Luận văn Phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc trong điều kiện hiện nay

Tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc trong điều kiện hiện nay: LUẬN VĂN: phát triển kinh tế huyện bình xuyên tỉnh vĩnh phúc trong điều kiện hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, đồng thời định hướng phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững. Để phát triển kinh tế đất nước thì từng địa phương được phân cấp quản lý nhằm phát triển kinh tế trên địa bàn lãnh thổ theo định hướng của ngành và cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Trong đó, phát triển kinh tế cấp huyện hiện nay vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lôgíc và hoàn thiện quản lý trong thực tiễn. Huyện Bình Xuyên là một huyện mới tái lập từ ngày 01.09.1998 được tách ra từ huyện Tam Đảo thành huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương, sau khi tái lập huyện có 14 đơn vị hành chính cấp xã và thị trấn. Khi mới tái lập định hướng của phát triển của huyện vẫn dựa vào quy hoạch của huyện Tam Đảo (cũ), ...

pdf114 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 998 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc trong điều kiện hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: phát triển kinh tế huyện bình xuyên tỉnh vĩnh phúc trong điều kiện hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, đồng thời định hướng phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững. Để phát triển kinh tế đất nước thì từng địa phương được phân cấp quản lý nhằm phát triển kinh tế trên địa bàn lãnh thổ theo định hướng của ngành và cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Trong đó, phát triển kinh tế cấp huyện hiện nay vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lôgíc và hoàn thiện quản lý trong thực tiễn. Huyện Bình Xuyên là một huyện mới tái lập từ ngày 01.09.1998 được tách ra từ huyện Tam Đảo thành huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương, sau khi tái lập huyện có 14 đơn vị hành chính cấp xã và thị trấn. Khi mới tái lập định hướng của phát triển của huyện vẫn dựa vào quy hoạch của huyện Tam Đảo (cũ), lấy phát triển nông nghiệp là chủ yếu, do vậy sau 3 năm tái lập kinh tế huyện Bình Xuyên phát triển chậm chạp, cơ sở vật chất còn nhiều yếu kém, đời sống của nhân dân còn khó khăn. Trong khi đó huyện có lợi thế gần thủ đô Hà Nội, sân bay Quốc tế Nội Bài, có đường quốc lộ 2 và đường sắt chạy qua, mặt khác quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá của Tỉnh Vĩnh Phúc đang diễn ra với tốc độ nhanh, kinh tế xã hội có bước phát triển mạnh. Vấn đề đặt ra cho Đảng bộ và chính quyền của huyện trong giai đoạn từ nay đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là nhanh chóng khắc phục nhược điểm, khó khăn, khai thác tiềm năng điều kiện hiện có, tìm bước đi thích hợp để đẩy nhanh quá trình xây dựng và phát triển kinh tế trên địa bàn, nhằm xây dựng huyện trở thành một huyện công nghiệp, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế của huyện và đề ra các giải pháp phát triển kinh tế là rất cần thiết nhằm phát huy tốt những yếu tố tiềm năng, định rõ phương hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế của huyện trong những năm tới, làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng các đề án, quy hoạch và kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện, để Bình Xuyên từng bước phát triển tương xứng với vị thế của một huyện trọng tâm phát triển công nghiệp của tỉnh với mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 huyện trở thành đô thị loại 4 của tỉnh Vĩnh Phúc. Là người trực tiếp tham gia quản lý ở huyện Bình Xuyên, tôi chọn đề tài “Phát triển kinh tế huyện Bỡnh Xuyờn tỉnh Vĩnh Phỳc trong điều kiện hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến đề tài có một số đề tài luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về phát triển kinh tế nói chung, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ thương mại nói riêng như: Luận văn thạc sĩ năm 2006 của Nguyễn Anh Tuấn chuyên ngành quản lý kinh tế, về hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội quận Long Biên thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn Văn Chiến về tác động đầu tư trực tiếp ở nước ngoài vào phát triển kinh tế -xã hội ở thành phố Đà Nẵng hiện nay. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn Văn Lúa về thu hút đầu tư để phát triển kinh tế mở Chu Lai tỉnh Quảng Nam. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn Hoài Khanh về tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển kinh tế -xã hội ở tỉnh Bình Dương. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Huỳnh Khánh Toàn về mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Trần Anh Đức về định hướng và giải pháp quản lý Nhà nước nhằm phát triển kinh tế trên địa bàn quận Cẩm lệ thành phố Đà Nẵng... Tuy vậy, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hoàn chỉnh về phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc trong điều kiện hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích Làm rõ căn cứ lý luận, phân tích đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên, đề xuất các giải pháp nhằm phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó trọng tâm là các giải pháp quản lý nhà nước. 3.2. Nhiệm vụ Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển kinh tế cấp huyện, xác định đúng vai trò, vị thế của chính quyền cấp huyện đối với phát triển kinh tế trong tình hình mới. Phân tích đánh giá các yếu tố tiềm năng, nguồn lực và thực trạng tác động của quản lý nhà nước đến sự phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên từ năm 2005 đến nay, chỉ ra những nguyên nhân của thành tựu và những hạn chế, yếu kém. Đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020,. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là các nhân tố cho phát triển kinh tế và tác động của quản lý nhà nước cấp huyện tới sự phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên, đặt trong mối quan hệ với phát triển xã hội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về không gian: trong phạm vi gianh giới hành chính của huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc Phạm vi về thời gian: Khảo sát đánh giá thực trạng phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên từ năm 2005 đến nay và giải pháp đến năm 2015 định hướng đến năm 2020. Phạm vi ngành, lĩnh vực: Tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ yếu của huyện Bình Xuyên, không phân biệt cấp quản lý. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, các chỉ thị nghị quyết về phát triển kinh tế của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Vĩnh Phúc. huyện uỷ và UBND huyện Bình Xuyên. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: hệ thống hoá những vấn đề chung về phát triển kinh tế, những căn cứ lý thuyết và thực tiễn phát triển kinh tế cấp huyện trong điều kiện hiện nay. Phương pháp phân tích số liệu định lượng: Trên cơ sở số liệu thu thập được và những số liệu qua khảo sát thực tế, luận văn sử dụng phương pháp phân tích định lượng theo nhóm vấn đề nghiên cứu phục vụ nội dung nghiên cứu và các kết luận tổng hợp. Phương pháp thống kê, so sánh: Sử dụng số liệu thống kê để phân tích, so sánh nhằm đề xuất những kết luận về định hướng và giải pháp phát triển kinh tế trên địa bàn huyện Bình Xuyên. 6. Đóng góp của luận văn 6.1. Về lý luận Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với cấp huyện trong giai đoạn hiện nay. Làm rõ vai trò, vị trí của chính quyền của cấp huyện đối nhiệm vụ phát triển kinh tế thời kỳ công nghiệp hoá -hiện đại hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 6.2. Về thực tiễn Trên cơ sở, tổng hợp phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế của huyện trong những năm qua làm rõ bức tranh toàn cảnh về phát triển kinh tế trong mối tương quan với các địa phương trong tỉnh Vĩnh Phúc. Điều này rất cần thiết cho cấp uỷ đảng, chính quyền huyện trong việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới Góp phần xây dựng mục tiêu, định hướng phát triển của huyện trong giai đoạn 2005-2015 và định hướng đến năm 2020, đồng thời đề xuất các giải pháp cần tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu của huyện trong thời kỳ CNH- HĐH và hội nhập kinh tế. Đề tài là tài liệu tham khảo giúp cấp uỷ Đảng, chính quyền huyện Bình Xuyên trong việc hoạch định mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên trong những năm tiếp theo. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm 03 chương, 07 tiết. Chương 1 phát triển kinh tế và tác động của quản lý nhà nước cấp huyện đối với phát triển kinh tế 1.1. Những vấn đề cơ bản về phát triển kinh tế 1.1.1. Quan niệm về phát triển kinh tế Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển. Trải qua thời gian, khái niệm về phát triển cũng đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế được hiểu là: quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các nhân tố nguồn lực của nền kinh tế và nhân tố quản lý quyết định. Cũng có thể hiểu phát triển kinh tế là phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến đổi cả về chất và lượng của cuộc sống nó đặt trong mối quan hệ với phát triển xã hội. Phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay có mục tiêu không những phát triển nhanh mà còn phải phát triển bền vững. Từ những thập niên 70, 80 của thế kỷ trước khi tăng trưởng kinh tế của nhiều nước trên thế giới đã đạt được tốc độ khá cao, người ta bắt đầu có những suy nghĩ đến các ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng trưởng nhanh đó đến tương lai con người và vấn đề phát triển bền vững được đặt ra. Theo thời gian, quan niệm về phát triển bền vững ngày càng được hoàn thiện. Năm 1987, vấn đề phát triển bền vững được Ngân hàng Thế giới (WB) đề cập lần đầu tiên, theo đó phát triển bền vững là “… Sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của hệ thống tương lai”. Quan niệm đầu tiên về phát triển bền vững của WB chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con người trong quá trình phát triển. Ngày nay, quan điểm về phát triển bền vững được đề cập một cách đầy đủ hơn, bên cạnh yếu tố môi trường tài nguyên thiên nhiên, yếu tố môi trường xã hội được đặt ra với ý nghĩa quan trọng. Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesbug (Cộng hoà Nam phi) năm 2002 đã xác định: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: Tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống. Đảng Cộng sản Việt nam đã thể hiện rõ quan điểm về phát triển bền vững trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước đến năm 2010: “ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, gắn sự phát triển kinh tế với giữ vững ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mỗi quốc gia, tuỳ theo quan niệm khác nhau của các nhà lãnh đạo đã lựa chọn những con đường phát triển khác nhau. Nhìn một cách tổng thể, hệ thống sự lựa chọn ấy theo ba con đường: Nhấn mạnh tăng trưởng nhanh; coi trọng vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và phát triển toàn diện. Các nước phát triển theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa trước đây thường lựa chọn con đường nhấn mạnh tăng trưởng nhanh. Theo cách lựa chọn này, Chính phủ đã tập trung chủ yếu vào các chính sách đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng mà bỏ qua các nội dung xã hội. Các vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư chỉ được đặt ra khi tăng trưởng thu nhập đã đạt được một trình độ khá cao. Thực tế cho thấy nhiều quốc gia thực hiện theo mô hình đã làm cho nền kinh tế rất nhanh khởi sắc, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân năm rất cao. Tuy vậy, theo sự lựa chọn này, những hệ quả xấu đã xảy ra: một mặt, cùng với quá trình tăng trưởng nhanh, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng gay gắt, các nội dung về nâng cao chất lượng cuộc sống thường không được quan tâm, một số giá trị văn hoá, lịch sử truyền thống của dân tộc và đạo đức, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của nhân dân bị phá huỷ. Mặt khác, việc chạy theo mục tiêu tăng trưởng nhanh trước mắt đã nhanh chóng dẫn đến sự cạn kiệt nguồn tài nguyên quốc gia, huỷ hoại môi trường sinh thái, chất lượng tăng trưởng kinh tế không đảm bảo và vi phạm những yêu cầu phát triển bền