Tài liệu Luận văn Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực II Hai Bà Trưng:  1
Luận văn 
. THỰC TRẠNG CÔNG 
TÁC TTKDTM TẠI CHI 
NHÁNH NGÂN HÀNG 
CÔNG THƯƠNG KHU 
VỰC II HAI BÀ TRƯNG 
 2
GIỚI THIỆU VỀ CHI NHÁNH NHCT-KVII- HAI BÀ 
TRƯNG 
 I.1.Qúa trình hình thành và phát triển: 
 Ngân hàng Công thương Khu vựcII Hai Bà Trưng là một trong những 
Chi nhánh của Ngân hàng Công Thương Việt Nam đặt tại Quận Hai Bà Trưng – 
Hà Nội. Ngân hàng được thành lập từ năm 1955 với tên gọi “ Chi điếm 
Ngân hàng Hai Bà Trưng”. Đến tháng 11/1985 để phục vụ sản xuất kinh doanh 
trên địa bàn quận được tốt hơn, Ngân hàng tách thành hai bộ phận: 
 Một bộ phận có nhiệm vụ đắp ứng nhu cầu tín dụng của các đơn vị kinh 
tế tập thể, tư nhân, hộ gia đình, có trụ sở đặt tại Trương Định với tên gọi “ Ngân 
hàng Công Thương khu vực I quận Hai Bà Trưng” 
 Bộ phận còn lại có nhiệm vụ đảm bảo tiền tệ thanh toán cho các đơn vị 
kinh tế quốc doanh, trụ soẻ đặt tại 306 Bà Triệu, với tên gọi “ Ngân hàng Công 
Thương khu vực II Hai Bà Trưng” 
 Trong thời kỳ bao cấp, cũng như toàn ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
27 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1074 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực II Hai Bà Trưng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
Luận văn 
. THỰC TRẠNG CÔNG 
TÁC TTKDTM TẠI CHI 
NHÁNH NGÂN HÀNG 
CÔNG THƯƠNG KHU 
VỰC II HAI BÀ TRƯNG 
 2
GIỚI THIỆU VỀ CHI NHÁNH NHCT-KVII- HAI BÀ 
TRƯNG 
 I.1.Qúa trình hình thành và phát triển: 
 Ngân hàng Công thương Khu vựcII Hai Bà Trưng là một trong những 
Chi nhánh của Ngân hàng Công Thương Việt Nam đặt tại Quận Hai Bà Trưng – 
Hà Nội. Ngân hàng được thành lập từ năm 1955 với tên gọi “ Chi điếm 
Ngân hàng Hai Bà Trưng”. Đến tháng 11/1985 để phục vụ sản xuất kinh doanh 
trên địa bàn quận được tốt hơn, Ngân hàng tách thành hai bộ phận: 
 Một bộ phận có nhiệm vụ đắp ứng nhu cầu tín dụng của các đơn vị kinh 
tế tập thể, tư nhân, hộ gia đình, có trụ sở đặt tại Trương Định với tên gọi “ Ngân 
hàng Công Thương khu vực I quận Hai Bà Trưng” 
 Bộ phận còn lại có nhiệm vụ đảm bảo tiền tệ thanh toán cho các đơn vị 
kinh tế quốc doanh, trụ soẻ đặt tại 306 Bà Triệu, với tên gọi “ Ngân hàng Công 
Thương khu vực II Hai Bà Trưng” 
 Trong thời kỳ bao cấp, cũng như toàn bộ hệ thống Ngân hàng,Ngân hàng 
Công Thương khu vực II Hai Bà Trưng hoạt động chưa có hiệu quả và thiếu 
nhạy bén. Tuy nhiên, khi chuyển sang cơ chế thị trường, Ngân hàng Công 
Thương đã làm ăn thực sự có hiệu quả hơn. 
 Tháng 9/1993, Ngân Hàng Công Thương Việt Nam đã quyết định sáp nhập 
NHCT – HBT vào Ngân hàng Công Thương khu vực II Hai Bà Trưng, có trụ sở 
chính tại 306 Bà Triệu” 
 Dưới sự lãnh đạo của NHCTVN và ban lãnh đạo của chính Ngân hàng, 
NHCT – HBT đã kết hợp chính sách mở rộng đầu tư tín dụng với việc cải tiến, 
thay đổi cơ cấu với việc tổ chức cho phù hợp với nền kinh tế thị trường, áp dụng 
chính sách mở rộng vận động mời chào khách hàng đến mở tài khoản tiền gửi, 
tiền vay tại Ngân hàng. Chính vì vậy, từ khi được giao quyền tự chủ trong kinh 
doanh năm 1993, Ngân hàng Công Thương Hai Bà Trưng đã thực sự chuyển 
 3
mình, đánh dấu một bước ngoặt mới, khẳng định một sự năng động và nhạy bén 
trong kinh doanh. 
 Cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế Ngân hàng Công Thương Hai 
Bà Trưng cũng đã mở rộng địa bàn hoạt động của mình. Đến nay, ngoại trụ sở 
chính 306 Bà Triệu và phòng giao dịch Trương Định. Ngân hàng Cồng Thương 
Hai Bà Trưng đã mở thêm phòng giao dịch chợ Hôm, phòng giao dịch Chợ Mơ, 
phòng giao dịch Giáp Bát cùng với ba cửa hàng vàng bạc và 11quỹ tiết kiệm 
được phân bổ trên địa bàn quận. 
 Tháng 3/2001, Ngân hàng Công Thương Hai Bà Trưng đã chuyển đến trụ 
sở mới tại 258 đường Trần Khát Chân. Tại đây Ngân hàng có một cơ sở vật chất 
khang trang hơn, tiện nghi hơn. Điều đó cũng thể hiện sự cố gắng tích cực của 
toàn Ngân hàng trong nền kinh tế ngày nay. 
 Do quận Hai Bà Trưng là một địa bàn đông dân cư và nhiều thành phần 
kinh tế, đặc biệt là có những doanh nghiệp lớn như Công ty Dệt 8/3 ;Nhà máy 
khoá Minh Khai ; Nhà máy bia Halida… nên Ngân hàng Công Thương khu vực 
IIHai Bà Trưng đã có một liượng khách hàng thường xuyên rất lớn, tạo môi 
trường phục vụ lý tưởng cho Ngân hàng. Đó là những phục vụ trôi nổi mà Ngân 
hàng Công Thương khu vực II Hai Bà Trưng có được. 
 Tuy vậy cũng có nhiều khó khăn và hạn chế trong môi trường kinh doanh 
đã làm cho Ngân hàng Công Thương khu vực IIHai Bà Trưng mặc dù có mở 
rộng và đa dạng hoá hoạt động kinh donh nhưng hầu hết vẫn chủ yếu tập trung 
vào nghiệp vụ truyền thống đơn thuần của Ngân hàng là huy động tiền gửi và 
cho vay trực tiếp. 
