Luận văn Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Da giầy Hà Nội giai đoạn (1996-2001) và dự báo năm 2002

Tài liệu Luận văn Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Da giầy Hà Nội giai đoạn (1996-2001) và dự báo năm 2002: LUẬN VĂN: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Da Giầy HN giai đoạn (1996-2001) và dự báo năm 2002 Lời nói đầu. Chúng ta bước sang thế kỷ XXI , thế kỷ của sự phát triển tột bậc của khoa học được ứng dụng nhan tránh vào mọi lĩnh vực nhưng nhạy cảm nhất là lĩnh vực kinh tế. Hiện nay nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nên kinh tế thị trường . Chính sự thay đổi này đã kéo theo sự cạnh tranh trên thị trường giữa các doanh nghiệp ngày càng trở lên gay gắt và quyết liệt vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự thích hợp nhanh chóng nhạy bén trong mọi vấn đề , đặc biệt là việc tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm sao cho có hiệu quả cao nhất. Tiêu thụ sản phẩm có vai trò cực kỳ quan trọng đến sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của doanh nghiệp . Tiêu thụ đóng vai trò đầu ra của quá trình sản xuất trong các doanh nghiệp : Mọi hàng hoá dịch vụ sinh ra là để bán không có m...

pdf57 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1141 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Da giầy Hà Nội giai đoạn (1996-2001) và dự báo năm 2002, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Da Giầy HN giai đoạn (1996-2001) và dự báo năm 2002 Lời nói đầu. Chúng ta bước sang thế kỷ XXI , thế kỷ của sự phát triển tột bậc của khoa học được ứng dụng nhan tránh vào mọi lĩnh vực nhưng nhạy cảm nhất là lĩnh vực kinh tế. Hiện nay nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nên kinh tế thị trường . Chính sự thay đổi này đã kéo theo sự cạnh tranh trên thị trường giữa các doanh nghiệp ngày càng trở lên gay gắt và quyết liệt vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự thích hợp nhanh chóng nhạy bén trong mọi vấn đề , đặc biệt là việc tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm sao cho có hiệu quả cao nhất. Tiêu thụ sản phẩm có vai trò cực kỳ quan trọng đến sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của doanh nghiệp . Tiêu thụ đóng vai trò đầu ra của quá trình sản xuất trong các doanh nghiệp : Mọi hàng hoá dịch vụ sinh ra là để bán không có một doanh nghiệp nào sản xuất ra hàng hoá hay kinh doanh dịch vụ mà lại không cần tiêu thụ .giải quyết tốt yếu tố đầu ra này đồng nghĩa với doanh nghiệp đã tạo ra yếu tố đầu vào cho chu kỳ sản suất kinh doanh mới. Nếu tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm thì sẽ làm cho sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ nhanh và nhiều hơn , rút ngắn thời gian thu hồi vốn . Tốc độ tiêu thụ cao lợi nhuận lớn tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cho ngân sách nhà nước đảm bảo đời sống của người lao động , thúc đẩy sản xuất kinh doanh ..... Vấn đề đặt ra hiện nay là công ty phải thực hiện các biện pháp để đổi mới công tác tiêu thụ sản phẩm của mình sao cho có hiệu quả nhất. Xuất phát từ đó, Trong thời gian thực tập tại công ty Da Giầy HN, em đã quan tâm và đi sâu tìm hiểu “ công tác tiêu thụ sản phẩm” của công ty. Em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài “ Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Da Giầy HN giai đoạn (1996-2001) và dự báo năm 2002” chương I Những Vấn Đề Lý Luận Chung Về Tiêu Thụ Sản Phẩm. I. Thi Trường Và Doanh Nghiêp Trong Cơ Chế Thị Trường 1.Thi trường . a. Các Quan Điểm Tiếp Cận Thị Trường Thị trường nhìn dưới góc độ thương mại là nơio mua bán hàng hoá làg một quá trình trong đóngười mua và người bán một thứ hàng hoá tác động qua lại nhau để xác định giá cả và só lượng hàng, là nơi diễn da các hoạt động mua bán bằng tiền trong thời gian nhất định . Dưới con mắt của các nhà doanh nghiệp thì thị trưòng là bao gồm tất cả các cá nhânhiệm vụà tỏ chức mua săm hàng hoá và dịch vụ đẻ sử dụng vào việc sản xuất ra những hàng hoá hay dịch vụ khác,để bán,cho thuê hay cung ứng cho những ngưòi khác. Các nhà quản trị kinh doanh cho rằng: Thị trường chứa tổng số cung, tổng số cầu và cơ cấu tổng cung tổng cầu về một lọai hàng hoá nào đó .Thị trưòng bao gồm tất cả các yểu tố không gian và thời gian. Trong thị trường luôn diễn da các hoạt động mua bán và thường xuyên các quan hệ hàng hoá tiền tệ . Còn theo cách nhì của Marketing thì thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiền ẩn có cùng một nhu cầu hay mong muốn cụ thể sẵn sàng và có khả năng tham gia chao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó. Như vậy tuỳ thuộc vào đạc điểm và mục đích của mình mà mỗi đối tưọng, mỗi trường phái đưa ra cách nhìn nhận riêng về thị trưòng . Vậy: Thị trường là nơi mà người bán tự tìm đén với nhau qua chao đổi, thăm dò, tiêp xúc để nhận lấy lời giải đáp mà mỗi bên cần biết . +Phải sản xuất loại hàng gì ? cho ai? +Số lượng bao nhiêu ? +Mẫu mã kiểu cách thế nào ? Người tiêu dùng thông qua thị trường để tìm hiểu : +Ai sẽ đáp ứng được nhu cầu của mình ? +Nhu cầu được thoả mãn đến mức nào? Khả năng thanh toán ra sao ? b. Vai trò của thị trường Thị trưòng có vai trò hết sức quan trọng trong sản xuất kinh doanh qua thị trường, có tể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả. Trên thị trường giá cả hàng hoá và các nguồn lực về tư liệu sản xuất,sức lao động,....luôn luôn biến động nhằm đảm bảo các nguồn lực có giói hạn này đựoc sử dụng để sản xuất đúng hàng hoá , dịch vụ mà xã hội có nhu cầu . Thị trường là khách quan mà doanh nghiệp không có khả năng làm thay đổi thị trường . Các doanh nghiệp chỉ có thể dựa trên cơ sở nhận biết nhu cầu của xã hội và thế mạnh kinh doanh của mình mà có phương án kinh doanh của mình phù hợp với đòi hỏi của thị trường. Tái sản xuất hàng hoá bao gồm cả sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng . Thị trường lằm trong khâu lưu thông, như vậy thị trường là mội khâu tất yếu sản xuất ra hàng hoá Thị trường chỉ mất đi khi hàng hoá không còn .Để sản xuất ra hàng hoá, doanh nghiệp phỉa chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và thị trường chính là nơi kiểm ngiệm các chi phí đó của doanh nghiệp Sự vận động của thị trường chịu sự chi phối chủ yếu của các quy luật: +Quy luật giá trị :Quy định hàng hoá phải được sản xuất và trao đổi trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là chi phí bình quân trong xã hội . +Quy luật cung cầu: Nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn luôn có xu thế chuyển động xích lại gần nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường. +Quy luật giá trị thặng dư : Yêu cầu hàng hoá bán gia phải bù dắp chi phí sản xuất vầ lưu thông đồng thời phải có một khoản lợi nhuận để tái sản suất sức lao động và tái sản xuất đã đạt được. +Quy luật cạnh tranh :Quy định hàng hoá sản xuất ta phải ngày có chi phi thấp hơn, chất lượng tốt hơn để thu được lợi nhuận cao và có khả năng cạnh tranh với các hàng hoá cùng loại . c. Chức năng của thị trường . +Chức năng của thừa nhận :Thị trường là nơi gặp gỡ giữa người sản xuất và người tiêu dùng trong quá trình chao đổi hàng hoá.Nhà doanh nghiệp đưa hàng hoá của mình ra thị trường với mong muốn chủ quan là bán được nhiều hàng hoá với giá cả sao cho bù dắp được chi phi đã bỏ ra và có nhiều lợi nhuận.Người tiêu dùng tìm đến thị trường để mua hàng hoá đúng công dụng, hợp thị hiếu và có khả năng thanh toán theo mong muốn của mình.Trong quá trình diễn ra trao đổỉ , mặc cả trên thị trường giữa đôi bên về một hàng hoá nào đó, sẽ có hai khả năng sảy ra là thừa nhận hoặc không thừa nhận .Tức là hàng hoá đó không phù hợp với khả năng thanh toán hoặc không phù hợp với công dụng và thị hỉếu của người tiêu dùng .Trong trường hợp này quá trình sản xuất sẽ bị ách tắc không thực hiện đuợc. Ngược lại,trong thị trường thực hiện chức năng chấp nhận, tức là đôi bên đã thuận mua vừa bán thì quấ trình sản xuất được giải quyết. + Chức năng thực hiện :Thị trường thực các hành vi trao đổi hàng hoá, thực hiên cân bằng cung cầu, thực hiện giá trị thông qua giá cả hàng hoá và làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực trong doanh nghiệp . + Chức năng điều tiết: Nhu cầu của thị trường là mục đích của quá trình sản xuất . Thị trường là một tập hợp các hoạt động của các quy luật kinh tế. Do đó thị trường vừa là mục tiêu,vừa là động lực để thực hiện các mục tiêu trong doanh nghiệp. Chức năng này thể hiện ở chỗ nó cho phép người sản xuất bằng với nghệ thuật của mình tìm được nơi tiêu thụ hàng hoá dịch vụ với hiệu quả hay lợi nhuận cao, đồng thời cho phép người tiêu dùng mua hàng hoá có lợi ích tiêu dùng cao nhất cho mình . + Chức năng thông tin : Thể hiện ở chỗ nó chỉ ra cho người sản xuất biết nên sản xuất mặt hàng nào, khối lượng bao nhiêu, và nên đưa ra ở thị trường ở thời điểm nào. Nó chỉ ra cho người tiêu dùng biết nên mua một mặt hàng hoá hay một mặt hàng thay thế nào đó , hợp với thu nhập của họ. chức năng này hình thành là do trên thị trường có chứa được các thông tin về tổng số cung tổng số cầu, quan hệ cung cầu của từng mặt hàng hoá. Chi phí sản xuất, giá cả thị trường , chất lượng sản phẩm, các điều kiện tìm kiếm , tập hợp các yếu tố sản xuất và phân phối sản phẩm . Đó là những thông tin cần thiết về người sản xuất và người tiêu dùng ra các quyết định phù hợp với lợi ích của mình. Việc tách biệt các chức năng ấy chỉ là các ước lệ mang tính chât nghiên cưú . Còn trong thực tế, một hiện tượng kinh tế diễn ra trên thị trường thể hiện đầy đủ và đan xen lẫn nhau của các chức năng trên . d/. Phân loại thị trường : Phân loại thị trường có ý nghĩa là chia một thị trường lớn thành các thị trường nhỏ mà người tiêu dùng ở một thị trường nhỏ có cùng đặc điểm về hành vi mua bán . Mỗi cách phân loại có một ý nghĩa quan trọng riêng đối với quá trình kinh doanh . Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu -Căn cứ vào quan hệ mua bán giữa các nước : + Thị trường dân tộc : Là nơi diễn ra các hoạt động mua bán của những người trong cùng một quốc gia và có quan hệ kinh tế diễn ra trong mua bán chỉ ảnh hưởng đến các vấn đề kinh tế, chính trị xã hội trong phạm vi nước đó . + Thị trường thế giới: Là nơi diễn ra các hoạt động mua bán giữa các nước với nhau. Quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế của mỗi nước. -Căn cứ vào hàng hoá lưu thông trên thị trường : + Thị trường tư liệu sản xuất : Tư liệu sản xuất có vai trò quyêt định trong tái sản xuất xã hội. Hoạt động trên thị trường này thường là các doanh nghiệp mới, cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ, quy mô thị trường lớn. Nhu cầu trên thị trường tư liệu sản xuất không phong phú đa dạng như nhu cầu trên thị trường tiêu dùng . Thị trường tư liệu sản xuất phụ thuộc vào thị trường tư liệu tiêu dùng . + Thị trường tư liệu tiêu dùng. Tính đa dạng, phong phú về nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng quyết định tính phong phú , đa dạng của thị trường tư liệu tiêu dùng . -Căn cứ vào vai trò của người mua và người bán trên thị trường : + Thị trường người bán: Vai trò quyết định thuộc về người bán, giá cả bị áp dặt, cạnh tranh bị thủ tiêu hoặc không đủ điều kiện hoạt đông, nhiều mặt hàng, loại hàng cung ứng ra thị trường không đúng yêu cầu, vai trò của người mua bị thủ tiêu. Thị trường người bán được hình thành một mặt do sản xuất hàng hoá chưa phát triển, mặt khác do sự quản lý hành chính bao cấp . + Thị trường ngưòi mua : Vai trò quyết định trong quan hệ mua bán thuộc về người mua . Vì vậy, vai trò của người mua là yếu tố quyết định của quá trình tái sản xuất hàng hoá. Thị trường người mua là môi trường khách quan cho sự hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường . -Căn cứ vào số lượng người mua, người bán trên thị trường : + Thị trường độc quyền : Có thị trường độc quyền người bán và thị trường độc quyền người mua . Trên thị trường độc quyền, giá cả và tác phong kinh tế và các quan hệ kinh tế khác bị chi phối rất lớn, bởi các nhà độc quyền. Song không vì thế mà cho rằng các quan hệ kinh tế, giá cả tiền tệ .... Thị trường độc quyền là hoàn toàn chủ quan .Bởi vì trên thị trường độc quyền vẫn còn tồn tại cạnh tranh giữa người mua và người bán, vẫn có sự hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường . + Thị trường cạnh tranh : có nhiều người mua người bán, thế và lực của họ là ngang nhau, họ cạnh tranh với nhau nên tạo ra thị trường cạnh tranh trên thị trường cạnh tranh , các quan hệ kinh tế diễn ra tương đối khách quan và ổn định . 2. Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường . a. Khái niệm: Có thể khái niệm trên cơ sở khái niệm của tổ chức : Tổ chức là một nhóm tối thiểsu hai người, cùng hoạt động với nhau một cách quy củ theo những nguyên tắc thể chế và các tiêu chuẩn nhất định, nhằm đặt ra và thực hiện các mục tiêu chung ... Như vậy , một tổ chức có đặc trưng cơ bản sau đây . -Một nhóm người cùng hoạt động với nhau ; -Có mục tiêu chung; -Được quản trị theo các thể chế nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc được quan niệm như là các chuẩn mực, tiêu chuẩn cần thiết để điều hành tổ chức một cách có trật tự nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra . Có thể phân loại tổ chức theo các tiêu chức khác nhau . Xét theo tính chất hoạt động sẽ có tổ chức chính trị và tổ chức xã hôi, tổ chức kinh doanh ... Nếu xét theo mục tiêu sẽ có tổ chức nhằm mục tiêu phi lợi nhuận . Xét theo tính chất tồn tại sẽ có tổ chức ổn định và tổ chức tạm thời . Từ đó, có thể hiểu doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế hoạt động trong cơ chế thị trường . Trong luật doanh nghiệp nước ta có giải thích : “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tiên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định , được đăng ký kinh doanh theo các quy định pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Khái niệm doanh nghiệp thường được làm rõ thông qua khái niệm xí nghiệp . Xí nghiệp được hiểu là một đơn vị kinh tế được tổ chức một cách có kế hoạch nhằm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm . Với quan niệm này, xí nghiệp được coi là một hệ thống có các đặc trưng cơ bản là vừa phụ thuộc vừa lại không phụ thuộc cơ chế kinh tế. Với tư cách là hệ thống không phụ thuộc vào cơ chế kinh tế cụ thể xẽ có định nghĩa doanh nghiệp là một xí nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường . Mỗi danh nghệp đều là một xí nghiệp nhưng không phải là mọi xí nghiệp là doanh nghiệp . Cho đến nay ở nước ta vẫn còn các khái niệm khác nhau về doanh nghiệp. trong thực tế, phổ biến doanh nghiệp được khái niệm trực tiếp , cụ thể, trên giác độ luật và hiểu là đơn vị kinh doanh được thành lập chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh hay các doanh nghệp nhà nước là tổ chức kinh tế do đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. b. Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường . Cơ chế thị trường là một kiểu vận hành nền kinh tế mà trong đó các nhà sản xuất, kinh doanh và các hộ gia đình tác động qua lại lẫn nhau để giải quyết các vấn đề cơ bản của kinh doanh. Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung cầu và giá cả thị trường . Trước kia, trong nền kinh tế cơ chế hoá tập trung, người ta chỉ nhắc đến tên gọi xí nghiệp. Đây là một đơn vị kinh tế mà dưới cơ chế cũ nó bao gồm những nguyên tắc : Nguyên tắc sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, nguyên tắc xây dựng kế hoạch thống nhất nguyên tắc hoàn thành kế hoạch . Ngày nay, khái niệm xí nghiệu hầu như không còn được người ta nhắc đến trong cơ chế thị trường, xí nghiệp là doanh nghệpvà các nguyên tắc cũng có sự thay đổi: Nguyên tắc sở hữu , nguyên tắc xây dựng kế hoạch , nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận . Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường đòi hỏi tính tự chủ cao độ. Họ phải tự tìm cho mình thị trường đầuvào và đầu ra , tự xác định sản lượng , tự hoạch toán chi phí gía cả , lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh . Cơ chế thị trường mang tính cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm lấy cho mình những biện pháp chiến lược kinh doanh phù hợp nếu không muốn sớm bị đào thải . Muốn vậy doanh nghệp phải tìm hiểu rõ và thích nghi với môi trường kinh doanh của mình. Nhu cầu thị trường là bao nhiêu với nhu cầu ấy thì mức sản lượng nào là phù hợp , chị phí ra sao ...Đó là những câu hỏi mà doanh nghiệp càn phải trả lời . Ngoài ra, Các doanh nghệp cần có cách cư xử phù hợp từng hình thái thị trường: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường độc quyền , thị trường cạnh tranh độc quyền ... Với mỗi loại thị trường khác nhau, đòi hỏi doanh nghiệp phải có quyêt sách phù hợp . Về mục tiêu, mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau song có thể khẳng định trong cơ chế thị trường, Mọi doanh nghệp hoạt động kinh doanh đều nhằm mục tiêu bao trùm , lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận . Trên cơ sở này, doanh nghệp mới được cạnh tranh , Có điều kiện để thực hiện tái sản xuất với quy mô ngày càng lớn , để cải thiện điều kiện làm việc nâng cao lợi ích của người lao động và thực hiện các nghĩa vụ đói với xã hội . Tuy nhiên tuỳ từng thời kỳ kinh doanh, doanh nghiệp phải biết xác định thứ tự ưu tiên , không nhất thiết hệ thống mục tiêu của mọi thời kỳ phát triển của doanh nghiệp đều phải mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ở vị trí ưu tiên nhất . ở nước ta, nền kinh tế đang theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Đặc trưng này quy định tính chất hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức pháp lý . Trong quá trình hội nhập và phát triển , môi trường kinh doanh sẽ ngày càng vượt qua khuân khổ nền kinh tế quốc gia hoà nhập vào môi trường khu vực và môi trường quốc tế. Do đó, các doanh nghiệp phải hết sức linh hoạt trong kinh doanh để không trái với quy định nhà nước nhưng đồng thời hoà nhập được với môi trường kinh doanh của quốc tế. II. Những vấn đề lý luận chung về hoạt động tiêu thụ 1. Khái niệm chung về hoạt động tiêu thụ : Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá. Qua tiêu thụ, sản phẩm chuyển hoá từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị và kết thúc một vòng luân chuyển vốn. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá - dịch vụ là một trong sáu chức năng chủ yếu của doanh nghiệp (chức năng sản xuất, chức năng tiêu thụ, chức năng quản trị trong doanh nghiệp, chức năng hậu cần, chức năng kế toán, chức năng tài chính). Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tài và phát triển của doanh nghiệp. Nếu trong thời kỳ bao cấp trước đây, khi sản phẩm còn khan hiếm, thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm không phải là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp, vì khi đó mọi vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp đều được giải quyết từ một trung tâm duy nhất, đó là Nhà nước. Mọi doanh nghiệp đều hoạt động theo sự chỉ đạo từ trung tâm đó, sản phẩm làm ra đã có sẵn nơi tiêu thụ. Lúc này mục tiêu duy nhất của khách sạn là hoàn thành kế hoạch được giao. Chuyển sang cơ chế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp phải tự hoạch toán, tự ra quyết định và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh doanh của mình. Để tồn tại và phát triển được, doanh nghiệp phải tự tìm kiếm thị trường nên buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến hoạt động tiêu thụ, làm sao để sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Mặc dù sản xuất (đối với các doanh nghiệp sản xuất) hoặc chuẩn bị hàng hoá dịch vụ (đối với các doanh nghiệp thương mại) là hoạt động trực tiếp tạo ra sản phẩm, song chức năng tiêu thụ là tiền đề không thể thiếu được. Từ thực tế hoạt động quản trị doanh nghiệp hiện đại cho thấy : Công tác điều tra, nghiên cứu khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá - dịch vụ đứng ở vị trí trước hoạt động sản xuất, tác động mạnh mẽ có tính chất quyết định đến hoạt động sản xuất. Trong tổ chức kinh doanh, nhịp độ cũng như các diễn biến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp đều phụ thuộc vào nhịp độ và các diễn biến của hoạt động tiêu thụ trên thị trường. Sản xuất không quyết định tiêu thụ của doanh nghiệp mà ngược lại, tiêu thụ quyết định đến sản xuất. 2. Vai trò và nhiệm vụ của hoạt động tiêu thụ sản phẩm 2.1. Vai trò của hoạt động tiêu thụ sản phẩm Một doanh nghiệp, muốn tiến hành kinh doanh sản xuất kinh doanh đều phải tiến hành mua sắm các yếu tố đầu vào như lao động, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, ... để sản xuất ra sản phẩm, sau đó đem bán sản phẩm và thu tiền về. Trong quá trình này, mọi doanh nghiệp đều mong muốn tiêu thụ được sản phẩm nhanh, đạt lợi nhuận cao để có thể tiến hành hoạt động cho kỳ sau. Do đó tiêu thụ sản phẩm là một khâu quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh. Thông qua công tác tiêu thụ sản phẩm, thì sản phẩm chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị. Công tác tiêu thụ sản phẩm có vai trò rất lớn trong việc bảo toàn và phát triển nguồn vốn cho doanh nghiệp. Nếu tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm thì sẽ làm cho sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ nhanh và nhiều hơn, rút ngắn thời gian thu hồi vốn. Công tác tiêu thụ sản phẩm cũng có vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Khi hoạt động tiêu thụ đạt hiệu quả cao tức là tốc độ tiêu thụ cao, lợi nhuận lớn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cho ngân sách Nhà nước, đảm bảo cho đời sống của người lao động, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển ... 