián 
tiếp,nổ 
lý học 
  
  
  
  
  
2.Những điểm loại trừ 
a) Điểm loại trừ chung : 
 Công ty PTI không bồi thường những thiệt hại là hậu quả trực tiếp của 
sự hao mòn hay hư hỏng dần theo thời gian,chiến tranh và bạo lực, trộm cắp 
(trừ khi có thoả thuận riêng) hành động ác ý hoặc có chủ ý của người được 
bảo hiểm, phản ứng hạt nhân và nhiễm phóng xạ, lập chương trình sai, các chi 
 17 
phí để thực hiện công tác bảo dưỡng nhằm mục đích hạn chế và ngăn ngừa 
tổn thất và đảm baỏ cho các thiết bị hoạt động an toàn. 
b.Các điểm loại trừ riêng : 
Các điểm loại trừ riêng được áp dụng cho từng phần: 
 - Phần tổn thất vật chất đối với thiết bị 
 - Phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài 
 - Chi phí gia tăng 
Cụ thể ta đi vào từng phần : 
* Tổn thất vật chất đối với thiết bị điện tử : 
Công ty PTI sẽ không chịu trách nhiệm đối với: 
-Mức khấu trừ qui định trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm (gọi tắt là 
BTTĐKBH) mà người được bảo hiểm phải chịu trong mọi sự cố. Tuy nhiên 
nếu tronng một sự cố có 2 hạng mục trở lên bị tổn thất thì người được bảo 
hiểm chỉ chịu mức khấu trừ cao nhất trong các mức khấu trừ áp dụng cho các 
hạng mục bị tổn thất đó 
-Tổn thất trực tiếp hay gián tiếp gây nên bởi núi lửa động đất, sóng thần, 
gió xoáy và bão mạnh từ cấp 8 trở lên 
-Tổn thất trực tiếp hay gián tiếp do trộm cướp . 
-Tổn thất mà hậu quả của nó là do tác động như hao mòn ,nứt vỡ ,ăn 
mòn kim loại, mài mòn đóng cặn hoặc hư hỏng dần theo thời gian bởi các yếu 
tố bên ngoài tác động . 
- Tổn thất trực tiếp hay gián tiếp do các dịch vụ hoặc nguồn cung cấp ví 
dụ: điện nước, khí ga bị hỏng hóc. 
- Tổn thất do sự sai sót trong đơn bảo hiểm tại thời điểm có hiệu lực mà 
người được bảo hiểm nhận ra điều đó cho dù công ty PTI có nhận ra hay 
không. 
 18 
- Tổn thất thuộc trách nhiệm cuả các nhà chế tạo hoặc nhà cung cấp các 
hạng mục thiết bị được bảo hiểm theo qui định của pháp luật hoặc theo hợp 
đồng. 
- Bất cứ khoản phát sinh chi phí nào có liên quan đến việc bảo dưỡng 
cho các hạng mục được bảo hiểm 
- Bất cứ các chi phí nào bỏ ra có liên quan đến việc khắc phục những 
trục trặc về các chức năng hoạt động trừ khi các trục trặc đó là do một tổn thất 
có thể được bồi thường theo đơn bảo hiểm đó gây ra . 
- Tổn thất đối với các thiết bị cho thuê hay được thuê mà người chủ các 
thiết bị đó phải có trách nhiệm theo luật định hoặc theo một thoả thuận thuê 
mướn hay thoả thuận bảo dưỡng nào đó. 
-Tất cả các loại tổn thất có tính chất hậu quả. 
-Tổn thất đối với các bộ phận như bóng đèn, đèn điện tử, ống điện tử,ruy 
băng, cầu chì, vòng điện kín, dây đai (dây cu loa). Dây dẫn hoậc dây thép, 
xích, lớp cao su, các dụng cụ có thể thay đổi được, xi lanh, các vật bằng thuỷ 
tinh, gốm sứ, lưới lọc hoặc lưới thép hay bất kì chất liệu sử dụng nào (ví dụ 
như dầu bôi trơn, nhiên liệu, các loại hoá chất ) 
- Các khuyết tật ảnh hưởng đến thẩm mỹ, ví dụ :các vết tỳ xước trên bề 
mặt đã được sơn,đánh bóng hoặc tráng men . 
* Phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài : 
Công ty PTI thoả thuận với người được bảo hiểm rằng nếu các phương 
tiện EDM (phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoaì ghi trong bảng tóm tắt điều 
kiện bảo hiểm (bao gồm các thông tin lưu trữ trên đó mà các thông tin này có 
thể được xử kí trực tiếp trong các hệ thống EDP) bị bất kì một tổn thất vật 
chất nào có thể được bồi thường theo phần thiệt hại vật chất. Công ty PTI sẽ 
bồi thường những tổn thất đó với mức bồi thường trong bất cứ năm bảo hiểm 
nào cũng không vượt quá số tiền ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm 
với điều kiện là các tổn thất đó xảy ra trong thời hạn bảo hiểm ghi trong bảng 
tóm tắt điều kiện bảo hiểm hoặc trong bất cứ giai đoạn bảo hiểm nào tiếp theo 
 19 
mà người được bảo hiểm đã trả và công ty PTI đã nhận một khoản phí bảo 
hiểm để gia hạn cho đơn bảo hiểm đó . 
Tuy nhiên công ty PTI sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường : 
- Mức khấu trừ qui định trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm mà người 
được bảo hiểm phải chịu trong mọi sự cố. 
- Các chi phí phát sinh do lập chương trình,đục lỗ ghi nhãn hoặc chèn 
thông tin sai, xoấ thông tin do nhầm lẫn hoặc loại bỏ không dùng các phương 
tiện chứa dữ liệu hoặc mất thông tin do tác động của từ trường 
- Tất cả các loại tổn thất có tính chất hậu quả dưới bất kì hình thức nào 
*Chi phí gia tăng 
Công ty PTI thoả thuận với người được bảo hiểm rằng nếu tổn thất vật 
chất có thể được bồi thường theo phần thiệt hại vật chất của đơn bảo hiểm làm 
cho hoạt động của các thiết bị EDP thay thế (mà các thiết bị thay thế này chưa 
được bảo hiểm theo đơn) tuy nhiên mức bồi thường sẽ không vượt quá số tiền 
bảo hiểm tính theo ngày như đã thoả thuận và cũng không vượt quá tổng số 
tiền bảo hiểm ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm với điều kiện là việc 
gián đoạn đó xảy ra trong thời hạn bảo hiểm ghi trong bảng tóm tắt điều kiện 
bảo hiểm hoặc trong bất cứ giai đoạn nào tiếp theo mà người được bảo hiểm 
đã trả và công ty PTI đã nhận một khoản phí để gia hạn cho đơn bảo hiểm. 
Nhưng công ty PTI sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường cho bất cứ chi 
phí tăng thêm nào đó phát sinh do: 
- Có những qui định của hạn chế do các nhà chức trách ban hành liên 
quan đến việc thiết kế, chế tạo lại thiết bị EDP được bảo hiểm hoặc hoạt động 
của các thiết bị đó. 
- Người được bảo hiểm không có sẵn các quĩ cần thiết nhằm đáp ứng kịp 
thời việc sửa chữa hoặc thay thế các thiết bị hư hại hay phá huỷ 
III-SỐ TIỀN BẢO HIỂM VÀ PHÍ BẢO HIỂM 
1-Số tiền bảo hiểm 
 20 
Là giá trị tài sản được công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm ghi trong 
giấy chứng nhận bảo hiểm . Trong mọi trường hợp đó là giới hạn trách nhiệm 
tối đa của công ty bảo hiểm đối với tài sản được bảo hiểm bị thiệt hại 
Ở nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử số tiền bảo hiểm được áp dụng như 
sau: 
a. Bảo hiểm thiệt hại vật chất đối với các thiết bị điện tử: 
- Yêu cầu của loại hình bảo hiểm này là số tiền bảo hiểm của mỗi hạng 
mục không được thấp hơn giá trị thay thế mới đầy đủ của nó, bao gồm cả 
cước phí, thuế và các chi phí về hải quan và chi phí lắp đặt... và người được 
bảo hiểm phải cam kết điều chỉnh lại số tiền bảo hiểm trong trường hợp có bất 
kỳ biến động lớn nào về tiền lương hoặc giá cả. 
Trong trường hợp xảy ra tổn thất, nếu số tiền bảo hiểm được phát hiện 
thấp hơn số tiền cần phải được bảo hiểm như đề cập ở trên thì số tiền bồi 
thường sẽ được giảm tương ứng với tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm thực tế và số 
tiền lẽ ra cần phải được bảo hiểm như yêu cầu. Điều kiện này áp dụng riêng rẽ 
đối với từng hạng mục được bảo hiểm. 
Khi đã xác định được số tiền bảo hiểm, nên tiếp tục xem xét để cộng 
thêm vào số tiền bảo hiểm phần chi phí có thể gia tăng thêm về giá nguyên 
vật liệu hoặc tiền lương trong giai đoạn bảo hiểm đầu tiên. 
b.Bảo hiểm cho phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài. 
Số tiền bảo hiểm phải được xác định phù hợp với các chi phí cần thiết để 
thay thế tất cả các phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài và để phục hồi lại 
những thông tin đã được lưu trữ trên đó. Vì chỉ có thể ước tính các chi phí để 
phục hồi lại thông tin nên việc bảo hiểm cho các chi phí này dựa trên cơ sở 
tổn thấy đầu tiên (first loss) với một hạn mức bồi thường phải được ước tính 
hết sức kỹ càng trên cơ sở đánh giá tổn thất lớn nhất có thể xảy ra đối với các 
chi phí này. Không áp dụng điều khoản bảo hiểm dưới giá trị cho phần này. 
c. Bảo hiểm chi phí gia tăng. 
 21 
Số tiền bảo hiểm được xác định trên cơ sở các chi phí có thể bỏ ra tính 
theo ngày và tháng trong thời hạn 1 năm do phải sử dụng một hệ thống EDP 
thay thế. 
Các chi phí phát sinh thêm một lần nữa để lập trình và chuyên chở có thể 
được bảo hiểm theo điều khoản sửa đổi bổ sung tới một hạn mức được quy 
định riêng cũng trên cơ sở tổn thất đầu tiên. 
 22 
2. Nguyên tắc và phương pháp tính phí 
a. Nguyên tắc chung để xác định phí bảo hiểm 
 Để xác định phí bảo hiểm thiết bị điện tử, ta dựa trên cơ sở tỉ lệ phí và 
giá trị bảo hiểm. 
Phí bảo hiểm =Tỉ lệ phí * Số đơn vị giá trị bảo hiểm 
Khi tính phí bảo hiểm thiết bị điện tử thì trong phí phải chứa đầy đủ các 
yếu tố lạm phát, thay đổi giá cả... Cần tránh bảo hiểm dưới giá trị .Khi kết 
thúc một thời hạn bảo hiểm (1 năm), nếu NĐBH muốn tái tục hợp đồng thì 
người bảo hiểm phải xem xét điều chỉnh phí bảo hiểm cho phù hợp với giá trị 
của bảo hiểm. 
b.Phí bảo hiểm áp dụng cho phần thiệt hại vật chất đối với các thiết bị 
điện tử : 
Dưới đây là các mã số của từng chủng loại máy móc thiết bị điện tử sử 
dụng trong các ngành khác nhau : 
0100 Các hệ thống và thiết bị xử lí dữ liệu (EDP) 
0200 Thiết bị viễn thông 
0300 Thiết bị thu phát ,dùng trong phát thanh truyền hìnhvà thiết bị điện ảnh 
0400 Thiết bị chiếu sáng và thiết bị hàng hải 
0500 Thiết bị dùng cho nghiên cứu 
0600 Thiết bị điện tử dùng trong y tế 
0700 Bộ phận phát tín hiệu và truyền dẫn 
0900 Máy móc thiết bị dùng trong văn phòng 
1000 Bộ phận kiểm tra và ghi 
Đối với các hệ thống thiết bị xử lý dữ liệu (001), thiết bị viễn thông (002), 
thiết bị thu phát dùng trong phát thanh truyền hình (003) có biểu tỉ lệ phí bảo 
hiểm (trong phần phụ lục). 
