Tài liệu Luận văn Thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán: 1
Luận văn 
Đề tài: Thị trường chứng khoán Việt 
Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển 
của thị trường chứng khoán 
2
Mục lục 
Lời nói đầu 4 
Nội dung đề tài 6 
Phần 1: Lý thuyết chung về chứng khoán và thị trường chứng 
khoán 
6 
I. Chứng khoán 6 
1. Khái niệm 6 
2. Một số loại chứng khoán cơ bản 6 
2.1 Cổ phiếu 6 
2.2 Trái phiếu 7 
2.3 Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán 8 
II. Thị trường chứng khoán 9 
1. Khái niệm 9 
2. Chức năng 9 
2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế 9 
2.2 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng 10 
2.3 Tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán 10 
2.4 Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp 11 
2.5 Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách vĩ 
mô 
11 
3. Các chủ thể tham gia thị trường 11 
3.1 Nhà phát hành 11 
3.2 Nhà đầu tư 12 
3.3 Các công tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 12 
3.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 13 
4. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
34 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1162 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn 
Đề tài: Thị trường chứng khoán Việt 
Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển 
của thị trường chứng khoán 
2
Mục lục 
Lời nói đầu 4 
Nội dung đề tài 6 
Phần 1: Lý thuyết chung về chứng khoán và thị trường chứng 
khoán 
6 
I. Chứng khoán 6 
1. Khái niệm 6 
2. Một số loại chứng khoán cơ bản 6 
2.1 Cổ phiếu 6 
2.2 Trái phiếu 7 
2.3 Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán 8 
II. Thị trường chứng khoán 9 
1. Khái niệm 9 
2. Chức năng 9 
2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế 9 
2.2 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng 10 
2.3 Tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán 10 
2.4 Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp 11 
2.5 Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách vĩ 
mô 
11 
3. Các chủ thể tham gia thị trường 11 
3.1 Nhà phát hành 11 
3.2 Nhà đầu tư 12 
3.3 Các công tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 12 
3.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 13 
4. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng 
khoán 
15 
4.1 Nguyên tắc công khai 15 
4.2 Nguyên tắc đấu giá 15 
4.3 Nguyên tắc trung gian 16 
5. Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán 16 
5.1 Căn cứ vào sự luân chuyển nguồn vốn 16 
5.2 Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường 17 
5.3 Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường 18 
Phần 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam 18 
I. Khái quát chung về thị trường chứng khoán Việt Nam 18 
1. Sự cần thiết phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 18 
2. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian 
qua 
19 
3
II. Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển thị trường 
chứng khoán Việt Nam 
21 
1. Thuận lợi 22 
2. Khó khăn 22 
III. Một số nhận định của các nhà đầu tư về thị trường 
chứng khoán Việt Nam 
24 
IV. Một số giải pháp và ý kiến cá nhân để thúc đẩy sự phát 
triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 
26 
1. Cổ phần hoá doanh nghiệp 26 
1.1 Giải pháp cho các DN còn gặp khó khăn về tài chính và quản 
lý 
26 
1.2 Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong DN sau khi tiến 
hành CPH 
29 
1.3 Giải pháp cho những tồn tại trong vốn để xác định giá trị 
doanh nghiệp 
30 
2. Đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu 32 
2.1 Cải cách quy trình đấu thầu trái phiếu 32 
2.2 Xây dựng một thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) chuyên 
biệt 
33 
3. Tăng cường vai trò của cơ quan quản lý chứng khoán 34 
4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 34 
5. Các tổ chức trung gian 35 
Kết luận 36 
Bảng chữ viết tắt 37 
Danh mục tài liệu tham khảo 38 
4
LỜI NÓI ĐẦU 
Việt Nam bắt đầu tiến hành đổi mới từ năm 1986 và kể từ đó tới nay đất 
nước ta đã phát triển với một tốc độ rất nhanh. Từ một nền kinh tế bao cấp 
trước đổi mới nước ta đã dần chuyển sang một nền kinh tế thị trường kể từ sau 
đổi mới. Biết bao thách thức đã đặt ra cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại 
hoá mà nhà nước đặt ra nhằm phát triển nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên 
những thách thức đó cũng đã chỉ ra rằng nền kinh tế thị trường của chúng ta 
còn quá yếu kém. Cuôc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á 1997 đã chỉ 
ra điều đó rất rõ. Trong khi các nước trong khu vực bị ảnh hưởng rất nặng nề từ 
cuộc khủng hoảng đó thì dường như chúng ta vẫn không có một chút ảnh 
hưởng gi đáng kể, tỗc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm vẫn đạt được ở một mức 
khá cao. Điều đó phải chăng là do chúng ta đã quản lý tốt, nền kinh tế chúng ta 
đã đủ mạnh nên không bị ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng. Nhưng sự thật 
không phải như vậy mà do một nguyên nhân rất đơn giản đó là do nền kinh tế 
của chúng ta còn quá ít có quan hệ với các nền kinh tế khác nên dù trong khu 
vực bị khủng hoảng thì chúng ta cũng không bị ảnh hưởng quá lớn. 
Trong một thế giới mà xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay đang diễn ra 
rất nhanh thì thử hỏi một nền kinh tế có thể thật sự phát triển nếu không có 
quan hệ kinh tế với các nền kinh tế khác? Dường như nhận ra điều đó kể từ sau 
cuộc khủng hoảng 1997 và sang đầu năm 2000 đảng và nhà nước ta đã thực 
hiện nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước 
ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước và khu vực trên thế giới để phục 
vụ mục tiêu phát triển kinh doanh. 
Để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh doanh thì nhà nước đã thực hiện 
nhiều biện pháp để phát triển các thị trường. Trong đó thị trường vốn là một 
trong những thị trường hết sức quan trọng để huy động vốn cho các mục tiêu 
phát trỉên kinh tế xã hội. Một trong những kênh huy động vốn mà nhà nước đã 
tổ chức là thị trường chứng khoán với việc mở trung tâm giao dịch chứng 
khoán tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 năm 2000. Từ đó đến nay thì thị 
trường chứng khoán đã có một số đóng góp vào sự phát triển kinh tế nói chung. 
Tuy nhiên sự phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam còn gặp nhiều khó 
khăn, nếu không có biện pháp khắc phục thì thậm chí nó còn là vật cản cho sự 
phát triển kinh tế. 
5
Chính vì thế, mà hơn bao giờ hết chúng ta cần phải chuẩn bị một cách kỹ 
càng cả về kiến thức cơ bản và các kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới 
về cơ cấu quản lý và kiểm soát hoạt động của thị trường chứng khoán. Để thị 
trường này thất sự là một kênh huy động vốn hiêu quả cho các mục tiêu phát 
triển kinh tế. 
Trên cơ sở đó em hi vọng đề án tài chính tiền tệ với đề tài Thị trường 
chứng khoán Việt Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường 
chứng khoán có thể có những đóng góp cho sự phát triển của thị trường chứng 
khoán Việt Nam 
6
NỘI DUNG ĐỀ TÀI 
Phần 1: Lý thuyết chung về chứng khoán và thị trường chứng 
khoán 
I. Chứng khoán 
1 Khái niệm 
Chứng khoán là thuật ngữ dùng để chỉ các chứng chỉ đầu tư hoặc cho vay 
vốn nhằm thu được trong tường lai một khoản lợi tức. 
Chứng khoán bao gồm 3 loại chính sau 
Chứng khoán vốn: cổ phiếu 
Chứng khoán nợ: trái phiếu 
Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán: chứng quyền, chứng chỉ thụ 
hưởng 
2 Một số loại chứng khoán cơ bản 
2.1 Cổ phiếu 
Cổ phiếu là chứng chỉ cổ phần xác nhận sự góp vốn của người nắm giữ 
cổ phiêu vào công ty cổ phần và xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người 
nắm giữ cổ phiếu với tài sản và thu nhập của công ty 
Cổ phiếu được chia làm hai loại chủ yếu sau 
Cổ phiếu ưu đãi có đặc điểm là thường có mức cổ tức cố định. Người 
chủ của cố phiếu này có quyền được nhận tiền lãi trước các cổ đông thường. 
Nếu số lãi chỉ đủ trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ 
không nhận được cổ tức kì đó. Một vấn đề rất quan trọng trong việc phát hành 
cổ phiếu ưu đãi là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu 
nhập công ty, cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu 
ưu đãi. Mặc dù vậy thì cổ phiếu ưu đãI vẫn có ưu điểm với cả nhà phát hành và 
nhà đầu tư. Tuy nhiên thông thường thì cổ phiếu ưu đãi chỉ chiếm một tỷ trọng 
nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. 