vững. Chính những hạn chế này đã tạo ra lực cản cho sự tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn sau. Sự phát triển kinh tế của các nước Braxin, Mehico, các nước OPEC và kể cả Philipin, Malaysia, Indonesia đi theo sự lựa chọn này. Mô hình nhấn mạnh vào bình đẳng và công bằng xã hội lại đưa ra yêu cầu giải quyết các vấn đề xã hội ngay từ đầu trong điều kiện thực trạng tăng trưởng thu nhập ở mức độ thấp. Các nguồn lực phát triển, phân phối thu nhập cũng như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, văn hoá được quan tâm và thực hiện theo phương thức dàn đều, bình quân cho mọi ngành, mọi vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đây là mô hình khá nổi bật của các nước đi theo mô hình chủ nghĩa xã hội trước đây, trong đó có cả Việt Nam. Theo mô hình này, các nước đã đạt được một mức độ khá tốt về các chỉ tiêu xã hội. Tuy vậy, nền kinh tế thiếu các động lực cần thiết cho sự tăng trưởng nhanh, mức thu bình quân đầu người thấp, nền kinh tế lâu khởi sắc và ngày càng trở nên tụt hậu so với mức chung của thế giới. Các chỉ tiêu xã hội thường chỉ đạt cao về mặt số lượng mà có thể không đảm bảo về mặt chất lượng. Hiện nay, nền kinh tế mở cửa, hội nhập cho phép nhiều nước đang phát triển tận dụng lợi thế để thực hiện một lựa chọn tối ưu hơn bằng con đường phát triển toàn diện. Theo mô hình này, Chính phủ của các nước, một mặt đưa ra các chính sách thúc đẩy tăng trưởng nhanh, khuyến khích dân cư làm giầu, phát triển kinh tế tư nhân và thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp nguồn lực; mặt khác, cũng đồng thời đặt ra vấn đề bình đẳng, công bằng và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư. Hàn Quốc, Đài Loan là những nước đã thực hiện theo sự lựa chọn này. Trong quá trình cải tổ nền kinh tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự lựa chọn theo hướng phát triển toàn diện. Đi đôi với thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh, chúng ta đã đưa ra mục tiêu giải quyết vấn đề công bằng xã hội ngay từ đầu và trong toàn bộ tiến trình phát triển. Việc hệ thống hoá con đường phát triển kinh tế mặc dù mang nội dung tương đối, nhưng nó là cần thiết để giúp các nước, các địa phương, căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị trong và ngoài nước ở từng giai đoạn cụ thể để có hướng đi thích hợp cho mình. 1.1.2. Các nội dung phát triển kinh tế Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế Muốn phát triển các mặt của đời sống kinh tế -xã hội, trước hết phải có thêm của cải , tức là năng lực của nền sản xuất phải được mở rộng hay nền kinh tế phải tăng trưởng với tốc độ cao trong thời gian dài. cũng vì vậy, các nước nghèo, lạc hậu muốn tạo ra sự phát triển kinh tế, phải coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số một trong chiến lược kinh tế-xã hội của mình. Tăng tưởng kinh tế là: Sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng vật chất hoặc giá trị. thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GDP, GNP và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người. Tăng trưởng kinh tế là phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến đổi về mặt số lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế chưa đề cập đến mối quan hệ của nó với các vấn đề xã hội. Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa, quá trình ấy phải được tạo nên nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học, công nghệ, vốn và nhân lực trong một cơ cấu kinh tế hợp lý. Như vậy mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển có mối quan hệ biện chứng. Tăng trưởng là điều kiện cần đối với sự phát triển, nhưng nó chưa là điều kiện đủ. Tăng trưởng mà không phát triển sẽ dẫn đến phân hoá giàu nghèo, khủng hoảng xã hội, ngược lại phát triển mà không tăng trưởng là không tồn tại trong thực tế. Xét trên góc độ kinh tế, tăng trưởng kinh tế có tính hai mặt: lợi ích và chi phí. Tăng trưởng kinh tế có rất nhiều ích lợi, là cơ sở là điều kiện để cải thiện và nâng cao đời sống của dân cư. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề quan trọng bậc nhất để phát triển các mặt khác của đời sống kinh tế -xã hội như: khoa học, giáo dục, y tế, thể dục thể thao… do những lợi ích đó, tăng trưởng kinh tế là hết sức cần thiết với tất cả các quốc gia. Với các nước nghèo, lạc hậu tăng trưởng kinh tế càng quan trọng vì mức thu nhập, mức sống của dân cư rất thấp, nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội còn ở trình độ thấp, lạc hậu… Mặt thứ hai của tăng trưởng kinh tế là chi phí. Nền kinh tế tăng trưởng cành nhanh, nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên càng lớn vì vậy tài nguyên càng sớm cạn kiệt, môi trường càng bị tổn hại , ô nhiễm. Nền kinh tế càng tăng trưởng nhanh, càng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội : như phân hoá giàu nghèo, sự phát triển của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội… Nền kinh tế tăng trưởng càng nhanh, chi phí càng lớn. Thứ hai: Sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. theo hướng tiến bộ phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội. Trong các nội dung của phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế được xem như là tiêu thức phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá so sánh các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế là: tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Cơ cấu kinh tế được hiểu là tương quan giữa các bộ phận trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các bộ phận với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Nếu các thước đo tăng trưởng phản ánh sự thay đổi về lượng thì xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế là thể hiện mặt chất kinh tế trong quá trình phát triển. Đánh giá sự phát triển kinh tế cần xem xét một cách toàn diện các góc độ của cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu khu vực thể chế v.v... Trong đó, cơ cấu kinh tế ngành phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là một nội dung quan trọng của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. - Cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu ngành kinh tế là: tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các ngành với nhau. Các mối quan hệ này hình thành trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Về lý thuyết cơ cấu ngành kinh tế thể hiện cả về mặt định lượng và định tính. Mặt định lượng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm về GDP, lao động, vốn của mỗi ngành trong tổng thể kinh tế quốc dân. Mặt định tính thể hiện vị trí và tầm quan trọng của mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân. Các nước đang phát triển có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp của các nước này thường chiếm từ 20%-30% GDP. Trong khi đó ở các nước phát triển, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp chỉ chiếm từ 1%-7%. Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự chuyển đổi theo một xu hướng chung là tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm đi, trong khi đó tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Như vậy cần phải hiểu cơ cấu ngành kinh tế theo những nội dung sau: Trước hết, đó là số lượng các ngành kinh tế được hình thành, số lượng ngành kinh tế không cố định, nó luôn được hoàn thiện theo sự phát triển của phân công lao động xã hội Nguyên tắc phân ngành xuất phát từ tính chất phân công lao động xã hội, biểu hiện cụ thể qua qua sự khác nhau về quy trình công nghệ của các ngành trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ. Các ngành kinh tế được phân thành ba khu vực hay gọi là ba ngành gộp: Khu vực I bao gồm ngành nông nghiệp - lâm - ngư nghiệp; Khu vực II là các ngành công nghiệp và xây dựng; khu vực III gồm các ngành dịch vụ. Thứ đến, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ giữa các ngành với nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số lượng và chất lượng. Mặt số lượng thể hiện ở tỷ trọng (tính theo GDP, lao động vốn vv...) của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, còn khía cạnh chất lượng phản ánh vị trí tầm quan trọng của từng ngành và tính chất của sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau. Sự tác động qua lại giữa các ngành có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động trực tiếp bao gồm tác động cùng chiều và ngược chiều, có mối quan hệ gián tiếp được thể hiện theo các cấp 1,2,3 vv... nói chung mối quan hệ của các ngành cả số và chất lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày càng trở nên phức tạp theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế. Khu vực I có đặc điểm phụ thuộc nặng vào tự nhiên năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp. Do đó trong cơ cấu các ngành kinh tế khu vực I càng chiếm tỷ trọng lớn, khu vực II và II chiếm tỷ trọng nhỏ thì nền kinh tế càng phụ thuộc vào tự nhiên năng suất và hiệu quả của nền sản xuất xã hội càng thấp và ngược lại với khu vực I chiếm tỷ trọng nhỏ nền kinh tế ít phụ thuộc vào tự nhiên, năng suất và hiệu quả của nền sản xuất xã hội cao. Bởi vậy cơ cấu kinh tế theo ngành thay đổi theo hướng: khu vực I giảm về tỷ trọng; khu vực II, III tăng về tỷ trọng được coi là sự tiến bộ và sự thay đổi đó là nội dung của phát triển kinh tế. - Cơ cấu vùng kinh tế: Sự phát triển kinh tế được thể hiện ở cơ cấu vùng kinh tế theo góc độ thành thị và nông thôn. ở các nước đang phát triển, kinh tế nông thôn phát triển rất cao. Theo số liệu của WB vào cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, 45 nước có thu nhập thấp, tỷ trọng dân số nông thôn chiếm 72%, còn 36 nước có thu nhập tiếp theo, con số này là 65%. Trong khi đó các nước phát triển có hiện tượng đối ngược lại, 80% dân số sống ở khu vực thành thị. Một xu hướng khá phổ biến của các nước đang phát triển là luôn có một dòng di dân từ nông thôn ra thành thị. Đó là kết quả của cả “ lực đẩy” ra khỏi khu vực nông thôn bởi sự nghèo khổ cũng như thiếu thốn đất đai ngày càng nhiều và cả “lực hút” từ sự hấp dẫn của khu vực thành thị. Dòng di dân ngày càng lớn đã tạo ra áp lực rất mạnh đối với Chính phủ các nước đang phát triển. Mặt khác, việc thực hiện các chính sách công nghiệp hoá nông thôn, đô thị hoá, phát triển hệ thống công nghiệp, dịch vụ nông thôn làm cho tỷ trọng kinh tế thành thị ở các nước đang phát triển ngày càng tăng lên, tốc độ dân số thành thị cao hơn so với tốc độ tăng trưởng dân số chung và đó chính là xu thế hợp lý trong quá trình phát triển. WB đã theo dõi xu thế phát triển này ở các nước đang phát triển trong 20 năm từ 1980 đến 2000 và đưa ra số liệu khá thuyết phục. Như vậy, ở các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp và trung bình, tỷ lệ tăng dân số thành thị gấp 1,5 đến 2 lần so với tốc độ tăng dân số tự nhiên trong khi đó ở các nước đang phát triển thì hai tỷ lệ này gần tương đương nhau. ở Việt nam số liệu thống kê 13 năm (1990 đến 2003) cho thấy trong khi tốc độ tăng dân số tự nhiên bình quân năm là khoảng 1,7% thì tốc động tăng dân số khu vực thành thị khoảng 2,5%. - Cơ cấu thành phần kinh tế: Đây là dạng cơ cấu phản ánh tính chất xã hội hoá về tư liệu sản xuất và tài sản của nền kinh tế. Xét về nguồn gốc thì có 2 loại hình sở hữu là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Nhìn chung ở các nước phát triển và xu hướng ở các nước đang phát triển, khu vực kinh tế tư nhân thường chiếm tỷ trọng cao và nền kinh tế phát triển theo con đường tư nhân hoá. ở nước ta hiện nay đang tồn tại 6 thành phần kinh tế là: thành phần kinh tế nhà nước; thành phần kinh tế tập thể; thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ thành; phần kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế nói trên không có sự phân biệt về thái độ đối xử, đều có môi trường và điều kiện phát triển như nhau, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Sau nhiều năm thực hiện đổi mới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam có xu hướng phát triển tốt, đóng góp một phần khá lớn vào kinh tế đất nước. - Cơ cấu khu vực thể chế: Theo dạng cơ cấu này, nền kinh tế được phân chia dựa trên cơ sở vai trò các bộ phận cấu thành trong sản xuất kinh doanh và qua đó đánh giá được vị trí của mỗi khu vực trong vòng luân chuyển nền kinh tế cũng như mối quan hệ giữa chúng trong quá trình thực hiện sự phát triển. Các đơn vị thể chế thường trú trong nền kinh tế được chia thành 5 khu vực: Khu vực Chính phủ bao gồm tất cả các hoạt động được thực hiện bằng ngân sách nhà nước, khu vực tài chính, khu vực phi tài chính, khu vực hộ gia đình và khu vực vô vị lợi phục vụ gia đình bao gồm các tổ chức hoạt động với mục đích hoạt động, phi lợi nhuận. Mục tiêu của khu vực Chính phủ là đảm bảo các hoạt động cộng đồng, tạo điều kiện bình đẳng cho các khu vực thể chế và thực hiện công bằng xã hội. Các đơn vị thuộc khu vực phi tài chính thực hiện chức năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ bán trên thị trường và với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trên thị trường hàng hoá và dịch vụ. Khu vực tài chính cũng thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ở trên thị trường tài chính. Các hộ gia đình hoạt động theo lợi nhuận mục tiêu khác với các khu vực trên, chức năng và hành vi của họ là tiêu dùng, tuy vậy họ cũng có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất dưới hình thức cung cấp sức lao động cho các doanh nghiệp hoặc tự sản xuất dưới dạng các đơn vị sản xuất cá thể. Các tổ chức vô vị lợi, phục vụ hộ gia đình với nguồn tài chính quyên góp tự nguyện như các tổ chức từ thiện, cứu trợ, các tổ chức giúp đỡ người tàn tật v.v… theo đuổi mục tiêu phục vụ không vì lợi nhuận, cung cấp hàng hoá và dịch vụ thẳng cho các hộ gia đình không lấy tiền hoặc lấy với giá không có ý nghĩa kinh tế. Thứ ba: Sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân trí giáo dục của quảng đại quần chúng nhân dân, cơ hội lựa chọn việc thoả mãn các nhu cầu, sự đảm bảo về an ninh v.v.. Và người dân phải được hưởng các thành quả của tăng trưởng kinh tế. Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất xã hội của quá trình phát triển. Như vậy phát triển kinh tế có nội dung rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nếu tăng trưởng kinh tế mới chỉ đề cập tới những thay đổi về lượng của nền kinh tế thì phát triển kinh tế không những đề cập về lượng mà còn bao hàm cả những thay đổi về chất. 1.1.3. Các thước đo phát triển kinh tế Để đo lường mức độ phát triển kinh tế có rất nhiều thước đo. Có thể chia thước đo thành 04 nhóm cơ bản sau: Nhóm 1: Các thước đo tăng trưởng kinh tế. a. Tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc dân. Để phản ánh sự tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng hai chỉ tiêu tổng hợp chủ yếu là tổng sản phẩm trong nước và tổng sản phẩm quốc dân cũng như giá trị bình quân đầu người của các chỉ tiêu này. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP- Gross Domestie Product). GDP là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng, phản ánh toàn bộ kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các đơn vị thường trú trong nền kinh tế quốc dân của một Quốc gia trong một thời kỳ nhất định. GDP là thước đo kết quả hoạt động kinh tế tạo ra của cải vật chất và dịch vụ trong lãnh thổ của một đất nước, nó bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các ngành kinh tế bao gồm những ngành tạo ra của cải vật chất, những ngành tạo ra các loại dịch vụ, kể cả các cơ quan quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, các tổ chức xã hội các tổ chức phục vụ cho xã hội và dân cư không vì mục đích kinh doanh. Vậy tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị gia tăng của toàn bộ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ và được tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) trong phạm vi lãnh thổ của một nước; không phân biệt nguồn vốn và chủ sở hữu trong nước hay nước ngoài. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP- Gross Domestie Product) là tổng giá trị thị trường của mọi hàng hoá và dịch vụ được tạo ra bởi những người có cùng quốc tịch, bất kể hoạt động kinh doanh được tiến hành ở trong hay ngoài biên giới và được tính trong một thời kỳ cụ thể (thường là một năm). Trong thực tế khi lấy lấy tổng sản phẩm trong nước (GDP) cộng với thu nhập do lao động và đầu tư từ nước ngoài đem về trừ đi phần chi trả lợi nhuận và lợi tức cho đầu tư và lao động nước ngoài để tính tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thì cả hai yếu tố sau đều khó xác định, đặc biệt đối với nhiều nước trình độ thống kê còn hạn chế. Vì lẽ đó chỉ tiêu GDP vẫn còn được áp dụng phổ biến ở hầu hết các nước, cũng như các tổ chức Quốc tế trong việc đánh giá tăng trưởng và so sánh Quốc tế. Tuy nhiên chỉ số tăng thêm của tổng sản phẩm trong nước GDP hay tổng sản phẩm quốc dân (GNP) chưa phản ánh đầy đủ ý nghĩa của tăng trưởng. Bởi vì tổng sản phẩm và tốc độ tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào dân số và tốc độ tăng dân số hàng năm. Để khắc phục nhược điểm này cần tính GDP hoặc GNP bình quân đầu người của các thời kỳ. Để đánh giá mức sống của một quốc gia, người ta thường sử dụng chỉ tiêu GNP bình quân đầu người. Sở dĩ như vậy vì hai nguyên nhân cơ bản sau: - GNP tính cả đến các khoản tiền ngoại tệ thu được của các kiều dân của quốc gia đó ở nước ngoài chuyển về. - Đồng thời GNP còn trừ đi các khoản lợi nhuận và lợi tức chuyển ra ngoài đất nước trả cho các nhà đầu tư nước ngoài. Còn để đánh giá khả năng sản xuất của một quốc gia, người ta sử dụng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người. Sở dĩ như vậy vì nó là thước đo tốt nhất cho biết số lượng hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra tính bình quân cho một người dân. b.Tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đó là tỷ lệ phần trăm giữa phần tăng thêm GDP hoặc GNP so với GDP hoặc GNP của năm gốc so sánh. Đây là thước đo hết sức quan trọng, trực tiếp đo lường mức độ tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể tính cho quy mô của nền kinh tế hay bình quân đầu người. c. Chỉ số giá cả CPI (Consumer Price Index). Sự thay đổi của GDP và GNP có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự thay đổi giá cả, muốn biết tốc độ tăng trưởng kinh tế thực tế là bao nhiêu người ta phải loại bỏ tác động của giá cả bằng cách lấy GDP hoặc GNP danh nghĩa chia cho giá cả. d. Sức mua ngang giá PPP (Pur chasing power parity). Mức giá của hàng hoá dịch vụ của các Quốc gia không giống nhau. Do đó để có thể so sánh chính xác hơn GDP hoặc GNP của các Quốc gia, cần phải sử dụng thước đo sức mua ngang giá PPP. Nhóm 2: Các thước đo cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế là một nội dung của phát triển kinh tế. Để đo lường cơ cấu kinh tế, người ta sử dụng các thước đo kinh tế sau: a. Tỷ trọng ngành GDP. Đây là thước đo trực tiếp đo lường cơ cấu kinh tế, mức đo này cho biết mức độ phát triển nền kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế thể hiện ở chỗ: Tỷ trọng của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm xuống, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ngày càng tăng lên. b. Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế. Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế do cơ cấu ngành kinh tế quy định. Do đó cơ cấu lao động là sự phản ánh trình độ phát triển của cơ cấu kinh tế. c. Cơ cấu dân cư theo khu vực thành thị- nông thôn. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ cũng là quá trình đô thị hoá, do đó làm cho tỷ lệ dân cư sống ở thành thị ngày càng tăng. Bởi vậy cơ cấu dân cư theo khu vực thành thị và nông thôn là thước đo cơ cầu kinh tế. đ. Tỷ trọng hàng hoá dịch vụ xuất nhập khẩu trong GĐP và cơ cấu xuất nhập khẩu. Tỷ trọng cơ cấu xuất nhập khẩu không chỉ phản ánh mức độ phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại của các Quốc gia, mà còn phản ánh cơ cấu các ngành kinh tế trong nền kinh tế mở, những ngành có tiềm năng có lợi thế sẽ có điều kiện phát triển và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Nhóm 3: Các thước đo động lực của tiến bộ kinh tế a. Tỷ lệ vốn đầu tư nội địa trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Vốn là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng phát triển kinh tế, nếu nguồn vốn trong nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế, thì có thể kết luận những tiến bộ kinh tế xuất phát tự nội lực. b. Tỷ lệ lao động kỹ thuật và lao động quản lý là người bản địa trong tổng lao động kỹ thuật và lao động quản lý trong nền kinh tế. Lao động là một trong bốn nguồn lực cơ bản để tăng trưởng phát triển kinh tế. Trong nguồn lực này lao động kỹ thuật và lao động quản lý có vai trò rất quan trọng. Do đó để đánh giá động lực của các tiến bộ kinh tế cần phải sử dụng thước đo này. d. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu không chỉ thể hiện quy mô của nền kinh tế, sự phát triển của các quan hệ thị trường mà còn phản ánh cơ cấu các ngành kinh tế. Do đó tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đo lường động lực tiến bộ kinh tế. Nhóm 4: Các thước đo chất lượng cuộc sống. a. Thu nhập bình quân trên đầu người. Mức thu nhập quyết định mức độ thoả mãn các nhu cầu vật chất và các nhu cầu tinh thần. Do vậy thu nhập bình quân trên đầu người là thước đo hết sức quan trọng đo lường chất lượng cuộc sống. b. Các chỉ số giáo dục. Các chỉ số giáo dục bao gồm: Tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ người đi học trong các độ tuổi, số năm đi học bình quân, số giáo viên trên một nghìn dân, số sinh viên trên một nghìn dân..v.v., các chỉ số này phản ánh trình độ phát triển của giáo dục của một quốc gia và mức độ thụ hưởng của các dịch vụ của dân cư. c. Các chỉ số y tế. Các chỉ số Ytế bao gồm: Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi, tỷ lệ dân cư được tiêm phòng, số bác sỹ trên một nghìn dân, số giường bệnh trên một nghìn dân..v.v., các chỉ số này phản ánh trình độ phát triển y tế của một quốc gia và mức độ thụ hưởng các dịch vụ y tế của dân cư. d. Các chỉ số công bằng xã hội. Đó là các chỉ số như : Hệ số Gini, tỷ lệ người nghèo đói, hệ số chênh lệch giàu nghèo.vv..Các chỉ số này đo lường mức độ công bằng trong phân phối thu nhập. e. Các chỉ số phát triển con người (HDI, Humande velop ment Index) Đây là chỉ số tổng hợp phản ánh trình độ phát triển của con người và mức độ thụ hưởng các thành quả kinh tế của dân cư. Chỉ số này bao gồm ba chỉ số như: Tuổi thọ trung bình, mức độ phổ cập giáo dục, thu nhập bình quân trên đầu người. Như vậy HDI không chỉ phản ánh mức sống vật chất, mà còn đo lường cả mức sống tinh thần của dân cư và do đó chỉ số này đo lường chính xác hơn chất lượng cuộc sống của dân cư. Trên đây là thước đo chất lượng cuộc sống chủ yếu, ngoài ra đo lường chất lượng cuộc sống, các thước đo khác có thể được sử dụng như: số lần xem phim/ người/ năm, tỷ trọng các gia đình được sử dụng nước sạch, có ti vi, tủ lạnh, máy giặt, điện thoại, xe máy, ô tô v.v.. 1.2. Các yếu tố điều kiện về nguồn lực và tác động của quản lý nhà nước cấp huyện đối với phát triển kinh tế 1.2.1. các yếu tố điều kiện về nguồn lực cho phát triển kinh tế Sự phát triển của mọi quốc gia đều phải dựa vào những nguồn lực nhất định, được gọi là nguồn lực phát triển. Các nguồn lực phát triển kinh tế có thể được hiểu là những thực lực và tiềm lực bao gồm những yếu tố, những điều kiện hợp thành cơ sở vật chất cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân trong những thời kỳ nhất định. Theo khái niệm về các nguồn lực như trên thì các điều kiện, các yếu tố đóng vai trò là các nguồn lực phát triển kinh tế ở một quốc gia là rất đa dạng. Song ở các quốc gia khác nhau thì các nguồn lực phát triển cũng rất khác nhau và ngay trong một quốc gia, các nguồn lực cũng có thể biến đổi và có vai trò khác nhau giữa các thời kỳ. 1.2.1.1. Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên là các nguồn cung cấp điều kiện và nguyên liệu cho phát triển sản xuất. Nó bao gồm đất đai, không khí, nước, rừng, biển, các loại năng lượng và những khoáng sản nằm trong lòng đất… con người có thể khai thác và sử dụng những ích lợi do tài nguyên thiên nhiên ban tặng để thoả mãn những nhu cầu đa dạng của mình. Ngoài ra vị trí địa lý cũng có ảnh hưởng rõ nét đến sự phát triển của nền kinh tế và trong một chừng mực nào đó có thể xem đây như là một nguồn lực tự nhiên của đất nước. Theo công dụng có thể chia nguồn tài nguyên thiên nhiên thành các loại sau: + Nguồn năng lượng + Các loại khoáng sản + Nguồn tài nguyên rừng + Nguồn đất đai + Nguồn nước + Biển và thuỷ sản + Khí hậu Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên được coi là một nguồn lực rất quan trọng trong phát triển kinh tế. Nó được xem như món quà của thiên nhiên ban tặng cho các quốc gia. Những quốc gia giàu có về tài nguyên thiên nhiên sẽ có những điều kiện đặc biệt thuận lợi trong quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên trên thế giới cũng có những nước nghèo tài nguyên khoáng sản (Nhật bản, Xingapo…) nhưng do biết phát huy tốt các nguồn lực khác, nhất là nguồn lực con người, thì vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh chóng. Số lượng và chất lượng của tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia không phải hoàn toàn cố định. Nếu có sự đầu tư thoả đáng cho việc điều tra, nghiên cứu và phát triển thì một quốc gia có thể phát hiện được thêm những nguồn tài nguyên mới và phát triển, mở rộng được các nguồn tài nguyên đã có trong phạm vi biên giới quốc gia, nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1.2.1.2. Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực của một quốc gia là tổng thể năng lực và tiềm lực lao động biểu hiện bằng số lượng và chất lượng lao động của một quốc gia đó. Nó bao gồm cả lực lượng lao động đơn giản, lao động phức tạp. Nguồn nhân lực thể hiện ở số lượng lao động (những người trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động) và ở chất lượng lao động (chủ yếu ở trình độ giáo dục và trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động, sức khoẻ… của con người). Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với nguồn nhân lực của một quốc gia. Nguồn lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang tham gia làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Nguồn lao động cũng được biểu hiện trên hai mặt: Số lượng và chất lượng như nguồn nhân lực. Lực lượng lao động theo quan niệm của tổ chức lao động Quốc tế(ILO - International Labour Organization) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Theo quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. ở nước ta hiện nay thường sử dụng khái niệm sau: lực lượng lao động là bộ phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp. Tầm quan trọng của nguồn lực con người không chỉ dừng lại ở nhận thức lý luận, ở tư duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách mà luôn được khẳng định trong cuộc sống sinh động. Nguồn lực con người đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, luôn là nguồn lực to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội, là yếu tố vật chất quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất và vì vậy nó là một trong những yếu tố quyết định nhất của tăng trưởng kinh tế. 1.2.1.3. Nguồn vốn Khác với yếu tố tài nguyên và lao động, vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất, song bản thân chúng lại là kết quả đầu ra của các quá trình sản xuất trước đó. Trong phạm vi nền kinh tế quốc dân sau nhiều năm tích luỹ, toàn bộ vốn cho hoạt động nền kinh tế là rất lớn và rất đa dạng. Theo mục đích sử dụng của vốn không chỉ có sản xuất trực tiếp phục vụ cho việc sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, mà còn bao gồm khối lượng đáng kể và phong phú các hệ thống kết cấu hạ tầng, các công trình công cộng khác phục vụ cho các nhu cầu kinh tế-xã hội của đất nước. Theo hình thức tồn tại cụ thể của vốn, không chỉ có các loại vốn tồn tại dưới dạng vật thể (máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, công trình kiến trúc,…) mà còn bao gồm cả các loại vốn phí vật thể. Đó là kết quả của các loại hoạt động đầu tư cần thiết cho hoạt động của nền kinh tế, những sản phẩm của nó không tồn tại dưới dạng vật thể, mà tồn tại dưới dạng các phát minh, sáng chế, các giải pháp hữu ích hay đơn thuần chỉ là những khoản đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ngoài ra, vốn còn tồn tại dưới dạng các tài sản chính. (tiền, các loại cổ phiếu, trái phiếu, các loại nợ khác,…). Tiền là các loại tài sản chính cần đảm bảo cho các hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường, liên tục. Còn các loại cổ phiếu, trái phiếu, các loại công nợ khác là phương thức để chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Như vậy, có thể hiểu: vốn là toàn bộ giá trị của đầu tư để tạo ra các tài sản nhằm mục tiêu thu nhập trong tương lai. * Vốn được hình thành từ các nguồn sau: - Nguồn vốn trong nước: + Nguồn vốn tiết kiệm của ngân sách nhà nước là: phần được dành để chi cho đầu tư phát triển từ thu của ngân sách nhà nước. + Tiết kiệm của các doanh nghiệp là: phần lãi sau thuế được các doanh nghiệp để lại dành cho đầu tư phát triển. + Tiết kiệm của dân cư là: phần thu nhập để dành chưa tiêu dùng của các hộ gia đình - Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: bao gồm các nguồn vốn của Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế và của tư nhân đầu tư vào các nước đang phát triển dưới các hình thức trực tiếp và gián tiếp khác nhau. + Viện trợ phát triển chính thức (Officcial Development Assistance-ODA) ODA là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức của Chính phủ của một số nước, hoặc của các tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy, hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các nước này. + Viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ(Non Gocvernment Organization) Viện trợ NGO là viện trợ không hoàn lại. Trước đây chủ yếu là viện trợ vật chất đáp ứng các nhu cầu nhân đạo như cung cấp thuốc men, lương thực. Ngày nay, viện trợ này bao gồm cả chương trình hỗ trợ phát triển với mục tiêu dài hạn hơn. Viện trợ NGO tuy nhỏ nhưng cũng có vai trò tích cực. Song sử dụng viện trợ NGO cũng là vấn đề nhạy cảm về chính trị. + Vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài: Đây là nguồn vốn do tư nhân nước ngoài cung cấp thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu của nước chủ nhà, nhưng không tham gia công việc quản lý; hoặc cấp tín dụng thông qua các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính; hoặc thông qua các khoản tín dụng thương mại mà các nhà xuất khẩu nước ngoài dành cho các nhà nhập khẩu của nước chủ nhà. + Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài(Foreign Direct Invest ment- FDI) Đây là vốn của nước ngoài đầu tư trực tiếp vào một nước (Nước tiếp nhận đầu tư). 1.2.1.4. Khoa học công nghệ Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã mở ra khả năng rộng lớn trong việc khám phá, khai thác và sử dụng nguồn lực tài nguyên thiện nhiên. Những phát triển mới về năng lượng nguyên tử, mặt trời, địa nhiệt,… đã cho con người” chìa khoá” để giải quyết tình trạng cạn kiệt tài nguyên hiện nay. Những nghiên cứu mới về sinh vật biển, về công nghệ sinh học… không chỉ có tác dụng làm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, mà còn cải tạo môi trường sinh thái, kéo dài tuổi thọ con người. Chính khoa học và công nghệ đã làm biến đổi chất lượng nguồn lao động theo hướng chuyển từ lao động thủ công, cơ bắp sang lao động sử dụng máy móc, lao động trí tuệ; làm biến đổi cơ cấu nguồn lực lao động theo hướng giảm dần tỷ trong lao động nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ, từ đó làm tăng năng suất lao động. Khoa học và công nghệ còn làm cho việc huy động, tập trung và di chuyển vốn diễn ra một cách nhanh chóng, an toàn, thuận tiện và chính xác. Do đó làm cho hiệu quả sử dụng vốn tăng lên. Với tác động nêu trên, khoa học và công nghệ đã mở ra khả năng chuyển chiến lược phát triển kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu khi các nguồn tài nguyên đang bị cạn kiệt dần. 1.2.2. Tác động của quản lý nhà nước cấp huyện trong phát triển kinh tế 1.2.2.1. Vị trí, vai trò cấp huyện trong hệ thống tổ chức hành chính nhà nước Theo quy định của luật pháp Việt Nam, quận/ huyện là một trong bốn cấp hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời quận/ huyện còn được tổ chức là một cấp chính quyền thuộc hệ thống chính quyền địa phương, là cấp trên của xã, phường - chính quyền cơ sở và cấp dưới của tỉnh/ thành phố. Về tổ chức không gian địa lý, huyện là địa bàn lãnh thổ với cư dân và tổ chức xã hội đô thị, bao gồm diện tích tự nhiên và một lượng dân cư nhất định, tuỳ thuộc vị trí, tính chất và điều kiện phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội. Về hành chính, huyện là cơ quan nhà nước địa phương quản lý một số xã, thị trấn nhất định. Số lượng xã, thị trấn thuộc mỗi huyện không có chỉ tiêu thống nhất, tuỳ theo đặc điểm và tính chất của từng khu vực quyết định hình thành huyện và địa giới huyện thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Xét về tổ chức xã hội - kinh tế, huyện là một phần lãnh thổ của tỉnh được phân chia theo địa giới hành chính bao gồm đất đai, dân cư, ở các huyện, hầu hết đều có hệ thống kết cấu hạ tầng chưa phát triển, có đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước sinh hoạt còn khó khăn, dân cư phân bố không đồng đều, tầng lớp làm ăn sinh sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, thương mại, dịch vụ Với hoạt động đa dạng, phức tạp trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của hàng vạn người trên một địa bàn lãnh thổ, đòi hỏi phải có sự quản lý, điều hành của một tổ chức chính quyền, đó là cơ quan nhà nước cấp huyện. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi), Điều 118 xác định như sau: Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã. Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường, xã; quận chia thành phường. Như vậy, đơn vị hành chính của nước ta hiện nay được chia thành bốn cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp quận, huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; cấp xã, phường, thị trấn. Trong mối quan hệ giữa các cấp hành chính theo phân định của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, thì cấp huyện là một cấp trung gian có mối liên hệ giữa cấp tỉnh, cấp cơ sở là cấp xã, thị trấn. Trong mối quan hệ ấy, đơn vị hành chính cấp huyện có vai trò rất quan trọng, quyết định sự thành công hay thất bại trong thực hiện nhiệm vụ của tỉnh. Các hoạt động trong quản lý hành chính nhà nước ở huyện, sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng được thể hiện ở đường lối, chủ trương, chính sách và các biện pháp lớn; đó là những vấn đề quan hệ với tất cả lĩnh vực trong đời sống xã hội có tầm chiến lược, tác động, ảnh hưởng lâu dài đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng những vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách và các biện pháp lớn ấy chỉ trở thành hiện thực khi thông qua hoạt động của hệ thống chính quyền cấp huyện là Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, qua sự hưởng ứng thực hiện của quần chúng nhân dân. Để quần chúng nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tự giác thực hiện tất yếu phải thông qua quá trình tổ chức thực hiện trên phạm vi địa bàn hoạt động của mỗi địa phương, cơ sở. Vì vậy, không thể thiếu vai trò trung gian của cấp huyện. Cấp huyện là một cấp hành chính được lập ra ở các tỉnh trong cả nước. Cấp huyện trực tiếp lĩnh hội mọi vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách từ cấp tỉnh, chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của tỉnh. Đối với cấp huyện, nhiều vấn đề trên địa bàn bị chi phối rất lớn và gắn bó về kinh tế, kế hoạch và sự quản lý của tỉnh. Do sự phát triển về kinh tế - xã hội và quá trình đô thị hoá đang diễn ra ngày càng nhanh ở nước ta, việc hình thành đơn vị hành chính cấp huyện là rất cần thiết. Trong vài thập kỷ qua, qua việc cải cách thí điểm, một số quận, huyện, tỉnh, thành phố ở nước ta được sáp nhập với quy mô không thích hợp với điều kiện thực tế. Đến nay, nhà nước đã phải hoạch định lại địa giới theo hướng nhỏ và gọn hơn, phù hợp thực tế của từng vùng, cấp huyện trở thành đơn vị hành chính có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. 1.2.2.2. Chức năng, quyền hạn quản lý nhà nước cấp huyện trên các lĩnh vực Theo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, chính quyền địa phương ở nước ta được tổ chức làm ba cấp: tỉnh - thành phố trực thuộc trung ương, quận (huyện), phường (xã). Cơ sở pháp lý tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương được quy định trong Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp (25-6-1996). Trong cơ cấu chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có tính tự quản và thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương phù hợp với lợi ích của nhân dân và pháp luật. Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và nằm trong tổng thể các cơ quan thuộc nền hành chính quốc gia. Vì vậy, Uỷ ban nhân dân thực hiện sự kết hợp chặt chẽ các quá trình quản lý nhà nước cả về mặt lãnh thổ và cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Cụ thể, Hội đồng nhân dân quận (huyện) có chức năng, quyền hạn sau: - Hội đồng nhân dân huyện quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm; chủ trương, biện pháp về xây dựng, phát triển kinh tế hợp tác xã và kinh tế hộ gia đình ở địa phương. Quyết định biện pháp bảo đảm thực hiện chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công và phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ở địa phương, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế theo quy định của pháp luật. Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện ngân sách. - Quyết định các biện pháp và điều kiện cần thiết để xây dựng mạng lưới giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo quy hoạch chung. Quyết định biện pháp bảo đảm cơ sở vật chất, điều kiện phát triển sự nghiệp văn hoá, thông tin, thể dục thể thao tại địa phương. Giữ gìn, bảo quản, trùng tu và phát huy giá trị các công trình văn hoá, nghệ thuật, di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh theo phân cấp. - Quyết định biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật để phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân ở địa phương. Quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sống hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển tại địa phương theo quy định của pháp luật. - Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và quốc phòng toàn dân; bảo đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng dự bị động viên, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương. Đối với Uỷ ban nhân dân quận (huyện) có chức năng và quyền hạn sau: - Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua để trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; tổ chức và kiểm tra thực hiện kế hoạch đó. Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương, phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; quyết toán ngân sách địa phương. - Xây dựng và trình hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua các chương trình khuyết khích phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp ở địa phương và tổ chức thực hiện các chương trình đó. Chỉ đạo Uỷ ban nhân dân phường (xã) thực hiện các biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, bảo vệ rừng, trồng rừng và khai thác lâm sản, phát triển ngành, nghề đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. - Tham gia với Uỷ ban nhân dân tỉnh (thành phố) trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Xây dựng và phát triển các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở các phường (xã). Tổ chức thực hiện xây dựng và phát triển các làng nghề truyền thống sản xuất các sản phẩm có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu; phát triển các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các cơ sở công nghiệp khác theo sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh (thành phố). - Tổ chức lập, trình duyệt hoặc xét duyệt theo thẩm quyền quy hoạch xây dựng xã, thị trấn, điểm dân cư nông thôn trên địa bàn huyện; quản lý việc thực hiện quy hoạch xây dựng đã được duyệt. Quản lý, khai thác, sử dụng các công trình giao thông và kết cấu hạ tầng cơ sở theo sự phân cấp. Quản lý việc xây dựng, cấp giấy phép xây dựng và kiểm tra việc thực hiện pháp luật về xây dựng; tổ chức thực hiện các chính sách về nhà ở; quản lý đất đai và quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước trên địa bàn. Quản lý việc khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng theo phân cấp của Uỷ ban nhân dân tỉnh (thành phố). - Xây dựng, phát triển mạng lưới thương mại, dịch vụ, du lịch và kiểm tra việc chấp hành quy định của Nhà nước về hoạt động thương mại, dịch vụ và du lịch trên địa bàn huyện. Kiểm tra việc thực hiện các quy tắc về an toàn và vệ sinh hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn. Kiểm tra việc chấp hành quy định của Nhà nước về hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn. - Xây dựng các chương trình, đề án phát triển văn hoá, giáo dục, thông tin, thể dục thể thao, trên địa bàn quận (huyện) và tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế; quản lý các trung tâm y tế, trạm y tế; chỉ đạo và kiểm tra việc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. - Thực hiện các biện pháp ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân ở địa phương. Tổ chức thực hiện bảo vệ môi trường; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm; kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá trên địa bàn; ngăn chặn việc sản xuất và lưu hành hàng giả, hàng kém chất lượng ở địa phương. - Tổ chức phong trào quần chúng tham gia lực lượng vũ trang và quốc phòng toàn dân; thực hiện kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ quận (huyện); quản lý lực lượng dự bị động viên; chỉ đạo việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, công tác huấn luyện dân quân tự vệ. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng công an nhân dân vững mạnh, bảo vệ bí mật nhà nước; thực hiện các biện pháp phòng ngừa, chống tội phạm, các tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương. Như vậy, cấp huyện không chỉ thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước ở địa phương mà còn được pháp luật trao thẩm quyền cho chính quyền trên các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Đối với các cấp chính quyền địa phương trong đó có cấp huyện, ngoài Hiến pháp 1992, Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của chính quyền địa phương mỗi cấp (25-6-1996), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, còn có Pháp lệnh về giám sát và hướng dẫn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hướng dẫn và nguyên tắc kiểm tra của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân, Pháp lệnh Cán bộ công chức, các luật, nghị định, thông tư về quản lý nhà nước ở các lĩnh vực ngân sách, đất đai, lao động, thương mại... Các văn bản pháp lý nêu trên đã xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của quận (huyện) và đặt chính quyền quận (huyện) vào khung pháp lý chặt chẽ, bảo đảm hoạt động quản lý của bộ máy chính quyền được thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật, ràng buộc bởi pháp luật theo đúng định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 1.2.2.3. Quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện * Quan niệm quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện Theo quy định tại điều 118, Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, các đơn vị hành chính lãnh thổ ở nước ta chia thành 04 cấp. Cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã (cấp xã bao gồm xã, phường, thị trấn). Cấp huyện là một cấp trong cấu trúc của hệ thống chính trị, là cầu nối trung gian của toàn bộ hệ thống chính trị với dân trong quá trình thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Trong điều kiện chuyển đổi và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế rất quan trọng và ngày càng tăng lên trong toàn bộ hệ thống quản lý nhà nước nói chung. Trong đó quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện chiếm một vị trí ngày càng quan trọng đối với phát triển kinh tế, là hoạt động chính quyền cấp huyện nhằm tổ chức quản lý đời sống kinh tế -xã hội ở địa phương theo quy định của pháp luật. Hệ thống quản lý nhà nước cấp địa phương nói chung và quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện có tầm quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế-văn hoá- xã hội của đất nước. * Đặc điểm quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện Trong hệ thống tổ chức quản lý hành chính nhà nước cấp huyện là đơn vị hành chính trong cấu trúc của hệ thống chính trị nên có những đặc điểm sau: Một là, chính quyền cấp huyện là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương chính sách kinh tế-xã hội của Đảng và nhà nước. Chính quyền cấp huyện không chỉ thực hiện chức năng trong việc ban hành các văn bản quy phạm theo quy định của pháp luật mà còn có vai trò quan trọng trong việc tổ chức quản lý điều hành việc thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng pháp luật của nhà nước trên địa bàn, là cấp trực tiếp quản lý nhà nước ở địa phương, có chức năng quản lý điều hành các lĩnh vực của đời sống kinh tế -văn hoá -xã hội theo Hiến Pháp và pháp luật. Các chủ trương đường lối chính sách của Đảng và nhà nước muốn đi vào cuộc sống và phát huy được hiệu lực thì phải thông qua hoạt động của chính quyền cấp huyện. Điều đó cho thấy cấp huyện là địa chỉ, là đích tới của mọi chỉ đạo chiến lược từ trung ương xuống địa phương, là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn, tính khả thi, tính hiệu quả và trên cơ sở đó có thể điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tế ở cơ sở. Hai là, chính quyền huyện là cấp tiếp xúc trực tiếp với dân, gần dân, là nơi trực tiếp tổ chức các hoạt động quản lý, điều hành các công việc hành chính và trực tiếp tổ chức thi hành pháp luật. Đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp huyện trong công tác cũng như trong sinh hoạt hàng ngày luôn luôn tiếp xúc với mọi người dân. Họ là những người hàng ngày trực tiếp giải quyết các vấn đề về dân quyền và dân sinh, dân trí của địa phương, đảm bảo theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, đồng thời việc xử lý, giải quyết mọi vấn đề phải sát hợp với tình hình thực tế của địa phương. Theo xu thế phát triển của xã hội sự đổi mới từng ngày ở huyện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá- xã hội đang đòi hỏi đội ngũ cán bộ công chức của chính quyền cấp huyện phải có tư duy mới có trình độ kiến thức về chính trị kinh tế, quản lý khoa học công nghệ cũng như nắm bắt được mọi giá trị truyền thống tốt đẹp của địa phương mới có thể đảm đương được nhiệm vụ trọng trách được giao. Ba là, chính quyền cấp huyện là nơi tiếp nhận trực tiếp sự góp ý và đề đạt nguyện vọng của nhân dân, thông qua đó thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện quyền tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Chính quyền cấp huyện ở nước ta là loại lãnh thổ hành chính được hình thành theo đặc điểm dân cư, địa lý phong tục tập quán, văn hoá lịch sử … Mọi vấn đề ở cấp huyện đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần được giải quyết trên cơ sở kết hợp hài hoà các lợi ích nhà nước và dân cư. Vì vậy chính quyền không chỉ là cơ quan cai trị mà là cơ quan thể hiện lợi ích chung của dân cư. Việc tổ chức quản lý ở những vùng lãnh thổ này cần thiết phải tính đến nguyện vọng và ý chí của cộng đồng dân cư. * Chức năng quản lý nhà nước cấp huyện đối với phát triển kinh tế Chức năng là những nhiệm vụ tổng quát mà cơ quan quản lý Nhà nước phải thực hiện để phát huy vai trò và thực thi quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Chức năng có các bậc khác nhau như: Chức năng cơ bản và chức năng cụ thể. Trong đó chức năng cụ thể phải tuân thủ chức năng cơ bản. - Chức năng cơ bản của quản lý Nhà nước về kinh tế của cấp huyện Một là, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế. Đây là chức năng rất quan trọng, nó xuất phát từ sự phân cấp quản lý của tỉnh, xuất phát từ thực tế trên địa bàn huyện và trên cơ sở dự báo sự phát triển kinh tế mà xây dựng các loại quy hoạch như: - Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội. - Quy hoạch ngành kinh tế. - Quy hoạch đô thị - Quy hoạch cụ thể khác Từ quy hoạch phải xây dựng các kế hoạch, các phương án thực hiện cho dài hạn và ngắn hạn; kế hoạch định hướng và kế hoạch trực tiếp phát triển kinh tế. Hai là, tạo lập môi trường điều kiện cho phát triển kinh tế. Cấp huyện gắn với cơ sở, trực tiếp với hoạt động kinh tế như việc tạo môi trường và điều kiện cho sản xuất kinh doanh phải rất cụ thể. Trước hết là môi trường, trên cơ sở pháp luật và các văn bản pháp lý của Trung ương và Tỉnh. Huyện vừa là nơi tuyên truyền, phổ biến, giải thích và thực thi ở địa phương cần giúp cơ sở một môi trường pháp lý thuận lợi, rõ ràng minh bạch để người dân yên tâm bỏ vốn kinh doanh và phát triển; môi trường chính trị, xã hội ổn định, trật tự kỷ cương, môi trường cho văn hoá phát triển, môi trường