Tỉ lệ phí đề cập trong biểu phí chỉ là tỉ lệ phí tối thiểu tương ứng với các 
điều kiện bảo hiểm cơ bản áp dụng với điều kiện rủi ro bình thường mà không 
có các yêú tố làm tăng mức độ hoặc khả năng rủi ro . 
 23 
Nếu có những yếu tố làm tăng mức độ và khả năng rủi ro thì phải tăng 
thêm phí (trong những trường hợp đó phải thông báo những thông tin cụ thể 
về công ty để công ty xem xét và quyết định ).Biểu phí này cũng áp dụng với 
thời hạn bảo hiểm tiêu chuẩn là một năm và với một mức khấu trừ tối thiểu, vì 
vậy nếu áp dụng thời hạn bảo hiểm ngắn hơn hoặc mức khấu trừ cao hơn thì 
có thể giảm phí . 
 Biểu phí được đề cập trong bảng phụ lục áp ụng đối với các thiết bị 
điện tử và phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài hoạt động và được bảo quản 
trong những điều kiện làm việc bình thường, tức là không có tình huống làm 
tăng thêm khả năng xảy ra rủi ro và tuổi của các thiết bị này không quá 7 
năm. 
* Phí bảo hiểm rủi ro động đất 
 Tỉ lệ phí cơ bản đề cập trong các biểu phí trên chưa kể đến rủi ro về 
động đất . Nếu bảo hiểm thêm rủi ro này thì phải cộng thêm phụ phí bảo hiểm 
như đề cập trong bảng dưới đây . 
Bảng 4: Tỷ lệ phí rủi ro do động đất Đơn vị : %o tính theo năm 
Độ nhạy cảm đối với rủi 
ro động đất 
Hệ số khả năng xảy ra động đất ở 
từng vùng 
0 1 2 
Loại C 
Loại D 
Loại E 
Loại F 
Loại G 
0 0.20 0.40 
0 0.25 0.45 
0 0.29 0.57 
0 0.35 0.68 
0 0.42 0.82 
Kí tự ghi trong bảng 
Kí tự Số tiền bảo hiểm (USD) 
C 17000 
D 35000 
E 85000 
F 170000 
G 350000 
 24 
Các rủi ro động đất, thiệt hại do sóng thuỷ triều gây ra do tác động của 
động đất và núi lửa phun là các rủi ro bị loại trừ trong đơn bảo hiểm chính. 
Nếu khách hàng yêu cầu bảo hiểm thêm các rủi ro này thì áp dụng ĐKSĐBS 
505 với hạn mức bồi thường không vượt quá 1000.000USD nhưng với điều 
kiện là thu thập đầy đủ các thông tin có liên quan như đề cập trong phiếu điều 
tra về rủi ro này. 
Nếu bảo hiểm thêm những rủi ro này thì phải tính thêm phụ phí vì tỉ lệ 
phí cơ bản ghi trong biểu phí chưa tính đến những rủi ro này. Phụ phí cho các 
rủi ro này áp dụng cho phần thiệt hại vật chất đối với thiết bị điện tử và bảo 
hiểm phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài. 
Theo bản đồ của khu vực động đất của Munich Re các khu vực trên trái 
đất được chia thành 5 khu vực : Từ 0 đến 4. 
Khu vực có rủi ro động đất tăng dần theo thứ tự, chẳng hạn khu vực có 
rủi ro động đất mức độ 0 là hầu như không có động đất xảy ra và cấp động đất 
là V và dưới V tính theo độ Mercalli đã được sửa đổi . 
Khả năng xảy ra động đất ở mỗi vùng là khác nhau, ví dụ ở Việt nam có 
3 vùng xảy ra động đất như : Đà nẵng , Hà nội, Lai châu (theo bản đồ thì các 
tỉnh miền bắc Việt nam thuộc khu vực có rủi ro động đất là 1 tức là ít xảy ra 
động đất). 
* Phí bảo hiểm các rủi ro lốc, xoáy, gió giật và bão lớn (mạnh trên cấp 8) 
 Tỉ lệ phí cơ bản đề cập ở trên cũng chưa tính đến các rủi ro này, nếu 
bảo hiểm thêm thì phải tính thêm phụ phí theo bảng sau . 
Bảng 5: Tỷ lệ phí rủi ro do thiên tai Đơn vị : %o tính theo năm 
Địa điểm các hạng mục 
được bảo hiểm 
Cấp độ gió bão theo từng vùng 
1 2 3 
Đặt trong nhà 
Đặt ngoài trời 
0.1 0.80 1.5 
0.40 TCT TCT 
Khu vực 1: cấp độ thấp 
 25 
Khu vực 2: cấp độ trung bình 
Khu vực 3: cấp độ cao 
 Mức TCT có nghĩa là địa điểm các hạng mục được bảo hiểm đặt ngoài 
trời và có gió bão từ cấp 2 trở lên vì vậy phải thông báo về công ty để công ty 
quyết định. 
Thông thường mức độ tác động của gió bão đối với các vùng ven biển 
được coi là cao còn ở các vùng sâu vào đất liền thì thấp hoặc trung bình. 
Tỉ lệ phí cho trong bảng trên chỉ áp dụng nếu các hạng mục được bảo 
hiểm đặt ở các khu vực có độ cao cao hơn mực nước cao nhất đã thống kê 
được ở khu vực đó kể từ khi bắt đầu hiệu lực bảo hiểm trỏ về trước. 
Nếu các thiết bị điện tử đặt ở độ cao bằng hoặc thấp hơn so với qui định 
trên thì không được tự động chấp nhận bảo hiểm các rủi ro này mà phải xin ý 
kiến chỉ đạo của công ty PTI. 
c.Phí bảo hiểm áp dụng đối với phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài 
.Tỉ lệ phí cơ bản 
Đây là tỉ lệ phí tối thiểu ứng với các điều kiện bảo hiểm cơ bản của đơn 
bảo hiểm và được áp dụng đối với số tiền bảo hiểm tổn thất đầu tiên (first 
loss) mà người được bảo hiểm phải kê khai cụ thể trong bản trả lời câu hỏi 
như đề cập ở phần sau. 
Phần tiền bảo hiểm đối với các phương tiện lưu trữ này phải tương ứng 
với chi phí khôi phục lại các phương tiện này. 
Chi phí toàn bộ ước tính cho việc khôi phục lại các thông tin hiện tại từ 
các văn bản gốc và /hoặc chí phí ước tính để chuyển dữ liệu sang phương tiện 
lưu trữ mới nếu như có các bản sao phải tương ứng với phần tiền bảo hiểm 
trên cơ số tổn thất đầu tiên (first loss) để bảo hiểm cho việc khôi phục lại các 
thông tin được lưu trữ trên các phương tiện được bảo hiểm. 
Tỉ lệ phí cơ bản áp dụng đối với số tiền bảo hiểm với điều kiện số tiền 
bảo hiểm không vượt quá 700.000 USD hoặc tương đương với mức khấu trừ 
thông thường được tính bằng phần nghìn số tiền thiệt hại như đề cập trong 
Bảng dưới đây nhưng không được thấp hơn 700USD hoặc tương đương. 
 26 
Bảng 6: Nếu tăng mức khấu trừ thì tỉ lệ phí có thể được giảm như sau : 
Mức khấu trừ tăng 5 lần 10 lần 
Tỉ lệ phí giảm 5% 10% 
* Tăng và giảm phí : 
Việc tăng hoặc giảm tỷ lệ phí cơ bản phụ thuộc vào các điều kiện rủi ro 
đề cập đến trong bản trả lời câu hỏi. Việc tăng hoặc giảm phí đối với phần bảo 
hiểm thiệt hại vật chất đối với các hệ thống xử lý dự liệu điện tử (EDP) cũng 
áp dụng cho phần bảo hiểm các phương tiện lưu trữ bên ngoài (mất thông tin) 
một cách thính hợp. 
Cũng có thể giảm phí trong trường hợp các thông tin, dữ liệu sự phòng 
được lưu trữ trong các phòng có khả năng chống cháy 
Nơi lưu trữ trong phòng đặt thiết bị EDP bên ngoài phòng đặt thiết bị 
EDP 
Tỷ lệ giảm phí 5% 10% 
c. Phí bảo hiểm cho phần bảo hiểm chi phí gia tăng đối với các hệ thống 
có sử dụng máy tính 
Chỉ có thể nhận bảo hiểm phần này nếu sau khi hệ thống EDP bị tổn thất 
vật chất có thể được bồi thường theo phần bảo hiểm thiệt hạI vật chất mà vẫn 
có thể tránh được những tác động bất lợi hoặc gián đoạn hoạt động kinh 
doanh bằng các biện pháp sau : 
- Sử dụng hệ thống xử lí dữ liệu của một bên thứ ba (trên cơ sở một thoả 
thuận đã kí trước khi bảo hiểm có hiệu lực ) 
- Tăng cường thêm việc sử lí dữ liệu bằng tay 
- Sử dụng lao động dịch vụ sản xuất của một bên thứ ba 
* Xác định số tiền bảo hiểm 
Số tiền bảo hiểm (Theo năm) phải ngang bằng với số tiền có thể phải bỏ 
ra trong phạm vi 12 tháng cho các chi phí gia tăng được bảo hiểm ngay cả khi 
 27 
người được bảo hiểm lựa chọn thời gian bảo hiểm ngắn hơn. Phải ấn định 
riêng số tiền bảo hiểm ứng với mỗi hệ thống EDP độc lập. 
Số tiền bảo hiểm tính theo năm bao gồm: 
Chi phí gia tăng - 
Ví dụ: Tiền thuê 
các hệ thống xử lý 
dữ liệu của bên thứ 
3 hoặc áp dụng các 
quá trình sc hoặc 
quá trình làm việc 
khác 
+ 
Chi phí do tăng 
thêm nhân 
công sử dụng 
lao động dịch 
vụ và các hoạt 
động sản xuất 
củabên thứ 3 
+ 
Chi phí vận 
chuyển theo giá 
cước hiện tại đối 
với các phương 
tiện lưu trữ hoặc 
nguyên vật liệu 
và nhân công 
- 
Chi phí 
tiết kiệm 
như tiết 
kiệm về 
cước phí 
sử dụng 
điện hàng 
ngày 
Nếu số tiền bảo hiểm tính theo năm vượt quá 1.700 USD hoặc tương 
đương thì phải xin ý kiến chỉ đạo của Công ty 
* Tỷ lệ phí bảo hiểm 
Tỷ lệ phí cơ bản là tỷ lệ phí tối thiểu tương ứng với các điều kiện bảo 
hiểm tiêu chuẩn đề cập trong đơn bảo hiểm và phụ thuộc vào quy mô của các 
thiết bị thuộc hệ thống EDP được bảo hiểm và được áp dụng trong các điều 
kiện sau: 
(i) Thời gian bồi thường tối đa là 12 tháng, thời gian miễn thường ít nhất là 2 
ngày làm việc (mức khấu trừ đối với chi phí phát sinh thêm chỉ một lần là 20%) 
(ii) Các điều kiện của rủi ro là bình thường và hạng mục được bảo hiểm 
không xê dịch. 
iii) Các quyền lợi của người được bảo hiểm đã được bảo hiểm bởi đơn 
bảo hiểm thiết bị điện tử tiêu chuẩn với phạm vi đầy đủ tại công ty PTI. 
3. Điều chỉnh số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 
Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm phải được điều chỉnh mỗi khi có 
những thay đổi lớn về giá cả hoặc tiền lương, đặc biệt là vào những thời điểm 
tái tục đơn bảo hiểm cũ đã hết hạn. Để làm được điều này có thể tham khảo 
giá cả từ các nhà chế tạo hoặc nhà cung cấp. 
x 12 
tháng 
 28 
a) Điều chỉnh số tiền bảo hiểm 
Số tiền bảo hiểm được điều theo công thức sau: 
 29 
 E 
 S = So ------- 
 Eo 
Trong đó : 
 S: Số tiền bảo hiểm của năm hiện tại 
 So:Số tiền bảo hiểm khi bắt đầu bảo hiểm 
 E:Chỉ số giá sản xuất thiết bị trong năm hiện tại 
 Eo:Chỉ số giá sản xuất thiết bị khi bắt đầu bảo hiểm 
b).Điều chỉnh phí bảo hiểm 
 E L 
 P = Po 0,3 ---------- + 0,7--------- 
 E0 L0 
 Trong đó : 
 P: Phí bảo hiểm của năm hiện tại 
 Po:Phí bảo hiểm khi bắt đầu bảo hiểm 
 L:Chỉ số giá lao động trong năm hiện tại 
 Lo: Chỉ số giá lao động khi bắt đầu bảo hiểm. 