2.2. Nhiệm vụ của công tác tiêu thụ sản phẩm Tiêu thụ có mục tiêu là bán hết sản phẩm hàng hoá - dịch vụ của doanh nghiệp với doanh thu tối đa và chi phí cho hoạt động tiêu thụ là tối thiểu. Với mục tiêu đó, trong hoạt động quản trị kinh doanh hiện đại thì tiêu thụ sản phẩm hàng hoá - dịch vụ không còn là hoạt động chỉ chờ bộ phận sản xuất tạo ra sản phẩm rồi mới tìm cách tiêu thụ, mà hoạt động tiêu thụ phải có các nhiệm vụ chủ yếu sau : - Xác định cầu thị trường và cầu của chính bản thân doanh nghiệp về các loại hàng hoá - dịch vụ mà doanh nghiệp đang hoặc sẽ có khả năng sản xuất kinh doanh để đầu tư phát triển sản phẩm và kinh doanh tối ưu. - Chủ động tiến hành các hoạt động về giới thiệu sản phẩm để thu hút khách hàng. - Tổ chức tốt công tác bán hàng nhằm bán được nhiều hàng hoá với chi phí cho công tác này là thấp nhất, cũng như đáp ứng được tốt các dịch vụ cần thiết sau bán hàng (dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng, ... ). - Xây dựng các chính sách như chính sách sản phẩm, chính sách tiêu thụ, chính sách phân phối, chính sách giá cả sản phẩm, ... 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm 3.1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp 3.1.1. Nhân tố chất lượng sản phẩm Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đưa ra khái niệm : "Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế-kỹ thuật của nó, phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn ". Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế - xã hội, công nghệ tổng hợp, luôn luôn thay đổi theo thời gian và không gian, phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể trong từng thời kỳ. Bên cạnh những đặc tính khách quan được biểu hiện trên các chỉ số cơ sở lý hoá có thể đo lường, đánh giá được thì khi nói tới chất lượng sản phẩm là phải sem sét sản phẩm đó đã thoả mãn tới mức độ nào nhu cầu của khánh hàng. Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thiết kế và những tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra đối với mỗi sản phẩm. Như ở các nước tư bản, qua phân tích thực tế chất lượng sản phẩm, người ta đã đi đến kết luận rằng : Chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp thiết kế, 20% phụ thuộc vào công tác kiểm tra kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả kiểm tra cuối cùng. Chất lượng sản phẩm phải thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về kinh tế, kỹ thuật của mỗi nước, mỗi vùng. Trong kinh doanh, không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà cần cănăm cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng vùng để đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp. Do đó chất lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng. Vậy mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm luôn là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 3.1.2. Nhân tố giá cả sản phẩm Một yếu tố quan trọng tạo nên giá cả sản phẩm là giá thành tiêu thụ. "Giá thành tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các chi phí của doanh nghiệp, chi phí phục vụ khách hàng để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ". Giá thành sản phẩm là cơ sở để xác định giá bán sản phẩm khi tiêu thụ. Trong kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều mong muốn có lãi nên phải quan tâm tới yếu tố giá thành tiêu thụ, làm sao để cho giá thành thấp hơn so với giá bán sản phẩm trên thị trường. Chính sách giá hợp lý là một chất xúc tác quan trọng làm tăng doanh thu bán hàng. Một doanh nghiệp muốn hàng hoá tiêu thụ nhanh, kinh doanh có lãi, thì doanh nghiệp phải có chính sách giá linh hoạt. Một chính sách giá linh hoạt phải dựa vào nghiên cứu thường xuyên thị trường. Vì muốn xây dựng chính sách giá cả phải nhận biết được giá toàn bộ thị trường và giá cả ở các thời điểm khác nhau. Giá cả luôn là yếu tố quyết định của người mua. Khi tính giá, doanh nghiệp cần chú ý đến nhiều vấn đề, nhiều yếu tố, những vấn đề bên trong và bên ngoài doanh nghiệp như là mục tiêu của doanh nghiệp có thể là : Tối đa hoá lợi nhuận, hay dẫn đầu tỷ phần thị trường, mục tiêu dẫn đầu về chất lượng hay mục tiêu đảm bảo sống sót của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chú ý đến yếu tố sản xuất, đặc điểm chu kỳ sống của sản phẩm. Những yếu tố bên ngoài doanh nghiệp như là nhu cầu về hàng hoá, độ co dãn của cầu, tình hình cạnh tranh trên thị trường sản phẩm và những yếu tố như môi trường kinh tế, thái độ của Chính phủ. Đó là những yếu tố chủ yếu làm ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp cần phải quan tâm để có chính sách giá cho phù hợp, vị người tiêu dùng rất nhạy cảm với giá cả sản phẩm. 3.1.3. Phương thức thanh toán và tiêu thụ Việc tiêu thụ sản phẩm đạt kết quả ở mức độ nào không chỉ phụ thuộc vào yếu tố sản phẩm hàng hoá - dịch vụ trên thị trường mà còn phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ và phương thức tiêu thụ chungs. Đối với các thị trường khác nhau, doanh nghiệp cần tìm cho mình một phương thức tiêu thụ thích hợp, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng tiêu thụ. Các phương thức tiêu thụ mà doanh nghiệp có thể lựa chọn là tiêu thụ trực tiếp hay là tiêu thụ gián tiếp. Cùng với phương thức tiêu thụ đó, doanh nghiệp có những quyết định sáng suốt trong lưu thông như xử lý đơn hàng, tổ chức kho tàng, dự trữ hàng hoá, vận chuyển hàng hoá đến người tiêu dùng và các chi phí cho hoạt động đó. Việc phối hợp các hoạt động đó ăn khớp với nhau sẽ đảm bảo đủ sức phục vụ khách hàng và sẽ tiết kiệm được chi phí, đẩy mạnh được hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Chính sách thanh toán trong tiêu thụ sản phẩm cũng là yếu quan trọng cho cả người sản xuất và cả người tiêu dùng. Trong trường hợp nhiều doanh nghiệp bán cùng một loại sản phẩm theo cùng giá thì các điều kiện thanh toán có thể trở thành yếu tố quyết định với việc lựa chọn của người mua. Chính sách thanh toán mà doanh nghiệp có thể sử dụng là thanh toán ngay hay bán trả chậm. Việc thực hiện cũng như lựa chọn phương án thanh toán nào một cách linh hoạt, tuỳ thuộc vào đối tượng khách hàng, vào thời điểm bán hàng sẽ là phương thức có lợi cho tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường cho doanh nghiệp và ngược lại. 3.1.4. Trình độ lao động và khả năng tổ chức hoạt động tiêu thụ Như trên đã nói, chất lượng sản phẩm quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mà lực lượng lao động là một trong các nhân tố quyết định đến chất lượng sản phẩm. Dù công nghệ có hiện đại đến đâu thì nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất quyết định đến chất lượng các hoạt động và chất lượng của sản phẩm. Trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, kỷ luật và khả năng thích ứng với sự thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp đều tác đông trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Nói đến trình độ lao động không chỉ nói đến trình độ chuyên môn của người trực tiếp sản xuất mà cả trình độ tổ chức ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong khâu tiêu thụ thì khả năng tổ chức tiêu thụ là rất quan trọng, phải căn cứ vào đặc điểm sản phẩm, đặc điểm của hoạt động kinh doanh và đối tượng khách hàng để cho doanh nghiệp phục vụ được khách hàng một cách tốt nhất. Trình độ của người bán hàng không chỉ ở nghệ thuật giao tiếp ứng sử với khách hàng, mà còn phải có sự hiểu biết sâu sắc về những sản phẩm tiêu thụ. Nhân viên bán hàng luôn tạo được lòng tin với khách hàng thì sẽ thu hút được khách hàng tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp và ngược lại. 3.2. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mỗi doanh nghiệp là một chủ thể sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác, trong điều kiện mở cửa của nền kinh tế, xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá, quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội ngày càng trở thành xu thế tất yếu, mỗi doanh nghiệp còn là một phần hệ mở trong nền kinh tế quốc dân, nên giống như các hoạt động khác thì hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp nào cũng chịu ảnh hưởng của môi trường quốc tế, môi trường kinh tế quốc dân và các yếu tố thuộc môi trường nội bộ ngành như : 3.2.1. Khách hàng của doanh nghiệp Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ, là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Quy mô của khách hàng tạo nên quy mô của thị trường. Khách hàng sẽ bao hàm nhu cầu, các yếu tố tâm lý, tập quán và thị hiếu. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều hướng tới thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Thông thường, để theo dõi thông tin về khách hàng, doanh nghiệp thường tập trung vào 5 loại thị trường khách hàng như : - Thị trường người tiêu dùng : là các cá nhân và hộ tiêu dùng mua hàng hoá và dịch vụ cho mục đích cá nhân. - Thị trường khách hàng là doanh nghiệp : là các tổ chức và doanh nghiệp mua hàng hoá và dịch vụ để gia công chế biến thêm hoặc để sử dụng vào một quá trình sản xuất - kinh doanh khác. - Thị trường buôn bán trung gian : là các tổ chức, cá nhân mua hàng hoá và dịch vụ cho mục đích bán lại kiếm lời. - Thị trường các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước : mua hàng hoá - dịch vụ cho mục đích sử dụng trong lĩnh vực quản lý, hoạt động công cộng hoặc để chuyển giao tới các tổ chức, cá nhân khác đang có nhu cầu sử dụng. - Thị trường quốc tế : khách hàng nước ngoài bao gồm người tiêu dùng, người sản xuất, người mua hàng trung gian và chính phủ các quốc gia khác. Nhu cầu và các yếu tố tác động đến nhu cầu của khách hàng trên các thị trường là không giống nhau. Do đó sự ảnh hưởng của các thị trường đến hoạt động tiêu thụ của dbn cũng khác nhau, bởi vậy chúng cần được nghiên cứu riêng tuỳ thuộc vào mức độ tham gia vào các thị trường của mỗi doanh nghiệp để hoạt động tiêu thụ được thực hiện. 3.2.2. Số lượng doanh nghiệp trong nội bộ ngành Số các doanh nghiệp và quy mô sản xuất kinh doanh của chúng đều có ảnh hưởng đến khả năng cung ứng hàng hoá - dịch vụ và tạo ra sự cạnh tranh trong nội bộ ngành. Vì vậy mỗi sự thay đổi của các doanh nghiệp trong nội bộ ngành đều tác động đến hoạt động tiêu thụ của công ty. Một sự thâm nhập mới hay rút khỏi thị trường của các doanh nghiệp khác đều làm ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ của công ty. Vì vậy những thông tin về các doanh nghiệp này công ty phải thường xuyên quan tâm để điều chỉnh hoạt động và làm chủ tình hình trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 3.2.3. Vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, đảm bảo cho năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, hàng hoá phong phú, dịch vụ được mở rộng, sản xuất năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ. Song do tính tự phát vốn có của nền kinh tế thị trường có thể dẫn đến không chỉ tiến bộ mà cả suy thoái, khủng hoảng, xung đột xã hội, cho nên không thể không có sự can thiệp của Nhà nước. * Vai trò của Nhà nước : + Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho kinh tế thị trường ra đời và phát triển. + Định hướng phát triển kinh tế xã hội + Bảo đảm dân chủ công bằng xã hội + Trực tiếp điều hành các doanh nghiệp Nhà nước. Do vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường lớn như vậy nên nó cũng là một yêu tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ. 