7
Cổ phiếu thông thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì các ưu đIểm 
của nó đáp ứng được yêu cầu của cả người đầu tư và công ty phát hành. Là cổ 
phiếu xác định quyền sở hữu của cổ đông trong công ty. Cổ phiếu thường được 
đặc trưng bởi quyền quản lí, kiểm soát công ty. Cổ đông sở hữu cổ phiếu 
thường được tham gia bầu hội đồng quả trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các 
vấn đề lớn của công ty. Cổ tức của cổ phiếu thường được trả khi hội đồng quản 
trị công bố. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường 
sẽ được chia số tiền còn lại sau khi thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho 
cổ phiếu ưu đãi. Lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được cơ quan quản lý có 
thẩm quyền cho phép phát hành gọi là vốn cổ phần. Phần lớn những cổ phiếu 
đã phát hành nằm trong tay những nhà đầu tư - cổ đông. Những cổ phiếu này 
được coi là đang lưu hành trên thị trường. Tuy nhiên, có thể chính công ty phát 
hành mua lại một số cổ phiếu của mình và giữ nó nhằm những mục đích nhất 
định và những cổ phiếu đó được coi như không lưu hành. 
2.2 Trái phiếu 
Trái phiếu là thoả thuận vay nợ mang tính chất hợp đồng theo đó người 
đi vay phát hành trái phiếu với cam kết se trả cho người cho vay, người nắm 
giữ trái phiếu một số tiền lãi định kì và khi trái phiếu hết hạn là lúc khoản thanh 
toán cuối cùng sẽ được thực hiện 
Trái phiếu được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khac nhau 
 Căn cứ theo chủ thể phát hành 
 Trái phiếu công ty: do công ty phat hành nhằm mục đích gia tăng 
vốn cho công ty. Tuy nhiên không phải công ty nào cũng được 
quyền phát hành trái phiếu mà chỉ có những công ty lớn có uy tín 
trên thị trường 
 Trái phiếu chính phủ: do chính phủ phát hành nhằm mục đích 
huy động vốn phục vụ cho các mục xây dựng các công trình hay 
tài trợ cho các dự án của chính phủ 
8
 Trái phiếu chính quyền địa phương do chính quyền địa phương 
phát hành nhằm mục đích tài trợ cho dự án của chính quyền địa 
phương 
 Căn cứ tính chất chuyển đổi của trái phiêu 
 Trái có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu 
 Trái phiếu không có khả năng chuyển đổi 
 Căn cứ cách thức trả lãi 
 Trái phiếu có lãi suất cố định: lãi suất được ghi ngay trên mặt trái 
phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn cuả nó. Việc thanh 
toán lãi trái phiếu cũng thường được qui định rõ ràng 
 Trái phiếu có lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà khoản lãi thu 
được thay đổi theo sự biến động của lãi suất thị trường hoặc bị 
chi phối bởi biểu giá, chẳng hạn như giá bán lẻ. 
 Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được 
bán theo nguyên tắc chiết khấu. Tiền thưởng cho việc sở hữu trái 
phiếu nằm dưới dạng lợi nhuận do vốn đem lại hơn là tiền thu 
nhập (nó là phần chênh lệch giữa giá trị danh nghĩa- mệnh giá 
trái phiếu và giá mua). 
2.3 Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán 
Gồm các loại chứng khoán sau 
Chứng quyền: là giấy xác nhận quyền được mua cổ phiếu mới phát hành 
tại mức giải tường bán ra của công ty. Các chứng quyền thường được phát hành 
cho cổ đông cũ, sau đó chúng có thể được đem ra giao dịch. 
Chứng khế: là các giấy tờ được phát hành kèm theo các trái phiếu, trong 
đó xác nhận quyền được mua cổ phiếu theo những điều kiện nhất định. 
Chứng chỉ thụ hưởng: là giấy xác nhận quyền lợi của khách hàng là 
những nhà đầu tư cá nhân trong các quỹ đầu tư nhất định. Chứng chỉ này có thể 
được mua bán, giao dịch trên thị trường chứng khoán như các giấy tờ có giá trị 
khác. Chứng chỉ này do công ty tín thác đầu tư hay các quỹ tương hỗ phát hành 
(là tổ chức chuyên nghiệp thực hiện đầu tư theo sự uỷ nhiệm của khách hàng)... 
9
II. Thị trường chứng khoán 
1 Khái niệm 
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại được 
quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động trong giao dịch mua bán chứng khoán 
trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành trên thị trường sơ cấp khi 
người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành và ở 
những thị trường thứ cấp khi có sự mua di bán lại các chứng khoán đã được 
phát hành ở thị trường sơ cấp 
Như vậy xét về mặt hình thức thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra 
các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán qua đó 
thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán 
2 Chức năng 
2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế 
Thị trường chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền người 
thừa vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ 
phiếu và qua đó để huy động vón cho nền kinh tế, góp phần phát triển sản xuất 
kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, ổn định 
đời sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Thông qua thị trường 
CK,chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động các nguồn vốn cho 
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.Thị trường chứng khoán đóng vai trò tự động 
điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và 
phát triển kinh tế. Mức độ điều hoà này phụ thuộc vào quy mô hoạt động của 
từng thị trường chứng khoán. Chẳng hạn, những TTCK lớn như Luân Đôn, Niu 
óc , Paris, Tokyo,... thì phạm vi ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn khổ 
quốc gia vì đây là những TTCK từ lâu được xếp vào loại hoạt động có tầm cơ 
quốc tế. Cho nên biến động của thị trường tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế 
của bản thân nước sở tại, mà còn ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán nước 
khác. 
2.2 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng 
10
Bên cạnh các thị trường mà từ trước đén giờ người dân hay đầu tư như 
thị trường bất động sản hay hình thức đầu tư qua gửi tiền vào ngân hàng thì từ 
khi có thị trường chứng khoán nó trở thành một trong những môI trường đầu tư 
mới cho người dân, giúp họ có nhiều cơ hội lựa chọn hình thức đầu tư hơn. Hơn 
thế nữa thị trường chứng khoán với các hàng hoá là chứng khoán hết sức đa 
dạng cũng làm tăng lựa chọn đầu tư cho công chúng 
2.3 Tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán 
Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi 
chứng khoán thành tiền khi họ muốn.Chức năng cung cấp khả năng thanh 
khoản bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả và năng động. 
Không chỉ vậy mà nhờ có thị trường chứng khoán cung cấp tính thanh khoản 
mà các chứng khoán do công ty phát hành dễ dàng được chấp nhận trên thị 
trường do nó có thể đựoc mua đI bán lại dễ dàng 
2.4 Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp 
Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá chính xác các hoạt động của 
doanh nghiệp thông qua chỉ số chứng khoán trên thị trường .Việc này kích thích 
các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, áp dụng công nghệ mới. Ví 
dụ một loại chưng khoán như cổ phiếu mà trên thị trường đang có như cầu cao 
điều đó chứng tỏ hoạt động của công ty phát hành đang rất thuận lợi, làm ăn 
hiệu quả nên giá trị thi trường của cổ phiếu của nó trên thi trường cũng tăng 
cao. Điều đó đồng thời thúc đây doanh nghiệp mở rộng đầu tư thúc đây kinh 
doanh. Có thể nói tối đa hoá giá trị cổ phiếu trên thị trường là một trong những 
mục tiêu quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 
2.5 Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô 
Thông qua các chính sách vĩ mô đối với thị trường chứng khoán chính 
phủ có thể định hướng đầu tư hay thúc đẩy thị trường tài chính bởi thị trường 
chứng khoán là một trong những thị trường bậc cao nhất của thị trường chứng 
khoán. Ngoài ra chính phủ cũng có thể huy động vốn bằng cách phát hành trái 
11
phiếu chính phủ trên thị trường để huy động vốn cho các mục tiêu vĩ mô hay 
mua bán trái phiếu kiềm chế lạm phát 
3 Các chủ thể tham gia thị trường 
3.1 Nhà phát hành 
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị 
trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán, hàng 
hoá của thị trường chứng khoán. Trong đó: 
 Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu 
chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương 
 Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty 
 Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các 
trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng…phục vụ cho hoạt động của họ 
3.2 Nhà đầu tư 
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị 
trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia làm 2 loại là nhà đầu tư cá 
nhân và các nhà đầu tư là tổ chức 
Nhà đầu tư là các cá nhân là người đầu tư riêng lẻ trên thị trường chứng 
khoán nhằm mục đích sinh lời từ khoản đầu tư 
Nhà đầu tư là các tổ chức thường xuyên nghiên cứu thị trường và các loại 
chứng khoán để đưa ra các quyết định đầu tư với số lượng lớn. Ưu điểm của 
hình thức đầu tư này là đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư 
được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Một bộ phận quan trọng của 
các tổ chức đầu tư là các công ty tàI chính. Ngoài ra còn có các công ty chứng 
khoán, ngân hàng thương mại 
3.3 Các công tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 
3.3.1 Công ty chứng khoán 
Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, tự 
doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán. 