Các hệ số 0,3 và 0,7 chỉ là các giá trị trung bình trên cơ sở giá trị nguyên 
vật liệu chiếm 30% và giá nhân công chiếm 70%. Nếu cần thiết thì các hệ số 
trên có thể thay đổi để phù hợp với điều kiện thực tế. 
Nếu tại thời điểm bắt đầu bảo hiểm mà một hạng mục nào đó đã được sử 
dụng 05 năm thì có thể áp dụng một hệ số phản ánh được sự gia tăng vê giá 
trị thay thế mới tới thời điểm đó. Hệ số này được xác định trên cơ sở các chỉ 
số áp dụng trong các năm trước đó tại nước mà hạng mục đó được chế tạo 
4. Mức khấu trừ 
a) Đối với thiệt hại vật chất 
Mức khấu trừ thông thường áp dụng cho mỗi hạng mục thiết bị đươc tính 
theo phần ngàn số tiền bảo hiểm và không được thấp hơn 200 USD hoặc số 
tiền tương đương. 
 b) Đối với phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài 
Mức khấu trừ thông thường được tính theo phần ngàn số tiền tổn thất và 
không được thấp hơn 700 USD hoặc số tiền tương đương. 
c) Đối với chi phí gia tăng 
 30 
Mức khấu trừ được tính toán theo thời gian miễn thường. Thời gian miễn 
thường tối đa là 02 ngày ứng với tỷ lệ phí tối thiểu. Thời gian thường dài hơn 
thì sẽ áp dụng các hệ số giảm phí . 
5. Phí bảo hiểm tối thiểu cho mỗi đơn bảo hiểm 
Phí bảo hiểm tối thiểu hàng năm cho mỗi đơn bảo hiểm là: 
 - Đối với thiết bị EDP : 200 USD 
 - Đối với tất cả các hệ thống và thiết bị điện tử khác và phương tiện 
chứa dữ liệu : 700 USD 
 - Đối với chi phí gia tăng : 100USD 
IV-HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ 
1. Giấy yêu cầu bảo hiểm 
Người được bảo hiểm phải kê khai đầy đủ vào giấy yêu cầu bảo hiểm 
thiết bị điện tử , sau đó gửi tới công ty PTI để công ty tiến hành kiểm tra thực 
tế địa điểm đặt các thiết bị được bảo hiểm và hiện trạng của những máy móc 
được yêu cầu bảo hiểm .Trên cơ sở xem xét đánh giá thực tế và những thông 
tin mà khách hàng khai báo, nếu thấy đầy đủ các điều kiện cấp đơn bảo hiểm 
thì cấp đơn bảo hiểm. 
2. Điều khoản của hợp đồng bảo hiểm 
Trên cơ sở Người được bảo hiểm (dưới đây gọi tắt là NĐBH) đã gửi 
Giấy yêu cầu bảo hiểm (Giấy yêu cầu này được xem như là một bộ phận 
không tách rời của Đơn bảo hiểm) cho Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện 
(Dưới đây gọi tắt là PTI), đã nộp cho PTI số phí bảo hiểm nêu trong Bản tóm 
tắt điều kiện bảo hiểm (BTTĐKBH) kèm theo và tuân thủ các điều khoản, 
điều kiện và các điểm loại trừ quy định trong Đơn bảo hiểm này, PTI sẽ trả 
tiền bồi thường cho NĐBH theo cách thức và tới mức độ như quy định dưới 
đây. 
Đơn bảo hiểm này áp dụng cho các thiết bị có tên trong danh mục được 
bảo hiểm cho dù các thiết bị này đang hoạt động hoặc không hoạt động, đang 
được tháo dỡ hoặc lau chùi bảo dưỡng, đại tu hoặc để di chuyển trong khu 
vực được bảo hiểm, đang trong quá trình thực hiện chính các công việc nêu 
trên hoặc trong quá trình được lắp ráp trở lại sau đó, nhưng dù trong bất kỳ 
 31 
trường hợp nào thì Đơn bảo hiểm này cũng chỉ áp dụng khi các thiết bị này 
đã qua chạy thử thành công. 
 Các điều kiện chung: 
1. Điều kiện tiên quyết để ràng buộc trách nhiệm của PTI là NĐBH 
phải tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quy định ghi trong Đơn bảo hiểm 
này, trung thực khai báo và trả lời các câu hỏi ghi trong giấy yêu cầu bảo 
hiểm theo mẫu đính kèm theo Đơn bảo hiểm này. 
2. BTTĐKBH và các phần của Đơn bảo hiểm được xem là các bộ 
phận không thể tách rời và là một bộ phận hợp thành của Đơn bảo hiểm 
này, và cụm từ "Đơn bảo hiểm này "bất cứ lúc nào được sử dụng trong hợp 
đồng này sẽ được hiểu là bao gồm BTTĐKBH và các phần đó. Bất kỳ một 
từ hoặc một cụm từ nào đã mang một nghĩa xác định nào đó tại bất cứ phần 
nào trong đơn bảo hiểm này, trong BTTĐKBH hoặc trong các phần của 
Đơn bảo hiểm thì dù xuất hiện ở đâu từ hoặc cụm từ đó cũng mang cùng 
một nghĩa như vậy. 
3. NĐBH, bằng chi phí riêng của mình, phải thực hiện mọi biện pháp 
hợp lý và tuân theo mọi kiến nghị hợp lý của PTI nhằm ngăn chặn tổn thất 
và phải tuân thủ mọi quy định pháp luật và khuyến nghị của nhà chế tạo. 
4. a)Vào bất kỳ thời gian hợp lý nào, đại diện của PTI cũng có quyền 
xem xét và kiểm tra rủi ro được bảo hiểm và NĐBH phải cung cấp cho đại 
diện của PTI mọi chi tiết, thông tin cần thiết để đánh giá rủi ro được bảo 
hiểm. 
b)NĐBH phải lập tức thông báo cho PTI bằng điện tín và văn bản về 
bất cứ thay đổi nào đối với rủi ro được bảo hiểm và bằng chi phí riêng của 
mình thực hiện những biện pháp mà tình thế đòi hỏi để đảm bảo an toàn 
cho quá trình hoạt động của các hạng mục thiết bị được bảo hiểm. Phạm vi 
bảo hiểm cũng như chi phí bảo hiểm sẽ được điều chỉnh thích hợp nếu thấy 
cần thiết. NĐBH không được thực hiện hoặc chấp nhận những sự thay đổi 
nào làm tăng thêm rủi ro trừ khi PTI có văn bản xác nhận rằng Đơn bảo 
hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực trong các trường hợp đó. 
 32 
5. Trong trường hợp xảy ra những sự cố có thể dẫn đến việc bồi 
thường theo Đơn bảo hiểm này, NĐBH phải: 
a) Lập tức thông báo ngay cho PTI bằng điện thoại hoặc điện tín cũng 
như bằng văn bản nêu rõ tính chất và mức độ tổn thất; 
b) Thực hiện mọi biện pháp phù hợp với khả năng của mình để hạn 
chế tổn thất ở mức thấp nhất; 
c) Giữ gìn các chi tiết hay bộ phận bị hư hại và sẵn sàng để cho đại 
diện hay giám định viên của PTI giám định các chi tiết hay bộ phận đó ; 
d) Cung cấp mọi thông tin và chứng từ văn bản theo yêu cầu của PTI; 
e)Thông báo cho cơ quan công an nếu tổn thất do trộm cướp. 
Trong mọi trường hợp PTI sẽ không chịu trách nhiệm đối với những 
tổn thất mà trong vòng 14 ngày kể từ khi xảy ra tổn thất PTI không nhận 
được thông báo về những tổn thất đó. Ngay sau khi thông báo cho PTI theo 
điều kiện này, NĐBH có thể tiến hành sửa chữa hay thay thế các hư hỏng 
nhỏ, còn trong mọi trường hợp khác, nhất thiết phải có đại diện của PTI để 
giám định tổn thất trước khi thực hiện việc sửa chữa thay thế. Nếu đại diện 
của PTI không tiến hành giám định trong một thời gian được xem là hợp lý 
xét theo tình hình thực tế thì NĐBH có quyền xúc tiến việc sửa chữa hay 
thay thế. 
Trách nhiệm của PTI đối với bất kì hạng mục bị tổn thất nào thuộc đối 
tượng bảo hiểm sẽ chấm dứt nếu hạng mục đó vẫn được sử dụng sau khi 
khiếu nại mà không được sửa chữa như yêu cầu của PTI hoặc nếu chỉ được 
sửa chữa tạm thời mà không được sự đồng ý của PTI. 
6. NĐBH, với chi phí do PTI chịu, phải thực hiện, kết hợp thực hiện 
và cho phép thực hiện mọi hành động và mọi công việc xét thấy cần thiết 
hay theo yêu cầu của PTI để bảo vệ những lợi ích liên quan đến các quyền 
hạn hoặc các biện pháp nhằm được các bên thứ ba 
(không được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm này ) cho miễn giảm trách 
nhiệm hay đòi được bồi thường từ các bên thứ ba đó mà PTI được hưởng 
 33 
hay có thể được hưởng hoặc được thế quyền hay có thể được thế quyền 
ngay sau khi PTI đã bồi thường thiệt hại theo Đơn bảo hiểm này cho dù 
những hành động hay công việc như vậy cần phải được thực hiện hoặc 
được yêu cầu thực hiện trước hay sau khi PTI bồi thường cho NĐBH. 
7. Trong trường hợp có bất cứ tranh chấp nào giữa PTI và NĐBH về 
số tiền được bồi thường theo Đơn bảo hiểm này (mà nếu không có việc 
tranh chấp này thì trách nhiệm đã được thừa nhận), những tranh chấp đó sẽ 
được chuyển cho một trọng tài quyết định mà trọng tài này do hai bên chỉ 
định bằng văn bản. Nếu hai bên không nhất trí được việc chỉ định một 
trọng tài thì mỗi bên bằng văn bản sẽ chỉ định một trọng tài riêng và tranh 
chấp này sẽ được chuyển cho hai trọng tài đó quyết định với điều kiện là 
việc chỉ định đó phải được thực hiện trong vòng một tháng kể từ khi bên 
này hoặc bên kia đưa ra yêu cầu về việc chỉ định này bằng văn bản. Trong 
trường hợp những trọng tài nói trên không đi đến nhất trí thì tranh chấp sẽ 
được chuyển cho một trọng tài do các trọng tài đó chỉ định bằng văn bản 
trước khi đưa tranh chấp ra giải quyết. Trọng tài này sẽ ngồi lại cùng với 
các trọng tài đó và chủ trì các cuộc họp để giải quyết tranh chấp. Phán 
quyết do trọng tài chủ trì đưa ra sẽ là điều kiện tiên quyết đối với bất cứ 
việc kiện tụng nào nhằm chống lại PTI. 
8.a) Nếu những thông tin đề cập trong Giấy yêu cầu bảo hiểm hoặc 
những khai báo của NĐBH có bất cứ khía cạnh cơ bản nào không đúng sự 
thật hoặc nếu NĐBH đưa ra bất cứ khiếu nại gian lận nào hoặc mức độ 
khiếu nại bị thổi phồng lên quá mức hoặc nếu có bất cứ sự khai báo sai lệch 
nào nhằm bảo vệ cho những khiếu nại đó thì hiệu lực của Đơn bảo hiểm 
này sẽ chấm dứt và PTI sẽ không chịu trách nhiệm chi trả bất cứ khoản bồi 
thường nào theo Đơn bảo hiểm này. 
b) Trong trường hợp PTI từ chối trách nhiệm đối với bất kì khiếu nại 
nào mà không có việc kiện tụng nào được tiến hành trong vòng ba tháng kể 
từ khi có sự từ chối đó hoặc trong vòng ba tháng kể từ khi các trọng tài đã 
đưa ra phán xét (trong trường hợp xảy ra việc phân xử như đề cập trong 
 34 
Điều 7 kể trên) thì tất cả mọi quyền lợi liên quan đến khiếu nại này sẽ 
không còn giá trị. 