3.2.4 Quan hệ thương mại quốc tế Để phát triển kinh doanh và sánh vai cùng với các cường quốc năm châu, việc quan hệ thương mại quốc tế đóng vai trò rất quan trọng. Thương mại quốc tế không chỉ cho chúng ta tiếp cận công nghệ mới, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa-dịch vụ mà còn tăng cường mối quan hệ tốt đẹp với các nước trên thế giới. Để tạo được môi trường kinh doanh và những cơ hội lớn cho các nhà doanh nghiệp phát triển, ban lãnh đạo cấp cao của Nhà nước ta phải thiết lập các quan hệ ngoại giao và ký các hợp đồng thương mại với các nước khác trên thế giới và hướng tới việc gia nhập WTO (tổ chức thương mại thế giới). 3.2.5. Các trung gian Marketing Đây là các tổ chức, dịch vụ, các doanh nghiệp và các cá nhân khác giúp cho công ty tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa-dịch vụ của mình đến người tiêu dùng cuối cùng. Đối với doanh nghiệp sản xuất , chỉ có thể tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng hóa nếu như các trung gian của họ bán được nhiều hàng hóa do doanh nghiệp cung cấp. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp sản xuất là phải lựa chọn và bố trí hợp lý các trung gian này sao cho sản phẩm đến với người tiêu dùng và phục vụ người tiêu dùng một cách tốt nhất. 3.2.6. Những nhà cung ứng đầu vào Là các doanh nghiệp, cá nhân đảm bảo cung ứng các yếu tố đầu vào cần thiết cho công ty và các đối thủ cạnh tranh để có thể sản xuất ra hàng hóa- dịch vụ cung ứng trên thị trường. Bất kỳ một sự biến đổi nào từ phía người cung ứng thì sớm hay muộn trực tiếp hay gián tiếp cũng sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động của công ty.Vì vậy mà các nhà quản trị phải luôn luôn có đầy đủ thông tin chính xác về tình trạng số lượng, chất lượng, giá cả,... về các yếu tố nguồn lức cho sản xuất hàng hóa-dịch vụ để phục vụ tốt cho công tác tiêu thụ của doanh nghiệp. 4.Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm. 4.1.Ngiên cứu thị trường. Trong cơ chế thị trường, thị trường là một môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có khả năng thích ứng với sự da dạng và động thái của thị trường thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển. Trên thị trường cso nhiều doanh nghiệp hoạt động , doanh nghiệp nào cũng muốn đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ của mình. Vì vậy, để đảm bảo khả năng cạnh tranh, tránh được rủi ro, doanh nghiệp phải nắm chắc thị trường. Muốn làm được điều đó, doanh nghiệp phải tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là quá trình điều tra, thu thập, xử lý và phân tích các thông tin thị trường nhằm phục vụ công tác sản xuất. Mục đích nghiên cứu thị trường là phục vụ việc ra quyết định kinh doanh. Tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh có thể có là: +Giữ vững ở mức độ duy trì sản lượng sản xuất tiêu thụ. +Tăng cường sản xuất tiêu thụ. +Thâm nhập vào thị trường mới. +Rời bỏ thị trường hay thay đổi sản phẩm. Những quyết định cực kỳ quan trọng này có thể bảo đảm chính xác khi tổ chức công tác nghiên cứu thị trường một cách chu đáo. Nghiên cứu thị trường buộc doanh nghiệp phải phân tích cung, phân tích cầu và phân tích mạng lưới tiêu thụ. Muốn vây phải lựa chọn được phương án nghiên cứu cho phù hợp. Trong thực tiễn kinh doanh, người ta thường sử dụng các phương pháp Marketing để điều tra thị trường, chủ yếu là điều tra tại chỗ, điều tra tại hiện trường và phương pháp bán thử hàng hóa. +Điều tra tại chỗ là phương pháp nghiên cứu thị trường thông qua tài liệu cóp sẵn như các tài liệu thống kê, báo, tạp chí và các phương tiện thông tin khác. bằng cách này thông tin thu được thường không chính xác nhưng gọn nhẹ, ít tốn kém nhưng đòi hỏi phải có chuyên gia giàu kinh nghiệm. Phương pháp này thường áp dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. +Điều tra tại hiện trường là phương pháp nghiên cứu thị trường được tổ chức tại nơi cần nghiên cứu, được thực hiện bởi đội ngũ nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn. Bằng phương pháp này, các nhân viên dùng phiếu điều tra hoặc trực tiếp phỏng vấn đối tượng để thu thập thông tin sau đó tiến hành xử lý, phân tích. Phương pháp này phức tạp, chi phí tốn kém nhưng thông tin thu được có độ chính xác cao. Phương pháp thường áp dụng doanh nghiệp lớn và vừa. +Phương pháp bán hàng thử là phương pháp nghiên cứu thị trường kết hợp với bán hàng hoá để đòi hỏi ý kiến khách hàng đối với các thông tin về sản phẩm.Phương pháp này thường được thực hiện dưới các hình thức chào hàng, tham gia hội chợ triển lãm, mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm,... Phương pháp thường được áp dụng khi doanh nghiệp chuẩn bị tung sản phẩm mới vào thị trường hoặc thâm nhập thị trường. Dù áp đụng phương pháp nào thì nghiên cứu thị trường phải đưa được các thông tin chủ yếu sau: +Thị trường cần gì? chủng loại sản phẩm nào? +Thị hiếu của người tiêu dùng ? +Số lượng cần bao nhiêu? thời gian cung ứng? +Quy cách phẩm chất sản phẩm? +Giá cả có thể chấp nhận? +Các thông tin về khả năng thanh toán của người tiêu dùng? +Những người có khả năng cung ứng và năng lực của họ. 4.2.Xây dựng và triển khai có hiệu quả chiến lược sản phẩm. Chiến lược sản phẩm là hệ thống các mục tiêu và biện pháp phát triển sản phẩm, làm cho sản phẩm luôn thích ứng với thị trường. Các mục tiêu về sản phẩm phải bao hàm cả về mặt chất và mặt lượng. Mục tiêu và biện pháp phát triển sản phẩm phải đề cập đến 3 nội dung chủ yếu sau: +Nâng cao chất lượng sản phẩm. +Đa dạng hóa chủng loại sản phẩm. +Phát triển sản phẩm mới. 4.2.1.Nâng cao chất lượng sản phẩm. Khi chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng, sản phẩm được chấp nhận. Nhờ đó doanh nghiệp tăng khả năng chiến thắng trong cạnh tranh, góp phần mở rộng thị trường. Tuy nhiên, chất lượng và gia thành sản phẩm luôn có chiều hướng mâu thuẫn. Giải quyết được mâu thuẫn này nghĩa là doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời hạ giá thành thì hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp được tiến hành một cách dễ dàng hơn. Dó đó, nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ có ý nghiã tăng khả năng cạnh tranh, tăng doanh số tiêu thụ mà còn tiết kiệm được chi phí, từ đó tăng lợi nhuận. Chất lượng sản phẩm chịu tác động của rất nhiều yếu tố: Quy trình công nghệ, nguyên vật liệu, trình độ người lao động và người quản lý, hoạt động kiểm tra, giám sát và các yếu tố ngoại cảnh khác. Để dảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm cần có những biện pháp tác động vào các nhân tố này. Đối với Nhà nước, cần có những quy định chặt chẽ về chất lượng, đồng thời có chính sách khuyến khích và hỗ trợ cho doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm là yếu tố sống còn của doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp cần chủ động đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm. Các biện pháp đó là: +Đảm bảo cung ứng nguyên vật liệu đúng quy cách, chủng loại, số lượng và chất lượng. +Không ngừng áp dụng những tiến bộ khoa học- kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đảm bảo máy móc ổn định và chính xác. +Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, lao động có tay nghề cao, đồng thời sử dụng các đòn bẩy kinh tế, khích lệ vật chất đối với người lao động +Tăng cường tổ chức hoàn thiện bộ máy quản lý. +Đầu tư hệ thống kho tàng bến bãi, đảm bảo duy trì chất lượng sản phẩm theo đúng quy trình kỹ thuật. 4.2.2.Đa dạng hoá sản phẩm. Đa dạng hoá sản phẩm chủng loại sản phẩm đêtránh rủi ro là đòi hỏi khách quan của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Đa dạng hóa sản phẩm có thể thực hiện theo hai hướng: Phát triển đa dạng chủng loại sản phẩm trên cơ sở một mặt hàng chủ lực. Hình thức này thực chất là doanh nghiệp với những sản phẩm khác nhau hoàn toàn về gái trị sử dụng, nhưng thậm chí về ngành nghề kinh tế kỹ thuật nhưng có một vài sản phẩm được ưu tiên phát triển mạnh. Hình thức hai thực chất là việc cải tiến, thay đổi mẫu mã sản phẩm trên cơ sở một sản phẩm gốcnhằm khai thác các loại thị trường khác nhau. Trên thực tế, doanh nghiệp thường áp dụng cả hai hình thức này, vừa phát triển sản phẩm theo chiều rộng vừa phát triển theo chiều sâu. Để tiến hành đa dạng hóa sản phẩm, doanh nghiệp phải thực hiện nhiều biện pháp nghiên cứu thị trường, biện pháp khuyến khích người lao động có sáng kiến cải tiến kỹ thuật. 4.2.3.Phát triển sản phẩm mới. Theo quan niệm Marketing về sản phẩm mới có thể là những sản phẩm có hoặc do kết quả nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm của công ty. Thiết kế sản phẩm mới là cần thiết cho doanh nghiệp. Sản phẩm mới có thể đạt được một sự tiến bộ đáng kể kỹ thuật song chưa hẵnđã đạt được một sự tiếnhà nước bộ về mặt kinh tế . Chẳng hạn như thời kỳ nghiên cứu thiết kế, chế thử sản phẩm quá dài, chi phí quá cao hoặc khi sử dụng phải có điều kiện bổ sung bắt buộc gây tốn kém. Vì vậy, sản phẩm mới phải nhất quán về phương diện: Tiến bộ về mặt kỹ thuật và tiến bộ về mặt kinh tế. Để có sản phẩm mới phải trải qua các giai đoạn sau: +Giai đoạn nghiên cứu sản phẩm. +Giai đoạn thiết kế kỹ thuật, phát triển và hoàn thiện sản phẩm mới. +Giai đoạn sản xuất và thử nghiệm sản phẩm. +Giai đoạn sản xuất chính thưc sản phẩm. 4.3.Chính sách giá cả sản phẩm của doanh nghiệp. Chính sách giá đối với mỗi sản phẩm của các đơn vị sản xuất kinh doanh là việc quy định mức giá bán. Mức giá có thể là giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng hoặc là cho các trung gian. Chính sách giá của một sản phẩm không được quy định một cách dứt khoát khi tung sản phẩm ra thị trường mà nó được xem xét lại định kỳ trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm. Tuỳ theo mục tiêu của doanh nghiệp như: mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, mục tiêu dẫn đầu thị trường, mục tiêu dẫn đầu về chất lượng hay mục tiêu đảm bảo sống sót,... và cả tuỳ theo những thay đổi trong sự vận động của thị trường, chi phí sản xuất của doanh nghiệp, những chính sách cạnh tranh. Tất cả đều ảnh hưởng tới chính sách giá cả của doanh nghiệp. Tuỳ theo khả năng của doanh nghiệp mà có cách xác định giá khác nhau: + Định giá thấp: cho phép doanh nghiệp thâm nhập và mở rộng thị trường nhanh chóng, sản lượng tiêu thụ lớn. + Định giá cao: kết qủa có khi ngược với định giá thấp và thường áp dụng khi sản phẩm cso tính ưu việt hơn hẵn sản phẩm khác. + Giá dẫn và tuân theo: khi doanh nghiệp kiểm soát được phần lớn thị trường, họ có thể ở vị trí dẫn giá, có khả năng áp đặt giá. Còn khi doanh nghiệp ở thị trường nhỏ bé, yếu thế trong cạnh tranh thì phải tuân theo giá của doanh nghiệp khác. + Giá linh hoạt: doanh nghiệp điều chỉnh giá theo biến động của thị trường phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp. Như vậy, tuỳ theo mỗi doanh nghiệp mà có chính sách giá khác nhau. Với từng mức giá, doanh nghiệp phải xác định được lợi nhuận mà hàng đó đem lại và làm sao cho khách hàng thấy đựơc phần lợi ích của họ khi mua mặt hàng đó. 4.4. Chính sách phân phối tiêu thụ hàng hóa. Hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp thực chất là hoạt động bán hàng cho người dùng hoặc thông qua các trung gian tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường, có các hình thức trung gian sau: + Người bán buôn: Là những trung gian hàng