3.3.2 Quỹ đầu tư chứng khoán 
Các quỹ này hoạt động trên cơ sở tập trung một số vốn lớn thông qua các 
12
chủ sở hữu quỹ hay huy động trên thị trường thông qua phát hành chứng chỉ 
quỹ đầu tư. Trên cơ sở số vốn đó và với phân tích của các chuyên gia chứng 
khoán quỹ đầu tư chứng khoán với lô lớn 
3.3.3 Các trung gian tài chính 
Các trung gian tài chính khác cũng có thể trở thành các tổ chức kinh 
doanh chứng khoán khi nó mua chứng khoán nhằm mục đích đầu tư sinh lời. 
Chẳng hạn như các ngân hàng mua chứng khoán nhằm mục đích sinh lời, hơn 
nữa chứng khoán còn nhằm mục đích tạo tính thanh khoản cho các tàI sản của 
ngan hàng hay các công ty bảo hiẻm cũng vậy 
3.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 
3.4.1 Cơ quan quản lý nhà nước 
Cơ quan quản lý nhà nước được thành lập để quản lý hoạt động của thị 
trường chứng khoán có vai trò quan trọng nhất. Cơ quan này được thành lập với 
những tên gọi khác nhau, như tại Anh có uỷ ban đầu tư chứng khoán (SBI – 
securicties investment board ) hay tại Mỹ có uỷ ban chứng khoán và giao dịch 
chứng khoán ( SEC – securities and exchange commisson ). ở Việt Nam thì uỷ 
ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo nghị định 75 của chính phủ 
ngày 28/11/96. 
3.4.2 Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) 
Sở giao dịch chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng 
khoán. Sở giao dịch được tổ chức thành 3 hình thức 
Thứ nhất: SGDCK được tổ chức dưới hình thức “câu lạc bộ mini” hay 
được tổ chức theo chế độ hội viên. Đây là hình thức tổ chức SGDCK có tính 
chất tự phát. Trong hình thức này, các hội viên của SGDCK tự tổ chức và tự 
quản lý SGDCK theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các thành 
viên của SGDCK bầu ra hội đồng quản trị để quản lý và hội đồng quản trị bầu 
ra ban điều hành. 
Thứ hai: SGDCK được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần có cổ đông 
là công ty chứng khoán thành viên. SGDCK tổ chức dưới hình thức này hoạt 
động theo luật công ty cổ phần và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên 
môn về chứng khoán và thị trường chứng chứng khoán do chính phủ lập ra. 
13
Thứ ba: SGDCK được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có 
sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức, điều hành và 
quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần nhưng trong thành phần hội 
đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, 
giám đốc điều hành SGDCK do ủy ban chứng khoán bổ nhiệm. 
Thành viên của SGDCK có thể là cá nhân hoặc các công ty chứng khoán 
(còn gọi là công ty môi giới chứng khoán). Để trở thành thành viên của một 
SGDCK, công ty phải được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép 
hoạt động, phải có số vốn tối thiểu theo quy định và có những chuyên gia kinh 
tế, pháp lý đã được đào tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán, ngoài ra 
công ty còn phải thoả mãn yêu cầu của từng sở giao dịch riêng biệt. Một công 
ty chứng khoán có thể là thành viên của hai hay nhiều SGDCK, nhưng khi đã là 
thành viên của SGDCK (thị trường chứng khoán tập trung) thì không được là 
thành viên của thị trường phi tập trung (thị trường OTC) và ngược lại. 
3.4.3 Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán 
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích bảo 
vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán 
nói chung. Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau: 
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán. 
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định 
pháp luật về chứng khoán. 
- Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên. 
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán. 
3.4.4 Các tổ chức ký gửi và lưu kí chứng khoán 
Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ 
các chứng khoán và tiến hành nghiệp vụ thanh toán bù trừ. 
3.4.5 Các công ty dịch vụ máy tính chứng khoán 
Các công ty này cung cấp mạng máy tính và điều hành, sửa chữa mạng 
máy tính cho các sở giao dịch, các công ty chứng khoán…. 
3.4.6 Các tổ chức tài trợ chứng khoán 
3.4.7 Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm 
Các tổ chức này là các công ty chuyên đưa ra các đánh giá về tình hình 
và triển vọng của các công ty khác dưới dạng các hệ số tín nhiệm. 
14
4 Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán 
4.1 Nguyên tắc công khai 
Theo nguyên tắc này tất cả các hoạt động của thị trường chứng khoan, 
các văn bản pháp luật, các tài liệu về các công ty niêm yết , báo cáo kết quả 
kinh doanh dưới hình thức bản cáo bạch của công ty này đều phải được công bố 
rộng rãi công khai không có sự che giấu thông tin. 
4.2 Nguyên tắc đấu giá 
Khi phát hành hay bán một số lượng lô lớn cổ phiếu thì phải thực hiện 
đấu giá trên thị trường 
4.3 Nguyên tắc trung gian 
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường đều được thực hiện thông 
qua các trung gian 
5 Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán 
Thị trường chứng khoán được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, 
mỗi tiêu thức có một sự phân chia khác nhau. 
5.1 Căn cứ vào sự luân chuyển nguồn vốn 
Thị trường chứng khoán được phân làm hai loại 
5.1.1 Thị trường cấp 1: là thị trường tài chính trong đó diễn ra các hoạt 
động mua bán chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới phát hành lần 
đầu. Các loại hàng hoá như cổ phiếu, trái phiếu của công ty và của chính phủ 
khi mới phát hành đều được đem bán ở thị trường này. Việc mua bán chứng 
khoán trên thị trường cấp 1 thường được tiến hành thông qua các trung gian đó 
là ngân hàng. Ngân hàng này thường được xem như là ngân hàng đầu tư hay 
ngân hàng bảo hiểm cho việc phát hành thông qua việc bảo đảm giá cố định của 
chứng khoán trong qua trình phát hành 
5.1.2 Thị trường cấp 2: là thị trường mua bán các chứng khoán đã phát 
hành. Khi một cá nhân mua chứng khoán ở thị trường cấp 2 thì cá nhân, người 
vừa bán nó nhận được tiền bán chứng khoán nhưng công ty phát hành chứng 
15
khoán lần đầu tiên không thu được tiền nữa. Một công ty mua được vốn chỉ khi 
chứng khoán đó được bán lần đầu trên thị trường cấp 1. Việc mua bán ở thị 
trường cấp 2 thường được thực hiện thông qua các công ty môi giới 
Thị trường cấp 2 thực hiện 2 chức năng sau 
Thứ nhất nó tạo điều kiện để bán chứng khoán nhằm thu tiền mặt tức là 
nó đảm bảo cho những chứng khoán này có tính lỏng thêm. Tính lỏng thêm của 
những chứng khoán làm chúng được ưa chuộng hơn và như thế là dễ dàng hơn 
cho công ty phát hành bán chúng ở thị trường cấp 1 
Thứ hai thị trường cấp 2 xác định giá của chứng khoán mà công ty phát 
hành bán ở thị trường cấp 1. Những hãng mua các chứng khoán ở thị trường 
cấp một sẽ chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị 
trường cấp 2 sẽ chấp nhận nó 
5.2 Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường 
Thị trường cũng được chia làm 2 loại, đây cũng có thể coi là cách phân loại của 
thị trường cấp 2 
5.2.1 Thị trường tập trung ( sở giao dịch chứng khoán ) 
Là nơi mà người mua và bán (hoặc các đại lý môI giới của họ) gặp nhau 
tại một vị trí trung tâm để tiến hành mua bán. Ví dụ như thị trường giao dịch 
chứng khoán Mỹ và NewYork là nơI giành cho cổ phiếu và phòng thương mại 
Chicago giành cho hàng hoá là ví dụ về giao dịch có tổ chức. Như trên trình 
bày thì sở giao dịch chứng khoán hiện nay có 3 hình thức tổ chức 
5.2.2 Thị trường phi tập trung ( thị trường OTC - over the counter 
market) 
Thị trường phi tập trung hay thị trường trao tay trong đó các nhà buôn 
bán tại các địa đIểm khác nhau có một danh mục chứng khoán và đứng ra sẵn 
sàng mua và bán chứng khoán theo kiểu mua bán thẳng cho bất kỳ ai đến cới 
họ, có ý định chấp nhận giác của họ. Do những nhà buôn bán thẳng có tiếp xúc 
với nhau qua mạng máy tính và biết giá của nhau nên thị trường kiểu này có 
16
tính cạnh tranh cao và không khác nhiều so với thị trường ở trung tâm giao dịch 
nói trên 
5.3 Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường 
5.3.1 Thị trường trái phiếu 
Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bá các trái phiếu đã 
được phát hành, các trái phiếu này bao gồm tráI phiếu công ty, trái phiếu đô thị 
và trái phiếu chính phủ 
5.3.2 Thị trường cổ phiếu 
Thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, 
bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi 
5.3.3 Thị trường các công cụ phái sinh 
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đI 
bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp 
đồng quyền chọn… 
17
Phần 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam 
I. Khái quát chung về thị trường chứng khoán Việt Nam 
1 Sự cần thiết phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 
Do chúng ta xuất phát điểm từ 1 nước nghèo nhưng kể từ sau đổi mới 
1986 nền kinh tế đã có nhưng bước chuyển biến rất nhanh do đó nhu cầu vốn 
đầu tư tẳng cao. Trong khi đó, quá trình CNH, HĐH lại đòi hỏi ngay một khối 
lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm năm 1991-1995, để có tốc độ tăng 
trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18,6 tỉ USD; thời kì 1996-2000, để đạt 
được tốc độ tăng trưởng 9 - 9,5% năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 
lần, khoảng 40 - 45 tỉ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn 
đầu tư là 500 - 600 tỉ USD. Do đó việc phát triển thị trường chứng khoán là 1 
trong những giải pháp huy động vốn cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hôi 
đồng thời giúp nhân dân có thể mở rộng danh mục đầu tư. 