9. Nếu vào thời điểm phát sinh bất kì khiếu nại nào mà có bất cứ Đơn 
bảo hiểm nào khác cũng bảo hiểm cho những tổn thất được khiếu nại đó thì 
số tiền bồi thường mà PTI có thể phải chi trả cho tổn thất đó sẽ không vượt 
quá phần tỉ lệ của PTI đối với khiếu nại về tổn thất đó. 
10. Đơn bảo hiểm này có thể chấm dứt hiệu lực theo yêu cầu của 
NĐBH vào mọi thời điểm và trong các trường hợp như vậy PTI sẽ giữ lại 
phần phí bảo hiểm được tính theo biểu phí ngắn hạn ứng với thời gian Đơn 
bảo hiểm này có hiệu lực. Theo đề nghị của PTI, Đơn bảo hiểm này cũng 
có thể chấm dứt hiệu lực sau 7 ngày kể từ ngày PTI thông báo đề nghị này 
cho NĐBH và trong các trường hợp đó PTI sẽ hoàn trả lại phần phí bảo 
hiểm được tính theo tỉ lệ tương ứng với thời gian Đơn bảo hiểm này không 
còn hiệu lực nữa kể từ ngày chấm dứt hiệu lực sau khi trừ đi bất cứ khoản 
chi phí hợp lí nào về điều tra giám định mà PTI có thể đã bỏ ra và cũng trừ 
đi bất cứ khoản chiết khấu nào về phí bảo hiểm áp dụng trong trường hợp 
bảo hiểm dài hạn mà NĐBH đã được hưởng. 
11. Nếu bảo hiểm được thu xếp cho một bên thứ ba thừa hưởng thì 
dưới danh nghĩa của NĐBH bên thừa hưởng quyền lợi (BTH) có quyền 
thực hiện các quyền hạn của NĐBH. Ngoài ra BTH cũng có quyền nhận 
bất cứ khoản bồi thường nào theo Đơn bảo hiểm này của NĐBH và chuyển 
giao các quyền hạn của NĐBH cho PTI mà không cần phải có sự chấp 
nhận của NĐBH ngay cả trong trường hợp BTH không sở hữu Đơn bảo 
hiểm này. Ngay sau khi thanh toán bồi thường, PTI có thể yêu cầu BTH xác 
nhận rằng họ đã đồng ý với các điều kiện, điều khoản của hợp đồng bảo hiểm 
này và NĐBH đã chấp nhận để họ nhận các khoản bồi thường theo Đơn bảo 
hiểm này. 
12. Một tháng sau khi xác định được toàn bộ số tiền phải bồi thường, 
PTI sẽ chi trả bồi thường. Tuy nhiên, một tháng sau khi PTI đã nhận được 
thông báo thích hợp về vụ tổn thất và đã thừa nhận trách nhiệm, NĐBH có 
thể yêu cầu PTI tạm ứng số tiền bồi thường tối thiểu phù hợp với hoàn cảnh 
thực tế tại thời điểm đó. Chừng nào số tiền bồi thường chưa được xác định 
 35 
hoặc xét thấy chưa cần tạm ứng theo yêu cầu của NĐBH thì việc tạm ứng 
bồi thường sẽ không được thực hiện. 
PTI có quyền giữ lại số tiền bồi thường trong trường hợp : 
a) Có sự nghi ngờ về quyền được nhận bồi thường của NĐBH chừng 
nào PTI chưa nhận được các bằng chứng cần thiết. 
b) Đang có sự điều tra của cảnh sát hoặc công việc điều tra nào khác 
theo qui định của Luật hình sự đối với NĐBH mà các công việc điều tra này 
chưa kết thúc. 
 V-TÁI BẢO HIỂM TRONG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ 
Tái bảo hiểm là hình thức phân tán những rủi ro đã được bảo hiểm bởi 
công ty bảo hiểm gốc. Nhằm phát huy tối đa qui luật số đông để dàn mỏng, 
chia nhỏ những rủi ro đã được bảo hiểm bởi công ty bảo hiểm gốc cho một 
tập thể các công ty tái bảo hiểm trên toàn thế giới. Chính vì lẽ đó mà một rủi 
ro mang tính chất tai hoạ khốc liệt hoặc có độ tích tụ cao vẫn được bảo hiểm 
.Đối với công ty bảo hiểm : tái bảo hiểm làm cho công ty có khả năng nhận 
bảo hiểm nhiều hơnvà giúp cho công ty bảo hiểm gốc có thể nhận được các 
dịch vụ mà vượt quá khả năngcủa mình ,ngoài ra nó còn tạo sự ổn địch trong 
quá trình kinh doanh ,củng cố khả năng tài chính của công ty bảo hiểm . 
Trong nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT có đặc điểm là giá trị tài sản bảo hiểm 
rất lớn do vậy khi kí những hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn công ty PTI phải 
luôn xem xét để cần thiết phải tái đi cho các công ty bảo hiểm khác có khả 
năng tài chính lớn hơn. Các loại bảo hiểm như : bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ 
thầu-bảo hiểm xây dựng (Contractor All Risks), bảo hiểm rủi ro lắp 
đặt(Erection All Risks),bảo hiểm TBĐT(Electronic Equipment).Công ty PTI 
áp dụng hợp đồng số thành kết hợp mức dôi (Quota Share-surplus).Tái bảo 
hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT do phòng tái bảo hiểm của công ty PTI 
đảm nhận . 
 36 
Phần II 
THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ TẠI 
CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN (GỌI TẮT LÀ PTI) 
I- VÀI NÉT SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TY PTI 
Công ty PTI chính thức triển khai hoạt động từ ngày 01 .09. 1998 theo 
quyết định số 3633 /GP-UD của UBND thành phố Hà nội .Công ty PTI có 
một số chức năng chính như sau : 
- Kinh doanh trực tiếp các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ trong phạm vi 
của cả nước và quốc tế . 
- Kinh doanh nhận và nhượng tái bảo hiểm liên quan đến các nghiệp vụ 
bảo hiểm phi nhân thọ. 
- Tham mưu tư vấn cho các tổ chức kinh tế xã hội trong việc đánh giá và 
quản lí rủi ro . 
- Thực hiên các dịch vụ liên quan như: Giám định, điều tra tính toán, 
phân bổ tổn thất, đại lí giám định, xét giải quyết bồi thường và đòi người thứ 
3 
- Hoạt động đầu tư tài chính theo qui định của pháp luật 
- Giúp các tổ chức khách hàng bảo hiểm đào tạo cán bộ chuyên ngành 
bảo hiểm. 
Hoạt động của công ty dưới sự điều khiển của hội đồng quản trị sau đó 
đến giám đốc và các phó giám đốc . 
Sơ đồ tổ chức bộ máy công ty PTI 
Hội đồng quản trị 
Giám 
đốc 
Phó giám đốc Phó giám đốc 
Phòng 
bảo hiểm 
tài sản kĩ 
thuật 
Phòng 
bảo hiểm 
phi hàng 
hải 
Phòng 
tổng 
hợp 
Phòng 
kinh tế 
kế 
hoạch 
Phòng 
bảo 
hiểm 
hàng 
Phòng 
tái bảo 
hiểm 
 37 
Ở sơ đồ trên nổi bật lên là phòng bảo hiểm tài sản kĩ thuật có chức năng 
là chỉ đạo và thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản. Một trong những 
nghiệp vụ ưu thế của phòng là nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, nghiệp vụ 
này đã được triển khai từ rất lâu trên thế giới nhưng ở Việt nam thì đơn bảo 
hiểm thiết bị điện tử đầu tiên mới có từ cuối tháng 10 năm 1996 do BAO 
VIET cấp cho trung tâm kĩ thuật sản xuất chương trình Đài truyền hình Việt 
nam. Đây là nghiệp vụ rất mới mẻ cho nên việc công ty PTI triển khai gặp 
không ít khó khăn . 
II-KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY PTI Ở NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM 
THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ 
1. Công tác khai thác : 
 Khai thác là khâu đầu tiên của quá trình kinh doanh bảo hiểm. Vì thế 
nó có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của công ty bảo hiểm nói chung 
và của từng nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng. Khâu khai thác bảo hiểm là việc 
huy động tập chung nguồn đóng góp từ các đơn vị tham gia bảo hiểm và được 
bổ xung một phần lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, 
khâu khai thác hình thành nên quĩ dự trữ bảo hiểm chi phối rất lớn đến hiệu 
quả kinh doanhcủa ngành bảo hiểm . 
 Như chúng ta đã biết trước đây ở Việt nam chỉ tồn tại một công ty bảo 
hiểm, đó là Tổng công ty bảo hiểm Việt nam gọi tắt là BAO VIET. Khi đó 
khách hàng tham gia bảo hiểm không có cơ hội lựa chọn nơi mình muốn tham 
gia và việc độc quyền này gây nhiều bất lợi cho khách hàng, tuy nhiên từ cuối 
năm 1995 đã có sự ra đời của nhiều công ty bảo hiểm nên tạo ra sự cạnh tranh 
mạnh mẽ và kết quả là có nhiều loại hình bảo hiểm mới ra đời và phát triển 
như bảo hiểm mọi rủi ro về tài sản, tổn thất lợi nhuận, các đơn bảo hiểm toàn 
diện và trách nhiệm tổng quát. Những mẫu đơn bảo hiểm chuẩn đang được áp 
dụng trên thị trường bảo hiểm thế giới cũng được giới thiệu trên thị trường 
bảo hiểm Việt nam. Sự thay đổi nhanh chóng và đáng kể trên tạo nhiều ảnh 
hưởng tốt, khách hàng tham gia được chăm sóc chu đáo và quyền lợi được 
thực sự bảo đảm. 
 Nắm bắt được tình hình trên, công ty PTI mới ra đời và triển khai ngay 
một nghiệp vụ rất mới đó là nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. Để có thể xâm 
nhập và chiếm lĩnh thị trường về nghiệp vụ mới này công ty PTI đã có chiến 
 38 
lược khách hàng là mở rộng địa bàn hoạt động ra hầu hết bưu điện các tỉnh trên 
cả nước đồng thời đưa ra chính sách khách hàng hợp lí đặc biệt là chính sách 
khách hàng lớn thể hiện trên các mặt ưu đãi phí bảo hiểm, tiền thưởng không 
có tổn thất hoặc ít tổn thất, về chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, về việc bồi 
thường.... Thực hiện chiến lược trên và phân công cụ thể cho từng cán bộ 
quản lí khách hàng, rà soát lại khách hàng trọng điểm, có tiềm năng để tập 
trung công sức, thường xuyên theo dõi để phản ánh với ban giám đốc nắm 
được tình hình khách hàng và những thông tin mới của đối tác đưa ra để thâm 
nhập thị trường. 