 II. 2. Các định hướng mục tiêu hoạt động của Ngân hàng: 
 Theo phương châm “ phát triển- an toàn - hiệu quả” của Ngân hàng Công 
Thương Việt Nam, Ngân hàng Công Thương khu vực II Hai Bà Trưng đã đề ra 
mục tiêu và nhiệm vụ công tác năm 2002 như sau: 
 4
 *Hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu chủ yếu sau: 
 Tổng nguồn vốn huy động tăng so với cuối năm 2001 là 22% 
 Dư nợ cho vay và các khoản đầu tư kinh tế khác tăng 21% 
 Nợ quá hạn dưới 3% 
 Lợi nhuận tăng trên 9% so với năm 2000 
 *Tập trung chỉ đạo công tác tín dụng bám sát các định hướng, tín dụng phải 
thực sự góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của cácdoanh nghiệp, 
đưa hoạt động của chi nhánh đi đúng hướng đạt mục tiêu đã đề ra. Tăng cường 
công tác tiếp thị, linh hoạt trong việc thực hiện chính sách khách hàng. Đẩy việc 
tìm các dự án khả thi. Tập trung xử lý nhanh chóng có hiệu quả một số khoản nợ 
quá hạn. 
 *Đẩy mạnh hoạt động thanh toán quốc tế, tăng cường quốc tế, tăng cường 
quản lý kinh doanh ngoại hối 
 *Tăng cường công tác kiểm tra- kiểm soát nội bộ. 
 *Bố trí sắp xếp cán bộ và chuẩn bị cơ sở vật chất hợp lýđể đưa hoạt động 
kinh doanh của Chi nhánh ngày càng có chất lượng. 
 *Không ngừng đổi mới phong cách giao dịch ở tất cả các mặt nghiệp vụ, đảm 
bảo sử lý các công việc nhanh gọn, chính xác, an toàn với thái độ văn minh, đầy 
trách nhiệm. 
 *Tăng cường các mối quan hệ với các cơ quan hữu quan từ Trung ương đến 
địa phương 
 *Phát huy sức mạnh nội lực, xây dựng cơ quan thành một khối đoàn kết, 
thống nhất. Phối hợp chặt chẽ trong công tác dưới lãnh đạo chuyên môn với các 
tổ chức công đoàn, Đoàn thanh niên. 
 II. 3. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Công Thương- KVII- HBT 
 Ngân hàng Công Thương khu vực II Hai Bà Trưng có 7 đơn vị phòng ban: 
 5
 *Phòng hành chính tổ chức, với nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức cán bộ và các 
công việc về hành chính sự nghiệp. Hiện nay, ưu tiên đặt ra là tiếp tục đổi mới 
cán bộ, sắp xếp mạng lưới hoạt động phù hợp với yêu cầu kinh doanh có hiệu 
quả. Công tác bổ nhiệm lánh đạo và quản lý điều hành phải phù hợp với nhu cầu 
công việc và theo đúng quy định của cấp trên. Ngoài ra, công tác đào tạo và bồi 
dưỡng cán bộ ngày càng được quan tâm, gắn với công tác đào tạo quy hoạch cán 
bộ để đáp ứng nhu cầu kinh doanh dịch vụ của Chi nhánh ngày càng phát triển. 
 Công tác hành chính quản trị có chức năng đảm bảo các điều kiện cần thiết 
để cơ quan giao dịch bình thường. 
 Phong tổ chức – hành chính còn có nhiệm vụ bảo vệ các trang thiết bị của 
cơ quan. 
 Phòng nguồn vốn có chức năng chính là huy động các nguồn vốn dưới mọi 
hình thức để đảm bảo quy mô nguồn vốn tiếp tục tăng trưởng theo kế hoạch 
đã định. Phòng huy động qua dân cư và qua số dư tài khoản tiền gửi của các 
doanh nghiệp. 
 Phòng kế toán với quy mô hoạt động và mức độ hiện đại công nghệ ngân 
hàng, công tác quản lý ké toán tín dụng đổi mới theo chương trình kỹ thuật 
mới đã đi vào ổn định, nâng cao trách nhiệm phục vụ kịp thời và chính xác 
mọi nhu cầu thanh toán. 
 Phòng thông tin điện toán: Hiện đại hoá công nghệ ngan hàng và công tác 
thanh toán, ứng dụng thành tựu kỹ thuật tiên tiến để thanh toán chính xác an 
toàn, tiện lợi, cũng là xu hướng tất yếu đối với nền kinh tế mở cửa của Việt 
Nam. Đây chính là một phương châm cạnh tranh có hiệu quả của hoạt động 
Ngân hàng. Phòng thông tin điện toán chính là trung tâm thông tin dữ liệu, 
xử lý, kiểm soát, phân phối, lưu trữ, truyền nhận và cung cấp thông tin cho 
quản lý, điều hành kinh doanh của Chi nhánh một cách nhanh chóng và có 
hiệu quả. 
 6
 Phòng Kiểm soát nội bộ thực hiện vai trò kiểm soát theo tinh thần chỉ đạo 
của Ngân hàng Công thương Việt Nam: chỉ đạo sát sao và chủ động kiểm 
soát trên các mặt nghiệp vụ tín dụng, nguồn vốn, kế toán tài chính, tiền tệ 
kho quỹ kinh doanh vàng bạc, chấp hành dự trữ bắt buộc, chế độ an toàn kho 
quỹ, giao nhận tiền… Đặc biệt là kiểm tra các hồ sơ vay vốn, từ đó đôn đốc 
bổ sung, hoàn thiện những yếu tố pháp lý và những quy định của chế độ đã 
ban hành. Thực hiện tốt công tác kiểm tra nội bộ, cho phép chấn chỉnh kịp 
thời những tồn tại, thiếu sót trong các mặt nghiệp vụ và ngăn chặn những 
phát sinh mới, góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh. 
 Phòng Kinh doanh, hay còn gọi là phòng tín dụng. Phòng có chức năng thực 
hiện các khoản cho vay ngắn hạn, trung- dài hạn, cho vay bằng ngoai tệ. Kể 
từ vài năm gần đây, Chi nhánh còn thực hiện chương trình cho vay đối với 
sinh viên học giỏi trường Đại học Bách khoa, Xây Dựng, Mở theo đúng chủ 
trương đúng đắn của nhà nước. . 
 Ngoài ra, phòng còn thực hiện một chức năng kinh doanh đối ngoại gồm 
việc mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế, thanh toán nhờ thu, dịch vụ 
chi trả kiều hối, séc du lịch. 
 I.4. Kết quả của những hoạt độnh kinh doanh chủ yếu tại Ngân hàng 
Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng năm 2001. 
 I.4.1. Hoạt động huy động vốn. 
 Do không ngừng mở rộng màng lưới giao dịch thông qua các quỹ tiết 
kiệm, giải quyết nhanh chóng và thông thoáng các thủ tục, thái độ phục vụ văn 
minh lịch sự, chi nhánh đã thu hút tối đa nguồn vốn tiền gửi dân cư. Công tác 
tiền gửi được thực hiện đúng qui trình đảm bảo an toàn đã tạo sự yên tâm cho 
người gửi tiền. Bởi vậy mặc dù lãi suất có biến động nhưng số dư tiền gửi ở chi 
nhánh vẫn được duy trì và tăng trưởng. 
 7
 Cùng với việc huy động vốn trong dân cư, chi nhánh đã chú trọng tới việc 
thu hút tiền gửi từ các doanh nghiệp thông qua việc khẳng định uy tín của mình 
bằng chất lượng dịch vụ không ngừng được hoàn thiện, với tiêu chí “ Nhanh 
chóng chính xác và thuận tiện cho khách hàng”. 