Ngoài ra sự hình thành thị trường chứng khoán còn có các lý do sau 
Sự hình thành của thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn 
cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh 
doanh trong đIều kiện nên kinh tế Việt Nam đang ngày cang phát triển và mở 
rộng hội nhập như hiện nay 
Dưới góc độ vĩ mô thì sự hình thành thị trường chứng khoán tạo ra một 
thị trường tài chính hoàn thiện hơn với chúng ta đồng thời nâng cao hiệu quả 
hoạt động cuả thị trường tàI chính 
Một thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả là cơ sở giúp hoạch 
định các chính sách kinh doanh trong tường lai, đưa ra các dự báo chính xác 
đồng thời giúp nhà nước quản lý vĩ mô với đầu tư thông qua các chính sách với 
thị trường chứng khoán. Bởi trong một nền kinh tế thị trường chứng khoán là 
thị trường phát triển bậc cao nhất 
2 Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua 
Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn khá nhỏ khi so sánh với vá tiêu 
chuẩn của Đông Nam á 
18
Bảng thị trường chứng khoán nhỏ 
 2000 2001 2002 2003 2004 2005 
Tài khoản giao dịch cá nhân 
Tài khoản giao dịch tổ chức 
Chứng khoán được niêm yết 
Tập trung vốn trên thị trường 
2870 
38 
5 
8703 
71 
10 
13398 
122 
20 
15569 
166 
26 
2.3 
21402 
193 
26 
3.8 
24000 
250 
30 
5.9 
Khối lượng mua bán 3641 19028 35798 28024 72894 82300 
Nguồn: UBCKNN. Đơn vị tiền tệ tính bằng nghìn tỷ 
Với 2 trung tâm giao dịch chính thức ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí 
Minh hoạt động như các đơn vị kinh doanh trực thuộc uỷ ban chứng khoán nhà 
nước (UBCKNN). Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh 
bắt đầu hoạt động tháng 7 năm 2000 với chỉ 2 công ty yết danh. Đến giữa năm 
2005 công ty này chỉ có 30 công ty và 249 trái phiếu phát hành cùng với 1 quĩ 
đóng được yêt danh trên thị trường vào cuối năm 2005. Tổng lượng vốn trên thị 
trường 5900 tỷ với chứng khoán yết danh và 33700 tỷ tráI phiếu phát hành và 
300 tỷ với quỹ đầu tư. Trung tâm giao dịch ở Hà Nội được thành lập thang 3 
năm 2005. các công ty có thể được yết danh trên thị trường giao dịch chứng 
khoán Hà Nội nếu có ít nhất 5 tỷ đồng vốn pháp định và 50 cổ đông và làm ăn 
có lãi trong năm trước. 
Hoạt động của thị trường thứ cấp đối với các trái phiếu yết danh vẫn 
chưa bắt đầu ở Hà Nội nhưng đã chớm bắt đầu ở thành phố Hồ Chí Minh. Tính 
đến đầu năm 2006 giá trị giao dịch hàng ngày của trung tâm giao dịch thành 
phố Hồ Chí Minh vào khoảng 3.9 tỷ đồng cổ phiếu và 78.4 tỷ đồng trái phiếu 
Tính đến đầu năm 2006 trong số 30 công ty yết danh tại trung tâm giao 
dịch thành phố Hồ Chí Minh thì có đến 29 doanh nghiệp nhà nước thực hiện 
bán cổ phiếu ra ngoài thị trường trong kế hoạch cổ phần hoá trước khi chính 
thức yết danh. Rất ít công ty sử dụng thị trường chứng khoán làm cơ sở tăng 
vốn thông qua bán cổ phiếu ban đầu ra ngoàI thị trường. NgoàI ra, phần lớn các 
trung gian môI giới trên thị trường có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức tàI 
19
chính nhà nước. Hiện tại thị trường có 13 công ty chứng khoán, 1 công ty quản 
lý ngân quỹ, 3 ngân hàng lưu kí chứng khoán và 1 ngân hàng thanh toán. Trong 
số 13 công ty chứng khoán thì có đến 7 công ty thuộc sở hữu của các ngân hàng 
thường mại. 
Trong khi đó một thị trường chứng khoán không chính thức (OTC) được 
phát triển mạnh mẽ hơn nhiều. Hiện tại thì giá trị của nó ứoc tính gấp 4 đến 5 
lần giá trị của 2 trung tâm giao dịch chính thức. Thị trường OTC này được thực 
sự hình thành như một sản phẩm phụ của quá trình cổ phần hoá ngay cả trước 
khi trung tâm giao dich thành phố Hồ Chí Minh thành lập. Theo một ước tính 
có khoảng 30 ngân hàng cổ phần và 100 công ty cổ phần có cổ phiếu được giao 
dịch trên thị trường OTC 
Có hai nhóm trung gian hoạt động trên thị trường phi chính thức này. 
Loại thứ nhất chiếm 60 đến 80 môi giới chứng khoán độc lập, không có giấy 
phép. Một số buôn bán chứng khoán làm nghề phụ nhưng nghề chính là làm 
việc cho các tổ chức tài chính kể cả các công ty môi giới chính thức. Nhóm thứ 
hai gồm những nhà môi giới được cấp giáy phép môi giới ở bất kì một thị 
trường nào kể cả ơ trung tâm giao dịch chính thức và thị trường OTC. 
Hiện tại chính phủ đang nỗ lực thúc đẩy hoạt động của thị trường chứng 
khoán chính thức. Tháng 8/2005 chính phủ đã chỉ thị các doanh nghiệp nhà 
nứơc được cổ phần hoá nhanh chóng yết danh tại 2 trung tâm giao dịch chứng 
khoán. Ngoài ra thị chính phủ cũng đã cam kết hỗ trợ thành lập và phát triển 
các quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài. Tháng 9/2005 nhóm các tổ chức và 
cá nhân nước ngoàI có thể giữ tới 49% tổng số cổ phần của một công ty so với 
30% như trước đây.Mặc dù đây là những bước tiến đáng khích lệ trong thời 
gian gần đây nhưng để hiểu tại sao thị trường OTC lại phát đạt trong khi thị 
trường chính thức lại suy yếu hơn cần xem xét trên 3 khía cạnh chủ yếu sau: 
Phạm vi và tính chất của các công ty có chứng khoán được giao dịch, mức độ 
công khai thông tin về tình hình hoạt động của các công ty này, các nguyên tắc 
chỉ đạo với trung gian thị trường. 