hoá- dịch vụ cho các trung gian khác, cho người bán lẻ hoặc cho nhà sử dụng công nghiệp khác. + Người bán lẻ: Là những người trung gian, bán hàng trực tiếp cho người tiêu đùng cuối cùng. +Đại lý và môi giới: Là những người trung gian, có quyền hành động hợp pháp thay mặt cho nhà sản xuất. Trong quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp và các trung gian cùng ký hợp đồng mua bán, quy định rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên trong quá trình tiêu thụ. Để đảm bảo quá trình tiêu thụ có hiệu quả, doanh nghiệp phải lựa chọn đúng đắn người làm trung gian cho mình, đồng thời phải thiết lập các kênh phối. Các kênh phân phối: +Người sản xuất  người tiêu dùng. +Người sản xuất  người bán lẻ  người tiêu dùng. +Người sản xuất  người bán buôn-người bán lẻ  người tiêu dùng. +Người sản xuất  đại lý  bán buôn  bán lẻ  người tiêu dùng. 4.5.Công tác hỗ trợ và xúc tiến bán hàng. Hoạt động này trong nền kinh tế thị trường đã trở thành một công cụ cần thiết đảm bảo sự gắn chặt giữa sản xuất và tiêu dùng. Công tác xúc tiến bán hàng bao gồm nhiều hoạt động như: + Quản cáo: Bao gồm mọi hình thức giới thiệu một cách gián tiếp và đề cao những ý tưởng, đề cao những sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. +Xúc tiến bán: Là biện pháp tác động tức thời ngắn hạn để khuyến khích việc mua sản phẩm. +Tuyên truyền: Là việc kích thích một cách gián tiếp nhằm tăng nhu cầu về hàng hoá-dịch vụ hay tăng uy tính của một đơn vị kinh doanh bằng cách đưa ra những cách có ý nghĩa thương mại về chúng trên các ấn phẩm, các phương tiện thông tin đại chúng một cách thuận lợi và miễn phí. +Bán hàng các nhân: Là sự giới thiệu bằng miệng về hàng hoá-dịch vụ của người bán hàng qua cuộc đối thoại với một hoặc nhiều khách hàng tiềm năng nhằm mục đích bán hàng. Trong mỗi loạ trên lại bao gồm một tập hợp các công cụ chuyên biệt để thực hiện truyền thông thích hợp trong những thị trường cụ thể như: Quảng cáo đặc biệt, chiến dịch quảng cáo, triển lãm, hội chợ, catalog, pano apphich, quà tặng, phiếu dự xổ số,... Ngoài ra, cac doanh nghiệp có các hình thức hổ trợ khác nhau như: hổ trợ về phương tiện vận chuyển cho khách, về phương thức thanh toán (có thể thanh toán chậm, bán trả góp,...) để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ. III. Mối quan hệ giữa thị trường với hoạt động tiêu thụ sản phẩm Thị trường sản phẩm và hoạt động tiêu thụ sản phẩm có mối quan hệ với nhau. Công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp gắn với thị trường, sản phẩm phải được tiêu thụ trên thị trường thì doanh nghiệp mới thuhồi được vốn và thực hiện được quá trình tái sản xuất. Trước đây, trong kỳ bao cấp thì mối quan hệ này không quan trọng, bởi vì các sản phẩm sản xuất ra đã có nơi tiêu thụ, doanh nghiệp không cần tìm hiểu, nghiên cứu thị trường. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường thì mối quan hệ giữa thị trường và công tác tiêu thụ sản phẩm gắn bó chặt chẽ với nhau. Mỗi doanh nghiệp cần phải tìm hiểu thị trường cần những mặt hàng nà, số lượng bao nhiêu để xem khả năng của mình có sản xuất để đáp ứng nhu cầu này hay không? Doanh nghiệp phải xem chất lượng sản phẩm, mẫu mã, chủng loại, giá cả hàng hóa mà doanh nghiệp dưa ra có phù hợp với thị trường hay không. Nếu sản phẩm được thị trường chấp nhận thì công tác tiêu thụ sẽ được thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và ngược lại. Thị trường là nơi đánh giá thế và lực của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường là thị phần của doanh nghiệp, được tính bằng tỷ số và lượng cầu của doanh nghiệp với lượng cầu của thị trường về sản phẩm đó. Sức mạnh của doanh nghiệp là khả năng tác động vào thị trường làm thay đổi giá cả, hành vi mua hàng, có khi thôn tính cả đối thủ cạnh tranh. Người nắm được thị trường, phát triển được thị trường là người ở thế thắng. Thị trường càng mở rộng và ổn định, khả năng tiêu thụ càng tăng, sức cạnh tranh càng lớn. Mở rộng thị trường, thúc đẩy hoạt động tiêu thụ, tăng doanh thu, tăng lơị nhuận tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp tục đầu tư hiện đại hoá sản xuất đa dạng hoá sản phẩm, tăng thêm khả năng chiếm lĩnh và cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, mở rộng thị trường còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. Chương II hệ thống chỉ tiêu và các phương pháp thống kê nghiên cưú tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty I.Những và nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu 1.Những yêu cầu chung xác định hệ thống chỉ tiêu thống kê. Không chỉ đơn thuần là nêu ra những chỉ tiêu nào đó trong hệ thống, mà quan trọng là phải đảm bảo có thể thu thập thông tin để tính toán được các chỉ tiêu một cách đầy đủ. Vì vậy để xây dựng hệ thống chỉ tiêu có khoa học và hợp lý, nội dung thông tin được phản ánh trong hệ thống, các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh danh của doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu sau đây: -Phản ánh tính quy luật, xu thế phát triển và trình độ phổ biến của các hiện tượng kinh tế diễn ra trong quá trình hoạt đông sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Về không gian là toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên quan đến doanh nghiệp. Về thời gian thường là tháng,quý, năm hoặc thời kỳ nhiều năm để có thể phản ánh được quy luật, tín hệ thống của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. -Đáp ứng được nhu cầu thông tin phục vụ yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp ngày càng đổi mới cả về số lượng và chất lượng, yêu cầu so sánh thống kê và mở rộng hợp tác quốc tế, yêu cầu lưu trử số liệu thống kê. Số liệu thu thập được hệ thống chỉ tiêu cho phép vận dụng được các phương pháp thống kê hiện đại và phương pháp toán học để nghiên cứu và phân ích toàn diện, sâu sát tình hình và quá trình phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, cho phép dự đoán xu thế phát triển hệ thống sản xuất kinh doanh. Đảm bảo hiện đại hoá nhu cầu thông tin trong việc quản lý và xử lý thông tin phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê. Hiện tượng được thống kê nghiên cứu thường được xác định bằng khái niệm cơ bản, trong đó các tiêu thức thiết yếu nhất của hiện tượng được phản ánh sắc nét và điển hình . Chỉ cần nói đếm khái niệm cơ bản của hiện tượng, người ta đã hình dung được các đường nét cơ bản của hiện tượng đó. Tuy nhiên, chỉ những tiêu thức số lượng và chất lượng đơn giản của hiện tượng ta mới có ngay các chỉ tiêu thống (về cơ bản là các chỉ tiêu số lượng) lúc này ta có ngay sự mô tả trực tiếp cuả hiện tượng nghiên cứu. Còn các tiêu thức thuộc tính phức tạp hoặc trừu tượng thì phải trải qua cácbước cụ thể hoá dần dần mới đi đến các chỉ tiêu thống kê chẳng hạn như hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp sự hấp dẫn của tài nguyên du lịch trình độ thành thạo của lao động…các tiêu thức thuộc tính phức tạp hoặc trừu tượng thường được:trước hết bằng khái niệm cơ bản sau đó người ta chia nhỏ các khái niệm cơ bản thành các khái niệm thành phần. Mỗi khái niệm này lại chia thành các khái niệm cụ thể dần cho đến lúc chúng trở thành các chỉ tiêu đơn giản. Quá trình này được gọi là tháo tác hoa khái niệm, trong đó các khái niệm được cụ thể hoá cho đến lúc thành các chỉ tiêu cụ thể. Nhìn chung các hiện tượng chỉ tiêu nghiên thường rất phức tạp. Để phản ánh chính xác chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê với các chỉ tiêu sau: -Hệ thống chỉ tiêu thống kê phải phục vụ cho mục đích nghiên cứu. -Hiện tượng càng phức tạp (nhất là các hiện tượng trừu tượng) số lượng chỉ tiêu cần nhiều hơn với các hiện tượng đơn giản. -Để thực hiện thu thập thông tin chỉ cần điều tra các chỉ tiêu sẳn có ở cơ sở nhưng cần hình dung số chỉ tiêu sẻ phải tính toán nhằm phục vụ cho việc áp dụng các phương pháp phân tích, dự báo ở các bước sau. -Để tiết kiệm chi phí, khồn thể không để một chi phí tiêu thức nào trong hệ thống. *Do vậy khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo nhữngyêu cầu và nguyên tắc sau: -Chỉ tiêu thống kê phải phản ánh mặt lượng gắn với mặt chất của các mặt, các tính chất cơ bản của hiện tượng số lớn trong điều kiện, thời gian và địa điểm cụ thể. -Các chỉ tiêu thông kê phải đảm bảo tính khả thi tức là phải đảm bảo khả năng nhân tài, vật lực cho phép tiến hành thu thập tổng hợp các chỉ tiêu. -Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo tính hệ thống của việc xây dựng hệ thống hỉ tiêu thống kê. -Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung phương pháp và phạm vi tính toán của các chỉ tiêu cùng loại. -Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo yêu cầu so sánh quốc tế, tiếp cận với nội dung, phương pháp thống kê của các nước trên thế giới. II.Hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty 1.Chỉ tiêu phản ánh số lượng(hiện vật) Khái niệm: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ là toàn bộ sản phẩm hàng hóa, dich vụ được tiêu thụ trong kỳ. Các sản phẩm tiêu thụ ở đây là những sản phẩm đã được thanh toán hay được khách hàng chấp nhận thanh toán. -Công thức tính: qTT =qđk + qsx - qck Trong đó: qTT: khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ. qđk: khối lượng sản phẩm tồn kho đầu kỳ. qsx: khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. qck: khối lượng sản phẩm tồn kho cuối kỳ. 2.Chỉ tiêu phản ánh doanh thu(giá trị) a.Tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm(G) -Khái niệm: Tổng doanh thu bán hàng là tổng giá trị hàng hoá tiêu thụ của doanh nghiệp, toàn bộ gía trị hàng hóa mà doanh nghiệp đã bán và thu được tiền trong kỳ báo cáo. - Nội dung kinh tế của tổng doanh thu (G) + Giá trị sản phẩm vật chất và doanh nghiệp hoàn thành; đã tiêu thụ ngay trong kỳ báo cáo. + Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành đã giao cho người mua trong các kỳ trước và nhận được thanh toán trong kỳ báo cáo. + Giá trị sản phẩm vất chất hoàn thành tong các kỳ trước tiêu thụ được trong kỳ báo cáo. Nội dung trên được tính theo giá hiện hành. - Phương pháp tính : G =  p.q Trong đó : p : giá bán đơn vị từng loại sản phẩm (giá thực tế) q : số lượng từng loại sản phẩm doanh nghiệp đã tiêu thụ được trong kỳ. b. Tổng doanh thu thuần : Nó là tổng doanh thu bán hàng sau khi đã trừ đi thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu (nếu có), các khoản giảm trừ khác phát sinh trong kỳ báo cáo như : chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, giá trị hàng bán bị trả lại, các khoản đền bù, sửa chữa hư hỏng còn trong thời gian bảo hành. - Công thức tính :    iii qgtpDT Trong đó : DT : tổng doanh thu thuần Pi : giá đơn vị sản phẩm i gti : khoản giảm trừ tính trên đơn vị sản phẩm tiêu thụ gi : khối lượng sản phẩm tiêu thụ. * Các khoản giảm trừ bao gồm : - Chiết khấu bán hàng : là số tiền tính trên tổng doanh thu trả lại cho khách hàng do khách hàng đã trả tiền hoặc trừ bớt nợ cho khách hàng mua chịu, bao gồm : + Chiết khấu thanh toán : là số tiền thưởng trên phần trăm doanh thu do khách hàng thanh toán tiền hàng trước thời hạn quy định. + Chiết