Sau đây là kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT của công ty PTI 
từ 01 tháng 9 năm 1998 đến 30 tháng 4 năm 1999 
Bảng 8: Tình hình khai thác bảo hiểm TBĐT tại công ty PTI 
Chỉ tiêu Đơn vị 4 tháng cuối 
năm 1998 
4 tháng đầu năm 
1999 
1.Số đơn bảo hiểm TBĐT Đơn 9 11 
2.Số tiền bảo hiểm 
-Lượng tăng tuyệt đối 
-Tốc độ phát triển liên hoàn 
Triệu đồng 
Triệu đồng 
% 
476.181,818 604.000,000 
127.818,182 
126,84 
3.Số tiền bảo hiểm /1đơn cấp Triệu đồng 52.909,090 54.909,090 
4.Doanh thu từ phí bảo hiểm 
TBĐT 
-Lượng tăng tuyệt đối 
-Tốc độ phát triển liên hoàn 
Triệu đồng 
Triệu đồng 
% 
2.619,000 3.322,000 
703,000 
126,84 
5.Doanh thu của công ty Triệu đồng 4.365,000 5.110,769 
6.Tỷ trọng doanh thu phí bảo 
hiểm TBĐT/doanh thu công ty 
% 60 65 
Nguồn: Phòng Bảo hiểm tài sản kỹ thuật Công ty PTI 
Nhận xét về kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT qua hai năm 
1998 và 1999: 
*Về doanh thu phí 
Nhìn chung công ty mới đi vào triển khai hoạt động từ 01/09/1998 song 
cho đến nay công ty đã đạt được một số kết quả đáng chú ý. Đến hết năm 
1998 công ty mới chỉ hoạt động được 4 tháng doanh thu từ phí của nghiệp vụ 
 39 
bảo hiểm TBĐT là 2.619,000(triệu đồng), đây là con số không nhỏ xét về thời 
gian hoạt động, nó thể hiện được sự nỗ lực của cán bộ và nhân viên của công 
ty bước đầu khởi hành trên lĩnh vực mới mẻ này, đồng thời phần nào cũng 
phản ánh được sự chấp nhận của thị trường về sản phẩm này của công ty. 
Doanh thu từ nghiệp vụ này chiếm tỉ trọng 60% trong tổng doanh thu của cả 
công ty trong 4 tháng năm 1998. 
Đến ngày 30/04/1999 doanh thu phí từ nghiệp vụ này là 3.322,000 (triệu 
đồng) lớn hơn so với doanh thu 4 tháng năm 1998 là 703,000(triệu đồng). 
Điều này chứng tỏ rằng trong năm 1999 công ty đã có được nhiều kinh 
nghiệm hơn tong khâu tổ chức cũng như khai thác, tình độ của cán bộ ,nhân 
viên. Doanh thu ở nghiệp vụ này chiếm tỉ trọng 65% trong tổng doanh thu 4 
tháng năm 1999. Tỉ trọng này tăng phản ánh doanh thu từ nghiệp vụ này đang 
có xu hướng chiếm phần lớn trong tổng doanh thu của công ty. Thêm vào đó 
nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT chiếm tỉ trọng cao thể hiện đây là một nghiệp vụ 
bảo hiểm chủ yếu của công ty PTI. Nếu ta so sánh doanh thu 4 tháng 
năm1998 và doanh thu 4 tháng năm 1999 ở nghiệp vụ này ta thấy: về số tuyệt 
đối năm 1999 tăng 703(triệu đồng )so với 4 tháng năm 1998. Về số tương đối 
tăng 26,84% tức bằng 1,26 lần của 4 tháng năm 1998 như vậy ta dễ dàng thấy 
rằng cả số tuyệt đối và số tương đối 4 tháng năm 1999 đều tăng hơn so với 4 
tháng năm 1998.Kết quả này đang dần chứng minh cho ta sự cần thiết và tính 
ưu việt của nghiệp vụ nà trên thị trường bảo hiểm Việt nam. 
* Xét về số đơn bảo hiểm đã cấp : 
Trong 4 tháng năm 1998 công ty PTI cấp được 9 đơn, đây là những hợp 
đồng đầu tiên về bảo hiểm TBĐT mà công ty đã kí kết được với khách hàng, 
những đơn này chủ yếu là do các bưu điện trong ngành thuộc cổ phần của 
công ty ngoài ra còn có thêm đơn của Đài phát thanh và truyền hình Việt nam 
được lấy từ đơn của BAO VIET để lại. 
Cho đến 30/04/1999 sau 4 tháng của năm 1999 số lượng đơn cấp tăng 
lên là 11 đơn, rõ ràng là có sự cố gắng nỗ lực của các cán bộ nhân viên phòng 
Bảo hiểm Tài sản - kĩ thuật rất nhiều. Như vậy cùng một lượng thời gian như 
nhau, năm sau số đơn bảo hiểm đã tăng hơn năm trước hay cũng có nghĩa là 
số lượng khách hàng đã có sự chú ý tới nghiệp vụ này của công ty. 
 40 
*Về số tiền bảo hiểm : 
- 4 tháng năm 1998: Giá trị của đơn bảo hiểm này khá lớn, với số tiền là 
478.181,818 (triệu đồng). 
- 4 tháng năm 1999: số tiền bảo hiểm của nghiệp vụ này là 604.000,000 
(triệu đồng) tăng 127.818,182 (triệu đồng) so với 4 tháng năm 1998 xét về 
tốc độ phát triển liên hoàn thì số tiền bảo hiểm đã tăng lên 26,84%. Đồng thời 
xét về số tiền bảo hiểm trung bình cho một đơn cấp cũng tăng lên tương ứng 
từ 52.909,090 (triệu đồng) năm 1998, lên đến 54.909,090 (triệu đồng) năm 
1999. Để có cái nhìn tổng quát hơn về doanh thu phí bảo hiểm thiết bị điện tử 
trong thời gian 4 tháng của 2 năm 1998 và 1999 
Ta xem biểu đồ sau: 
Hình 1: Doanh thu phí bảo hiểm thiết bị điện tử 1998-1999 
Đơn vị: tỷ đồng 
b. Công tác giám định và bồi thường tổn thất . 
Mỗi khi nhận được thông báo tổn thất, thì nhân viên của công ty sẽ cùng 
người được bảo hiểm tiến hành giám định thiệt hại. Giá trị thiệt hại của tài sản 
được bảo hiểm xác định theo giá trị tại thời điểm xảy ra tổn thất, dựa vào đó 
để xác định số tiền bồi thường một cách hợp lí. Ví dụ như: trong trường hợp 
một hạng mục được bảo hiểm nào đó bị phá huỷ, số tiền bồi thường mà công 
ty sẽ trả là giá trị thực tế của hạng mục đó ngay trước thời điểm xảy ra tổn 
thất, bao gồm cả cước phí vận chuyển thông thường, chi phí lắp ráp, thuế và 
các chi phí hải quan (nếu có) trong phạm vi các chi phí này đã bao gồm trong 
số tiền bảo hiểm. Giá trị thực tế này được tính toán bằng cách trừ đi giá trị 
thay thế của hạng mục đó 1 tỉ lệ khấu hao thích hợp . 
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
1998 1999
 41 
Đối với phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài :công ty sẽ bồi thường bất 
kỳ một chi phí nào nếu chứng minh được rằng người được bảo hiểm đã bỏ ra 
trong thời hạn là 12 tháng kể từ ngày phát sinh sự cố nhằm mục đích duy nhất 
là phục hồi lại các phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài trở lại tình trạng bình 
thường, kể từ ngày xảy ra một sự được bồi thường, số tiền bảo hiểm đối với 
thời hạn bảo hiểm còn lại sẽ giảm đi một lượng bằng số tiền bồi thường, trừ 
khi số tiền bảo hiểm sẽ lại được phục hồi lại như ban đầu. 
Số tiền bồi thường được giói hạn bởi số tiền bảo hiểm trừ đi mức khấu 
trừ theo thoả thuận. Sau cùng là xét duyệt hồ sơ bồi thường và thông báo cho 
khách hàng, hoàn chỉnh hồ sơ trình ban giám đốc. Sau khi thông báo ,nếu 
khách hàng chấp nhận thì chuyển cho kế toán tài vụ trả tiền bồi thường ,nếu 
không phải tìm hiểu lại và giải quyết cho thoả đáng. 
Có thể nói, công ty PTI rất đề cao công tác giám định và bồi thường để 
chất lượng sản phẩm luôn được nâng cao. 
Sau đây là các bước công tác chủ yếu và nội dung cụ thể trong công tác 
giám định và bồi thường tổn thất của công ty PTI: 
Bước 1: Tiếp nhận và xử lý thông tin về tổn thất 
Trong bước này khi nhận được thông báo tổn thất người được bảo hiểm 
bằng các văn bản (hoặc qua điện thoại, hoặc qua các nguồn tin khác). Cán bộ 
công ty cần nắm ngay những thông tin cần thiết như: 
- Tên và địa chỉ của người thông báo tổn thất 
- Địa điểm, thời gian xảy ra tổn thất 
- Thông tin ban đầu về hậu quả thiệt hại 
- Đánh giá ban đầu về nguyên nhân tổn thất 
- Các biện pháp hạn chế tổn thất đã áp dụng 
Tuy nhiên để đảm bảo chính xác thì công ty phải kiểm tra thông tin vừa 
nhận được qua các nguồn tin khác như: công an, chính quyền sở tại, cấp chủ 
quản của đơn vị xảy ra tổn thất. Sau đó các cán bộ công ty báo cáo ngay cho 
cấp lãnh đạo trực tiếp để đề xuất phương án xử lý hoặc chủ động xử lý thông 
 42 
tin về tổn thất với các vụ được phân cấp. Đối với các vụ tổn thất ước tính thiệt 
hại đến 50.000USD các đơn vị phải báo cáo ngay với công ty bằng văn bản. 
Bước 2: Công tác giám định 
Nếu vụ tổn thất xảy ra trên địa bàn thuộc đơn vị quản lý thì: 
Một là, đơn vị cử cán bộ giám định đến hiện trường nơi xảy ra tổn thất 
để thu thập đủ thông tin về vụ tổn thất, bao gồm các công việc cụ thể sau: 
- Ghi chép và thu thập đầy đủ thông tin, số liệu có liên quan đến hiện 
trường vụ tổn thất. 
- Thu thập vật chứng và lời khai nhân chứng. 
- Đề xuất, phối hợp với người được bảo hiểm và các cơ quan chức năng 
để áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế tổn thất. 
- Thu thập, tham khảo ý kiến của các bên có liên quan có mặt tại hiện 
trường (cảnh sát PCCC, đơn vị xảy ra tổn thất, chính quyền địa phương). 
- Lập biên bản hiện trường vụ tổn thất mô tả chi tiết hiện trường, sơ bộ 
diễn biến, dự đoán nguyên nhân, ước tính thiệt hại. 
Hai là, việc giám định được thực hiện gồm những việc sau: 
- Phối hợp với các cơ quan chức năng điều tra, kết luận diễn biễn, 
nguyên nhân vụ tổn thất. 
- Thu thập đầy đủ hồ sơ, chứng từ liên quan đến việc xác định số lượng 
và giá trị tài sản được bảo hiểm tại thời điểm trức khi xảy ra tổn thấtl. 
- Tiến hành so sánh, đối chiếu giữa chứng từ với những thông tin tài liệu 
thu thập được tại hiện trường vụ tổn thất để xác định chính xác mức độ thiệt 
hại. Từ đó lập biên bản giám định tổn thất. 
- Tuy nhiên, đối với những vụ tổn thất lớn hoặc đòi hỏi có kiến thức 
chuyên ngành hoặc theo yêu cầu của nhà tái bảo hiểm hoặc theo chỉ đạo của 
công ty thì việc giám định có thể sẽ do một tổ chức giám định độc lập thực 
hiện trên cơ sở hợp đồng giám định. 
-Thẩm quyền kí kết và thực hiện hợp đồng giám định của các đơn vị theo 
mức phân cấp bồi thường được qui định cụ thể ở phần phân cấp bồi thường. 
 43 
Trong những trường hợp cụ thể khi cần công ty có thể cử cán bộ giám định 
của công ty giúp các công ty tiến hành công tác giám định. Nhưng các đơn vị 
là người chủ trì và kí biên bản giám định vụ tổn thất . 
- Trong trường hợp cán bộ giám định của PTI không có mặt tại hiện 
trường xảy ra vụ tổn thất trong thời hạn ghi trong quy tắc bảo hiểm hoặc vì lý 
do cấp thiết phải dọn dẹp hiện trường và cơ quan chức năng thụ lý hồ sơ 
chuyển cho PTI, cán bộ giám định và đơn vị có nhiệm vụ tìm hiểu nguyên 
nhân, diễn biến vụ tổn thất nếu có điểm nào không rõ phải xác minh, bổ xung 
bằng chứng cứ đủ tính pháp lý cần thiết. 