kinh tế, môi trường đầu tư thoáng… Về điều kiện cho phát triển: trong phạm vi quyền hạn của cấp huyện cần phổ biến các chính sách, hướng dẫn về thực hiện chính sách, vận dụng các điều kiện của huyện để chính sách được thực hiện thuận lợi, xây dựng kết cấu hạ tầng cho phát triển như giao thông, điện, khu công nghiệp, các điều kiện cụ thể hơn như: Thủ tục hành chính, địa điểm, môi trường sản xuất kinh doanh v.v… Ba là, tổ chức thực thi quản lý Nhà nước đối với phát triển kinh tế. ở cấp huyện cần hai nội dung cơ bản, thứ nhất là tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước bao gồm các phòng, ban chuyên quản lý trong lĩnh vực kinh tế; xác định rõ chức năng quyền hạn cho từng phong, ban chuyên kinh tế cùng với sự phối hợp của các cơ quan không chuyên chỉ thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể về kinh tế. Thứ hai, tổ chức hoạt động cụ thể như: tổ chức cho mọi đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế tiến hành sản xuất kinh doanh theo pháp luật; tổ chức đăng ký cấp phép xây dựng đô thị, cấp phép sản xuất kinh doanh; tổ chức kiểm tra kiểm soát các hoạt động kinh tế trên địa bàn huyện. - Chức năng nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của quản lý Nhà nước cấp huyện đối với phát triển kinh tế Chức năng quản lý của cơ quan nhà nước cấp huyện tồn tại khách quan bởi cấp huyện là một cấp chính quyền nhà nước, được nhà nước phân công, phân cấp, do đời sống xã hội đòi hỏi. Chức năng nhiệm vụ quyền hạn, kinh tế hay hoạt động quản lý kinh tế cụ thể của nhà nước cấp huyện là: Lập quy hoạch, kế hoạch, giải pháp khai thác tiềm năng phát triển kinh tế xã hội toàn huyện. Tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, chương trình dự án kinh tế trong huyện. Quản lý tài nguyên, khai thác, sử dụng đúng quy hoạch, kế hoạch, đúng pháp luật, hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao. Quản lý và chỉ đạo cấp xã thị trấn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp huyện. Quản lý và chỉ đạo các đơn vị, các tổ chức trên địa bàn huyện không thuộc địa bàn cấp trên quản lý hoặc cấp xã quản lý. Phối hợp cùng các ngành các cấp để quản lý theo ngành, kết hợp quản lý theo lãnh thổ. Kiểm tra, kiểm soát các đối tượng quản lý để chỉ đạo uốn nắn kịp thời, xử lý đúng mức những vi phạm pháp luật. Thẩm định, quyết định những vẫn đề theo quy định của pháp luật. Sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm để nâng cao năng lực quản lý chỉ đạo, báo cáo đề xuất với cấp trên tiếp thu thông tin chỉ đạo của cấp trên, thông tin kinh nghiệm, những tri thức tiến bộ văn minh của nhân loại vận dụng vào điều kiện cụ thể của huyện, tạo ra sự tăng trưởng phát triển trong huyện đúng chính sách pháp luật của nhà nước. Từ những chức năng nhiệm vụ chung nhà nước còn phân rõ nhiệm vụ quyền hạn của 3 loại cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện (quyền lực, hành pháp, tư pháp). Nhằm nâng cao trách nhiệm của mỗi chủ thể quản lý, nâng cao nghiệp vụ chuyên sâu, tránh đùn đẩy, chồng chéo hoặc bỏ sót. Chương 2 thực trạng phát triển kinh tế và tác động của quản lý nhà nước đối với phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên 2.1. Hiện trạng các yếu tố điều kiện về nguồn lực phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên 2.1.1. Các điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Bình Xuyên là huyện trung du miền núi nằm ở phía nam tỉnh Vĩnh Phúc, phía bắc giáp tỉnh Thái Nguyên, phía nam giáp thị trấn Yên Lạc, phía đông giáp thủ đô Hà Nội, phía tây giáp thành phố Vĩnh Yên, huyện Tam Đảo và huyện Tam Dương. Huyện nằm giữa hai trung tâm kinh tế chính trị của tỉnh là thành phố Vĩnh Yên và thị xã Phúc Yên. Huyện có lợi thế gần sân bay quốc tế Nội Bài, có đường quốc lộ 2 và đường sắt chạy qua, gần kề các khu công nghiệp tập trung của tỉnh là khu công nghiệp Vĩnh Yên, Phúc Yên, cách không xa các khu công nghiệp lớn tập trung của Hà Nội. Với vị trí địa lý thận lợi trong những năm qua, cùng với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước, nền kinh tế Bình Xuyên đã phát triển nhanh chóng. Từ một huyện nông nghiệp, đến nay Bình Xuyên đã có cơ cấu kinh tế công nghiệp là chủ đạo và được tỉnh định hướng trở thành vùng công nghiệp trọng điểm của tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. 2.1.1.2. Địa hình Huyện có địa hình đa dạng, thấp dần từ Bắc xuống Nam, chia thành 3 vùng sinh thái rõ rệt là đồng bằng, trung du, miền núi. Vùng đồng bằng đất đai bằng phẳng có tiềm năng phát triển nông nghiệp thâm canh cao. Tuy vậy, độ chênh lệch giữa các cốt ruộng trong vùng khá lớn, nguồn nước từ dãy Tam Đảo thường gây úng lụt cục bộ, tạo ra một diện tích lớn ruộng trũng chỉ cấy được 1 vụ lúa chiêm; Vùng trung du có quỹ đất đồi lớn phù hợp trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, cây màu kết hợp chăn nuôi đại gia súc, đồng thời là vùng có quỹ đất xây dựng lớn. Tuy vậy đất đai trong vùng có độ màu mỡ kém, độ chia cắt mạnh gây khó khăn cho phát triển các công trình thuỷ nông và kết cấu hạ tầng nói chung. Vùng miền núi có quỹ rừng lớn, có tiềm năng phát triển kinh tế đồi rừng và du lịch sinh thái. 2.1.1.3. Khí hậu, thuỷ văn Bình Xuyên có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm; có lượng mưa khá cao, khoảng 1500-1700mm/năm, riêng vùng núi có lúc đạt 3000mm, tập trung từ tháng 7 đến tháng 10. Trên địa bàn huyện có sông Bá Hạ, sông Phan chảy qua, lưu lượng dòng chảy nhỏ, chỉ lớn đột xuất sau những trận mưa lũ Tam Đảo. Hiện tượng úng lụt thường xảy ra do ảnh hưởng của nguồn nước từ dãy Tam Đảo gây không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống của nhân dân. 2.1.1.4. Tài nguyên đất Huyện Bình Xuyên có diện tích tự nhiên 14.559,094 ha, phân theo công dụng kinh tế như sau: đất nông nghiệp chiếm 47,0%, đất lâm nghiệp có rừng chiếm 19,60%, đất chuyên dụng chiếm 17,3%, đất ở chiếm 3,8%, và đất chưa sử dụng, sông suối và núi đá là 12,4% (xem biểu 1). Xem xét tình hình sử dụng đất đai của huyện trong các năm gần đây cho thấy, sau khi xã Minh Quang tách ra khỏi huyện cùng với một phần lớn đất lâm nghiệp có rừng và đất chưa sử dụng thì các loại đất còn lại của huyện tiếp tục biến động. Đất nông nghiệp đã giảm trên 231 ha cho xây dựng khu cụm công nghiệp, đường xá; đất lâm nghiệp cũng giảm trên 244 ha, trong đó rừng tự nhiên giảm 126 ha, rừng trồng giảm 84ha. Đất chuyên dùng tăng gần 460 ha do quá trình xây dựng diễn ra mạnh trong những năm gần đây; Tuy vậy, điều đáng chú ý là đất ở, đặc biệt là đất đô thị tăng ít, thể hiện quá trình đô thị hoá của huyện còn rất chậm. Cho đến năm 2005 có tới 86,1% tổng diện tích đất ở là không gian sinh sống của dân nông thôn. Biểu 2.1: Hiện trạng sử dụng đất đai huyện Bìng Xuyên phân theo công dụng kinh tế năm 2005 Mục đích sử dụng Diện tích, ha Cơ cấu,% Tổng diện tích tự nhiên 14559.09 100% I Đất NN 6844.17 47.0% 1 Đất trồng cây hàng năm 6047.04 41.5% a Trong đó đất trồng lúa, hoa màu 5535.03 38.0% b Đát trồng cây hàng năm khác 712.01 4.9% 2 Đất vườn tạp 600.01 4.1% 3 Đất trồng cây lâu năm 86.49 0.6% 4 Đồng cỏ dùng vào chăn nuôi 12.32 0.1% 5 Đất có mặt nước nuôi trồng TS 98.31 0.7% II Đất lâm nghiệp có rừng 2846.39 19.6% 1 Rừng tự nhiên 1088.99 7.5% 2 Rừng trồng 1756.45 12.1% 3 Đất ươm cây giống 1,0 0.04% III Đất chuyên dùng 2514.08 17.3% 1 Đất xây dựng 572.18 3.9% 2 đất giao thông 772.61 5.3% 3 Đất Thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng 745.88 5.1% 4 Đất di tích LS, VH 7.08 0.0% 5 Đất an ninh, quốc phòng 272.5 1.9% 6 Đất khai thác khoáng sản 0.0% 7 Đất làm nguyên VLXD 28.21 0.2% 8 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 80.72 0.6% 9 Đất chuyên dùng khác 34.45 0.2% IV Đất ở 553.27 3.8% 1 Đất ở đô thị 76.66 0.5% 2 Đất ở nông thôn 476.61 3.3% V. Đất chưa sử dụng, sông suối và núi đá 1801.18 12.4% 1 Đất bằng chưa sử dụng 86.43 0.6% 2 Đất đồi núi chưa SD 1001.65 6.9% 3 Đất có mặt nước chưa SD 59.89 0.4% 4 Sông suối 645.17 4.4% 5 Đất chưa SD khác 8.04 0.1% Nguồn: Phòng tài nguyên-môi trường huyện Bình Xuyên năm 2005. Bình Xuyên đang trong quá trình phát triển. Chắc chắn quỹ đất nông nghiệp sẽ chịu áp lực lớn của việc xây dựng đường xá, khu công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng khác. Để đảm bảo phát triển nông nghiệp trong điều kiện đất canh tác bị thu hẹp, cần đẩy mạnh việc ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp, kết hợp mở rộng và khai thác nguồn đất đai chưa sử dụng để bổ sung cho quỹ đất nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác; Quy hoạch sử dụng đất đai theo quan điểm và định hướng phát triển mới cần phải được triển khai kịp thời. 2.1.1.5. Tài nguyên nước Nguồn cung cấp nước mặt chính cho huyện gồm 2 sông chính là sông Bá Hạ, sông Phan và các ao hồ nhỏ. Các xã phía Nam là vùng cuối của hệ thống thuỷ nông Liễn Sơn. Nhìn chung nguồn nước mặt về cơ bản đảm bảo cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Tuy nhiên, do nguồn nước phân bố không đều trong năm nên về mùa khô vẫn thiếu nước. Về lâu dài phải xây dựng thêm các công trình điều tiết nước mặt mới đáp ứng được cho nhu cầu sản xuất và dân sinh. Theo số liệu điều tra, nguồn nước ngầm của huyện không lớn, chỉ đủ cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất quy mô nhỏ. Tuy vậy, việc khai thác nguồn nước ngầm không lớn này cũng sẽ khó khăn do khả năng ảnh hưởng đến môi trường đã được cảnh báo. 2.1.1.6. Tài nguyên rừng Huyện Bình Xuyên có 2.846,39 ha đất lâm nghiệp có rừng (năm 2005), chiếm 19,6% diện tích tự nhiên. Trong đó, rừng tự nhiên chiếm 38,3%, rừng trồng chiếm 61,7% và đất ươm cây giống chiếm 0,04%. Phần lớn quỹ rừng của huyện thuộc rừng quốc gia nên hoạt động kinh tế trong lĩnh vực lâm nghiệp rất hạn chế. Quỹ rừng của huyện có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, rừng phòng hộ, chống xói mòn, giảm lũ xô. 2.1.1.7. Tài nguyên khoáng sản Theo kết quả điều tra về khoáng sản, trên địa bàn huyện không có khoáng sản quý hiếm, chỉ có một số nguyên vật liệu xây dựng như đất sét, sỏi, cuội, cát ở vùng ven sông; 2.1.1.8. Tài nguyên du lịch và nhân văn Cũng như tỉnh Vĩnh Phúc, Bình Xuyên là huyện có khá nhiều di tích lịch sử văn hoá, mang giá trị lịch sử, tâm linh, văn hoá dân gian độc đáo. Đó là cụm đền Hương Canh, đền Đông Cung (Thanh Lanh, Trung Mầu) thờ tản Viên Sơn Thần, Miếu Tam thánh (xã Tam Hợp), Thành Quận Hẻo Nguyễn Danh Phương (Thanh Lanh-Trung Mỹ) và nhiều lễ hội dân gian hấp dẫn khách thập phương...... Cùng với những di tích văn hoá- lịch sử, huyện còn có vùng hồ Thanh Lanh xã Trung Mỹ là nơi có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và không khí trong lành, có thể phát triển du lịch sinh thái. Tổng cộng trên địa bàn huyện có tới 21 di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, trong đó, 10 di tích cấp nhà nước xếp hạng và 11 di tích địa phương xếp hạng. Những lợi thế về tài nguyên du lịch và nhân văn nếu được khai thác tốt sẽ đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho huyện. 2.1.2. Dân số và nguồn lao động 2.1.2.1. Dân số Bình Xuyên có dân số ít so với các huyện trong tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 2005 dân số toàn huyện có 105.678 người (mật độ 683 người/km2), trong đó, dân số đô thị có 13.203 người chiếm 12,5%, dân số nông thôn chiếm 87,5% tương đương 92.475 người. Trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2008, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của huyện tăng từ 1,20% (2005) lên 1,46% (2007) và năm 2008 chỉ còn 1,44% (xem biểu 2.2). Xem xét dân số theo độ tuổi cho thấy, dân số Bình Xuyên thuộc loại trẻ. Số dân dưới 40 tuổi (2005) chiếm khoảng 76,7%, trong đó số dân từ 15 - 39 tuổi chiếm 41,3% so với tổng dân số. Đây có thể coi là một điểm lợi thế của huyện về nguồn nhân lực và lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên đây cũng là một thách thức lớn đối với chính quyền huyện trong vấn đề giải quyết công ăn, việc làm, giáo dục và đào tạo một đội ngũ lao động trẻ, trình độ cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế huyện theo hướng phát công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa vào tri thức và công nghệ cao. Biểu 2.2: Dân số huyện Bình Xuyên giai đoạn 2005 - 2008 Đơn vị: Người Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 1 -Dân số trung bình 105.678 107.436 109.438 109.322 Formatted Table 2 -Dân số trong độ tuổi LĐ 54.368 54.852 55.452 55.018 - % so với DS 51,5 51,0 50,7 50,3 3 -Thành thị 13.203 13.638 34.183 34.511 - % so với DS 12,5 12,7 31,2 31,7 4 Nông thôn 92.475 93.798 75.255 74.811 - Tỷ trọng so với DS 87,5 87,3 68,8 68.3 Tốc độ tăng (%) 1,2 1,34 1,46 1,44 Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu chủ yếu phòng thống kê huyện Bình Xuyên. 