 Nhờ đó tính đến 31/12/2001 tổng vốn huy động đạt 1.838 tỷ đồng tăng so 
với cuối năm 2000 là 259 tỷ đồng, đạt 116,4% so với kế hoạch. Đây là nỗ lực 
của toàn bộ Ngân hàng nói chung và của cán bộ phòng tín dụng nói riêng. 
 I.4.2. Hoạt động cho vay. 
 Với việc bám sát định hướng hoạt động của NHCTVN, vận dụng kịp thời, 
linh hoạt và sáng tạo các chủ trương, chính sách của nhà nước, của ngành nhằm 
phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Trong năm qua, Chi nhánh đã tập trung 
đầu tư dài hạn cho khách hàng truyền thống, tích cực thực hiện tốt công tác tiếp 
thị mở rộng thị phần, tìm kiếm khách hàng mới và các dự án khả thi, dư nợ lành 
mạnh, chất lượng tín dụng được nâng lên rõ rệt, thể hiện: 
 Tổng dư nợ cho vay trong nền kinh tế tính đến 31/12/2001 là 824,3 tỷ 
đồng, tăng 199,3 tỷ đồng so với cuối năm 2000. Trong những năm qua Chi 
nhánh đã chủ động tạo mọi điều kiện thuận lợi nhằm hỗ trợ cho các doanh 
nghiệp vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh (Năm 2000: tổng số có 22 dự án 
được thẩm định và 17 dự án đã phát triển tiền vay đưa tốc độ tăng dư nợ trung 
và dài hạn lên 121,2% so với năm 1999). 
 Với những giải pháp tích cực, sáng tạo và thích hợp trong đầu tư vốn, 
triển khai thực hiện tốt chính sách khách hàng linh hoạt, đặc biệt quan tâm đến 
những khách hàng truyền thống, các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt đã 
mang lại hiệu quả thiết thực trong hoạt động cho vay của Chi nhánh cũng như 
trong kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. 
 Chất lượng tín dụng là một vấn đề được Chi nhánh coi trọng và thực tế đã 
có nhiều tiến bộ. Ngoài việc hoàn thiện các qui chế, qui trình tín dụng, Chi 
 8
nhánh thường xuyên kiểm tra đánh giá phân loại khách hàng, phân loại nợ để bổ 
sung kế hoạch cho vay và thu nợ. Hoạt động cho vay đã thực hiện tốt mục tiêu 
cho vay theo dự án từ khâu: thẩm định hồ sơ, thông qua hội đồng tín dụng, dám 
sát việc thanh toán, v.v… cho nên đã đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng 
đồng thời hạn chế được rủi ro. 
 Ngoài ra, Chi nhánh còn luôn quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng 
nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định và kiểm tra 
giám sát món vay. 
 Tính đến 31/12/2001 tổng số nợ quá hạn chiếm 1,9% trong tổng dư nợ, 
giảm 1,2% so với cuối năm 2000 chứng tỏ chất lượng tín dụng và công tác thu 
nợ quá hạn của Chi nhánh ngày càng tiến bộ. 
 Bên cạnh đó, Chi nhánh đã quan tâm phát triển các nghiệp vụ bảo lãnh, 
góp phần đa dạng hoá hoạt động ngân hàng, đồng thời đáp ứng nhu cầu hoạt 
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: bảo lãnh thi công, bảo lãnh dự 
thầu các công trình, bảo lãnh thực hiện hợp đồng… theo đúng qui định của 
NHCTVN. 
 Về công tác kiểm tra sử dụng vốn vay: Để đảm bảo an toàn vốn vay, Chi 
nhánh đã chú trọng công tác kiểm tra sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp. 
Hầu hết các doanh nghiệp vay vốn sử dụng đúng mục đích và trả nợ Ngân hàng 
đúng kế hoạch. Qua kiểm tra, phân tích tài chính của Ngân hàng đã điều chỉnh, 
xử lý, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong từng thời kỳ. 
 Nhìn chung công tác cho vay đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất 
lượng tín dụng được nâng cao đã góp phần củng cố uy tín của Ngân hàng trong 
nến kinh tế và chiếm được sự tin tưởng của dân chúng. 
 I.4.3. Công tác kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. 
 Năm 2001 công tác kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế tiếp tục ổn 
định và phát triển, mặc dù tình hình ngoại tệ và thanh toán quốc tế hết sức khó 
 9
khăn: tỷ giá biến động, tình trạng khan hiếm ngoại tệ diễn ra ở hầu hết các ngân 
hàng. Với nhiều biện pháp tích cực, Chi nhánh đã khơi tăng nguồn ngoại tệ một 
cách có hiệu quả. (Riêng với năm 2000 doanh số mua USD tăng 111,4% so với 
năm 1999, doanh số bán USD tăng 66% so với năm 1999). 
 Các nghiệp vụ chi trả kiều hối, thanh toán séc cũng được quan tâm và thu 
được kết quả tốt. Chi nhánh đã đảm bảo chi trả cho khách hàng nhanh chóng, 
thuận lợi. Đối với những báo có không rõ ràng, Ngân hàng kịp thời tra soát để 
nhanh chóng có thông tin chính xác thông báo cho khách hàng. 
 I.4.4. Công tác kế toán tài chính và kết quả kinh doanh. 
 Với công nghệ hiện đại, chất lượng dịch vụ ngày càng hoàn hiện, Chi 
nhánh tiếp tục khẳng định vị trí của mình, tạo lòng tin và thu hút khách hàng đến 
giao dịch ngày càng đông. Hiện nay số tài khoản giao dịch tại Chi nhánh là 5549 
tài khoản. Điều này góp phần tăng trưởng vốn huy động, dư nợ cho vay và tăng 
chi phí dịch vụ, tạo ra khối lượng luân chuyển vốn khá lớn với doanh số thanh 
toán là 24.344 tỷ đồng,(tăng 3.949 tỷ so với năm 2000) trong đó thanh toán 
không dùng tiền mặt chiếm 81%. 
 Qua đây cần phải khẳng định sự cố gắng phấn đấu không ngừng của các 
cán bộ nhân viên kế toán trong việc đảm bảo thực hiện kế hoạch lợi nhuận 
chung của toàn Ngân hàng. Bên cạnh việc luôn duy trì tốt chế độ hạch toán- kế 
toán và cơ chế quản lý tài chính của NHCT, các cán bộ kế toán đã thực hiện việc 
ghi chép sổ sách hợp pháp, hợp lệ, sử lý nghiệp vụ thành thạo chính xác và trung 
thực. Nhờ vậy mà các công việc cũng như các nghiệp vụ phát sinh đều được giải 
quyết một cách khoa học và mau lẹ khiến cho khách hàngcảm thấy yên tâm, 
thoải mái khi giao dịch qua Ngân hàng. 
 I.4.5. Công tác thu chi tiền mặt. 
 Chi nhánh luôn chủ động tích cực tổ chức màng lưới thu chi nhanh chóng 
cho khách hàng, đảm bảo thu chi kịp thời, chính xác, với thái độ văn minh lịch 
 10
sự, làm tốt các dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng như: thu tiền lưu động, 
chuyển tiền nhanh đi các tỉnh, đáp ứng nhu cầu tiền mặt, ngân phiếu, ngoại tệ 
của khách hàng. 