Bước 3: Lập hồ sơ tổn thất 
1. Trách nhiệm lập hồ sơ 
Các đơn vị có trách nhiệm xử lý thông tin tổn thất và lập hồ sơ đối với 
những vụ tổn thất xảy ra trên địa bàn đơn vị mình phụ trách. Căn cứ từng vụ 
việc cụ thể, nếu vượt phân cấp thuộc các đơn vị thì công ty có thể cử cán bộ 
nghiệp vụ trực tiếp giúp các đơn vị lập hồ sơ. 
2. Hồ sơ đối với các tổn thất theo đơn bảo hiểm thiết bị điện tử bao gồm: 
- Giấy yêu cầu bảo hiểm của người được bảo hiểm. 
- Danh mục tài sản được bảo hiểm. 
- Hoá đơn thanh toán phí bảo hiểm. 
- Hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. 
- Giấy thông báo tổn thất của người được bảo hiểm. 
- Bản kê khai thiệt hại và các chứng từ chứng minh thiệt hại. 
- Biên bản hiện trường của các cơ quan chức năng hoặc của PTI 
- Các văn bản, phim ảnh và tài liệu khác có liên quan đến vụ tổn thất. 
- Biên bản giám định vụ tổn thất của PTI hoặc của tổ chức giám định độc 
lập PTI chỉ định hoặc do PTI và người được bảo hiểm thoả thuận chỉ định. 
- Tờ trình đề xuất giải quyết bồi thường 
- Thông báo bồi thường của PTI. 
 44 
Bước 4: Thủ tục xét giải quyết bồi thường 
1. Phân cấp xét giải quyết bồi thường . 
 Khi có thông tin về các vụ tổn thất phải được giải quyết kịp thời và báo 
cáo đầy đủ với công ty sau khi cử cán bộ đến hiện trường nơi xảy ra vụ tổn 
thất . Riêng đối với những vụ tổn thất ước tính thiệt hại đến 50.000USD thì 
các đơn vị phải báo cáo ngay để công ty chỉ đạo kịp thời . 
* Việc phân cấp xét giải quyết bồi thường như sau : 
Căn cứ xét giải quyết bồi thường theo phân cấp đã được qui định . Các 
đơn vị chủ động xét, giải quyết bồi thường đối với các vụ tổn thất thuộc mức 
phân cấp nói trên, sau đó chuyển bản sao hồ sơ về công ty chậm nhất là 10 
ngày kể từ khi chuyển tiền bồi thường cho người được bảo hiểm . 
Trong quá trình lập hồ sơ nếu xét thấy chắc chắn thuộc trách nhiệm bảo 
hiểm của công ty bảo hiểm Bưu Điện thì có thể tạm ứng tối đa đến 50% của 
số tiền dự kiến bồi thường cho người được bảo hiểm để tạo điều kiện cho việc 
ổn định sản xuất -kinh doanh của khách hàng, nâng cao uy tín của công ty bảo 
hiểm Bưu Điện trên thị trường bảo hiểm . 
* Mối quan hệ giữa các phòng chức năng trong việc xét giải quyết bồi 
thường: 
- Phòng nghiệp vụ chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn vị về việc lập 
hồ sơ, biên bản giám định, xác định phạm vi trách nhiệm bảo hiểm , đề xuất 
bồi thường và các công việc có liên quan đến việc giải quyết bồi thường (như 
tổ chức thanh lí thu hồi phế liệu, tổ chức sửa chữa tài sản bị hư hại, mua mới 
tài sản để thay thế tài sản bị tổn thất hoàn toàn trong trường hợp bồi thường 
bằng hiện vật...) 
Phòng kế toán - tài chính có trách nhiệm kiểm tra tính hợp pháp của các 
chứng từ, kiểm soát giá cả để tham mưu cho lãnh đạo đơn vị giải quyết đúng 
đắn. 
1. Căn cứ xét bồi thường: 
* Tổn thất có thuộc phạm vi bảo hiểm không? 
- Khiếu nại có thuộc phạm vi bảo hiểm không? 
 45 
- Có điều kiện bảo hiểm nào bị vi phạm làm vô hiệu hoá hoặc thu hẹp 
phạm vi được bảo hiểm của khiếu nại không? 
- Xem xét thời hạn bảo hiểm 
* Xác định số tiền bồi thường cho tổn thất 
- Xác định thiệt hại thực tế (căn cứ biên bản giám định tổn thất, hồ sơ 
chứng từ chứng minh tổn thất). 
- Số tiền bảo hiểm (bảo hiểm có đúng giá trị hay dưới giá trị) 
- Mức miễn bồi thường 
- Phần vật tư, tài sản được thu hồi còn lại sau tổn thất, xác định trị giá. 
3. Thủ tục xét duyệt bồi thường 
* Xét duyệt 
+ Đối với các vụ tổn thất thuộc thẩm quyền giải quyết các chi nhánh, văn 
phòng đại diện. 
- Cán bộ giám định lập phiếu đề xuất. 
- Trưởng phòng nghiệp vụ trình lãnh đạo. 
- Phòng kế toán kiểm tra chứng từ. 
- Giám đốc chi nhánh hoặc văn phòng đại diện quyết định bồi thường. 
- Đơn vị gửi bản sao hồ sơ cho Công ty thay cho báo cáo. 
* Đối với các vụ tổn thất thuộc thẩm quyền giải quyết của Công ty: 
- Trưởng phòng nghiệp vụ Chi nhánh hoặc văn phòng đại diện trình 
giám đốc Công ty và chuyển toàn bộ hồ sơ về Công ty. 
- Phòng nghiệp vụ và phòng kế toán Công ty phối hợp theo chức năng 
quy định trình phương án giải quyết bồi thường. 
- Giám đốc hoặc phó giám đốc phụ trách khối quyết định 
* Đối với các vụ tổn thất thuộc thẩm quyền giải quyết của phòng nghiệp 
vụ Công ty: 
 46 
- Cán bộ giám định lập phiếu đề xuất 
- Phòng kế toán kiểm tra chứng từ 
- Khi phòng nghiệp vụ và phòng kế toán đã thống nhất thì trưởng phòng 
nghiệp vụ ký quyết định bồi thường cho người được bảo hiểm. Hồ sơ được 
chuyển cho phó giám đốc phụ trách khối để báo cáo. 
- Nếu có vướng mắc thì báo cáo phó giám đốc phụ trách khối xem xét 
quyết định. Trong trường hợp này bản thông báo bồi thường cho người được 
bảo hiểm do phó giám đốc ký hoặc có thẩm quyền cho trưởng phòng nghiệp 
vụ ký. 
4. Thời gian xét bồi thường 
Đối với các vụ tổn thất dưới 50.000USD theo quy tắc của Bộ tài chính 
ban hành thì sau 30 ngày kể từ khi nhận đầy đủ hồ sơ công ty sẽ giải quyết 
xong bồi thường cho người được bảo hiểm. 
- Phòng nghiệp vụ xét hồ sơ làm tờ trình, biên bản giám định: 7 ngày kể 
từ khi nhận đủ hò sơ và trình lãnh đạo xét. 
- Chuyển phòng kế toán xem xét tính hợp pháp của chứng từ: 7 ngày. 
- Lãnh đạo xét duyệt hồ sơ lần cuối: 7 ngày 
- Làm thông báo bồi thường và đề nghị khách hàng chấp thuận. 
Đối với các vụ tổn thất có giá trị đến 100.000USD thời gian giải quyết 
bồi thường sẽ phụ thuộc vào việc cơ quan giám định trung gian hoặc Công ty 
nhân tái tham gia hay không. 
5. Thủ tục trả tiền bồi thường 
Căn cứ quyết định bồi thường của toàn quốc, giám đốc, phó giám đốc 
chi nhánh, văn phòng đại diện, trưởng phòng nghiệp vụ. Phòng kế toán của 
các đơn vị thực hiện chuyển ngay tiền bồi thường cho khách hàng. Đối với 
các vụ tổn thất của các khách hàng do chi nhánh hoặc văn phòng đại điện 
quản lý nhưng thuộc thẩm quyền giải quyết của công ty việc trả tiền bồi 
thường cho người được bảo hiểm do các chi nhánh hoặc các văn phòng đại 
diện thực hiện theo uỷ quyền của công ty. 
 47 
* Một số điểm cần lưu ý đối với những trường hợp bồi thường trên 
phân cấp của đơn vị: 
- Sau khi giám đốc công ty quyết định việc bồi thường, các đơn vị có 
trách nhiệm thông báo cho khách hàng biết quyết định đó và báo cáo kịp thời 
ý kiến của khách hàng với công ty. Nếu khách hàng không chấp nhận thì đề 
nghị có công văn khiếu nại nêu rõ lý do, cung cấp thêm bằng chứng... Nếu xét 
thấy hợp lý thì các đơn vị bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ, báo cáo giám đốc quyết 
định điều chỉnh cho phù hợp. 
- Trước khi trả tiền bồi thường cho khách hàng, yêu cầu khách hàng 
phải làm thủ tục chuyển quyền bồi thường bên thứ ba cho PTI (nếu phát sinh 
thêm trách nhiệm). 
- Các đơn vị có trách nhiệm lập hồ sơ, thống kê tổn thất trên địa bàn và 
báo cáo định kỳ 6 tháng với Công ty. 
- Mọi việc xử lý, giải quyết bồi thường phải thực hiện kip thời, đúng 
thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng bảo hiểm hoặc trong Quy tắc bảo 
hiểm. Nghiêm cấm việc gây phiền hà, áp dụng chế tài một cách tuỳ tiện gây 
thiệt hại cho quyền lợi của khách hàng cũng như quyền lợi của công ty. 
 48 
 49 
Trên đây là một số bước chủ yếu trong quy trình giám định bồi thường 
của nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. 
Xét tình hình thực tế qua 4 tháng cuối năm 1998 và 4 tháng đầu năm 
1999 có 3 vụ tổn thất xảy ra. Năm 1998 có hai vụ tổn thất, vụ thứ nhất là tổn 
thất xảy ra ở bưu điện tỉnh Đồng tháp với số tiền bồi thường là 12,268 (triệu 
đồng), vụ thứ hai là xảy ra tại bưu điện Phú Yên, số tiền bồi thường lên tới 
210,336 (triệu đồng). Tổng cộng số tiền phải bồi thường năm 1998 là 
222,6059 (triệu đồng). Sang năm 1999 có một vụ tổn thất xảy ra tại bưu điện 
tỉnh Ninh thuận số tiền mà công ty đã bồi thường là 332,29 (triệu đồng). 
c. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất : 
Nếu làm tốt công tác này không chỉ mang lại hiệu quả kinh doanh mà 
còn thực hiện được mục tiêu cao cả là mang lại an toàn về tài sản, tính mạng 
cho người tham gia bảo hiểm làm cho họ yên tâm trong kinh doanh và nó còn 
thể hiện sự quan tâm của công ty đối với khách hàng. 
Ở nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử hàng năm công ty PTI trích ra 2% 
từ doanh thu phí bảo hiểm để làm quĩ dự phòng và hạn chế tổn thất. Cụ thể là 
4 tháng đầu hoạt động của năm 1998 công ty đã trích ra 52,380 (triệu đồng) 
và đến năm 1999 sau 4 tháng đầu năm cũng trích ra một khoản là 66,44 (triệu 
đồng). 
Bên cạnh đó công ty PTI còn cử cán bộ giảng giải cho khách hàng cách 
sơ cứu khi gặp hoả hoạn, ngập nước do mưa bão như giảm nhẹ độ ẩm trong 
phòng chứa thiết bị xuống dưới 40%, chuyển các thiết bị ra khỏi môi trường 
ẩm tới phòng chứa thích hợp và không được khởi động lại thiết bị . 
Những việc làm trên của công ty PTI đã tạo dược mối quan hệ thân thiết 
giữa khách hàng với công ty. Đồng thời làm giảm bớt số tiền chi phí hàng 
năm để bồi thường tổn thất. 
Sau đây ta xem xét kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty PTI ở 
nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. 