20
(Theo báo cáo phát triển Việt Nam 2006) 
II. Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển thị trường chứng 
khoán Việt Nam 
1 Thuận lợi 
Có thể nói thuận lợi đầu tiên và cũng là một ưu điểm ở Việt Nam đó là có 
một nền chính trị ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty phát triển ổn 
định. Hơn nữa nền kinh tế nước ta đang trong thời gian cất cánh, tức là một nền 
kinh tế đang trên đà phát triển với tốc độ tăng trưởng thực tế trong những năm 
gần đây bình quân là hơn 8% tạo những đIều kiện vĩ mô cho thị trường chứng 
khoán phát triển và việc phát triển thị trường chứng khoán cũng là một yêu cầu 
cần thiết với sự phát triển của nền kinh tế nước ta. 
Thuận lợi thứ hai với chúng ta đó là chính sách cổ phần hoá các doanh 
nghiệp của nhà nước. Sau một thời gian dàI nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt 
động không thật sư hiệu quả và để đáp ứng yêu cầu nền kinh tế thị trường thì 
nhà nước đã thực hiện chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp trong đó thực hiện 
trước tiên với các doanh nghiệp nhà nước là thuận lợi cho sự phát triển của thị 
trường chứng khoán 
Thuận lợi thứ ba với sự phát triển của thị trường chứng khoán là mội 
trường đầu tư của Việt Nam ngày càng cải thiện và chúng ta đã thu hút được 
một lượng lớn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua cùng với chính sách thu 
hút đầu tư nước ngoài của chính phủ thì sự phát triển của thị trường chứng 
khoán là cần thiết đồng thời với việc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoàI 
thông qua thị trường chứng khoán sẽ làm thị trường chứng khoán phát triển 
nhanh và lành mạnh. 
Thứ tư nữa là quá trình phát triển kinh tế nước ta trong thời gian qua đã 
hình thành nên một hệ thống các ngân hàng thường mại, các tổ chức tín dụng, 
quỹ đầu tư . Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển của thị trường 
chứng khóan. Và đặc biệt với việc gia nhâp WTO ngày 9/11 vừa qua thì thị 
trường chứng khoán Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi để phát triển. 
21
2 Khó khăn 
Bên cạnh những thuận lợi thì khó khăn với sự phát triển của thị trường 
chứng khoán Việt Nam còn rất nhiều. Khó khăn trước tiên và cũng là khó khăn 
của hầu hết các nước đang phát triển khi mới phát trỉên thị trường chứng khoán 
đó là thu nhập của đại bộ phận dân chúng còn thấp, chênh lệch giữa tiết kiệm 
và thu nhập cao. Chính do thu nhập thấp mà đại bộ phận dân chúng sau khi đã 
chi tiêu thì số dư còn lại từ thu nhập là không đáng kể nên việc đầu tư vào 
chứng khoán của người dân là rât ít. Cũng vì phần dư của thu nhập sau khi chi 
tiêu còn ít mà hơn nữa đầu tư vào chứng khoán còn có nhiều rủi ro, cộng với 
kiến thức của người dân về chứng khoán chưa nhiều nên phần lớn tiền của họ 
gửi vào tiết kiệm. Điều này sẽ làm giảm sự phát triển của thị trường chứng 
khoán 
Khó khăn thứ hai đối với thị trường chứng khoán đó là không có một hệ 
thống pháp luật hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi 
phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành 
nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý 
về thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn trong dự 
thảo 
Khó khăn thứ ba cho sự phát triển của thị trường chứng khoán là mới 
thành lập được khoảng 7 năm, đây là một quãng thời gian tương đối dài nhưng 
những nhà đầu tư tham gia trên thị trường chứng khoán còn nhiều người chưa 
có đầy đủ kiến thức về chứng khoán, do đó mà dẫn đến một quá trình đầu tư 
theo phong trào. Điều đó dẫn đến việc thị trường không thật sự phản ánh đúng 
chất lượng của mỗi loại cổ phiếu và trái phiếu 
Có thể nói thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều nhiều khó khăn 
bên cạnh những thuận lợi khách quan. Do đó chúng ta cần chuẩn bị và tạo ra 
mọi đIều kiện để thị trường chứng khoán cỏ thể phát triển lành mạnh đáp ứng 
yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước 
22
III. Một số nhận định của các nhà đầu tư về thị trường chứng khoán 
Việt Nam 
Hầu hết các nhà đầu tư nhận định rằng thị trường chứng khoán Việt Nam 
hiện nay qua ít hàng hoá và bị khống chế bởi sự quản lý hành chính của nhà 
nước, nên chăng giảm nhẹ những chỉ tiêu và điều kiện để được niêm yết trên thị 
trường chứng khoán, có như vậy thị mới tạo ra được nhiều hàng hoá cho thị 
trường, từ đó tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư lựa chọn hàng hoá tốt nhất 
cho mình và phân tán rủi ro 
Nhận định thứ hai khá phổ biến đó là tiến trình xây dựng các sở giao dịch 
ở các địa phương còn quá chậm. Hiện nay mới chỉ có trung tâm giao dịch 
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, do vậy làm hạn chế những 
nhà đầu tư ở các địa phương khác muốn tham khảo các tàI liệu, bản cáo bạch và 
mua cổ phiếu của các công ty hiện đang niêm yết và trong tương lai sẽ niêm yết 
trên sàn. Tuy nhiên các nhà đầu tư cũng nhận định rằng việc phát triển thị 
trường chứng khoán ở hai trung tâm giao dịch trên là hợp lí và cũng phù hợp 
với sự phát triển của nền kinh tê. Trung tâm giao dịch đầu tiên được thành lập 
trong thành phố Hồ Chí Minh nơi có nền kinh tế phát triển năng động nhất Việt 
Nam, đây sẽ là nơI thích hợp cho sự phát triển thử nghiệm với thị trường chứng 
khoán vì thị trường tàI chính ở đây khá phát triển. Sau đấy là tới trung tâm giao 
dịch chứng khoán Hà Nội được thành lập và năm ngoài. Đó cũng là bước đi 
quan trọng và hợp lí cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam vì 
đây là trung tâm kinh tế thứ hai của đất nước. Có chằng là khoảng thời gian để 
thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cách qua xa thời gian thành 
lập trung tâm giao dịch thành phố Hồ Chí Minh, có cần một khoảng thời gian 
thử nghiệm dài như vậy để thành lập một trung tâm giao dịch thứ hai không? 
Một vấn đề thứ ba trên thị trường chứng khoán đó là các thông tin trên 
thị trường đã thật sự phản ánh đúng tình hình phát triển của thị trường chưa. 
Đầu năm 2006 chỉ số VN index đã lên một mức rất cao hơn 500 điểm, thị 
trường rất sôi động nhưng tại sao lại như vậy? Phải chăng các công ty đang trên 
23
đà phát triển? Nhưng tại sao chỉ ngay sau đó khoảng 2 tháng chỉ số lại tụt rất 
nhanh, điều này cho thấy sự phát triển của thị trường không lành mạnh. theo 
các nhà đầu tư thì tình trạng sôi động cuả thị trường là ảo, chỉ số VN index 
trong thời gian đó không phản ánh đúng sự phát triển của thị trường. Sự sôi 
động đó là do cầu về chứng khoán vượt quá cung làm giá các chứng khoán tăng 
cao nên dẫn đến chỉ số VN index tăng rất nhanh. Điều này rất có thể làm cho 
thị trường chứng khoán sụp đổ. 
Một nhân định khác về phía các nhà đầu tư là họ đầu tư nhiều lúc là theo 
phong trào, không có sự phân tích về chứng khoán do đó cũng dẫn đến tình 
trạng giá của một loại chứng khoán nào đó lên cao mà không phản ánh đúng 
tình trạng kinh doanh của công ty phát hành 
Hay tình trạng các quan chức tài chính còn can thiệp qua sâu và thị 
trường. Lấy một trường hợp ví dụ như sau khi ông phó chủ tịch ủy ban chứng 
khoán nhà nước tuyên bố kể từ nay thị họ sẽ không can thiệp biện pháp hành 
chính vào thị trường chứng khoán nữa nhưng ngay sau đó chính phủ phát hành 
công trái giáo dục kèm theo văn bản quyết định :” cấm mọi tổ chức, cá nhân 
mua lại công trái giáo dục này dưới 90% mệnh giá sau 1 năm, 100% sau 2 năm 
do ông bộ trưởng tài chính ký”. Giá cả trên thị trường chứng khoán là “thuận 
mua vừa bán” chứ đâu phải “cấm” hay “không cấm” 
Có thể thấy theo nhận định của các nhà đầu tư về thị trường chứng khoán 
thì thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều khuyết tật cần khắc phục bên 
cạnh những thành công đã đạt được. Do đó cần có những biện pháp cần thiết từ 
phía chính phủ và các bên tham gia thị trường chứng khoán cho sự phát triển 
của thị trường để thật sự đây là một kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh 
nghiệp nói chung và nền kinh tế nói riêng. 