 Với tinh thần trách nhiệm cao, trong quá trình phục vụ các cán bộ nhân 
viên Ngân hàng làm công tác thu chi tiền mặt đã thực hiện trả tiền thừa 401 món 
cho khách hàng với tổng số tiền trên 300 triệu VND và gần 5000 USD. 
 Vấn đề an toàn kho quỹ đã dược Chi nhánh đặc biệt quan tâm và chấp 
hành nghiêm chỉnh các qui định về bảo vệ, quản lý kho, giao nhận tiền… bảo vệ 
an toàn tuyệt đối tiền, tài sản trong kho và trên đường vận chuyển. 
 I.4.6. Công tác thông tin điện toán. 
 Ngân hàng Công thương khu vực II Hai Bà Trưng đã duy trì và tiếp tục 
phát triển công tác hiịen đại hoá công nghệ ngân hàng theo định hướng của 
NHCT VN. 
 Với vai trò trung tâm thông tin xử lý dữ liệu, hệ thống vi tính của Chi 
nhánh đã thực hiện tốt việc thu nhận, xử lý, kiểm soát, truyền nhận và cung cấp 
thông tin cho quản lý, điều hành kinh doanh một cách nhanh chóng, có hiệu quả. 
 Triển khai thực hiện tốt các chương trình quản lý kế toán-tín dụng, tiết 
kiệm điện tử, thanh toán quốc tế, quản lý nguồn nhân lực, phong ngừa rủi ro… 
 Tổ chức khai thác triệt để các loại máy móc thông tin điện toán hiện có, 
đáp ứng tối đa thiết bị tin học cho các phòng nghiệp vụ. 
 Phối hợp với các phòng ban thực hiện tốt chương trình thông tin báo cáo. 
Đảm bảo môi trường kỹ thuật cho các phần mềm hiện có hoạt động thông suốt. 
 I.4.7. Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ. 
 Để ngăn ngừa, phát hiện và chấn chỉnh, xử lý kịp thời những sai sót trong 
các mặt nghiệp vụ, nhằm thực hiện tốt mục tiêuan toàn trong kinh doanh, công 
tác kiểm tra kiểm soát nội bộ của Chi nhánh được Ban Giám Đốc quan tâm chỉ 
đạo sát sao, tiến hành thường xuyên. Chi nhánh đã chủ độnh lập chương trình và 
 11
thực hiện kiểm soát trên tất cả các mặt nghiệp vụ: tín dụng, bảo lãnh, kế toán- tài 
chính, tiền tệ kho quỹ, giao nhận tiền…, đặc biệt là kiểm tra các hồ sơ tín dụng. 
 Nhờ thực hiện tốt công tác kiểm tra nội bộ Chi nhánh đã kịp thời chấn 
chỉnh được những tồn tại thiếu sót trong các mặt nghiệp vụ và ngăn chặn được 
những phát sinh mới, hạn chế được rủi ro trong kinh doanh, góp phần tích cực 
vào kết quả hoạt động và sự phát triển của Chi nhánh. 
 I.4.8. Công tác tổ chức hành chính. 
 Công tác tổ chức cán bộ luôn được hoàn thiện, thường xuyên rà soát đánh 
giá toàn bộ các bộ nhân viên để có cơ sở sắp xếp, bố trí đề bạt cán bộ phù hợp 
với năng lực, tạo điều kiện phát huy được thế mạnh từng cán bộ. Chi nhánh đã 
quan tâm chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ về nhiều mặt, đặc biệt là 
công tác chuyên môn. trong trường hợp có các nhu cầu về phương tiện làm việc 
hợp lý, Chi nhánh đã đảm bảo cung ứng kịp thời nhằm tạo điều kiện cho các cán 
bộ hoàn thành công việc tốt hơn. 
 Ngoài các công tác trên, NHCT-KVII-HBT còn thực hiện động viên khen 
thưởng kịp thời những cá nhân, tập thể có thành tích đóng góp trong các hoạt 
động kinh doanh và trong các phong trào khác như thể dục thể thao, các hoạt 
động Đoàn,Đảng…, từ đó tạo ra không khí thi đua tích cực giữa các bộ công 
nhân viên trong toàn Ngân hàng. 
 II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TTKDTM TẠI CHI NHÁNH 
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC II HAI BÀ TRƯNG. 
 II.1. Tình hình thanh toán nói chung tại NHCT-KVII-HBT. 
 Ngân hàng Công Thương Khu vực II Hai Bà Trưng là một trong số những 
chi nhánh Ngân hàng có công tác TTKDTM thực sự có hiệu quả và thu hút 
được đông đảo khách hàng trên địa bàn quận cũng như các đơn vị kinh tế đóng 
tại các quận khác. Ý thức được mong muốn của khách hàng khi thực hiện 
TTKDTM là an toàn –kịp thời- chính xác, Ngân hàng Công Thương Khu vực II 
 12
Hai Bà Trưng đã đáp ứng được phần lớn các nhu cầu đó bằng uy tín, khả năng 
kinh doanh và thái độ phục vụ của mình. 
 Do vậy, tình hình thanh toán chung tại Chi nhánh trong thời gian gần đây 
có nhiều chuyển biến tốt, cụ thể được thể hiện qua bảng sau: 
 38 
Bảng 1: 
DOANH SỐ TTBTM & TTKDTM THEO TỪNG QUÝ 2001 - 2002 
Chỉ tiêu 
Quý I/2001 Quý II/2001 Quý III/2001 Quý IV/2001 Quý I/2002 
Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % 
TTBTM 1.027.842 18,59 1.188.829 19,85 1.419.893 27,85 1.975.871 26,3 2.034.871 20,76 
TTKDTM 4.528.976 81.5 4.798.943 80,15 3.677.924 72,15 5.545.702 73,7 7.768.586 79,24 
Cộng 5.556.818 100 5.987.772 100 5.097.817 100 7.521.573 100 9.803.457 100 
 39
 Qua bảng 1, cho thấy doanh số TTBTM & TTKDTM từng quý đều có biến 
động, làm cho doanh số thanh toán từng quý có chiều hướng tăng lên vào cuối năm 
2001 và đầu năm 2002. Tỷ trọng TTKDTM có xu hướng tăng nhanh đặc biệt vào 
quý IV năm 2001 và quý I năm 2002 chứng tỏ khách hàng ngày càng tin tưởng và áp 
dụng các thể thức TTKDTM qua Ngân hàng. Việc gia tăng về doanh số thanh toán 
còn nói lên rằng: Ngân hàng đã sử dụng các biện pháp, các chính sách phù hợp để 
phục vụ khách hàng và đã được khách hàng chấp nhận. 
 Nhìn lại 3 quý đầu năm có thể thấy, mặc dù tỷ trọng TTKDTM chiếm tỷ trọng 
tương đối lớn trong công tác thanh toán nói chung, doanh số TTBTM & TTKDTM 
của quý I, quý II không có biến động nhiều, đến quý III doanh số thanh toán chung 
giảm từ 5.556.818 triệu đồng (quý I) xuống còn 5.097.817 triệu đồng (quý III).Trong 
khi TTBTM lại tăng từ 18,59% (quý I) lên 27,85% (quýIII) kéo theo công tác 
TTKDTM giảm từ 81,5% xuống còn 72,15%. 