 50 
Bảng 9: Hiệu quả và kết quả kinh doanh bảo hiểm thiết bị điện tử năm 1998 
và năm 1999 
Chỉ tiêu Đơn vị 4 tháng cuối 
năm1998 
4 tháng đầu 
năm1999 
1.Tổng doanh thu phí bảo 
hiểm thiết bị điện tử 
triệu vnđ 2.619,000 3.322,000 
2.Chi hoạt động 
-Chi bồi thường 
-Chi hoa hồng 
-Chi dự trữ tổn thất lớn 
- Chi tuyên truyền quảng cáo 
-Chi tái bảo hiểm 
-Chi đề phòng hạn chế tổn thất 
-Chi quản lí 
-Chi thuế 
Tổng chi 
triệu vnđ 
triệu vnđ 
triệu vnđ 
triệu vnđ 
triệu vnđ 
triệu vnđ 
triệu vnđ 
triệu vnđ 
triệu vnđ 
222,605 
130,950 
225,234 
36,666 
785,700 
52,380 
130,950 
104,760 
1689,245 
332,200 
166,100 
285,692 
46,508 
996,600 
66,440 
166,100 
332,200 
2.391,840 
3.Cơ cấu chi 
-Chi bồi thường 
-Chi hoa hồng 
-Chi dự trữ tổn thất lớn 
- Chi về tuyên truyền quảng 
cáo 
-Chi tái bảo hiểm 
-Chi đề phòng hạn chế tổn thất 
-Chi quản lí 
-Chi thuế 
% 
% 
% 
% 
% 
% 
% 
% 
100 
13,17 
7,75 
13,33 
2,17 
46,51 
3,1 
7,75 
6,20 
100 
13,89 
6,94 
11,94 
1,95 
41,66 
2,79 
6,94 
13,89 
4.Tổng chi /doanh thu % 64,49 72 
5.Chênh lệch thu chi triệu vnđ 929,775 930,160 
6.Hiệu quả kinh tế 
-Doanh thu/ giá thành 
-Lợi nhuận /giá thành 
1,55 
0,55 
1,388 
0,388 
 51 
Nguồn: Phòng Bảo hiểm tài sản kỹ thuật Công ty PTI 
(1) Doanh thu bảo hiểm 
Nhìn vào bảng 9 ta thấy doanh thu bảo hiểm thiết bị điện tử đã tăng đáng 
kể cùng với một lượng thời gian như nhau sau 2 năm 1998 và 1999 là 703 
(triệu). Để có được kết quả như vậy công ty PTI nói chung và phòng bảo hiểm 
tài sản Kĩ thuật nói riêng đã cố gắng hết sức để khai thác được nhiều đơn bảo 
hiểm mới, tạo điều kiện tăng doanh thu năm sau cao hơn năm trước. 
(2). Chi hoạt động : 
Nhìn chung qua bảng 9 ta thấy các khoản chi hầu như có xu hướng tăng 
về số tuyệt đối. 
- Trong 4 tháng đầu mới triển khai do phải bồi thường 2 vụ tổn thất nên mức 
chi bồi thường là 222,605(triệu đồng). Sang đến năm 1998 lại có thêm vụ tổn thất 
là phải bồi thường cho bưu điện tỉnh Ninh thuận số tiền là 332,2(triệu đồng). 
- Chi hoa hồng xét về số tuyệt đối tăng từ 130,950 (triệu đồng) năm1998, 
đến 166,1 (triệu đồng) năm 1999. Nhưng tỉ lệ hoa hồng /tổng chi lại giảm : 
 4 tháng năm 98: 7,75% 
 4 tháng năm 99: 6,94% 
Đó là do tình trạng hiện nay hầu hết các đơn về bảo hiểm TBĐT mà 
công ty cấp đều do cán bộ nhân viên phòng bảo hiểm Tài sản -kĩ thuật trực 
tiếp khai thác mà không phải qua môi giới. Đây là một trong những thuận lợi 
lớn cho công ty PTI, nhất là những thiết bị có giá trị lớn cần phải tái bảo 
hiểm. trong trường hợp mà phải thông qua môi giới thì số hoa hồng phải trả 
cho người môi giới đôi khi rất lớn làm giảm số lợi nhuận của công ty. 
- Tiếp đến là chi đề phòng hạn chế tổn thất cũng tăng cụ thể là năm 
1998: là 52,38(triệu đồng) sang đến năm 1999 tăng lên là 66,44(triệu đồng), 
tuy nhiên tỉ lệ chi lại giảm xuống từ năm 1998 là 2,86% đến năm 1999 còn 
2,79 %.Điều này công ty PTI cần xem xét lại vì chi phí đề phòng hạn chế tổn 
 52 
thất đóng một vai trò hết sức quan trọng góp phần nâng cao tính hiệu quả kinh 
doanh hạn chế bồi thường giảm tổn thất cho người tham gia . 
- Nhìn vào bảng 9: Chi dự trữ tổn thất lớn tăng về số tuyệt đối nhưng lại 
giảm về tỉ lệ chi. Cụ thể là năm 1998 số tiền chi là 225,234 (triệu đồng) 
nhưng đến năm 1999 tăng lên là 285,692 (triệu đồng) và tỉ lệ chi giảm từ 
13,33% xuống còn 11,94%. Lí do tỉ lệ chi này giảm xuống là do năm 1999 cơ 
cấu chi thay đổi đặc biệt là chi thuế có phần tăng lên do Bộ tài chính áp dụng 
luật thuế giá trị gia tăng (VAT). 
- Chi tuyên truyền quảng cáo: Đối với nghiệp vụ thiết bị điện tử là 
nghiệp vụ mới nhưng có đặc điểm là ở những đơn vị có loại thiết bị này 
thường tập trung vào một số khách hàng lớn. Do vậy hình thức quảng cáo 
hiện nay ở công ty Bảo hiểm bưu điện là giới thiệu trực tiếp với khách hàng 
bằng việc phát hành tài liệu hướng dẫn đồng thời giải thích tỉ mỷ cho khách 
hàng về loại hình nghiệp vụ này. Do vậy chi phí quảng cáo so với tổng chi 
còn ở mức khiêm tốn. Cụ thể là qua bảng 12 ta thấy năm 1998 về số tuyệt đối 
chi quảng cáo là 36,666 triệu đồng. Nhưng đến năm 1999 thì lượng chi này đã 
tăng lên 46,508 triệu đồng. Tuy nhiên, xét về tỷ lệ chi lại có xu hướng giảm từ 
2,17% xuống còn 1,95%. Điều này một phần là do ảnh hưởng của thuế VAT 
nhưng công ty PTI cũng cần xem xét lại để nâng tỷ lệ chi quảng cáo lên một 
tỷ lệ thích hợp nhằm tạo điều kiện cho việc giới thiệu rộng rãi sản phẩm của 
công ty cho khách hàng biết. Khi đã có số đông công chúng biết về vai trò và 
tác dụng của sản phẩm này thì đối tượng tham gia bảo hiểm thiết bị điện tử 
chắc chắn sẽ tăng lên không chỉ ở trong cổ đông mà còn cả ngoài cổ đông 
nữa. 
- Cũng qua bảng 9 ta thấy chi tái bảo hiểm tăng về số tuyệt đối từ 
785,7(triệu đồng) năm 1998 lên đến 996,6(triệu đồng) năm 1999. Điều này 
chứng tỏ phí bảo hiểm thu được trên mỗi đơn của năm 1999 lớn hơn của năm 
1998 nên phần chi phải tăng lên. Nhưng xét về tỉ lệ chi thì lại có phần giảm 
xuống, năm 1998 tỉ lệ chi là 46,51% đến năm 1999 giảm xuống còn 41,66%. 
 53 
- Chi quản lí cũng tăng về số tuyệt đối nhưng lại giảm về số tương đối. 
Năm 1998 chi cho quản lí là 130,950(triệu đồng) sang đến năm 1999 chi quản 
lí là 166,1(triệu đồng) .Tỉ lệ chi giảm từ 7,75% xuống 6,94%. 
- Cuối cùng là chi thuế. Khoản chi này tăng cả về số tuyệt đối lẫn tỉ lệ 
chi và đặc biệt là tăng rất nhanh gấp hơn 3 lần năm trước. Cụ thể là ở năm 
1998 chi về thuế là 104,76 (triệu đồng) nhưng đến năm 1999 con số này tăng 
lên 332,2 (triệu đồng). Về tỉ lệ chi cũng tăng từ 6,2% lên đến 13,89%. Nguyên 
nhân là do năm 1998 vẫn áp dụng thuế doanh thu nên mức thuế thấp (4% 
doanh thu phí) nhưng từ ngày 01/01 1999 Bộ tài chính đã ban hành luật thuế 
giá trị gia tăng (VAT) với mức thuế cao hơnlà 10% tính trên doanh thu phí 
điều này làm cho công ty gặp không ít khó khăn trong việc chi phí hợp lí . 
(4).Xét về tỉ lệ tổng chi/ doanh thu: 
Năm 1998 tỉ lệ tổng chi /doanh thu ở mức 64,49% sang đến năm 1999 tỉ 
lệ này tăng lên 72%. Điều này là do áp dụng luật thuế mới, đồng thời là chi 
bồi thường cũng tăng cao hơn năm 1998. 
(5).Kết quả kinh doanh : 
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty là tốt, nhìn vào bảng chỉ tiêu 
doanh thu tăng dần năm 1998 là 2619(triệu đồng), năm 1999 là 3322(triệu đồng). 
Tuy nhiên chỉ tiêu lợi nhuận năm 1999 tăng không lớn so với năm 1998 
cụ thể là năm 1998 là 929,775 (triệu đồng) đến năm 1999 là 930,160 (triệu 
đồng). Điều này có nguyên nhân trực tiếp từ việc chi thuế năm 1999 lớn hơn 
nhiều so với chi thuế năm 1998 ( gấp 3,17 lần ). 
(6).Hiệu quả kinh doanh : 
Nhìn vào chỉ tiêu 6 ở bảng 9 ta thấy hiệu quả kinh doanh không được tốt 
lắm và có xu hướng giảm. 
Năm 1998: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 1,55đ doanh thu 
Năm 1999: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 1,388đ doanh thu 
Về lợi nhuận: 
 54 
Năm 1998: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 0,55đ lợi nhuận 
Năm 1999: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 0,388đ lợi nhuận 
* Để hiểu được sâu sắc hơn do đâu mà công ty có được kết quả tốt cũng 
như những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của mình ở nghiệp 
vụ bảo hiểm TBĐT ta đi tìm nguyên nhân của nó : 
Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên : 
Chúng ta phải khẳng định rằng khai thác là khâu quan trọng hàng đầu 
trong mọi loại hình bảo hiểm nói chung và bảo hiểm TBĐT nói riêng .Doanh 
thu muốn đạt được ở mức cao tất yếu khai thác phải được nhiều bởi thế ta đi 
tìm nguyên nhân cho doanh thu cao cũng chính là tìm nguyên nhân từ khâu 
khai thác : 
+Bảo hiểm TBĐT là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ và đầy triển vọng 
trong tương lai nên các cán bộ nhân viên trong công ty tin tưởng vào sự phát 
triển của lĩnh vực này từ đó tạo nên cho họ một động lực thúc đẩy họ hăng 
say làm việc, nỗ lực phấn đấu vươn lên .Họ đã làm việc không kể ngày đêm 
,đi khai thác vào mọi thời điểm ... các cán bộ nhân viên công ty luôn cố gắng 
tìm ra những phương pháp tiếp cận, khai thác mới nhất để tăng thêm số khách 
hàng cho mình. 
+Công ty PTI nghiên cứu sản phẩm bảo hiểm TBĐT một cách kĩ lưỡng 
có cơ sở khoa học đồng thời tiến hành đánh giá thị trường bảo hiểm TBĐT 
theo tổng thể theo từng thành phố, tỉnh và khu vực từ đó nắm lấy thị trường,ở 
chỗ nào có nhu cầu lớn nhất hiện tại, hoặc có tiềm năng lớn trong tương lai. 
Đồng thời chủ động sáng tạo áp dụng nhiều phương pháp khác nhau và kịp 
thời đúc kết kinh nghiệm để tìm ra phương pháp khai thác hợp lí nhất ,điều 
này được thể hiện: Hàng tuần công ty luôn họp giao ban vào sáng thứ 2 để 
thảo luận kiến nghị đưa ra những cách thức,phương pháp khai thác, tiếp cận 
khách hàng phù hợp nhất. 