IV. Một số giải pháp và ý kiến cá nhân để thúc đẩy sự phát triển 
của thị trường chứng khoán Việt Nam 
1 Cổ phần hoá doanh nghiệp 
24
Cổ phần hoá doanh nghiệp là một biện pháp quan trọng để tăng tính tự 
chủ của doanh nghiệp đồng thời đây là đIều kiện để phát triển thị trường chứng 
khoán. Thị trường chứng khoán cuả Việt Nam đang trong thời gian phát triển, 
hàng hoá trên thị trường không nhiều, chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư của nhà đầu 
tư. Với việc cổ phần hoá doanh nghiệp sẽ tạo ra nhiều doanh nghiệp cổ phần và 
các doanh nghiệp này se niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này sẽ làm 
cho hàng hoá trên thị trường chứng khoán đa dạng hơn và hấp dẫn nhà đầu tư 
hơn. Như vậy nó sẽ tạo điều kiện phát triển thị trường chứng khoán để đây là 
một kênh huy động vốn hiệu quả và tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp 
vì giờ đây các doanh nghiệp đã tự chủ trong sản xuất kinh doanh nên mục tiêu 
cao nhất của doanh nghiệp là lợi nhuận, tối đa hoá giá trị tàI sản của chủ doanh 
nghiệp là mục tiêu của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Điều đó 
sẽ tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh, là một thi 
trường tài chính phát triển cao nhất của nền kinh tế. Và thực tế thì cổ phần hoá 
đã được nhà nước ta thực hiện từ năm 1992 với một số doanh nghiệp có quy mô 
vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và tự nguyện cổ phần hoá để thực hiện thí điểm. 
Và trong năm 2004 nhà nước ta đã đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh 
nghiệp nhà nước để có thể đáp ứng các điều kiện của một nền kinh tế thị 
trường.Trong thời gian gần đây khi mà chúng ta đã gia nhập WTO thì cổ phần 
hoá lại càng là một yêu cầu cần thiết để phát triển doanh nghiệp noi chung cũng 
như thị trường chứng khoán nói riêng. 
Cụ thể một số biện pháp cổ phần hoá 
1.1 Giải pháp cho các DN còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý 
Theo tin từ ban CPH DNNN thì nhà nước đã có chủ trương phân loại 
DNNN thành 4 nhóm. 
- Nhóm DN làm ăn có hiệu quả. 
- Nhóm DN có khó khăn về tài chính. 
- Nhóm DN có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao. 
- Nhóm DN thua lỗ kéo dài (từ 3 năm trở nên). 
25
Ba nhóm đầu thuộc diện CPH, còn nhóm thua lỗ kéo dài, Nhà nước sẽ áp 
dụng các biện pháp sáp nhập với các đơn vị khác rồi CPH, đấu thầu cho thuê, 
bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoaì DN, thực hiện biện pháp 
khoán hoặc cho phá sản. 
Những biện pháp nói trên có áp dụng cho nhóm 4 theo tôi là hợp lý. Tuy 
nhiên, nhiều biện pháp trong số đó như khoán kinh doanh, cho thuê vẫn còn 
nhiều mới mẻ. Do đó cơ sở pháp lý cho chúng vẫn chưa hoàn thiện. Song nếu 
các biện pháp khoán kinh doanh cho thuê mà thành công thì đây sẽ được coi là 
những giải pháp quá độ có nhiều tác dụng thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả 
SXKD của các DNNN để tiến tới CPH. 
Còn đối với các DNNN gặp khó khăn về tài chính thì việc thành lập quỹ 
hỗ trợ CPH sẽ là một giải pháp quan trọng. Nhiệm vụ và vai trò của quỹ CPH 
không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ cho các DN gặp khó khăn về tài chính. Tuy 
nhiên hỗ trợ tài chính cho các DN vẫn là một trong những chức năng chính của 
quỹ này. 
Nguồn vốn của quỹ có thể hình thành từ 3 nguồn chính. 
- Tiền thu từ việc bán cổ phiếu thuộc vốn nhà nước tại DN. 
- Vốn trợ cấp từ NSNN. 
- Vốn tài trợ lần đầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (chủ 
yếu là vốn vay ưu đãi). 
Ngoài ra còn có thể là những khoản thu từ việc thanh lí tài sản trong 
DNNN khi tiến hành CPH. 
Hoạt động hỗ trợ của quỹ có thể được thực hiện dưới một số hình thức sau: 
- Kế thừa hoặc mua lại nợ của DN. 
- Cho DN vay với cơ chế và lãi suất ưu đãi. Như vậy, quỹ CPH cũng góp 
phần giải quyết vấn đề nợ đọng trong nhiều DNNN hiện nay. 
Sự hỗ trợ của quỹ CPH sẽ có tác dụng giải quyết nhiều khó khăn cho DN, 
từ đó giúp DN nâng cao hiệu quả SXKD, tiến tới làm ăn có lãi. Có thể nói “làm 
ăn có lãi” là điều kiện rất quan trọng, nhiều khi là nhân tố có tính quyết định 
cho sự thành công của việc CPH nhiều DN. 
26
Với ý nghĩa đó, việc nâng cao hiệu quả SXKD cũng chính là mục tiêu cơ 
bản của những giải pháp đối với các DN gặp khó khăn về quản lý, giá thành sản 
xuất lên cao. 
Giá thành sản xuất lên cao có thể có nhiều nguyên nhân song suy cho cùng 
nguyên nhân quan trọng nhất vẫn nằm trong khâu quản lý. Người quản lý tốt có 
đủ năng lực, trình độ, phẩm chất sẽ biết phải làm gì khi thua lỗ xảy ra. Khi thua 
lỗ do nguyên nhân khách quan đưa lại, không thể khắc phục được thì người đó 
cần tìm cách chuyển hướng SXKD hoặc tuyên bố phá sản. Những DN không có 
khả năng khắc phục đã được xếp vào nhóm 4. Những DN có khả năng khắc 
phục nhưng do quản lý tồi, người quản lý kém năng lực, trình độ thậm chí mất 
phẩm chất thì cách giải quyết duy nhất theo chúng tôi là thay đổi nhân sự trong 
ban quản lý DN. Việc lựa chọn người lãnh đạo mới không phải là việc dễ dàng, 
song nên đưa ra một tiêu thức để lựa chọn là người lãnh đạo đó phải lập được 
phương án SXKD có hiệu quả và khả thi trên cơ sở của máy móc, công nghệ, 
lao động của DN hiện tại. Một số tiêu chí nữa có thể kể đến là uy tín của người 
đó đối với CBCNV trong DN, khả năng tổ chức nhân sự. 
 1.2 Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong DN sau khi tiến hành 
CPH 
Giải quyết vấn đề lao động dôi dư là một vấn đề rất phức tạp, có tính xã 
hội sâu sắc. Song đó là việc mà chúng ta không thể né tránh. 
Trước hết chúng ta phải thống nhất với nhau một điều là việc giải quyết 
vấn đề dôi dư đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía là DN và Nhà nước cụ 
thể hơn là Chính phủ và các cấp Bộ, ngành có liên quan. Trong sự hợp tác đó 
thì DN là người có trách nhiệm trực tiếp đưa ra hướng giải quyết, còn Nhà nước 
chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ và phân giải các mâu thuẫn giữa DN với người lao 
động. 
Về các giải pháp cụ thể 
- Đối với DN: Phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi 
dư trên cơ sở đề án SXKD của DN với một số nội dung chính là. 
+ Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư để từ đó đưa ra các 
hướng giải quyết. Cụ thể là đối với người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu ( 
27
người lao động còn dưới 5 năm công tác là đến tuổi nghỉ hưu)có thể trợ cấp để 
đảm bảo các chế độ hưu trí cho họ. Đối với số lao động còn lại ( chiếm đa số), 
có nhiều hướng giải quyết như tái sử dụng sau khi đã đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ 
chuyển sang ngành nghề mới. 
+ Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện tại DN có thể lấy 
từ các nguồn quỹ sau: Quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ trợ cấp mất việc làm, 
quỹ trợ cấp thôi việc, ngoài ra còn có thể lấy từ quỹ đào tạo của đơn vị (nếu 
có). 
- Đối với Nhà nước: Nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ gián 
tiếp. 
+ Hỗ trợ trực tiếp theo tác giả chỉ tập trung vào: Hỗ trợ một phần kinh phí 
cho DN. Mà nguồn hỗ trợ chính có thể lấy ra từ quỹ CPH DNNN. Những hỗ trợ 
này nên nhằm vào việc đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động:Hỗ 
trợ bổ sung cho người lao động nghèo tại DN để họ có thể đảm bảo đời sống 
trong thời gian đầu bị mất việc ( khoảng từ 6 tháng đến một năm). 
+ Hỗ trợ gián tiếp: Hỗ trợ về cơ chế và chính sách lập nghiệp đối với lao 
động dôi dư như các danh sách ưu đãi về vốn tín dụng, tiền thuê đất, về thuế 
SXKD. 
Ngoài ra, đào tạo, và đào tạo lại nghề nghiệp cho số lao động dôi dư cũng 
cần phải được xem là giải pháp vừa mang tính sách lược mà mang tính chiến 
lược. Thực tế CPH trong những năm qua đã cho thấy nhiều DN CPH sau khi đi 
vào SXKD ổn định thì thường có nhu cầu tuyển dụng thêm lao động. Song 
những lao động đó phải là người có tay nghề, đã qua đào tạo .Về mặt lâu dài, 
khi kinh tế phát triển, sẽ có ngày cần nhiều những ngành đòi hỏi công nhân có 
tay nghề và trình độ chuyên môn. Nếu chúng ta không chuẩn bị ngay từ bây giờ 
thì e rằng tình trạng" thừa việc ,thiếu người" trong nhiều DN, nhất là các DN có 
vốn đầu tư nước ngoài như hiện nay sẽ càng trầm trọng thêm. 
1.3 Giải pháp cho những tồn tại trong vốn để xác định giá trị doanh 
nghiệp 
Nghị định 44/CP ra đời với những qui định cụ thể, rõ ràng hơn đã góp 
phần giải quyết nhiều vấn đề rất nan giải trong quá trình xác định giá trị DN 
28
trước đây. Ví dụ như việc các tài sản DN không có nhu vầu sử dụng bao gồm 
tài sản không cần dùng và tài sản không có khả năng phục hồi cho quá trình 
SXKD đã được loại trừ ra khỏi giá trị DN khi tiến hành CPH. Các tài sản hình 
thành từ quỹ phúc lợi khen thưởng cũng không được tính vào giá trị DN và 
được bàn giao riêng cho CPH tiếp tục quản lý sử dụng. Hay như vấn đề công 
nợ khó đòi cũng được qui định rất rõ ràng. Với các khoản công nợ khó đòi nếu 
có chứng cứ hợp lệ cũng không tính vào giá trị DN CPH. 
Những quy định mới này đã góp phần đẩy mạnh công tác CPH trong suốt 
giai đoạn từ nửa cuối năm 1998 đến nửa đầu năm 1999. 
Tuy nhiên xung quanh vấn đề xác định giá trị DN vẫn còn một số tồn tại. 
Thứ nhất: Việc xác định còn phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc chồng 
chéo, nhiều khi gây ra tình trạng phân công trách nhiệm không rõ ràng, đã làm 
chậm quá trình này. 
Để giải quyết tình trạng trên thì phân cấp trách nhiệm là rất cần thiết. Theo 
đó, chỉ có DN TW mới do Bộ Tài Chính thẩm định giá trị và Bộ tài chính giao 
cho Tổng cục quản lý vốn, còn địa phương thì giao cho Cục Quản lý vốn. 
Trong quá trình thẩm định, nếu giá trị tài sản cao hơn so với sổ sách 30% 
thì vẫn cho phép cấp dưới tiến hành mà không phải gửi lên trên. 
Thứ hai: Trong thực tế, đối với tài sản cố định, đặc biệt là đối với máy 
móc thiết bị tại DN sản xuất thường xuất hiện sự mâu thuẫn giữa giá trị ghi 
trong số sách. Nguyên nhân là do nhiều trường hợp DN trước đây đã mua về 
các thiết bị đã lỗi thời, hỏng hóc nhưng được tân trang, làm mới với giá gốc khi 
mua cao hơn rất nhiều so với giá trị thực tế. Do đó, nên chăng để tạo điều kiện 
tốt hơn cho DN, Ban thẩm định nên đánh giá dựa trên giá trị sử dụng thực tế 
còn lại theo giá thị trường hiện tại. Như thế, sẽ phản ánh đúng hơn giá trị của 
tài sản. 
Thứ ba: Nhiều DN chuẩn bị không đầy đủ tài liệu, nhất là cơ sở pháp lý về 
nhà cửa, đất đai, các biên bản kiểm tra quyết toán, quyết toán thuế do đó đã làm 
chậm lại hoạt động của ban thẩm định. Nếu như các DN CPH chuẩn bị tài liệu, 
hồ sơ đầy đủ thì việc xác định giá trị DN có thể không quá 15 ngày kể từ ngày 
thành lập Hộ đồng xác định giá trị DN. 
29
Do vậy, Bộ Tài chính nên sớm có hướng dẫn những hồ sơ tài liệu mà DN 
nhất thiết phải chuẩn bị đồng thời cũng cần có những biện pháp xử lý đối với 
những cá nhân đã không hoàn thành công tác này. Về mặt lâu dài thì việc yêu 
cầu các DN áp dụng nghiêm ngặt chế độ kế toán thống kê, công khai tài chính 
sẽ là những giải pháp quan trọng một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho việc 
chuẩn bị sổ sách giấy tờ, mặt khác cũng tạo giúp DN chuẩn bị tốt hơn cho quá 
trình gia nhập TTCK sau này. 
2 Đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu 
Thị trường trái phiếu là một trong những thị trương quan trọng của thị 
trường chứng khoán. Bên cạnh cổ phiếu thì trái phiếu là một loại hàng hoá quan 
trong trên thị trường. Phát triển thị trường tráI phiếu sẽ góp phần thúc đẩy sự 
phát triển của thị trường chứng khoán. Nếu như cổ phần hóa doanh nghiệp 
giống như biện pháp phát triển thị trường cổ phiếu thì đồng thời cũng cần 
những bịên pháp phát triển thị trường tráI phiếu, sau đây là một số biện phát 
đẩy mạnh thị trường cổ phiếu 
2.1 Cải cách quy trình đấu thầu trái phiếu 
Từ trước đến nay, Sở Giao dịch, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm đại 
lý cho Bộ Tài chính trong việc đấu thầu trái phiếu kho bạc loại kỳ hạn dưới một 
năm. Khách hàng thương mại và các công ty bảo hiểm. Ai trong số các khách 
hàng bỏ thầu với lãi suất thấp nhất, số lượng trái phiếu mua cao nhất thì sẽ 
trúng thầu. Tuy nhiên, quá trình đấu thầu lại có những điểm không hợp lý. Bộ 
Tài chính là cơ quan phát hành đáng lẽ phải công bố lãi suất trái phiếu trước, 
sau đó các ngân hàng và công ty bảo hiểm sẽ bỏ thầu lãi suất. Nhưng đấu thầu 
đã được làm ngược lại: các khách hàng tuyên bố lãi suất và số lượng trái phiếu 
họ muốn mua, sau đó Bộ Tài chính mới công bố lãi suất trái phiếu phát hành. 
Lãi suất của khách hàng nào sát cận với lãi suất của Bộ Tài chính thì sẽ trúng 
thầu. 
Với phương thức đấu thầu như trên, Nhà nước khó huy động được nguồn 
vốn với lãi suất thị trường phù hợp. Không ít thời điểm lãi suất tiền gửi và lãi 
suất cho vay của ngân hàng đã được hạ thấp, nhưng lãi suất trái phiếu kho bạc 
vẫn cao. Chưa kể trong trường hợp ngân sách nhà nước cần tiền gấp để đầu tư 
30
cho một công trình, dự án nào đó, phải phát hành trái phiếu, nhưng khách hàng 
"cấu kết" với nhau, bỏ thầu lãi suất cao, thì các phiên đấu thầu sẽ thất bại. Và 
trên thực tế đã có những lần đấu thầu mà không có một trái phiếu nào được 
phát hành. 