 Nguyên nhân chủ yếu là do Ngân hàng phải chi trả tiết kiệm đến hạn, các 
khoản tiền lương và các khoản phải chi khác sau năm quyết toán. Bên cạnh đó có 
những khách hàng chưa hiểu rõ những ưu điểm của TTKDTM nên vẫn có tâm lý 
thích sử dụng tiền mặt.Đó cũng là do Chi nhánh chưa quan tâm nhiều đến công tác 
tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi về Ngân hàng mình, đặc biệt là công tác TTKDTM 
Nhận thức được thực trạng và những nguyên nhân trên, toàn bộ Ngân hàng Công 
Thương Khu vực II Hai Bà Trưng đã nỗ lực tìm ra nhiều biện pháp khắc phục các 
mặt còn hạn chế đó và đã thành công. Doanh số TTKDTM quý IV tăng 1.867.778 
triệu đồng so với quý III và doanh số TTBTM cũng tăng lên vào cuối năm do nhu 
cầu chi tiêu, mua sắm vào dịp cuối này nhiều hơnnên làm cho tình hình thanh toán 
chung của Ngân hàng có nhiều chuyển biến tích cực. Ngoài ra, tỷ trọng TTBTM 
giảm từ 27,85% xuống còn 26,3% do khách hàng đã sử dụng TTKDTM nhiều hơn. 
 40
Đây là thời điểm kết thúc năm, các khách hàng trả nợ lẫn nhau, các hoạt động mua 
bán giao dịch hàng hoá tăng mạnh và hơn ai hết các khách hàng dần hiểu rõ ưu điểm 
 của TTKDTM, do vậy kéo theo nhu cầu chi trả bằng hình thức này tăng lên. 
 Vào quý I/2002, khối lượng thanh toán chung vẫn tiếp tục tăng. Nguyên nhân 
chủ yếu do doanh số TTKDTM tăng từ cuối năm 2001 là 7.521.573 triệu đồng đến 
hết quý I /2001 đã lên 9.803.457 triệu đồng, đồng thời tỷ trọng TTBTM giảm từ 
26,3% xuống 20,76%. 
 Những con số trên đã khẳng định được sự nỗ lực của các cán bộ công nhân 
viên Ngân hàng Công Thương Khu vực II Hai Bà Trưng trong việc đây mạnh công 
tác thanh toán. Suốt thời gian qua, doanh số TTBTM & TTKDTM tương đối ổn 
định, từ đó tạo nên tính chủ động trong nguồn thu và nguồn chi của Ngân hàng. Chi 
nhánh luôn duy trì mức tồn quỹ tiền mặt đủ để đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt của 
khách hàng, đảm bảo cung cấp đầy đủ phương tiện thanh toán một cách kịp thời. 
Ngân hàng cũng đã quan tâm nhiều hơn đến các chính sách khách hàng và đào tạo 
bồi dưỡng các cán bộ nhân viên. 
 Bên cạnh đó, nhờ có công nghệ tin học ứng dụng nên việc truyền tin nội bộ 
qua mạng và công tác thanh toán bù trừ đã giúp khâu luân chuyển chứng từ thuận 
tiện, nhanh chóng, an toàn hơn. Bởi vậy, chuyển tiền qua mạng và thanh toán bù trừ 
đã được nhiều khách hàng tín nhiệm sử dụng. Điều này cho thấy khách hàng đã nhận 
thức rõ lợi ích của công tác TTKDTM trong mọi hoạt động mua bán phát sinh hàng 
ngày của họ. Mặt khác, nó cũng nói đến khả năng đáp ứng về phương tiện thanh 
toán và khả năng phục vụ của Chi nhánh ngày càng được nâng cao. 
 II.2. Phân tích tình hình vận dụng các hình thức thanh toán tại Chi nhánh 
Ngân hàng Công Thương Khu vực II Hai Bà Trưng. 
 Hiện nay Chi nhánh đã áp dụng chủ yếu 3 hình thức TTKDTM là: 
 + Thanh toán bằng séc. 
 41
 + Thanh toán bằng UNT. 
 + Thanh toán bằng UNC. 
 Thực tế tình hình thanh toán của Chi nhánh được thể hiện qua bảng như sau: 
 41 
Bảng 2: 
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC TTKDTM TẠI NHCT HBT 
TRONG NĂM 2000 VÀ QUÝ I NĂM 2002 
Thời 
gian 
Séc Uỷ nhiệm thu Uỷ nhiệm chi Tổng 
Số 
món 
Số tiền % 
Số 
món 
Số 
tiền 
% 
Số 
món 
Số tiền % Số món Số tiền % 
Quý 
I/2001 
1.684 140.724 6,15 1.137 10.436 0,45 9.102 2.143.428 93,4 11.923 2.294.588 100 
Quý 
II/2001 
1.997 210.600 10,35 1.221 8.664 0,42 8.877 1.816.595 89,23 12.095 2.035.859 100 
Quý 
III/2001 
1.874 177.162 9,03 1.239 8.516 0,44 9.236 1.775.128 90,53 12.349 1.960.806 100 
Quý 
IV/2001 
2.566 262.816 9,84 1.197 8.255 0,3 11.760 2.400.547 89,86 15.523 2.671.618 100 
Quý 
I/2002 
1.490 174.147 6,1 1.146 6.837 0,2 9.781 2.681.908 93,7 12.417 2.862.892 100 
 42
 Theo thống kê, về số lần giao dịch,từ quý I/2001 đến quý IV/2001 
tổng số món tăng từ 11.923 món đến 15.523 món, đồng thời doanh số cũng 
tăng từ 2.294.588 triệu đồng đến 2.671.618 triệu đồng. Sang đến quý 
I/2002, mặc dù tổng số món giao dịch có giảm xuống: cụ thể là giảm 3.106 
món nhưng doanh số thanh toán lại tăng lên 191.274 triệu đồng so với quý 
IV/2001. 
 Qua bảng 2 ta có thể thấy hình thức UNC được khách hàng ưa dùng 
hơn cả.Do vậy, doanh số thanh toán bằng UNC luôn chiếm phần lớn trong 
công tác TTKDTM vì khách hàng cho rằng hình thức thanh toán này thuận 
tiện và mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn cho mình. Từ quý IV/2001 đến quý 
I/2002 chỉ trong một thời gian ngắn mà doanh số thanh toán bằng UNC đã 
tăng từ 2.681.908 triệu đồng đến 2.862.892 triệu đồng. 
 Trong năm 2001, số món giao dịch và doanh số thanh toán bằng séc 
tuy không chiếm nhiều trong tổng TTKDTM nhưng qua từng quý đã có sự 
tăng lên rõ rệt, cụ thể là số món giao dịch không ngừng tăng từ 1.684 món 
ở quý 1/2001 tới 2.566 món vào quý IV/2001 làm cho doanh số tăng thêm 
122.092 triệu đồng. Điều này chứng tỏ khách hàngđã sử dụng hình thức 
thanh toán này nhiều hơn. Vào đầu năm 2002 các doanh nghiệp chưa có 
nhiều hoạt động kinh doanh nên số lần giao dịch bằng TTKDTM cũng có 
phần giảm xuống, trong đó thanh toán bằng séc giảm 1.076 món so với 
cuối năm 2001. 
 Riêng đối với UNT luôn chiếm phần khá nhỏ trong tổng doanh số 
TTKDTM vì khách hàng thường dùng hình thức thanh toán này để chi trả 
những khoản tiền nhỏ, và có chiều hướng giảm. Trong quý I/2001 doanh số 
thanh toán bằng UNT là 10.436 triệu đồng đến quý IV giảm xuống chỉ còn 
8.255 triệu đồng và sang đến quý I/2002 lại tiếp tục giảm xuống còn 6.837 
triệu đồng. 
 Mặc dù Ngân hàng luôn khuyến khích sử dụng TTKDTM nhưng 
mức độ áp dụng hình thức này là bao nhiêu phụ thuộc rất nhiều vào tâm lý 
 43
và sự lựa chọn của mỗi khách hàng. Hơn nữa trong mỗi hình thức thanh 
toán đều còn những mặt hạn chế nhất định như: 
 II.2.1. Hình thức thanh toán bằng séc. 
 Có thể nói séc là hình thức TTKDTM ra đời gần như sớm nhất và đã 
được sử dụng cho các giao dịch thanh toán từ lâu. Công ước Giơnevơnăm 
1935 đã đưa ra các qui chung mang tính điều chỉnh quốc tế về đối tượng và 
hoạt động thanh toán bằng séc để tạo ra nền tảng cơ bản cho các quốc gia 
căn cứ vào đó để sử dụng séc. 
 Tại Việt Nam, khi có nghị định 30/CP về séc và việc sử dụng séc 
trong thanh toán đang dần được đơn giản hoá với các tiến bộ công nghệ tin 
học đã làm cho khách hàng hiểu rõ về hình thức thanh toán này hơn bởi các 
ưu điểm thuận lợi của nó. Tuy vậy do vẫn hoạt động dựa trên cơ sở chứng 
từ nên khi sử dụng séc sẽ khó tránh khỏi được những rủi ro. 
 Hiện nay tại Ngân hàng Công Thương Khu vực II Hai Bà Trưng chủ 
yếu áp dụng hai loại séc là séc bảo chi và séc chuyển khoản. Bảng 3 cho 
thấy thực tế quy mô sử dụng các loại séc đó. 
 Bảng 3: tình hình thực hiện hình thức thanh toán thanh toán 
bằng séc: 
 Séc 
Quý 
Séc chuyển khoản Séc bảo chi Tổng cộng 
Số món 
Số 
tiền 
% Số món Số tiền % Số món Số tiền % 
I/2001 1.361 55.102 39 323 85.622 61 1.684 140.724 100 
II/2001 1.498 62.871 30 499 147.729 70 1.997 210.600 100 
III/2001 1.373 61.123 35 561 116.039 65 1.934 177.162 100 
IV/2001 1.796 89.262 39 770 137.554 61 2.566 266.816 100 
I/2002 1.204 62.492 36 286 111.655 63 1.490 174.147 100 
 44
 Với số liệu ở bảng 3, ta thấy doanh số thanh toán bằng séc qua từng 
quý tăng giảm không đều và sự chênh lệch về việc sử dụng séc là tương đối 
lớn. 
 Tổng doanh số thanh toán bằng séc có chiều hướng tăng mạnh từ 
quý I/2001 đến quý II/2001 là 69.876 triệu đồng và từ quý III đến quý 
IV/2001 tăng là 49.654 triệu đồng. Nếu so sánh giữa 2 quý I/2001 và quý 
IV/2001 sẽ thấy doanh số tăng rất mạnh từ 140.724 triệu đồng ở quý I/2001 
đến 226.816 triệu đồng ở quý IV/2001. 
 Tuy nhiên, doanh số này lại giảm khá nhanh trong khoảng thời gian 
từ quý II/2001 đến quý III/2001 là 33.438 triệu đồng và từ quý IV/2002 đến 
quý I/2002 là 52.669 triệu đồng. Cụ thể từng loại séc như sau: 
 II.2.1.1. Séc bảo chi. 
 Hình thức thanh toán bằng SBC là hình thức thanh toán chủ yếu 
trong thanh toán séc tại Ngân hàng Công Thương - Hai Bà Trưng hiện nay. 
Donh số thanh toán cũng như tỷ trọng thanh toán của nó luôn chiếm phần 
lớn nhất so với các loại séc khác, khoảng 60-70% trong tổng doanh số 
thanh toán bằng séc. 
 SBC có ưu thế hơn so với séc chuyển khoản(SCK) bởi nó có phạm vi 
thanh toán rộng có thể cùng Ngân hàng, khác ngân hàng, khác địa bàn hay 
khác hệ thống và độ an toàn cao nên đã tạo được thuận lợi trong qua trình 
thanh toán của khách hàng. Khi có nhu cầu phát hành SBC, người mua phải 
ký quỹ đảm bảo khả năng thanh toán tại Ngân hàng nên số hàng cung ứng 
của người mua sẽ được đảm bảo bởi số tiền ký quỹ đó. Tuy nhiên số vốn 
của người mua sẽ bị đọng trong một thời gian nhất định. Đây cũng là lý do 
giải thích tại sao vào đầu năm doanh số thanh toán cũng như tỷ trọng thanh 
toán SBC lại chiếm phần lớn nhất trong năm: Riêng quý II/2001 tỷ trọng 
thanh toán bằng SBC chiếm 70% trong tổng doanh số thanh toán bằng séc. 
Đến quý III/2001 doanh số thanh toán bằng SBC lại giảm 31.690 triệu 
 45
đồng so với quý II của năm và tương đương với tỷ trọng giảm từ 70% 
xuống còn 65% làm cho doanh số thanh toán bằng séc cũng giảm đi 33.438 
triệu đồng. Tình trạng này là do: thường vào giữa năm các doanh nghiệp 
cần nhiều vốn để đầu tư, mua máy móc thiết bị cho sản xuất …nên nếu sử 
dụng hình thức thanh toán này thì đương nhiên họ sẽ bị mất một lượng vốn 
nhất định đọng ở Ngân hàng để ký quý nên tốc độ thanh toán sẽ bị hạn chế. 
Nhưng đến thời điểm cuối năm là thời gian mà khách hàng phải thanh toán 
nhiều trong các hoạt động kinh doanh nên doanh số thanh toán của SBC lại 
được tăng lên một cách đáng kể: tăng 57.515 triệu đồng so với quý III cùng 
năm. 
 Cần phải khẳng định rằng NHCT-HBT đã tạo nhiều thuận lợi trong 
việc thanh toán bằng hình thức này như: thủ tục bảo chi séc nhanh gọn, thời 
gian luân chuyển chứng từ được rút ngắn một cách nhanh nhất, việc tính và 
ghi KHM được sử dụng qua máy tính nên độ chính xác rất cao. Nhờ vậy 
mà khách hàng rất yên tâm khi thanh toán bằng SBC. Trong thời gian tới, 
Chi nhánh vẫn cần nâng cao hiệu quả thanh toán và tạo điều kiện thuận lợi 
nhằm mở rộng hình thức thanh toán bằng SBC hơn nữa. 
 II.2.1.2. Séc chuyển khoản. 
 Loại séc này chiếm tỷ trọng thấp hơn so với SBC trong tổng doanh 
số thanh toán bằng séc, khoảng 40% năm. Nhìn chung doanh số và tỷ trọng 
thanh toán bằng hình thức này là tương đối ổn định. 