+Công ty PTI đã tuyển chọn và đào tạo đượcmột đội ngũ nhân viên có 
trình độ, năng lực hầu hết đã có kinh nghiệm thực tế trong nhiều lĩnh vực 
 55 
khác nhau. Do đó họ rất sáng tạo trong công việc và luôn luôn có ý chí vươn 
lên khắc phục mọi khó khăn, vì vậy họ đã tìm ra nhiều phương pháp khai thác 
tốt đối với từng đối tượng khách hàng . 
+Một điểm rất quan trọng tác động đến kết quả khai thác ở nghiệp vụ 
này là ưu thế của công ty kinh doanh trong ngành Bưu điện nên phần lớn các 
thiết bị điện tử đều tập chung vào phạm vi khai thác của công ty. Hơn nữa 
các cổ đông như Tổng công ty xây dựng, Tổng công ty xuất nhập khẩu, Công 
ty tái bảo hiểm Việt nam ... có mối quan hệ rộng rãi tạo tiền đề vững chắc cho 
những mối quan hệ làm ăn lâu dài của công ty . 
+Nguyên nhân cuối cùng là có sự chỉ đạo kịp thời của công ty, sự quyết 
tâm của ban giám đốc và sự nỗ lực của phòng bảo hiểm Tài sản -Kĩ thuật . 
*Những khó khăn đang tồn tại : 
+Đối tượng khách hàng tương đối hạn chế trong giai đoạn đầu triển khai 
nghiệp vụ (chỉ một số đơn vị có khối lượng tài sản TBĐT cao như Đài phát 
thanh và truyền hình ,Bưu điện ,bệnh viện ...) Các văn phòng làm việc, các cá 
nhân có sử dụng một số TBĐT (như máy vi tính , điện thoại ,các thiết bị văn 
phòng khác ...) hầu như chưa có nhu cầu bảo hiểm cho thiết bị của họ hoặc họ 
chỉ bảo hiểm theo đơn bảo hiểm cháy. 
+Loại hình bảo hiểm này còn mới mẻ đối với nhiều doanh nghiệp và 
thậm chí đây là loại bảo hiểm còn mới mẻ ngay cả với các cán bộ khai thác ở 
các địa phương ở vùng sâu vùng xa ... Hơn nữa loại hình bảo hiểm này tương 
đối phức tạp, phạm vi bảo hiểm rất rộng, các cán bộ địa phương cần có thời 
gian nghiên cứu kĩ các tài liệu hướng dẫn của công ty. Vì thế họ ít nhiều có 
tâm lí ngại khai thác loại hình bảo hiểm này, mà chỉ thích khai thác các 
nghiệp vụ đã quen thuộc như bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập 
khẩu... Một lí do khác nữa là, việc điều tra rủi ro trước khi chấp nhận bảo 
hiểm và điều tra đánh giá tổn thất khi có khiếu nại theo đơn bảo hiểm TBĐT 
phức tạp hơn rất nhiều so với đơn bảo hiểm cháy vì thế bản thân công ty PTI 
cũng rất thận trọng khi cho phép các địa phương cấp đơn bảo hiểm này . 
 56 
+Vì đơn bảo hiểm này bảo hiểm rất nhiều rủi ro nên đương nhiên phí bảo 
hiểm phải cao hơn đơn bảo hiểm cháy .Ví dụ cùng một đối tượng rủi ro thì 
đơn bảo hiểm cháy có thể từ 0.2% đến 0,3% nhưng theo đơn bảo hiểm TBĐT 
có thể lên đến 0,4%đến 0,6% hoặc có thể cao hơn .Từ đó mà một số cơ quan, 
doanh nghiệp chưa nhận thức được chính xác những rủi ro điển hình đối với 
bảo hiểm TBĐT của họ cộng với những nhận thức về bảo hiểm còn hạn chế 
khiến họ quyết định mua những loại bảo hiểm khác với số phí ít hơn nhằm 
"tiết kiệm" được chi phí . 
+ Phần lớn các đơn vị có khối lượng tài sản lớn đều là đơn vị nhà nước, 
một số các đơn vị liên quan đến chuyển tải thông tin vẫn còn chế độ bao cấp 
của nhà nước ,khi thiết bị mà hỏng hóc thì được trang bị ngay cái khác (vì 
việc duy trì mạng thông tin liên lạc liên quan đến an ninh quốc gia). Vì vậy ý 
thức mua bảo hiểm để tự bảo vệ mình của những đơn vị này rất kém . 
+Cuối cùng là cơ sở hạ tầng của Việt nam còn quá kém ,khối lượng các 
thiết bị có thể bảo hiểm theo đơn bảo hiểm TBĐT là rất ít .Thậm chí có những 
đơn vị nghe tên tưởng khối lượng TBĐT của họ phải rất lớn nhưng thực tế chỉ 
có khoảng vài tỉ đồng (ví dụ như đàI phát thanh và truyền hình các huyện ) 
 57 
Phần III 
MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ Ở CÔNG TY PTI 
I. TRIỂN VỌNG VỀ THỊ TRƯỜNG ĐIỆN TỬ TIN HỌC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG 
TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THẾT BỊ ĐIỆN TỬ CỦA CÔNG TY BẢO 
HIỂM BƯU ĐIỆN 
Trong cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ở thế kỉ tới, khoa học thông tin 
tiếp tục phát triển mau lẹ và được ứng dụng rộng rãi . Các nhà khoa học cho 
rằng sự phát triển mau chóng của máy tính điện tử, của thông tin liên lạc sẽ 
nối liền các nước trên thế giới, sẽ trở thành mạng tài nguyên thông tin phủ 
khắp tòan cầu . Theo dự báo của các nhà khoa học đến năm 2005 số hộ dùng 
hòm thư điện tử sẽ đạt tới trên 800 triệu hộ . Mặt khác vô tuyến truyền hình 
đã được phát qua vệ tinh làm cho người xem cảm thấy rõ nét và trung thực 
mặc dù đó là những thông tin ở cách xa hàng vạn km . Mạng điện thoại di động 
và điện thoại hiện hình, hệ thống thông tin công cộng, hệ thống đường dây nóng 
phục vụ thương nghiệp nối liền làm thành một “không gian vũ trụ hoàn toàn mới". 
 Ngày nay hoạt động kinh tế trở nên vô cùng phức tạp, không chỉ có trao 
đổi hàng hoá thông thườngmà kinh tế ngày nay phụ thuộc vào sự trao đổi 
thông tin . Thật vậy, sự ra đời và lớn mạnh của không gian điện tử làm người 
ta có thể thông qua những cuộc “hội thảo điện tử “ để tham gia các hội nghị 
về nghiệp vụ . Các bưu kiện điện tử thay thế mau chóng bưu kiện truyền 
thống . Trên màn hình của máy tính tính tại nhà có thể nhận được các tiết mục 
vui chơi, các cuộc đấu bóng, các tiết mục giải trí để chọn xem . Thông qua 
mạng viễn thông có thể tiếp thu những bài giảng của các giáo sư ưu tú, sự 
chẩn đoán và điều trị của các chuyên gia hàng đầu, thoả mãn về hướng dẫn 
mua bán và sắm sửa các dụng cụ gia đình, y hệt như đến văn phòng giao dịch, 
đến nhà hát, đến bệnh viện và cửa hàng mua bán . Theo dự tính đến năm 
2015, Ti vi màn hình rộng và mỏng có độ nét cao sẽ được chế nghiệm thành 
công, có thể treo lên tường giống như một bức tranh . Thực tế công ty 
Motorolla (Mỹ) đã phóng 66 hệ thống vệ tinh và các hệ thống vệ tinh này đảm 
 58 
bảo các cá nhân có thể nói chuyện thuận lợi với bất cứ ai ở trên trái đất, 
chuyện “mất liên lạc”sẽ trở thành chuyện lịch sử . 
 Trên đây là một vài minh hoạ cho tiềm năng và vai trò của thông tin 
liên lạc trong thời gian tới. Qua đó ta có thể thấy rằng trong thời gian tới chắc 
chắn bảo hiểm thiết bị điện tử ở Việt nam rất có triển vọng. Vì vậy ta phải 
đánh giá được tiềm năng thị trường và dự báo được tương lai phát triển của 
thị trường ta mới có thể có được những lựa chọn và áp dụng đúng được các 
phương án maketing và bán sản phẩm thích hợp từ đó mới đạt được mục đích 
cuối cùng là phát triển sản phẩm cả về số lượng và chất lượng . Để đạt được 
mục đích đó trước hết ta phải có đủ các dữ kiện thích hợp để tính toán được 
tiềm năng thị trường và dự báo phát triển trong tương lai. Những dữ kiện đó 
là: dữ kiện về thị trường bảo hiểm thiết bị điện tử, thị trường bảo hiểm để từ đó 
xác định được phí thu tiềm năng đối với các sản phẩm bảo hiểm thiết bị điện tử . 
 Để tính được phí thu tiềm năng có thể dựa vào công thức sau : 
Phí thu tiềm năng = Tổng giá trị thiết bị điện tử đã lắp đặt * Tỉ lệ phí 
Mục đích nghiên cứu thị trường thiết bị điện tử là lấy số liệu với các 
tham số tuổi thọ trung bình của các thiết bị ta sẽ suy ra được tổng khối lưoựng 
thiết bị điện tử đã lắp đặt từ đây với các dữ kiện đã biết về thị trường bảo 
hiểm Việt nam có thể suy ra được tỉ lệ các thiết bị điện tử có thể tham gia bảo 
hiểm thiết bị điện tử, với tỉ lệ phí trung bình, ta dễ dàng tính toán được tiềm 
năng thị trường về mặt lí thuyết (phí tiềm năng). 
 Theo tạp chí Tin học cho biết : 
 Nhiều gia đình ở Việt nam hiện nay có nhu cầu mua máy tính cá nhân 
để làm việc và học tập. Đồng thời do việc phát triển công nghệ mạng diện 
rộng, mạng internet và intranet đã làm cho văn phòng làm việc có thể cơ động 
được, số người hoà mạng ngày càng tăng .Khi các cơ quan, công ty đã triển 
khai dự án lớn về công nghệ thông tin thì công việc của họ ngày càng gắn bó 
với kho thông tin. Do đó tình hình hiện nay tiếp tục đẩy cầu công nghệ thông 
tin lên cao nữa. 
 59 
Bảng 10 : Số máy tính hiện có ở Việt nam từ năm 1993 đến 1998 
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 
Máy tính 
(chiếc) 
22500 38000 60000 93000 139500 299000 
 Từ bảng trên ta thấy số máy tính được sử dụng ngày càng nhiều . Hơn 
nữa không chỉ có lĩnh vực máy tính, mà trong những năm vừa qua ngành Bưu 
chính Viễn thông đã có kết quả phát triển mạng lưới rất khả quan : tính đến 
cuối năm 1997 mật độ điện thoại trên 100 dân tăng 9,5 lần, số máy điện thoại 
tăng 6 lần, sản lượng điện thoại đường dài trong nước tăng 45, lần sản lượng 
điện thoại quốc tế tăng 16 lần so với năm 1991 và đã góp phần tạo ra một hệ 
thống cơ sở hạ tầng viễn thông khá toàn diện với công nghệ mới theo hướng 
số hoá, tự động hoá ngang tầm với các nước trong khu vực: 
Bảng 11: Bảng tổng hợp về kết quả phát triển mạng lưới 
Các chỉ tiêu ĐVT 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 
1. Mật độ điện thoại máy/ 
100 
dân 
0,21 0,26 0,39 0,64 0,64 1,56 2,0 
2. Máy điện thoại máy 139.00
0 
181.000 273.000 472.000 774.910 1077820 1493820 
3. Sản lượng điện 
thoại đường dài 
trong nước 
triệu 
phút 
32,2 119,3 234,6 449,0 760 860 1442 
4. Sản lượng điện 
thoại quốc tế 
triệu 
phút 
8,1 14,3 19,9 32,8 44,5 51,7 52,6 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nhằm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện.pdf