khấu thương mại : là khoản giảm trừ cho khách hàng mua khối lượng lớn hoặc là khách hàng truyền thống. - Giảm giá hàng bán : là số tiền giảm trừ mà doanh nghiệp phải chấp nhận một cách đặc biệt trên giá bán thoả thuận vì các lý do vi phạm các điều khoản của hợp đồng kinh tế nhưng chưa đến mức bị trả lại. - Doanh thu hàng hoá bị trả lại : là doanh thu của số hàng đã tiêu thụ nhưng bị khách hàng trả lại hoặc từ chối thanh toán do không đúng yêu câù hoặc kém phẩm chất... như hợp đồng đăng ký. - Thuế phải nộp liên quan đến hàng bán bao gồm : thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu (nếu có) Tổng doanh thu thuần là chỉ tiêu được dùng để tính lỗ lãi trong kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ rất quan trọng; nó thể hiện kết quả thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này khuyến khích doanh nghiệp không những tăng nhanh khối lượng mà còn đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm đến khâu sản suất và tiêu thụ. Một doanh nghiệp, nếu tiêu thụ được nhanh và nhiều sản phẩm, tức là đẩy nhanh được tốc độ quay của vòng vốn và việc sử dụng vốn có hiệu quả. III. Một số phương pháp thông kê và phục vụ phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm : 1. Phương pháp đồ thị : Đồ thị thống kê là các hình vẽ hoặc đường nét hình học dùng để miêu tả có tính chất quy ước các tàI liệu thống kê. Đồ thị thống kê sử dụng con số kết hợp với các hình vẽ, đường nét và màu sắc để trình bày số lượng và đặc đIúm của hiện tượng. Đồ thị thống kê giúp ta dễ dàng nhanh chóng nhận thức được những đặc đIúm cơ bản của hiện tượng, kiểm tra độ chính xác của thông tin bằng hình ảnh. Nó biểu thị kết của hiện tượng theo tiêu thức nào đó, sự biến động của kết cấu, hay sự phát triển theo thời gian sự so sánh giữa các mức độ của hiện tượng… Đồ thị hình trụ, hình cột hay đường gấp khúc có thể biểu thị sự tăng giảm của những chỉ tiêu chính về tàI chính như : tổng doanh thu kinh doanh, tổng tàI sản… qua các năm, đồng thời so sánh các chỉ tiêu giữa các năm. 2. Phương pháp chỉ số : Trong thống kê nghiên cứu kết quả, phương pháp chỉ số cho thấy bản chất của sự biến động. Chỉ số là một số tương đối, có thể biểu hiện bằng số lần hoặc số %, được tính bằng cách so sánh và mức độ của hiện tượng. Tác dụng cơ bản và chủ yếu nhất của phương pháp chỉ số là qua đó ta phân tích được vai trò ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với sự biến động của hiện tượng phức tạp, tính toán cụ thể ảnh hưởng của nguyên nhân này. Mô hình phân tích :        00 10 10 11 00 11 qp qp . qp qp qp qp P1;P0 : là giá ở kỳ nghiên cứu và kỳ gốc q1; q0 : là lượng ở kỳ nghiên cứu và kỳ gốc 3. Phương pháp dãy số thời gian : Dãy số thời gian là các trị số của chỉ tiêu thông kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Để nghiên cứu sự biến động các chỉ tiêu kết quả kinh doanh nghiệp vụ về tình hình tiêu thụ hàng hoá của công ty theo thời gian, người ta dựa vào dãy số thời gian. Phương pháp dãy số thời gian cho phép nghiên cứu mức độ biến động, lượng tăng giảm tuyệt đối, tốc độ phát triển, tốc độ tăng của kết quả kinh doanh, từ đó thấy được đặc đIúm biến động của kết quả kinh doanh qua các năm, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự phát triển, đồng thời dự đoán kết quả kinh doanh trong thời gian tiếp theo. Lượng tăng giảm tuyệt đối : căn cứ vào hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đã nêu ra ở phần trước, ta so sánh xem lượng tăng giảm tuyệt đối của năm sau so với năm trước là bao nhiêu, hoặc trong một khoảng thời gian lớn, từ đó đánh giá xem hiệu quả đạt được đối với từng chỉ tiêu là bao nhiêu, nó ảnh hưởng đến hiệu quả chung của toàn công ty như thế nào. Tốc độ phát triển : cũng căn cứ vào chỉ tiêu ta đã xây dựng để so sánh xem tốc độ tăng (giảm) của từng chỉ tiêu năm sau so với năm trước là bao nhiêu phần trăm, có đạt mức kế hoạch đặt ra không hoặc là có vượt mức kế hoạch hay không, từ số phần trăm tăng (giảm) đó ta có thể biết được hiệu quả (%) đạt được là bao nhiêu và ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả chung của cả công ty là bao nhiêu. Hay từ kết quả tính toán tốc độ phát triển trung bình trong kỳ 5 năm, ta có thể thấy được tốc phát triển đạI diện trong suốt thời gian nghiên cứu, cũng như triển vọng hoạt động kinh doanh của công ty. Từ tính toán chỉ tiêu giá trị tuyệt đối của 1% tăng giảm thì cứ 1% tăng hoặc giảm của tốc độ tăng hc giảm liên hoàn tương ứng với một trị số tuyệt đối là bao nhiêu… 4. Phương pháp dự báo thống kê : Một doanh nghiệp muốn kinh doanh có hiệu quả ngoàI tiềm lực săn có của mình còn phải biết nắm bắt một cách nhanh nhạy, chính xác các thông tin nhu cầu của thị trường. Nhu cầu của thị trường là nhu cầu có khả năng thanh toán về một hoặc một số loại hàng nào đó. Dự báo nhu cầu thị trường là ước tính khả năng tiêu thụ của thị trường về một hoặc một số loại hàng hoá nào đó trong tương lai. Dự báo nhu cầu thị trường là việc làm cần thiết đối với việc hoạch định chính sách sản suất của doanh nghiệp trong tương lai. * Các loại dự báo nhu cầu thị trường : - Căn cứ vào thời hạn dự báo : có 3 loại + Dự báo ngắn hạn : là loại dự báo nhu cầu thị trường trong khoảng thời gian ngắn vài ba ngày hoặc vài ba tuần. Loại dự báo này thường có độ chính xác cao, bởi vì thời hạn dự báo ngắn, diễn biến của thị trường chưa có sự thay đổi lớn. + Dự báo trung hạn : là loại dự báo nhu cầu thị trường trong vài ba tháng đến 1 hoặc 2 năm. Loại dự báo này nhằm giúp cho doanh nghiệp hoạch định chính sách phát triển trong vòng 1 - 2 năm phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường. + Dự báo dài hạn : là loại dự báo nhu cầu thị trường từ 3 năm trở lên. Độ chính xác của dự báo này phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố. - Căn cứ vào con số dự báo : có 2 loại. + Dự báo điểm : khẳng định quy mô của nhu cầu thị trường bằng một con số cụ thể. Loại dự báo này có độ chính xác hạn chế vì rất hiếm khi dự báo và thực tế lại chính xác tại một điểm. + Dự báo khoảng : khẳng định quy mô hàng hoá mà nhu cầu thị trường đòi hỏi nằm trong khoảng đó. Chương III Vận dụng một số phương pháp thốngkê để phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Da Giầy HN giai đoạn (1996- 2001) và dự báo năm 2002- 2003 I. Những vấn đề chung về công ty da giầy HN: 1. Giới thiệu khái quát về công ty. - Tên công ty: Công ty da giầy Hà Nội. Hanoi Leather And Shoes Company. HANSHOES - Giám đốc Tiến sĩ Vũ Mạnh Cường. - Địa chỉ: Số 409- Đường Tam Trinh – Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội Điện thoại: (04).8625097 – 8621254. - Fax: (84 –4). 8624811. - DTDD: 094. 210290 - E-mail: hanshoes@hn.vnn.vn. - Website: http:/www.hanshoes.com.vn. - Loại hình DN: Doanh nghiệp nhà nước. - Số ĐKKD 108-163. - Quyết định số 398/CNn, ngày 29/4/1993 của Bộ Công nghiệp nhẹ (nay Bộ CN về việc thành lập Công ty Da – Giầy Hà Nội. - Ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh hiện tại: Da – Giầy. - Công ty Da- Giầy Hà Nội là doanh nghiệp thành viên hạch toán học tập của tổng công ty Da- Giầy Việt Nam. Công ty có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh các loại giầy dép, các sản phẩm chế biến từ da và giả da, các loại vật tư, máy móc thiết bị hoá chất phục vụ cho ngành da- giầy và một số ngành khác theo giấy phép kinh doanh. - Công ty có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất – kinh doanh trong số vốn được công ty quản lý. công ty có con dấu riêng để giao dịch có tài sản và các quỹ tập chung, được mở tài khoản tại các ngân hàng Thương mại theo quy định của nhà nước. Công ty có quyền tự chủ kinh doanh, tự chủ tài chính, chịu sự ràng buộc và quyền lợi nghĩa vụ với Tổng Công ty theo Điều lệ tổ chức và hoạt động, qui chế tài chính của tổng công ty. 2. Tóm tắt quá trình hình thành và các biến đổi của Hanshoes. Công ty da giầy Hà Nội (Hanshoes) được thành lập từ năm 1912 và đến nay đã có lịch sử gần 100 năm. Từ khi thành lập đến nay, Hanshoes đã có quá trình hình thành và nhiều biến đổi. Để có thể nhìn nhận một cách khái quát, chúng ta nghiên cưú sự biến đổi đó theo từng thời kỳ sau: 2.1. Thời kỳ 1912- - Năm 1912, một nhà tư sản Pháp đã bỏ vốn thành lập công ty, hồi đó lấy tên là “công ty thuộc da Đông Dương”. Mục tiêu chính là khai thác các điều kiện về tài nguyên và lao động của Việt Nam, sản phẩm phục vụ quân đội là chính Đến năm 1954, nhà máy hoạt động dưới hình thức “ Công ty hợp doanh” và lấy tên là Nhà máy Da Thuỵ Khuê Hà Nội, với số vốn góp của nhà nước và các nhà tư sản Việt Nam. - Cơ chế hoạt động sản xuất- kinh doanh thời kỳ này là theo cơ chế “Bao cấp cũ”, nên sản lượng sản xuất tăng hơn thời kỳ trước từ 2- 3 lần. 2.3. Thời kỳ những năm 1970 đến 1986, 1990. - Từ sau năm 1970, công ty chuyển hẳn sang thành xí nghiệp quốc doanh, 100% vốn của Nhà nước và từ đó hoạt động dưới sự quản lý của nhà nước. Từ đó có tên chính thức là Nhà máy Da Thuỵ khuê và tên này được dùng đến năm 1990/ - Do yêu cầu thay đổi, năm 1990, Nhà máy da thuỵ khuê đã đổi tên thành Công ty Da Giầy- Hà Nội và tên đó vẫn được dùng cho đến nay. 2.4. Thời kỳ 1990 đến nay. - Từ năm 1990 đến 1998, nhiệm vụ của công ty vẫn là sản xuất kinh doanh các sản phẩm da thuộc. Tuy nhiên do nhiều lý do chủ quan dẫn đến kinh doanh bị thua lỗ và có chiều hướng khó phát triển, lãnh đạo công ty đã quyết định tìm hướng sản xuất mới là đầu tư vào ngành giầy vải và giầy da. - Cùng với sự thay đổi chung, từ những năm 1990, Bộ Công nghiệp và Thành phố cho công ty Da- Giầy Hà Nội chuyển từ 151 Thuỵ Khuê về số 409 - Đường Nguyễn Tam Trinh- Quận Hai Bà Trưng. để thực hiện các nhiệm vụ đề ra. 3. Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty Da- Giầy. Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty: * Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty: - Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty quán triệt kiểu cơ câú trực tuyến- chức năng nhằm tránh tình trạng tập trung quá mức, chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót. Các chức năng quản lý được phân cấp phù hợp cho các xí nghiệp thành viên. + Hệ thống trực tuyến gồm: 01 Giám đốc công ty, 02 phó giám đốc, các quản đốc phân xưởng và các chuyền trưởng, tổ trưởng. + Hệ thống chức năng, gồm: Các phòng chức năng của công ty, các phòng ban, bộ phận quản lý các xí nghiệp, phân xưởng. Các phòng bộ phận quan hệ hợp tác thống nhất trên tổng thể toàn công ty và chịu sự chỉ đạo trực tiếp duy nhất từ Giám đốc, có trách nhiệm thực thi các nhiệm vụ được giao và làm cố vấn cho Giám đốc về các lĩnh vực hoạt động của chính mình. Đồng thời có trách nhiệm gián tiếp tham gia cùng các đơn vị nghiệp vụ khác trong hoạt động sản xuất – kinh doanh của toàn công ty. Cơ cấu này thể hiện sự phân công cấp phù hợp năng lực cán bộ và các điều kiện đặc thù của công ty trong hiện tại và các năm tới. Khi các điều kiện thay đổi thì cơ cấu có thể được điều chỉnh cho phù hợp. II.Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Da- Giầy Hà Nội: 1. Kết quả sản xuất kinh doanh: Để nắm số kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây chúng ta xem xét kế hoạch sản xuất của công ty qua một số các chỉ tiêu sau: T Các chỉ tiêu Đ VT T H 2000 K H 2001 T H 2001 K H 2002 s o sánh 1 2 3 4 % 2 /`1 /2 /3 Giá trị SXCN(giá cđịnh) 1994 T riệu đ 1 7.290 20 .000 2 2.000 2 4.000 1 16 10 09 Doanh thu t riệu đ 2 5.000 29 .000 5 0.000 5 5.000 1 16 72 10 Sản phẩm chủ yếu -Giầy vải Đ ôi 7 85.000 90 0.000 6 40.000 6 00.000 1 15 1 3 Giầy da: đ ôi 1 30.000 15 0.000 2 50.000 3 00.000 1 15 66 20 Giày vải Đ ôi 6 50.000 74 7.000 5 00.000 1 15 7 Giày đ 1 12 2 1 da ôi 10.000 6.000 50.000 15 98 giá trị xk n ghìn $ 1 178 1 355 1 200 1 600 1 15 8 334 giá trị nk n ghìn $ 1 150 1 320 1 000 1 400 1 15 6 40 Tổng vốn ĐTXD t riệu đ 5 500 10 000 1 82 82 Trong đó: Xây lắp t riệu đ 1 500 3 500 2 33 Thiết bị T riêu đ 4 000 6 500 1 63 vốn tự có 3 500 vốn vay TDTM t riệu đ 5 500 6 500 1 18 chi phí t riệu đ 2 4 850 28 800 4 49 979 5 4 850 1 16 73 09 Lãi lỗ phát sinh t riệu đ 1 50 20 0 8 1 1 50 1 13 0 85 0 Nộp NS NN t riệu đ 8 50 10 00 1 050 1 7 05 Nguồn : Báo cáo kết quả khảo sát kinh doanh của công ty Da giày Hà Nội Muốn nắm rõ về tình hình hoạt động sản xuất – kinh doanh của công ty ta xem xét, phân tích tình hình hoàn thành kế hoạch sản xuất của công ty trong năm : TH 2001/KH 2001 và năm KH 2002/TH 2001 . * TH 2001/KH2001 : - Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10% so với kế hoạch của năm 2001 với giá trị là 2000 trđ. - Tổng doanh thu TH so với kế hoạch của năm 2001 tăng 72% với giá trị là 21000 trđ. - Về mặt hàng chủ yếu : + Giầy vải : TH so với kế hoạch năm 2001 giảm 29% , với số lượng là 550000 đôi. + Giầy da : TH so với kế hoạch năm 2001 tăng 66% với số lượng là 100000 đôi. - Tổng giá trị xuất khẩu TH so với kế hoạch của năm 2001 giảm 12% tương ứng với giá trị là : 155 nghìn $. - Tổng giá trị NK TH so với kế hoạch của năm 2001 giảm 24% ứng với 320 trđ. - Nộp ngân sách nhà nước TH/KH năm 2001 tăng 5% tương ứng với 50 trđ. Nhận xét : Qua phân tích trên ta thấy mức hoàn thành kế hoạch của năm 2001 là rất tốtư riêng có số lượng giầy vải giảm 7% nhưng bù lại số lượng giầy da tăng 20% còn các chỉ tiêu khác đều vượt mức so với kế hoạch. * KH 2002/TH 2001. Dựa vào kết quả SXKD của năm 2001 công ty Da giầy phấn đấu đạt một số chỉ tiêu năm 2002. - Giá trị SXCN tăng 9% tương ứng với 24 tỷ - Doanh thu bán hàng dự kiến đạt 55 tỷ tăng 10% so với năm 2001. - Sản phẩm chủ yếu + Giầy vải : Đạt sản lượng 600 (1000 đôi) giảm 7% so với năm 2001. + Giầy da : Đạt sản lượng 300 (1000 đôi) tăng 20 % so với năm 2001. - Tổng kim ngạch XK đạt 1600 (1000 $) tăng 34 % so với năm 2001. - Tổng kim ngạch NK đạt 1400 (1000$) tăng 40% so với năm 2001. - Các khoản nộp ngân sách nhà nước đạt 1050 (trđ) 2. Về nhân sự Trong bất cứ một lĩnh vực hoạt động sản xuất – kinh doanh nào cũng đều có sự tham gia bởi bàn tay và khối óc của con người. Con người là chủ thể điều khiển mọi quá trình thông qua các công cụ. Lĩnh vực quản trị nhân sự – hay quản lý con người là một kiểu “quản lý đặc biệt “ bởi đó là sự tác động trực tiếp từ chủ thể – là con người đến khách thể – cũng là con người. Chủ thể ở đây là Lãnh đạo – người đứng đầu trong một tổ chức mà cụ thể là Giám đốc công ty – Công ty Da giầy Hà Nội. Khách thể là toàn bộ cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty. Giám đốc Công ty cần nắm bắt và hiểu rõ về lĩnh vực nhân sự trong Công ty mình, như : Tổng số cán bộ công nhân viên, Cơ cấu cán bộ ở các bộ phận (bộ phận quản lý, bộ phận sản xuất ), trình độ học vấn trình độ tay nghề, ... và việc phân chia lương – thưởng, phụ cấp, đơn giá tiền lương... cho mỗi bộ phận, mỗi thành viên trong công ty. Điều này sẽ giúp cho Giám đốc phân bổ, bố trí và sử dụng nguồn nhân lực trong Công ty một cách có hiệu quả nhất. Để giúp Giám đốc trong lĩnh vực này, Phòng Tổ chức – chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Giám đốc sẽ thực hiện. Để hiểu rõ hơn về lĩnh vực này, ta có Bảng số liệu sau : Bảng Kết cấu nhân sự và thu nhập của Công ty Da giầy Hà Nội Số lượng nhân viên Tỷ trọng (%) 2 000 2 001 20 02 2 000 2 001 2 002 1. Tổng lao động 1 000 1 050 12 00 2. Cơ cấu lao động a. Theo tính chất LĐ +Lao động trực tiếp +Lao đông gián tiếp b. Theo giới tính + Nam 3 20 + Nữ 6 80 c. Theo trình độ học vấn +Trên đại học 3 00 +Đại học 6 2 +PTTH và Tr. cấp Kỹ thuật 6 38 3. Lương bình quân (1000đ/ng/tháng) 4 86 5 50 65 0 Nguồn : Báo cáo tình hình nhân sự Công ty Da giầy Hà Nội Qua tìm hiểu thực tế tại Công ty thiết nghĩ Giám đốc Công ty cần quan tâm hơn nữa tới lĩnh vực naỳ. Để sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, Giám đốc Công ty cần chú ý một số vấn đề sau : - Phân tích công việc, để từ đó có cơ chế tuyển dụng, đào tạo, bố trí và sử dụng nguồn nhân lực sao cho có hiệu quả hơn. - Nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý cũng như công nhân sản xuất. Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân sự. - Đối với cán bộ công nhân viên – nhất là công sản xuất, cần tác động tới họ về ý thức tổ chức kỷ luật, về tính tiết kiệm năng động – sáng tạo... và nhất là sự trung thành. Để làm được điều này, Giám đốc Công ty cần phối hợp với Phòng Tổ chức đề ra cơ chế thưởng – phạt, khuyến khích động viên, cải tiến phương pháp tính đơn giá tiền lương đối với từng nhân viên để họ có dù điều kiện hoàn thành tốt công việc được giao. 3. Về công nghệ và sản phẩm a. Công nghệ : Cùng với sự phát triển vượt bậc như vũ bão về khoa học – kỹ thuật như ngày nay thì bất cứ ở đâu, ở lĩnh vực nào, với mô hinh tổ chức sản xuất – kinh doanh nào đều quan tâm tới “Công nghệ “. Quá trình sản xuất diễn ra theo một Quy trình công nghệ, nó quyết định tới chất lượng sản phẩm đầu ra của Công ty. Công nghệ sản xuất bao gồm nhiều quy trình mà ở đó có trình độ về thông số kỹ thuật của máy móc thiết bị, của dây chuyền sản xuất của các đơn vị đơn lẻ phối – kết hợp với nhau để tạo ra sản phẩm cuối cùng đạt những tiêu chuẩn đã đề ra. Và quan trọng hơn là trình độ hiểu biết, khả năng, kinh nghiệm của cán bộ quản lý cũng như việc đứng máy của mỗi công nhân. Không thể tạo ra một sản phẩm có chất lượng cao, đung thông số kỹ thuật đã định mà không có một chút gì về công nghệ. Nắm bắt và hiểu biết được tầm quan trọng đó, Công ty Da giầy Hà Nội đã quan tâm, chú trọng tới việc đầu tư - nâng cấp và đổi mới công nghệ trong dây chuyền sản xuất; tự động hoá dây chuyền nhằm tăng năng xuất, chất lượng, cũng như tính đồng bộ của sản phẩm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Công nghệ sản xuất đạt tiêu chuẩn cao thì sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt tương ứng, năng suất lao động tăng lên, chí phí sản phẩm sẽ giảm, và tính đồng bộ sẽ làm hạn chế tới mức tối thiểu sản phẩm hỏng – sản phẩm dở dang trên dây chuyền sản xuất; dẫn đến giảm chí phí cho việc xử lý những sản phẩm đó. Đồng thời, giảm chí phí cho việc sửa chữa, bổ sung, thay thế máy móc thiết bị mới. Công nghệ sản xuất có quan hệ tỉ lệ thuận với năng xuất, chất lượng của sản phẩm nhưng lại tỉ lệ nghịch với chí phí sản xuất ( chí phí tính giá thành ). Điều này làm cho các nhà quản lý – sản xuất luôn tìm tòi, học hỏi, vận dụng nhưng tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, tạo nên một quy trình sản xuất đồng bộ, đạt hiệu quả cao nhất có thể được. Hiện nay, Công ty Da giầy Hà Nội đã củng cố và hoàn thiện xong một dây chuyền Giầy da và hai dây chuyền Giầy vải, cố gắng phát huy tối đa công suất, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất – kinh doanh. Ngoài ra, Công ty còn tiếp tục đầu tư trang bị cho sản xuất một số máy móc thiết bị như : máy may, máy chặt, dàn ép để ..... nhằm mở rộng và phát triển hơn nữa hoạt động sản xuất – kinh doanh của công ty. Ta có mô hình hoá Quy trình sản xuất của Công ty Ng. Các Bồi Cắt các May ráp Mũ giấy Sơ Hỗn Ra hình Bán TP Gò ráp Lưu hoá giầy Đ H N K Thành phẩm P hân T hu K CS Đ óng Nhập kho Xuất hàng Trong năm 2001 này, Công ty đã bổ xung một dây chuyền Giầy da xuất khẩu, với tổng trị giá 6500 trđ từ nguồn vốn vay. Điều này sẽ khẳng định hơn nữa vị thế của Công ty trên thương trường kinh doanh. Việc triển khai, thiết kế mẫu mã sản phẩm cùng với đòi hỏi về trình độ công nghệ của máy móc thiết bị thì Giám đốc cần phối hợp với Trung tâm Kỹ thuật – Mẫu mã để có biện pháp thích hợp nhằm giảm tối thiểu chí phí về công nghệ. b. Sản phẩm : Sản phẩm của công ty Da giầy Hà Nội là giầy vải các loại. Sản phẩm được sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng của nước ngoài như Đài Loan, Hồng Kông, Đức, ý ... và sản xuất để phục vụ nhu cầu trong nước nên đòi hỏi tiêu chuẩn khá cao, chất lượng phải đảm bảo, mẫu mã đẹp, sản xuất phải theo đúng yêu cầu của khách hàng. Đặc điểm của loại sản phẩm tiêu dùng này là có thể để lâu, không bị hao hụt nên cũng dễ dàng trong việc quản lý. Đơn vị tính thường là đôi. Do yêu cầu của quản lý và theo đơn đặt hàng của khách hàng nên khi sản xuất song sản phẩm thường được đóng thành kiện. Số đôi giầy trong một kiện và kích cỡ giầy, mầu sắc giầy đóng vào kiện hoàn toàn theo yêu cầu của khách hàng. Về số lượng : Hàng tháng số lượng sản phẩm sản xuất nhiều hay ít căn cứ vào các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế đã ký kết với khách hàng và tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, từ đó bộ phận kế hoạch sẽ lên kế hoạch sản xuất giầy trong tháng. Quá trình vận động của thành phẩm rất ngắn và nhanh kết thúc để có thể kịp thời gian giao hàng cho khách như hợp đồng đã kỹ kết. Về chất lượng : Do Công ty có dây chuyền sản xuất giầy tiên tiến, tương đối hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế nên sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng khá cao. Ngoài ra, nhiều loại nguuyên vật liệu nhập về từ nước ngoài để phục vụ cho sản xuất sản phẩm cũng góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty đã sản xuất được rất nhiều loại giầy vải khác nhau. Mỗi loại giầy chia thành nhiều loại giầy khác nhau. Giầy của Công ty có mẫu mã, hình thức khá đẹp và rất đa dạng. Chính vì vậy, nhiều loại giầy đã chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước. Sản phẩm của Công ty được bạn hàng tín nhiệm nên số lượng đơn đặt hàng ngày càng nhiều. Với đặc điểm sản phẩm của Công ty như vậy để thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm thì nhất thiết cần phải tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm một cách khoa học, hợp lý, phải có các biện pháp thích hợp, kịp thời đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm nhằm đảm bảo thu hồi vốn nhanh và thu được nhiều lợi nhuận. 