 SCK được dùng theo một mẫu thống nhất và được dùng cho cả tiền 
mặt và chuyển khoảnvới thời hạn là 15 ngày. Sở dĩ SCK được nhiều người 
ưa dùng bởi một số ưu điểm sau: việc phát hành và thanh toán SCK tương 
đối đơn giản. Vì bên mua sau khi nhận được hàng từ bên bán sẽ giao séc 
cho người bán và bên bán sẽ nhận được tiền hàng sau khi nộp séc vào Ngân 
hàng phục vụ mình. 
 Tuy vậy SCK vẫn còn tồn tịa một số những nhược điểm làm cho số 
món cũng như doanh số thanh toán thấp hơn so với hình thức thanh toán 
 46
khác. Hơn nữa, thông thường người mua thích sử dụng hình thức thanh 
toán này hơn vì nó thuận tiện cho họ hơn, còn người bán có thể gặp một số 
khó khăn trong việc nhận tiền hàng của mình. Nguyên nhân dẫn đến tình 
trạng này là do khi thanh toán bằng SCK phải tuân thủ nguyên tắc ghi Nợ 
trước, ghi Có sau nên người thụ hưởng sau khi nộp séc vào Ngân hàngphục 
vụ mình chưa được thanh toán ngay mà còn phải đợi Ngân hàng bên mua 
kiểm tra và làm thủ tục ghi Nợ trên séc. Trong trường hợp bên mua và bên 
bán ở 2 ngân hàng khác nhau trên cùng địa bàn phải thực hiện qua phương 
thức bù trừ thì quá trình luân chuyển chứng từ sẽ kéo dài trong 2 hoặc 3 
ngày. Nếu tài khoản của người muakhông đủ tiền thì người bán sẽ phải đợi 
lâu hơn trong khi họ lại không muốn vốn của mình bị chiếm dụng. Bên 
cạnh đó thời hạn của SCK chỉ có 15 ngày nên người bán mặc dù muốn 
thanh toán ngay nhưng vì nhiều lý do có thể để séc bị qúa hạn và khó nhận 
được tiền hàng của mình. 
 Tóm lại, qua việc tìm hiểu các hình thức thanh toán bằng séc tại chi 
nhánh NHCT-HBT ta có thể thấy được những ưu điểm cũng như các 
khuyết diểm của mỗi loại séc. Đối với 2 khách có quan hệ tín nhiệm lẫn 
nhau thì séc là hình thức thanh toán rất phù hợp bởi nó hạn chế được phần 
nào rủi ro và sự chiếm dụng vốn. Còn đối với 2 khách hàng chưa có tín 
nhiệm lẫn nhau hoặc mới giao dịch với nhau thì sẽ không hoàn toàn yên 
tâm khi chọn hình thức thanh toán này vì nó chỉ kà “bản cam kết hứa trả”. 
Tuy nhiên séc vẫn là hình thức thanh toán chủ yếu không thể thiếu trong 
công tác TTKDTM của Ngân hàng. 
 II.2.2. Hình thức thanh toán bằng UNC- chuyển tiền. 
 II.2.2.1. Uỷ nhiệm chi. 
 UNC được coi là hình thức thanh toán phổ biến nhất tại Ngân hàng 
Công Thương Khu vực II Hai Bà Trưng. Qua bảng 2 cho thấy, số món và 
doanh số thanh toán bằng hình thức này thường chiếm một tỷ lệ lớn trong 
tổng doanh số TTKDTM(khoảng trên dưới 90%). Doanh số thanh toán 
 47
UNC là tương đối lớn khoảng 2000 tỷ/ mỗi quý và tương đối ổn định. Chỉ 
riêng quý I/2002 doanh số thanh toán bằng UNC tăng lên một cách rõ rệt, 
cụ thể là tăng 538.480 triệu đồng so với quý I/2001, tăng 865.313 triệu 
đồng so với quý II/2001 và tăng 906.780 triệu đồng so với quý III/2001. 
 Trên đây là một con số đáng kể chứng tỏ khách hàng rất chuộng hình 
thức thanh toán này, đặc biệt là các công ty, nhà máy lớn trên địa bàn như: 
Dệt 8/3, Dệt kim Đông Xuân, Công ty giầy Thăng Long… 
 Những nguyên nhân chủ yếu khiến khách hàng thường xuyên sử 
dụng UNC bởi các ưu điểm của nó là: 
- Phạm vi sử dụng rất rộng rãi trên khắp các địa bàn trên toàn quốc. 
- Thủ túc thanh toán đơn giản, khi khách hàng có nhu cầu chi trả 
tiền hàng hoá - dịch vụ khách hàng chi việc lập bộ UNC gửi tới 
Ngân hàng, sau đó ngân hàng sẽ tự động kiểm tra và tiến hành 
thanh toán nếu trên tài khoản tiền gửi của bên mua còn số dư. 
Nếu tài khoản của người thụ hưởng và người mua mở tại cùng 
một Ngân hàng thì số tiền hàng hoá sẽ được tự động chuyển 
thẳng vào tài khoản tiền gửi của người bán mà không phải làm 
bất cứ một thủ tục gì. Nếu bộ UNC hợp lệ thì người bán sẽ được 
nhận tiền hàng trong thời gian rất ngắn vì hiện nay do việc thanh 
toán qua Ngân hàng được thực hiện trên công nghệ máy tính hiện 
đại nên khách hàng có thể hòan toàn yên tâm về độ an toàn, chính 
xác và hiệu quả của hình thức thanh toán này. 
- Bên cạnh đó, khách hàng còn có thể sử dụng UNC để chuyển 
vốn, làm nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước hoặc trả lãi ngân 
hàng. 
 Tuy nhiên trên thức tế có nhiều khách hàng vẫn chưa quen sử dụng 
hình thức này, một phần do họ chưa hiểu rõ về lợi ích khi tham gia thanh 
toán bằng hình thức UNC, mặt khác là do UNC vẫn còn tồn tại một số 
nhược điểm như: 
 48
 -Người mua phải trích tài khoản của mình trước khi nhận được hàng, 
do vậy họ không nắm được tình trạng thực sự của hàng hoá có đúng yêu 
cầu của mình không và nếu người bán không chuyển giao hàng thì người 
mua sẽ gặp rủi ro mất vốn. Điều này đòi hỏi giữa người mua và người bán 
phải có sự tín nhiệm rất cao. 
 -Đối với bên bán, khi đã chuẩn bị giao hàng đủ tiêu chuẩn cho bên 
mua nhưng lúc đó tài khoản của bên mua không đủ để thanh toán thì người 
bán sẽ phải mất phí bảo quản, lưu trữ và việc thanh toán sẽ bị chậm laị gây 
thiệt hại, hư hỏng đến hàng hoá. 
 Trong thời gian tới, để tăng doanh số TTKDTM nói chung và doanh 
số thanh toán UNC hơn nữa, về phía Ngân hàng cần phải có những biện 
pháp hợp lý nhằm phát huy hết ưu diểm đồng thời hạn chế những nhược 
diểm, tồn tại của hình thức thanh toánbằng UNC. 
 II.2.2.2.Séc chuyển tiền. 