Tóm lại, ta phải cải cách lại hình thức đấu thầu : Bộ Tài chính là cơ quan 
phát hành phải công bố lãi suất trái phiếu trước, sau đó các ngân hàng và công 
ty bảo hiểm sẽ bỏ thầu lãi suất và số lượng. 
2.2 Xây dựng một thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) chuyên biệt 
Xây dựng một thị trường trái phiếu chuyên biệt sẽ giúp huy động được 
một khối lượng vốn lớn chô đầu tư phát triển mà lãi xuất trúng thầu trái phiếu 
sẽ ngày càng được điều chỉnh xuống thấp. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều có 
qua nhiều loại trái phiếu do phát hành quá nhiều đợt và thực hiện phát hành cả 
qua bảo lãnh cả qua đấu thầu nên khó có thể huy động được một lượng vốn lớn 
một lúc. Do đó cần phát hành trái phiéu lô lớn tức là phát hành một lô có khối 
lượng lớn nhưng chia thành nhiều đợt phát hành có cùng ngày đáo hạn để tạo 
điều kiện cho việc đưa trái phiếu trên thị trường sơ cấp giao dịch trên thị trường 
thứ cấp. Để có thể phát hành trai phiếu lô lớn thì cần có cơ chế để khuyến khích 
các tổ chức tài chính lớn tham gia đấu thầu trái phiếu và giảm dần việc phát 
hành bằng hình thức bảo lãnh từng đợt riêng lẻ với khối lượng nhỏ, để tạo mặt 
bằng lãi suất mang tính thị trường 
Hiện nay thì chúng ta đang tập trung phát triển thị trường cổ phiếu, còn 
thị trường trái phiếu trên thực tế đang được hình thành theo kiểu tự phát chưa 
tập trung được toàn bộ tráI phiếu vào trung tâm lưu ký chúng khoán và chưa có 
một hệ thống gíao dịch riêng cho trái phiếu. Do vậy mà tính thanh khoản của 
trái phiếu trên thị trường nói chung chưa cao. Theo quyết định số 171/2006/QĐ 
- TTg về việc phát hành TPCP giai đoạn 2003 – 2010 tổng mức TPCP phát 
hành giai đọan đó sẽ lên tới 110000 tỷ đồng. Và hiện nay nhà nước đã có kế 
hoạch cụ thể từ nay đến cuôI năm 2006 và trong năm 2007 sẽ huy động vốn 
cho ngân sách nhà nước và đầu tư trái phiếu thông qua đấu thầu tại TTGDCK 
Hà Nội tương ứng với 2000-3000 tỷ đồng trái phiếu và 1200 tỷ đồng trái phiếu 
kỳ hạn 5 năm cho năm 2007. Do vậy trong thời gian tới, việc xây dựng hệ 
31
thống giao dịch chuyên biệt cho trái phiếu hoạt động có hiệu quả là một vấn đề 
lớn không những góp phần huy động và huy động với giá rẻ một khối lượng lớn 
vốn cho ngân sách nhà nước mà còn tạo ra cơ chế để sử dụng thị trường trái 
phiếu và các mục tiêu quản lý vĩ mô và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư. 
Việc phát triển một thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt cúng sẽ tạo điều 
kiện để phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài. 
Và trên thực tế thì ngay 20/10/2006 thì bộ tài chính đã ban hành quyết 
định 2276/QĐ - BTC chỉ đạo tập trung đấu thầu TPCP tại TTGDCK Hà Nội 
3 Tăng cường vai trò của cơ quan quản lý chứng khoán 
Vai trò của cơ quan quản lý chứng khoán nhà nước rất quan trọng, nó 
góp phần điều hành giúp thị trường chứng khoán phát trỉên tốt. Tuy nhiên ở 
Việt Nam cơ quan quản lý chưa thật sự phát huy hết vai trò của mình. Do đó 
cơ quan chứng khoán Việt Nam cần tăng cường công tác quản lý đồng thời 
giúp nhà nươc cụ thể là bộ tài chính ban hành những quyết định, luật giúp cho 
thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển lành mạnh. Việc nhà nước thành 
lập uỷ ban chứng khoán nhà nước độc lập là một bước đi đúng đắn và để hỗ trợ 
cho sự hoạt động của uỷ ban chứng khoán thì nhà nước cần có sự tài trợ về 
ngân sách đồng thời có chế độ đãi ngộ với cán bộ của uỷ ban chứng khoán. 
4 Hoàn thiện hệ thống pháp luật 
Hệ thống pháp luật của thị trường chứng khoán nước ta chưa thật sự hoàn 
thiện, còn nhiều bất cập chưa đìêu chỉnh vì vậy mà việc hoàn thiện hệ thống 
pháp luật là một biện pháp cần thiết đẻ thị trường chứng khoán có đầy đủ cơ sở 
pháp lý hoạt động. Có như vậy nhà đâu tư khi tham gia vào thị trường mới có 
đầy đủ cơ sở để đầu tư và tạo cho thị trường khung pháp lý hoàn thiện để ngày 
càng phát triển. Để có thể thực hiện được điều này uỷ ban chứng khoán nhà 
nước cần phối hợp với bộ tài chính và những cơ quan luật cần thiết, thu thập ý 
kiến của nhà đầu tư, các tổ chức tài chính tham gia thị trường chứngk khoán để 
có thể ban hành luật về chứng khoán và đầu tư chứng khoán phù hợp, tạo sự 
minh bạch trên thị trường chứng khoán. Đồng thời trong quá trình phát triển 
32
của thị trường cần nghiên cứu và quan sát để có thể bỏ sung những điều luật 
cần thiết vì một thị trường chứng khoán hoạt động minh bạch và hiều quả 
5 Các tổ chức trung gian 
Chúng ta nên cho phép các tổ chức tài chính trung gian như công ty 
chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư tham gia các loại hình kinh doanh 
như: bảo lãnh phát hành, môI giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư. Riêng 
hình thức quản lý danh mục đầu tư phải hoạt động tách rời dưới hình thức công 
ty con nhằm bảo vệ lợi ích của quỹ. 
Đồng thời với việc đó là cho các ngân hàng tham gia vào việc tư vấn, bảo 
lãnh phát hành để tạo điều kiện cho sự phát triển tòan diện của thị trường chứng 
khoán. 
KẾT LUẬN 
Trên đây là những kiến thức cơ bản về thị trường chứng khoán và một số 
vấn đề cũng như biện pháp khắc phục những vấn đề của thị trường chứng 
khoán Việt Nam. Có thể thấy thị trường chứng khoán Việt Nam bên cạnh 
những thành công bước đầu vẫn còn rất nhiều hạn chế nhược điểm cần khắc 
phục. Để thị trường thực sự là một kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh 
nghiệp và chính phủ đồng thời cũng là môi trường đầu tư đa dạng và hiệu quả 
cho những nhà đầu tư thì cần thực hiện một cách đồng bộ các biện pháp. Có 
33
như vậy mới phát huy hết tác dụng để thị trường chứng khoán thật sự là một thị 
trường tài chính phát triển cao nhất 
Trong thời gian qua chúng ta đã là thành viên của WTO do đó thị trường 
chứng khoán sẽ có nhiều cơ hội phát triển hơn với sự tham gia nhiều hơn của 
các nhà đầu tư nước ngoài. Với những biện pháp trên em hi vọng có thể đóng 
góp cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. 
Bảng các chữ viết tắt 
CPH Cổ phần hoá 
UBCKNN ủy ban chứng khoán nhà nước 
DN Doanh nghiệp 
TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán 
DNNN Doanh nghiệp nhà nước 
DNTW Doanh nghiệp trung ương 
TPCP Trái phiếu chính phủ 
BTC Bộ tài chính 
SXKD Sản xuất kinh doanh 
TTCK Thị trường chứng khoán 
QĐ Quyết định 
34
Danh mục tài liệu tham khảo 
1 Tiền tệ ngân hàng và thị truờng tài chính – Frederic S.Mishkin 
2 Giáo trình tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính 
3 Báo cáo phát triển Việt Nam 2006 
4 Cẩm nang đầu tư chứng khoán – Phan Lan 2005 
5 Báo đầu tư chứng khoán 
6 Thời báo kinh tế Việt Nam 
7 Tạp chí Kinh tế và Dự báo 
8 Các trang web: 
Website của UBCKNN:  
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội:  
Trung tâm giao dịch chứng khoán TP HCM:  
Bộ kế hoạch và đầu tư:  
Đầu tư chứng khoán:  
Báo điện tử:  
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán.pdf