4. Về tài chính Tài chính là một yếu tố hết sức quan trọng đối với Giám đốc và toàn Công ty vì qua đó Giám đốc biết được thực lực tài chính của Công ty để đưa ra các quyết định tài chính đúng đắn và kịp thời nhất. Khi nắm bắt được khả năng tài chính của Công ty, Giám đốc sẽ dựa vào đó làm cơ sở cho việc đầu tư, đổi mới và mở rộng hoạt động sản xuất – kinh doanh, là cơ sở để Giám đốc phân bổ nguồn tài chính cho hợp lý và có hiệu quả nhất. Ta có Bảng số liệu về tình hình tài chính của Công ty: (Triệu đồng) T Chỉ tiêu TH 2000 KH 2001 TH2 001 KH 2002 Doanh thu 25.0 00 29.0 00 50.0 00 55.0 00 Chí phí sản phẩm tiêu thụ 24.8 50 28.800 49.9 19 150 Lãi hoặc lỗ phát sinh 150 200 81.0 00 Nộp ngân sách Nhà nước 850 1.00 0 1.05 0 Tổng nguyên giá TSCĐ Trong đó : Vốn NS 26.9 00 2.96 1 31.4 00 2.96 1 Tổng giá trị còn lại TSCĐ Trong đó : Vốn NS 25.3 00 2.96 1 27.8 00 2.96 1 Tổng vốn cố định Trong đó : vốn NS 2.96 1 3.25 1 2.96 1 3.25 1 3.10 0 Tổng vốn lưu động Trong đó : vốn NS 2 .035 2.03 5 3.60 0 2.01 8 2.01 8 Công ty Da giày Hà Nội đã áp dụng được quản lý vốn như sau: -Công ty thực hiện phươngpháp khoán vốn đối với các doanh nghịêp. Các xí nghiệp thành viên được công ty giao quản lý và sử dụng toàn bộ tài sản cố định thuộc sở hữu của công ty nằm tại xí nghiệp ở tại thời điểm giao vốn và chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển số vốn cố định. -Các xí nghiệp thành viên tổ chức hạch toán nội bộ và phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh định kỳ Quý- 6 tháng hàng năm theo quy định của công ty. -Để hoàn thiện hơn nữa, công ty cần phải tiếp tục nghiên cứu trong lĩnh vực đổi mới công nghệ, đầu tư mới và đầu tư chiều sâu. Hoạt động đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với đổi mới công nghệ, chất lượng sản phẩm . nguồn vốn đầu tư công ty có thể lấy từ nội bộ trong công ty, từ ngân sách nhà nước cấp , từ số tiền nhàn rỗi trong dân và hơn thế nữa là từ nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ với việc viện trợ không hoàn lại... và điều kiện quan trọng để công ty thu hút đầu tư ở trên là công ty phải khẳng định mình rằng hoạt động đầu tư ấy chắc chắn có hiệu quả, tạo điều kiện để cho quá trình tích tụ tái đầu tư. 5.Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty. Việc tiêu thụ sản phẩm của công ty Da giầy Hà Nội có đặc điểm rất riêng biệt, khác với nhiều công ty ở trong nước. Sản phẩm sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu sang các nước khác theo đơn đặt hàng của khách hàng. Và trong một vài năm gần đây, sản phẩm của công ty cũng đã được tiêu thụ rộng rãi ở thị trường trong nước. -Đối với xuất khẩu: Việc xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài do phòngiá kinh doanh xuất nhập khẩu phụ trách. Công ty sẽ giao hàng dựa trên các hợp đồng ký kết với nước ngoài IV. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty Da Dầy - HN. 1. Những kết quả đã đạt được và những khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. a) Những kết quả - Công ty đã tìm được mục tiêu hướng đi đúng đắn về chiến lược sản phẩm đặc biệt là chất lượng sản phẩm . - Sản phẩm của công ty có chất lượng khá tốt ,mẫu mã đẹp phong phú về chủng loại , có khả năng cạnh tranh với sản phẩm ngoại. - Sản phẩm của công ty có uy tín trên thị trường và tăng đều đặn qua các năm và doanh thu tiêu thụ cũng tăng đều đặn . Nguyên nhân là do công ty có tư duy làm việc mới phong cách làm việc năng động, sáng tạo , có sự kiên trì và đoàn kết của toàn thể cán bộ công nhân viên . b) Những khó khăn . - Mạng lưới tiêu thụ còn bị phụ thộc bởi các nước trung gian - Khó khăn về nguồn vốn sản xuất kinh doanh. - Cơ sở hạ tầng còn sơ sài . - Máy móc thiết bị đã quá cũ , lạc hậu không sử dụng được năng xuất rất thấp. - Đội ngũ cán bộ , công nhân trẻ tay nghề chưa cao thiếu kinh nghiệm , chưa thích ứng với công nghệ sản xuất hiện đại dẫn đến có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng sản phẩm, giảm thế mạnh cạnh tranh của công ty trên thị trường . 2. Một số kiến nghị và giải pháp . a) giải pháp tạo vốn và phát triển sản xuất . Trước tình hình khó khăn về vốn tuỳ theo điều kiện và khả năng của mình công ty đã nỗ lực tìm kiếm mọi nguồn vốn trong nước cũng như ngoài nước để phát triển sản xuất bằng nhiều phương thức khác nhau như : Chọn phương thức mua thiết bị đầu tư trả chậm , yêu cầu đối tác giá công trả tiền ngay khi sản phẩm sản xuất xong mà chưa giao hàng để tránh phải đi vay vốn ngân hàng . Nhưng tất cả các phương thức đó chỉ là tạm thời giải quyết lúc khó khăn trước mắt còn về vấn đề lâu dài để đảm bảo có vốn đầu tư cho sản suất công ty cần áp dụng một số phương pháp sau : + Tích cực huy động vốn đầu tư từ các nguồn , công ty đầu tư bằng vốn tự có , tự vay và vốn tín dụng đầu tư của nhà nước . Vốn đầu tư của cán bộ công nhân viên và tư nhân thông qua cổ phần hoá , công ty kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài bằng cách nghiên cứu chủ động lựa chọn đối tác, dùng hình thức hợp tác cho phù hợp với điều kiện của công ty. + Về vốn lưu động công ty đề nghị các cấp lãnh đạo ngành và thành phố xem xét tình hình thực tế, yêu cầu cụ thể và đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty để giải quyết tăng thêm vốn lưu động. + Đối với máy móc thiết bị đã quá cũ công ty nên có thái độ rất khoát giải quyết những loại máy móc thiết bị này vì cũng để lâu cũng lạc hậu mà phần vốn còn lại có thể thu hồi được , càng bị tồn đọng gây nên những hậu quả không đáng có như lãng phí vốn , lãng phí diện tích kho hàng. .. b) Đầu tư cơ sở hạ tầng . Cần đầu tư xem xét ưu tiên đầu tư cho sản xuất, tránh đầu tư phân tán trong khi điều kiện nguồn vốn của công ty có hạn. phải có những dự tính trước hạn chế về nguồn vốn , nguồn cung cấp nguyên liệu gia công mà mua sắm vật tư nguyên liệu cho phù hợp tránh được hàng hoá bị tồn đọng để tăng vòng quay của vồn. Quan tâm đầu tư chiều sâu bằng cách mạnh dạn lập dự án kinh tế kỹ thuật vay dài hạn ngân hàng bằng ngoại tệ để có nguồn vốn đầu tư cho sản xuất . Tạo điều kiện cho chuyên môn hoá sản xuất , liên kết các phân xưởng sản xuất, nâng cao năng xuất của máy móc thiết bị từ đó làm tăng năng xuất lao động , hạ giá thành sản phẩm và thời gian hàng đúng tiến độ. Thực hiện tốt chủ trương của nhà nước về đổi mới công tác quản lý tài chính , hoạch toán kinh tế tại doanh nghiệp để nắm bắt kịp thời sự đòi hỏi của cung cách luân án hiện đại, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lên gấp đôi thời gian qua . c) Phát triển thị trường. Tìm hiểu và mở rộng thị trường đầu ra , đầu vào của thị trường đầu ra trong nước , trong khu vực và cả thế giới Cần nắm vững tư tưởng chủ đạo là hướng chủ đạo là hướng vào xuất khẩu nhưng trước tiên cần coi trọng thị trường trong nước .đây là một thị trường lớn của các doanh nghiệp sản xuất giầy . Khai thác mở rộng thị trường tiêu thụ để dần dần giảm bớt mức lệ thuộc doanh số xuất khẩu vào các khách hàng gia công. Mặt khác tăng khối lượng đối tác, khách hàng bền vững và có nhiều khả năng trong tiêu thụ, trong hợp tác sản xuất kinh doanh trong nước cũng như nước ngoài phải nắm bắt rõ đối tác và thị trường tiêu thụ tiềm năng . Để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước cũng như ngoài nước công ty cần : * Tăng cường tiếp thị và bổ sung người trong bộ phận Marketing sản xuất phải đi theo yêu cầu thị trường . Đây là yếu tố đảm bảo thành công của mỗi doanh nghiệp . Để mở rộng thị trường điều đầu tiên phải hiểu rõ thị trường mới và nắm bắt được nhu cầu ở đó . Nhờ vậy mới có thể lập kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm và sản xuất một cách hợp lý . Nhưng muốn có được điều này , công ty phải tăng cường tiếp cận với khách hàng , nghiên cứu thực trạng tiêu thụ để nắm bắt được yêu cầu của khách hàng. Trên cơ sở phân tích tình hình để đưa ra những quyết định đúng đắn về tiêu thụ sản xuất để đạt lợi nhuận tối đa . Nội dung của công tác tiếp thị phải đảm bảo được các thông tin sau : Tại thị trường tiêu thụ , nhu cầu về sản phẩm ra sao tình hình thu nhập cảu người tiêu dùng... Thái độ của người tiêu dùng về sản phẩm của công ty . Thăm dò khả năng về tình hình sản xuất kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh từ đó có chính sách hợp lý đối với sản phẩm tiêu thụ. Mặt khác ,công ty phải bổ sung những cán bộ có nghiệp vụ Marketing . Đây là điều kiện để nâng cao nghiệp vụ tiêu thụ của mình đẩy nhanh tiêu thụ mở rộng thị trường . * Về sản phẩm . Để đáp ứng được nhu cầu thị trường , công ty cần phải đa dạng hoá sản phẩm của mình , chủng loại , mẫu mã đẹp phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng . Nâng cao tay nghề cho cán bộ thiết kế mẫu , để đảm bảo phục vụ tốt cho mẫu mã mà khách hàng yêu cầu. * Xây dựng mạng lưới phân phối hợp lý . Mạng lưới tiêu thụ hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động phân phối sản phẩm của công ty, làm cho lưu thông thông suốt, còn về phía khách hàng sẽ giảm bớt được các hao tổn về thời gian , chi phí cho việc mua hàng mà vẫn đảm boả mua được hàng với giá gốc. Công ty nên sử dụng hình thức bán hàng trực tiếp hoặc sử dụng kênh phân phối ngắn chỉ có một trung gian để đảm bảo chất lượng sản phẩm , giá cả và uy tín của công ty , đồng thời có thể quay vòng vốn nhanh , rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh. * Thực hiện một số biện pháp khuyến mãi , giá linh hoạt. Biện pháp này sẽ thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm một cách nhanh hơn và rút ngắn thời gian nợ đọng vốn . Công ty nên sử dụng một số biện pháp khuyến mãi như : Chiết khấu bán hàng , giảm giá hàng bán đối với khách hàng đặt mua với số lượng lớn và thanh toán nhanh và đối với đại lý có tỷ lệ hoa hồng hợp lý, hấp dẫn. Việc giảm giá sản phẩm, công ty có thể ký được nhờ việc trích giá trên cơ sở phân tích điểm hoà vốn và lợi nhuận định mức . Sau khi đã đạt được sản lượng tiêu thụ đủ cho phần lợi nhuận định mức ,công ty có thể giảm giá sản phẩm thấp hơn giá hiện tại một chút để khuyến khích khách hàng mua . Bên cạnh việc giảm giá ,công ty có thể áp dụng các mức giá khác nhau trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể, các khu vực thị trường khác nhau hoặc các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống của sản phẩm. * Quảng cáo sản phẩm. Công ty chưa thật sự chú trọng quảng cáo sản phẩm của mình . Quảng cáo luôn là phương tiện truyên truyền lưu ích nhất của nhà cung cấp sản phẩm và bản thân nhà cung cấp đến khách hàng để tạo ra nhiều hơn các cơ hội tiêu thụ sản phẩm . Bên cạnh quảng cáo , công ty còn có thể giới thiệu trên tạp chí chuyên ngành , quảng cáo trên bao bì sản phẩm ... b) Khoa học công nghệ. Cải tiến và hiện đại hoá công nghệ sản xuất sao cho đủ sức tạo ra cá sản phẩm có chất lượng kỹ thuật cao có kiểu dáng phù hợp thời trang , có đủ thời gian giải quyết các vấn đề do thị trường đặt ra. Học hỏi những bí quyết công nghệ sản xuất tiên tiến của các chuyên gia nước ngoài thông qua việc đưa các kỹ thuật viên có năng lực trình độ cùng tham gia thực hiện chế tạo mẫu mới. e) Đào tạo lao động , tổ chức quản lý sản xuất nâng cao tay nghề , trình độ kỹ thuật của người lao động thông qua hình thức tổ chức các lớp học chuyên ngnàh . Phát động các phong trào thi đua thợ giỏi , phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật tận dụng hết khả năng sáng tạo và trí thông minh của họ và sản xuất . Lựa chọn những người có năng lực trình độ, có tinh thần làm việc và có tư cách đạo đức vào quản lý những khâu then chốt trong hoạt động kinh doanh của công ty.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Da Giầy HN giai đoạn (1996-2001) và dự báo năm 2002.pdf
Tài liệu liên quan