 Đây là loại séc ít được áp dụng nhất tại Chi nhánh, tỷ trọng của nó 
chỉ chiếm dưới 1% trong tổng doanh số thanh toán. Nguyên nhân của tình 
trạng này là do phạm vi thanh toán của nó quá hẹp, nó chi được dùng để 
chuyển tiền giữa 2 chi nhánh cùng hệ thống, đồng thời thủ tục thực hiện 
thanh toán của séc chuyển tiền cũng không đơn giản. Khi có nhu cầu 
chuyển tiền bằng SCT, khách hàng phải nộp vào NHCT 2 liên UNC hoặc 2 
liên giấy nộp tiền, giấy nộp ngân phiếu thanh toán, nội dung ghi rõ họ tên, 
số chứng minh thư, ngày tháng năm cấp của người cầm SCT và nội dung 
chi trả của sécđể xin phát hành. Vì vậy chỉ có người có tên trên séc mới 
được nhận tiền từ Ngân hàng gây nên sự bất tiện khi sử dụng loại séc này. 
 II.2.3. Hình thức thanh toán bằng UNT. 
 Hình thức thanh toán này khách hàng ít sử dụng hơn, do vậy doanh 
số thanh toán của nó chi chiếm một phần nhỏ trong tổng doanh số thanh 
toán TTKDTM của Ngân hàng. Năm 2001 ở Chi nhánh NHCT- HBT 
doanh số thanh toán bằng UNT có xu hướng giảm xuống theo từng quý, 
 49
tính đến quý IV/2001 doanh số thanh toán bằng UNT đã giảm 2.181 triệu 
đồng so với quý I/2001, riêng quý I/2002 doanh số thanh toán bằng hình 
thức này lại giảm 3.599 triệu đồng so với quý I/2001. Trên thực tế chỉ có 
một số ít khách hàng sử dụng hình thức thanh toán này để thu tiền điện, 
tiền nước, tiền điện thoại…với giá trị thanh toán nhỏ nên doanh số của 
UNT thường không cao như các hình thức thanh toán kháckhác. 
 Nguyên nhân chủ yếu là mặc dù phạm vi thanh toán của UNT rất 
rộng nhưng thủ tục thanh toán giữa 2 khách hàng mở tài khoản tại 2 ngân 
hàng khác nhau lại không gọn làm giảm tốc độ thanh toán của các bên tham 
gia. Khi muốn thu tiền hàng, người bán phải nộp UNT vào Ngân hàng phục 
vụ mình nhờ thu hộ, sau đó Ngân hàng này gửi bộ UNT sang Ngân hàng 
của người mua để ghi Nợ trước. Nếu bên mua có đủ khả năng thanh toán 
thì Ngân hàng bên bán mới được ghi Có vào tài khoản của người bán. 
Trong trường hợp bên mua chưa đủ tiền thì Ngân hàng sẽ nhập ngoại bảng 
“ chứng từ thanh toán quá hạn” và người bán phải đợi đến khi bên mua có 
đủ tiền. Điều này làm cho số vốn của người bán bị chiếm dụng, tốc độ chu 
chuyển vốn bị chững lại gây ảnh hưởng không tốt tới kết quả kinh doanh 
của người bán. Vì vậy, muốn đảm bảo được quyền lợi cho cả người mua và 
người bán cần có sự nỗ lực từ nhiều phía, đặc biệt là Ngân hàng nhằm phục 
được nhược điểm từ đó khai thác tới mức tối đa nhu cầu thanh toán của 
hình thức này. 
 II.3. Đánh giá chung về công tác TTKDTM tại NHCT- HBT. 
 Với một năm hoạt động đầy nỗ lực và cố gắng, NHCT-HBT đã từng 
bước hoàn thiện các nghiệp vụ thanh toán nói chung cũng như hình thức 
TTKDTM nói riêng. Trong năm qua, Ngân hàng đã thực hiện được 6.028 
món thanh toán bằng SCK đạt doanh số thanh toán là 268.358 triệu đồng, 
2.039 món thanh toán bằng SBC đạt doanh số thanh toán là 522.944 triệu 
đồng, 3 món thanh toán bằng SCT đạt 55 triệu đồng. Thanh toán bằng UNT 
có 4.794 món đạt doanh số là 35.811 triệu đồng, đặc biệt là 38.975 món 
 50
thanh toán bằng UNC đạt doanh số lớn là 8.135.698 triệu đồng với tổng 
TTKDTM là 18.551.545 triệu đồng, chiếm 76,2% tổng doanh số thanh toán 
chung của Ngân hàng. Đây là một kết qủa thật đáng kể mà không phải 
Ngân hàng nào trên cùng địa bàn cũng có thể đạt được. 
 Mặc dù điều kiện kinh tế của đất nước còn gặp nhiều khó khăn và 
sự nỗ lực của Ngân hàng là có hạn song NHCT-HBT đã từng bước khắc 
phụ những khó khăn đó và đưa ra nhiều các biện pháp để cải thiện các hình 
thức hoạt động của mình. Nhờ vậy mà uy tín của Ngân hàng ngày càng 
được nâng cao. 
 Trong thời gian gần đây, NHCT-HBT đã kết hợp giữa công nghệ 
hiện đại và ứng dụng tin học vào công tác kế toán thống kê nên đã xử lý 
các nghiệp vụ phát sinh kịp thời và nhanh chóng hơn. Việc thanh toán liên 
hàng đã được thực hiện qua thanh toán điện tử đảm bảo đọ an toàn và chính 
xác cao cho các khách hàng, đem lại nhiều hiệu quả rõ rệt. 
 Với các thành quả mà NHCT-HBT đạt được trong năm qua không 
thể không kể đến sự đóng góp đáng kể của các CBCNV trong Ngân hàng, 
đặc biệt là các cán bộ kế toán. Họ không chỉ thành thạo về mặt nghiệp vụ 
chuyên môn mà còn thể hiện thái độ phục vụ nhiệt tình, chu đáo tạo cho 
khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng có cảm giác tin tưởng và thoải 
mái, do đó số lượng khách hàng đến với Ngân hàng ngày một nhiều hơn. 
 Bên cạnh đó, Ngân hàng còn áp dụng hình thức quảng cáo trên 
truyền hình và trên một số tờ báo để giới thiệu các nghiệp vụ và các dịch vụ 
mà Ngân hàng cung cấp những thông tin cần thiết cho các cá nhân và các 
đơn vị kinh tế, giúp họ hiểu hơn về các hoạt động của Ngân hàng. Trong 
năm 2001 Ngân hàng đã thực hiện mở rộng các dịch vụ thanh toán trong 
nước cũng như thanh toán quốc tế nhằm thu hút đông đảo khách hàng đến 
giao dịch qua Ngân hàng và sẽ không ngừng được mở rộng trong tương lai. 
Bên cạnh đó Ngân hàng còn tiến hành các dịch vụ khác như: cất trữ bảo 
quản các giấy tờ có giá, tư vấn về tiền tệ, quản lý tiền vốn và các dự án đầu 
 51
tư phát triển theo yêu cầu với mục đích đáp ứng nhu cầu tối đa cho mọi đối 
tượng khách hàng từ đố tăng doanh sốTTKDTM và phát triển các nghiệp 
vụ kinh doanh khác trong Ngân hàng. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TTKDTM TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC II HAI BÀ TRƯNG.pdf