2.1.2.2. Lao động Tổng số người trong độ tuổi lao động của huyện Bình Xuyên tính đến năm 2008 có 55.018 người chiếm 50,3% tổng dân số. Lao động làm việc trong các ngành kinh tế trên địa bàn huyện có 54.120 người (chiếm 98,3% dân số trong tuổi lao động), trong đó tỷ trọng lao động ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm khoảng 79,1%, tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là 15,1% và dịch vụ là 5,8% trong tổng số lao động (xem biểu 2.3). Biểu 2.3: Lao động làm việc trong các ngành kinh tế 2005-2008 Đơn vị: Người Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 1 Tổng số 52.930 53.340 53.788 54.120 2 Nông lâm thuỷ sản 41.940 41.510 40.610 39.860 3 Công nghiệp - Xây dựng 7.910 8.610 9.738 10.640 4 Dịch vụ 3.080 3.220 3.440 3.620 Cơ cấu (%) 1 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 2 Nông lâm thuỷ sản 79,2 77,8 75,5 73,7 3 Công nghiệp - Xây dựng 14,9 16,1 18,1 19,6 4 Dịch vụ 5,9 6,1 6,4 6,7 Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu chủ yếu phòng thống kê huyện Bình Xuyên. Số liệu về nguồn lao động của huyện giai đoạn 2005-2008 cho thấy cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo xu hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng lao động ngành nông - lâm - thuỷ sản, tăng dần tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Tốc độ giảm lao động trung bình trong ngành nông nghiệp khoảng 1,7%/năm, tốc độ tăng lao động công nghiệp bình quân 11,5%/năm và lao động dịch vụ tăng 5,8%/năm. Nhưng tốc độ chuyển dịch chưa tương xứng với với tiềm năng thế mạnh của huyện. Tương lai phát triển thành một trung tâm công nghiệp của tỉnh và trung tâm huyện lỵ trở thành đô thị loại IV vào năm 2020 đòi hỏi huyện phải chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh tỷ lệ lao động công nghiệp và dịch vụ; giảm nhanh tỷ lệ lao động nông nghiệp, đồng thời với việc đào tạo và nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động. Trình độ lao động thấp không tương xứng với tốc độ và quy mô phát triển công nghiệp của huyện sẽ một thách thức lớn đối với huyện trong những năm sắp tới. 2.2. Tình hình phát triển kinh tế và tác động của quản lý nhà nước tới phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên giai đoạn 2005-2008 2.2.1. Tổng quan về phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi, nằm giữa các trung tâm công nghiệp của tỉnh (Vĩnh Yên, Phúc Yên, Xuân Hoà), gần các khu công nghiệp của Hà Nội (Nội Bài, Sóc Sơn..) và sẵn có một số điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật (điện, giao thông..), dưới sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc, kinh tế huyện Bình Xuyên đã và đang chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hoá và đạt tốc độ tăng trưởng rất cao trong những năm vừa qua. Tốc độ tăng GTSX của huyện giai đoạn 2005-2008 đạt khoảng 29,4%/ năm (cao hơn mức trung bình 20% của tỉnh trong cùng kỳ), trong đó, nông - lâm-ngư nghiệp tăng 11,3%, công nghiệp-TTCN tăng 29,5%/năm và dịch vụ-TM tăng 64,5%/năm. Tốc độ tăng trưởng cao đã đưa tổng GTSX trên địa bàn huyện tăng gần 1,9 lần sau 3 năm, từ 2.931 tỷ đồng năm 2005 tăng lên 5.518 tỷ đồng năm 2008. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh chóng theo hướng công nghiệp hoá; Năm 2005 tỷ trọng giá trị sản xuất CN-TTCN-XDCB chiếm 83,9% Nông-Lâm- Thuỷ sản chiếm 10,6% Thương mại-Dịch vụ chiếm 5,5%. Năm 2006 tỷ trọng giá trị sản xuất CN-TTCN-XDCB chiếm 83,1% Nông-Lâm- Thuỷ sản chiếm 9,3% Thương mại- Dịch vụ chiếm 7,6%. Năm 2007 tỷ trọng giá trị sản xuất CN-TTCN-XDCB chiếm 84,3% Nông-Lâm- Thuỷ sản chiếm 8,6% Thương mại- Dịch vụ chiếm 7,1%. Năm 2008 tỷ trọng giá trị sản xuất CN-TTCN-XDCB chiếm 84% Nông-Lâm- Thuỷ sản chiếm 7,6% Thương mại- Dịch vụ chiếm 8,4%. Công nghiệp phát triển mạnh đã cải thiện cơ bản mức GTSX bình quân đầu người trong huyện: Từ 27,5 triệu đồng năm 2005 tăng lên 32,5 triệu đồng/người vào năm 2006; Năm 2007 là 38,6 triệu đồng/người; Năm 2008 là 50,5 triệu đồng/người. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng nhanh trong những năm vừa qua. Năm 2005 tổng thu ngân sách mới đạt trên 47 tỷ đồng, năm 2006 tổng thu là 59,2 tỷ đồng, năm 2007 tăng lên 90,4 tỷ đồng và năm 2008 đạt 182,4 tỷ đồng, trong đó thu từ khu vực ngoài quốc doanh tăng mạnh. Cơ cấu thu ngân sách của huyện chuyển dịch theo hướng tích cực và mang tính bền vững. Trong đó, tỷ trọng nguồn thu từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tăng đều đặn qua các năm và chiếm tỷ lệ khá cao. bình quân từ năm 2005 đến năm 2008 đều chiếm tỷ trọng trên 80% trong tổng nguồn thu. Trong thời gian qua từ huyện đến xã, thị trấn đã tích cực chủ động khai thác và nuôi dưỡng các nguồn thu, các khoản thu hàng năm đều đạt và vượt dự toán được giao, trong đó tăng chủ yếu là thuế giá trị gia tăng của các doanh nghiệp tư nhân, thu cấp quyền sử dụng đất và các khoản đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng khi giao đất. Mặc dù tổng nguồn thu của huyện quy mô còn rất nhỏ nhưng cơ cấu thu ngân sách đã chuyển biến tích cực. Tăng thu từ các nguồn trên thể hiện xu thế làm ăn có hiệu quả của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn và là nguồn thu bền vững trong điều kiện đất nước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số nguồn thu không được khai thác triệt để là các loại phí, lệ phí, thu khai thác đất đá cát sỏi.v.v.. Cùng với việc tăng thu, chi ngân sách huyện cũng tăng để phục vụ kịp thời cho phát triển kinh tế. Tổng chi ngân sách từ 32,6 tỷ đồng năm 2005 đã tăng lên 67,1 tỷ đồng vào năm 2008, chưa tính vốn đầu tư của tỉnh đầu tư trên địa bàn bình quân mỗi năm trên 70 tỷ đồng. Biểu 2.4: Cơ cấu kinh tế giai đoạn 2005-2008 Đơn vị tính: tỷ đồng Đơn vị tính 2005 2006 2007 2008 Tổng giá trị sản xuất Tổng số Tỷ trọng % Tổng số Tỷ trọng % Tổng số Tỷ trọng % Tổng số Tỷ trọng % 2.931 100 3.525 100 4.227 100 5.518 100 Giá trị công nghiệp xây dựng 2.460, 4 83,9 2930,8 83,1 3562,7 84,3 4637,2 84 Giá trị Nông lâm- Thuỷ sản 313,6 10,6 327,9 9,3 364,4 8,6 420 7,6 Giá trị Thương Mại- Dịch vụ 157 5,5 266,3 7,6 299,9 7,1 460,8 8,4 Nguồn: báo cáo một số chỉ tiêu chủ yếu phòng tài chính kế hoạch huyện Bình Xuyên. Biểu 2.5: Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế -xã hội chủ yếu huyện Bình Xuyên giai đoạn 2005- 2008 Số TT Chỉ tiêu ĐV Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Dân số Người 10634 7 10852 4 10943 8 10933 2 Lực lượng lao động xã hội Người 54.368 54.852 55.452 55.018 I Chỉ tiêu Kinh tế 1 Giá trị sản xuất tỷ 2.931 3.525 4.227 5.518 1.1 Giá trị Công nghiệp- xây dựng tỷ 2.460, 4 2.930, 8 3.562, 7 4.637, 2 1.2 Giá trị Nông lâm- Thuỷ sản tỷ 313,6 327,9 364,4 420 1.3 Giá trị Thương mại - Dịch vụ tỷ 157 266.3 299,9 460,8 2 Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỷ 47 59,2 90,4 182,4 3 Tổng chi ngân sách trên địa bàn tỷ 32,6 44,8 50,6 67,1 II Chỉ tiêu xã hội 1 Số lao động được đào tạo nghề % 28,56 2 Số lao động được giải quyết việc làm hàng năm. Lao động 1.881 2.000 2.402 2.618 3 Tổng số giường bệnh GB 131 131 140 145 4 Tổng số Bác sỹ trên 100 dân BSỹ 0,017 0,0176 0,02 0.023 5 Tỷ Lệ hộ nghèo % 13,49 % 11,42 % 9,01% 6,7% 6 Số điện thoại trên 100 dân đt/100 d 6,8 9,28 10,53 13,2 7 Thu nhập trên đầu người.(theo giá trị sản xuất) Tr.đ 27,5 32,5 38,6 50,5 Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu chủ yếu phòng tài chính kế hoạch huyện Bình Xuyên. 2.2.2. Hiện trạng phát triển các ngành và lĩnh vực 2.2.2.1. Ngành nông - lâm - ngư nghiệp Tốc độ tăng bình quân GTSX thời kỳ từ 2005 đến nay luôn duy trì ở trên 10%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 8,4%/năm; thuỷ sản tăng 15,2%/năm và lâm nghiệp tăng 10,5%/năm; dịch vụ tăng 10,7%/năm. Giá trị sản xuất của ngành từ 313,6 tỷ đồng năm 2005, tăng lên 327,9 tỷ đồng năm 2006, năm 2007 là 364,4 tỷ đồng, năm 2008 là 420 tỷ đồng. Cơ cấu GTSX nội bộ ngành nông nghiệp trong những năm qua đã chuyển dịch theo hướng tích cực hơn. Tỷ trọng ngành trồng trọt từ 54,3% năm 2005 giảm xuống còn 49,7% năm 2008; tỷ trọng ngành chăn nuôi từ 41,3% năm 2005 tăng lên 45% năm 2008. Biểu 2.6: Hiện trạng phát triển ngành nông-lâm- thuỷ sản của huyện ĐVT: Triệu đồng Năm Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng số 313.624 327.963 364.399 420.056 I- Ngành trồng trọt 166.944 155.892 167.009 208.780 1- Cây lương thực 108.300 107.024 120.544 135.363 2- Cây rau đậu 10.866 12.002 11.143 23.720 3- Cây công nghiệp hàng năm 11.675 7.478 9.588 21.301 4- Cây lâu năm 15.641 15.179 16.177 19.155 5- Các loại cây khác 14.312 10.872 7.756 7.420 6- Sản phẩm tự trồng trọt 6.150 3.400 1.801 1.821 II- Ngành lâm nghiệp 3.466 3.414 2.797 4.564 1- Trồng và chăm sóc rừng 1.608 1.754 1.044 2.456 2- Sản phẩm lâm nghiệp 1.858 1.660 1.753 2.108 III- Chăn nuôi, thuỷ sản 129.671 151.445 177.504 188.816 1- Gia súc 82.112 94.628 112.670 121.706 2- Gia cầm 25.046 31.150 35.045 39.413 3- Chăn nuôi khác 2.168 3.912 4.440 5.060 4- Nuôi trồng thuỷ sản 12.497 14.195 20.879 12.458 5- Sản phẩm phụ chăn nuôi 7.848 7.200 4.470 10.179 IV- Dịch vụ nông lâm nghiệp 13.543 17.212 17.089 17.896 1- Làm đất cộng tưới tiêu 10.863 13.493 13.258 13.984 2- Giống gia súc, gia cầm 365 675 525 670 3- Giống cây trồng 2.000 2.500 2.700 2.800 4- Dịch vụ khác 315 544 606 530 Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu chủ yếu phòng thống kê huyện Bình Xuyên. * Trồng trọt Diện tích đất nông nghiệp năm 2005 của huyện là 6844,17 ha, chiếm 47,0% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó, đất trồng cây hàng năm chiếm 88,4%; đất vườn 8,8%; đất trồng cây lâu năm 1,3%; đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi 0,2% và đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản chiếm 1,4%. Ngoài sự thay đổi diện tích trồng trọt do tách xã Minh Quang khỏi Bình Xuyên, diện tích trồng các loại cây trên địa bàn hầu như không biến động nhiều qua các năm, thể hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng còn chậm. Tính đến năm 2005 tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm của huyện có khoảng 11.728,5ha, trong đó, diện tích cây lương thực chiếm gần 81,1%, cây rau đậu chiếm 5,6%; cây công nghiệp hàng năm chiếm 6,5% và cây hàng năm khác chiếm 6,8%. Cơ cấu diện tích gieo trồng cây hàng năm cho thấy cây nông nghiệp chủ đạo của huyện vẫn là cây lương thực, là loại cây truyền thống đem lại giá trị gia tăng thấp. Một số loại cây có giá trị kinh tế cao và có thị trường trong và ngoài nước như cây rau đậu, cây ăn quả...chiếm diện tích không đáng kể. Diện tích trồng cây lâu năm của huyện rất nhỏ, ổn định ở mức 520 ha, chủ yếu là trồng cây ăn quả như nhãn, vải, chuối, bưởi và một ít chè. Cây lâu năm của huyện không nhiều, năng suất thấp, hướng chuyển đổi còn khó khăn. Nhìn chung, trong thời gian qua (2005-2008) tốc độ tăng GTSX ngành trồng trọt đạt mức 8,4%/năm, đưa giá trị sản xuất từ 166,9 tỷ đồng năm 2005 tăng lên 208,8 tỷ đồng năm 2008. Tỷ trọng ngành trồng trọt trong cơ cấu GTSX ngành nông nghiệp có xu hướng giảm dần, từ 54,3% năm 2005 xuống còn 49,7% năm 2008. - Cây lương thực Lúa là cây lương thực chủ lực của huyện, chiếm tỷ lệ khoảng 80% tổng diện tích trồng cây lương thực và hiện có khoảng trên 5.000 ha, tập trung nhiều ở xã Bá Hiến, Thanh Lãng, Đạo Đức. Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp, năng suất lúa bình quân đã tăng liên tục trong các năm qua. Năm 2005 năng suất lúa bình quân đạt 49,31 tạ/ha; năm 2008 tăng lên 51.72 ta/ha, góp phần nâng sản lượng lương thực có hạt của huyện từ 40,086 nghìn tấn năm 2005 tăng lên 41,571 nghìn tấn vào năm 2008. Dự kiến, tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2009 chỉ đạt khoảng 39,75 nghìn tấn do phải tiếp tục chuyển 356 ha đất nông nghiệp sang sử dụng mục đích khác. Tính so với các huyện khác trong tỉnh, Bình Xuyên có diện tích trồng lúa đứng thứ 5 nhưng do dân số ít, năng suất vào loại khá nên mức lương thực (lúa) bình quân đầu người năm 2005 đạt mức cao nhất nhì trong tỉnh với mức lương thực có hạt bình quân đầu đạt khoảng 410 kg/người - Cây thực phẩm Diện tích trồng cây thực phẩm của huyện năm 2005 có 655,1 ha, trong đó rau xanh chiếm gần 93% tổng diện tích (chủ yếu là trồng rau vụ đông), còn lại là trồng đậu. Cây thực phẩm là một trong những mặt hàng nông sản có giá trị kinh tế cao, thị trường rộng lớn. Đặc biệt, nhu cầu của các thành phố và các khu công nghiệp về các loại rau đậu sạch ngày càng tăng đã và đang trở thành một một hướng sản xuất chiến lược của nhiều địa phương. Tuy vậy, diện tích gieo trồng, năng suất và sản lượng cây thực phẩm của huyện hầu như không tăng trong nhiều năm qua. Sản xuất cây thực phẩm của huyện hiện đóng góp GTSX rất nhỏ, khoảng hơn 15 tỷ đồng năm. Huyện Bình Xuyên có vị trí địa lý nằm giữa các trung tâm công nghiệp của tỉnh và gần Thủ đô Hà Nội, có lợi thế về sản xuất các loại cây thực phẩm phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng của các đối tác này cho nên cần có biện pháp cải tạo đất đai, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và mở rộng diện tích trồng rau, đậu để nâng giá trị thu nhập trên 1 ha đất canh tác, cải thiện đời sống và tạo việc làm cho người nông dân; - Cây công nghiệp hàng năm Diện tích cây công nghiệp hàng năm của huyện có 764 ha (năm 2005),trong đó diện tích trồng đậu tương chiếm tỷ lệ 64,5%, lạc chiếm 35,5%; thanh hao hoa vàng chiếm 11,5%; mía chiếm 4%. Năng suất và sản lượng các loại cây trồng trên tăng không ổn định trong các năm qua; riêng diện tích trồng lạc, dâu tằm đã giảm rõ rệt và sản lượng cũng giảm theo. Cây công nghiệp hàng năm của huyện đóng góp giá trị sản xuất rất nhỏ bé, khoảng 10 tỷ đồng năm. Các loại cây cây công nghiệp trồng trên địa bàn huyện thuộc loại cây có giá trị kinh tế cao, đồng thời có thị trường trong và ngoài nước. Tuy vậy, do điều kiện đất đai kém màu mỡ, sản xuất manh mún, khả năng mở rộng diện tích và trồng quy mô lớn khó khăn nên các loại nông sản này còn đóng vai trò thứ yếu trong phát ngành nông nghiệp nói riêng và kinh tế huyện nói chung. - Cây ăn quả Diện tích trồng cây ăn quả của huyện khoảng 520 ha, trong đó nhãn, vải chiếm 24% tổng diện tích; chuối chiếm 21,4% ; phần diện tích còn lại trồng các loại cây như dứa, táo, bưởi. Sản lượng các loại cây ăn quả của huyện nhìn chung không ổn định trong nhiều năm qua.Tuy vậy, do giá các loại trái cây khá cao, lại dễ tiêu thụ nên ngành cũng đã đóng góp giá trị kinh tế khá hơn các loại cây khác với giá trị trên dưới 15 tỷ đồng năm. Biểu 2.7: So sánh năng suất một số loại cây trồng của Bình Xuyên với các huyện khác trong tỉnh năm 2005 ĐVT: Tạ/ Ha Bình Xuyên Lập Thạch Tam Dương Tam Đảo Yên Lạc Vĩnh Tường Lúa cả năm 49,31 43,55 48,77 42,97 57,10 57,95 Ngô 37,28 34,24 37,60 35,24 41,86 43,63 Khoai 77,66 69,94 88,70 70,71 107,16 122,00 Sắn 105,0 105,5 102,50 101,00 - 100,0 Rau xanh 110,32 88,56 164,08 90,00 150,29 217,21 Đậu các loại 4,0 2,9 8,6 6,8 11,0 12,0 Lạc 15,20 13,66 13,82 15,65 18.80 20,52 Đậu tương 14,49 12,15 14,48 12,73 15,49 17,44 Mía 567,91 555.0 630,0 620,0 600.0 850.0 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc 2005. * Chăn nuôi - thuỷ sản - Chăn nuôi Thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong các năm qua huyện đã tích cực triển khai một số dự án về chăn nuôi : dự án cải tạo và nâng cao chất lượng giống đàn bò thịt, dự án cải tạo và chăn nuôi lợn hướng nạc, xây dựng hệ thống thú y cơ sở đảm bảo an toàn dịch bệnh. Các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi được áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao chất lượng giống gia súc gia cầm; nhiều giống gia súc gia cầm mới được đưa vào sản xuất, tăng nhanh khối lượng hàng hoá cung cấp ra thị trường. Hiện nay, hầu hết đàn lợn được cải tạo giống theo hướng siêu nạc; đến năm 2005 tỷ lệ đàn bò lai sind chiếm 40,1% tổng đàn, năm 2008 chiến 50% tổng đàn, (cao hơn mức bình quân 45% của tỉnh); đã xuất hiện các mô hình chăn nuôi tập trung theo phương pháp công nghiệp có khối lượng hàng hoá lớn. Huyện cũng đã làm tốt công tác phòng và chống dịch, ngăn chặn kịp thời dịch cúm gia cầm, hạn chế phát sinh các ổ dịch mới. Tính đến năm 2005, tổng đàn bò của huyện có khoảng 12.068 con, đàn lợn có trên 49.290 con, trong đó, lợn thịt chiếm tỷ lệ 86%; đàn gia cầm có khoảng 374.800 con; trâu có 3.354 con. Phát triển của ngành chăn nuôi đã đóng góp cho mức tăng GTSX huyện khoảng trên 100 tỷ đồng năm. Đánh giá chung, ngành chăn nuôi của huyện hiện đang đứng vị trí trung bình của tỉnh về tổng đàn nuôi và cả sản lượng thịt hơi xuất chuồng, trong đó lợi thế của huyện là chăn nuôi bò thịt và lợn. Sản phẩm chăn nuôi đang có xu hướng trở thành nông sản hàng hoá quan trọng của huyện. - Thuỷ sản Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, diện tích nuôi trồng thuỷ sản của huyện liên tục được tăng lên, từ 752 ha 2005 tăng lên 832 ha năm 2006 và 936 ha năm 2008. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng nhờ đó cũng đã tăng từ trên 804 tấn năm 2005 lên 940 tấn năm 2006, 1091 tấn năm 2007 và 969 tấn năm 2008. Hiện nay tổng số hộ chăn nuôi thuỷ sản có quy mô lớn trên địa bàn toàn huyện có khoảng 180 hộ. Các hộ chăn nuôi thuỷ sản đã tích cực ứng dụng kỹ thuật tiến tiến trong sản xuất, tỷ lệ các giống cá có năng suất và giá trị thấp giảm dần, thay thế bằng các giống cá có năng suất và giá trị cao như cá chép lai, chim trắng, rô phi đơn tính Ngành thuỷ sản trong những năm qua (2005-2008) đạt tốc độ tăng GTSX bình quân 14,7%/năm. Giá trị sản xuất của ngành tuy còn nhỏ trong cơ cấu ngành nông-lâm-ngư nhưng có xu hướng tăng lên rõ rệt, từ 12,4 tỷ đồng năm 2005 tăng lên 20,8 tỷ đồng năm 2007. Huyện Bình Xuyên có hơn 2000 ha đồng chiêm trũng nên hướng tập trung đầu tư để phát triển một vụ lúa một vụ cá tại các khu vực này sẽ giúp ngành thuỷ sản của có thể trở thành một sản phẩm chủ lực. Hiện tại và trong tương lai, ngành thuỷ sản vẫn là ngành kinh tế quan trọng mang lại hiệu quả cao, đóng góp giá trị gia tăng lớn cho huyện. Vì vậy, ngành cần phải được đầu tư, củng cố để tiếp tục phát triển hơn. * Dịch vụ nông nghiệp Trên địa bàn huyện hiện nay có 20 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp. Nhờ sự hoạt động tích cực của các đơn vị này, công tác thú y, bảo vệ thực vật, cung cấp phân bón, cung cấp giống, vật tư nông nghiệp đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Trong những năm qua GTSX ngành dịch vụ nông nghiệp đã tăng khá nhanh, đạt tốc độ tăng bình quân 10,7%/năm, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Năm 2005 đạt giá trị 13.5 tỷ đồng, năm 2007 đạt 17 tỷ đồng và 17.9 tỷ đồng năm 2008 và chiếm tỷ trọng khoảng 5% trong cơ cấu ngành nông nghiệp. Tóm lại: Ngành đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá, ổn định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm, chăn nuôi và thuỷ sản tăng. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được thực hiện trong cả lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi; dịch vụ nông nghiệp đã hoạt động tích cực đảm bảo hậu cần cho sản xuất nông nghiệp. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại Cơ cấu nông nghiệp còn nặng về trồng trọt và cơ cấu cây trồng còn thiên về trồng lương thực; các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao chưa được phát triển mạnh (rau đậu, cây ăn quả); Năng suất các loại cây trồng còn thấp; hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa cao (giá trị thu nhập trên 1 ha đất canh tác chưa cao, đạt khoảng 24 triệu đồng/ha, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 26 triệu đồng/ha của tỉnh Vĩnh Phúc). Các phân ngành chưa phát triển đồng bộ; việc dồn ghép ruộng đất còn chậm. Quy mô sản xuất chủ yếu là hộ gia đình chưa xây dựng được các mô hình sản xuất lớn nên sản phẩm hàng hoá còn manh mún; hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp còn khó khăn; 2.2.2.2. Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng * Công nghiệp Thực hiện chiến lược công nghiệp hoá và hiện đại hoá của đất nước, trong những năm qua huyện Bình Xuyên đã huy động các thành phần kinh tế, tập trung vốn đầu tư để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp và đạt được những kết quả to lớn. Tính đến 31/12/2008 trên địa bàn huyện Bình Xuyên có 276 doanh nghiệp đăng ký sản xuất kinh doanh trên địa bàn với tổng số vốn đăng ký 14.694,76 tỷ đồng. Trong đó có 187 công ty TNHH; 52 doanh nghiệp tư nhân; 9 công ty nước ngoài; 24 hợp tác xã và 3 doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp tiểu thủ công nghiệp đóng trên địa bàn thu hút được khoảng 11.336 lao động (lao động tại chỗ chiếm tỷ lệ 30-40%), trong đó doanh nghiệp FDI thu hút được 1.512 lao động. Ngành công nghiệp trên địa bàn đã cho nhiều sản phẩm hàng hoá như: vật liệu xây dựng, thức ăn gia súc, bao bì, má phanh ô tô và xe máy, hàng may mặc và một số hàng thực phẩm (thịt lợn, gà,,,). Đặc biệt, tại đây đã hình thành khu công nghiệp Bình Xuyên, khu công nghiệp Bá Thiện, cụm công nghiệp Hương Canh, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn và giúp cho việc quản lý sản xuất và bảo vệ môi trường được tốt hơn. Các khu, cụm công nghiệp đã thu hút được một lượng vốn đầu tư trong và ngoài nước tạo cho huyện một vị thế mới trong nền kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc. Tính đến nay 100% diện tích cụm công nghiệp Hương Canh (24 ha) đã được lấp đầy và một phần diện tích khu công nghiệp Bình Xuyên đã được đưa vào sử dụng. Trong giai đoạn 2005-2008, tốc độ tăng GTSX ngành công nghiệp- xây dựng đã đạt mức rất cao trên 30%/năm (cao hơn nhiều so với mức trung bình 18,6% của tỉnh), Tốc độ tăng trưởng cao đã đưa GTSX của ngành từ 2460,4 tỷ đồng năm 2005 tăng lên 4637,2 tỷ đồng vào năm 2008. Kết quả là đến năm 2008 ngành công nghiệp-xây dựng đã nhanh chóng chiếm tỷ trọng áp đảo trong cơ cấu GTSX của huyện, khoảng 84%. Khác với nhiều địa phương trong tỉnh và trong cả nước, khu vực đầu tư trong nước của Bình Xuyên lớn mạnh nhanh và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng GTSX của huyện. Dưới đây là các chỉ tiêu về phát triển công nghiệp- xây dựng huyện trong giai đoạn vừa qua. Biểu 2.8: Các chỉ tiêu phát triển ngành công nghiệp-xây dựng của huyện 2005-2008 ĐVT: tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 I. GTSX CN + XD 2.460,4 2.930,8 3.562,7 4.637,2 1. Công nghiệp 2.104 2.515 2.857 3.465 - Khai thác 101 150 200 250 - Chế biến 1.849 2.205 2.477 3.015 - Khác 154 160 180 200 2. Xây dựng 356,4 415,8 705,7 1.172,2 III. Cơ cấu GTSX 100% 100% 100% 100% 1. Công nghiệp 85,5 85,8% 80,2% 74,7% - Khai thác 4,1 5,1% 5,6% 5,4% - Chế biến 75,1 75,2% 69,5% 65,0% - Khác 6,3 5,5% 5,1% 4,3% 2. Xây dựng 14,5 14,2% 19,8% 25,3% Nguồn: phòng thống kê huyện Bình Xuyên. Như vậy, từ một huyện nông nghiệp vào năm 1998, đến nay sau gần 10 năm Bình Xuyên đã trở thành một huyện có công nghiệp là chủ đạo. Ngoài các ngành công nghiệp mới, các nghề thủ công truyền thống của huyện cũng được quan tâm khôi phục và phát triển, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành công nghiệp nói riêng và kinh tế huyện nói chung. * Tiểu thủ công nghiệp. Do có nhiều khó khăn về vốn, thị trường, trình độ kỹ thuật, các mặt hàng có tính cạnh tranh chưa cao nên các làng nghề TTCN của Bình Xuyên phát triển còn khó khăn, cho giá trị sản xuất rất nhỏ, từ 3 đến 5 tỷ đồng/năm. Tiếp tục khôi phục lại các làng nghề truyền thống là một trong những hướng phát triển sản xuất đúng đắn nhằm chuyển đối cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân. - Làng gốm Hương Canh: Năm 2003 huyện đã quy hoạch 6 ha đất ở khu Đồng Bèo thị trấn Hương Canh để khôi phục làng nghề gốm. Đến nay các cơ sở sản xuất đã được phục hồi và đưa ra thị trường các sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận như gốm mỹ nghệ, ngói cổ dùng phục chế các đền chùa và các công trình văn hoá. Tổng doanh thu nghề này tăng từ 1,3 tỷ năm 2005 lên 1,8 tỷ năm 2008. Hoạt động của làng nghề đã thu hút được 100 lao động làm việc tại làng gốm này. - Làng mộc Thanh Lãng: Năm 2004 huyện đã quy hoạch 17.6 ha ở khu vực Thống Nhất xã Thanh Lãng để phát triển nghề mộc. Ngoài ra tỉnh và huyện đã tích cực đầu tư đào tạo nghề, xúc tiến thương mại, tổ chức thăm quan học tập và du nhập thêm nghề mây, tre xiên xuất khẩu, khảm trai. Nghề mộc Thanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- phát triển kinh tế huyện bình xuyên tỉnh vĩnh phúc trong điều kiện hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan