Luận văn Ngữ nghĩa – ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt

Tài liệu Luận văn Ngữ nghĩa – ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM LỮ THỊ TRÀ GIANG NGỮ NGHĨA – NGỮ DỤNG CỦA VỊ TỪ NGƠN HÀNH TIẾNG VIỆT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2008 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM LỮ THỊ TRÀ GIANG NGỮ NGHĨA – NGỮ DỤNG CỦA VỊ TỪ NGƠN HÀNH TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : Ngơn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học PGS. TS. HỒNG DŨNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2008 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong ngữ pháp tiếng Việt, từ trước đến nay, vấn đề phân biệt các kiểu câu vẫn đang là vấn đề chưa được thống nhất giữa các nhà Việt ngữ học. Việc phân loại các kiểu câu chủ yếu theo hai cách. Cách thứ nhất là phân loại câu theo cấu trúc cú pháp. Theo cách phân loại này, người ta chia câu tiếng Việt ra câu đơn, câu ghép, câu bình thường và câu đặc biệt. Cách thứ hai là phân loại câu theo mục đích giao tiếp. Theo cách này, người ta ch...

pdf98 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Ngữ nghĩa – ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM LỮ THỊ TRÀ GIANG NGỮ NGHĨA – NGỮ DỤNG CỦA VỊ TỪ NGƠN HÀNH TIẾNG VIỆT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2008 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM LỮ THỊ TRÀ GIANG NGỮ NGHĨA – NGỮ DỤNG CỦA VỊ TỪ NGƠN HÀNH TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : Ngơn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học PGS. TS. HỒNG DŨNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2008 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong ngữ pháp tiếng Việt, từ trước đến nay, vấn đề phân biệt các kiểu câu vẫn đang là vấn đề chưa được thống nhất giữa các nhà Việt ngữ học. Việc phân loại các kiểu câu chủ yếu theo hai cách. Cách thứ nhất là phân loại câu theo cấu trúc cú pháp. Theo cách phân loại này, người ta chia câu tiếng Việt ra câu đơn, câu ghép, câu bình thường và câu đặc biệt. Cách thứ hai là phân loại câu theo mục đích giao tiếp. Theo cách này, người ta chia ra các kiểu câu như: câu tường thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến và câu cảm thán. Ở cách phân loại thứ hai, thực ra ranh giới xác định giữa các kiểu câu suy cho cùng cũng là dựa vào hình thức bên ngoài. Hơn nữa, thật ra xét về nghĩa biểu hiện hay hành động ngôn trung của câu (phát ngôn) thì rất khó để tách bạch các kiểu câu này một cách rạch ròi nếu chỉ dựa vào hình thức ngữ pháp bên ngoài của chúng. Chẳng hạn hai câu sau đều là câu nghi vấn và có hình thức ngữ pháp rất giống nhau nhưng lại mang ý nghĩa nội dung rất khác nhau như: – Cĩ muốn ăn bánh khơng? – Cĩ muốn ăn roi khơng? Một câu như Ối giời ơi sao mà đẹp thế! hồn tồn cĩ thể là một câu cảm thán nhưng cũng cĩ thể là một câu mỉa mai. Câu Muốn chết hả? là câu để quát mắng cịn câu Sao cịn đứng đực ra đấy? là câu mệnh lệnh nhưng ta thấy cả hai câu vừa nêu đều cĩ hình thức của câu nghi vấn. Mục đích nĩi năng của phát ngơn chỉ được khám phá một cách cĩ hệ thống kể từ khi nhà triết học người Anh J. L. Austin (1911-1960) viết cuốn How to do things with words? đặt ra vấn đề câu ngơn hành, xem xét câu nĩi như là hành dộng. J. L. Austin gọi ý định của người nĩi được thực hiện bằng lời là hành động ngơn trung. Đĩ là các hành động như: ra lệnh, yêu cầu, xin lỗi, cảm ơn… Như vậy, gắn liền với vấn đề câu ngơn hành là vị từ ngơn hành. Năm 1987, Anna Wierzbicka cho xuất bản quyển English Speech Act Verbs. Trong công trình này, bà đã dùng ngôn ngữ ngữ nghĩa (một thứ siêu ngôn ngữ mà chính bà xây dựng nên) để giải nghĩa 270 vị từ ngôn hành trong tiếng Anh, quy thành 37 nhóm. Cho đến nay, một công trình tương tự đối với vị từ ngôn hành tiếng Việt vẫn chưa có ai làm. Trong giới hạn nghiên cứu vị từ tiếng Việt, kế thừa có chọn lọc ý tưởng của J. L. Austin và theo những đề xuất có tính chất tiên phong của Cao Xuân Hạo, người viết cho rằng có thể xác lập được hệ thống vị từ ngôn hành tiếng Việt. Luận văn này hy vọng thực hiện được một danh sách vị từ ngôn hành tiếng Việt (không dám nói là hoàn chỉnh). Tuy nhiên việc quy các vị từ ngôn hành tiếng Việt về thành từng nhóm như Wierzbicka đã làm thì bản thân người viết nhận thấy rất khó khăn. Trên cơ sở tham khảo kỹ lưỡng các công trình nghiên cứu của J. L. Austin, Anna Wierzbicka, J. Lyons, Cao Xuân Hạo, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Văn Hiệp, Diệp Quang Ban,… và các tác giả khác về vấn đề câu ngôn hành và vị từ ngôn hành (theo cách gọi của Cao Xuân Hạo) người viết mong muốn luận văn này là một tài liệu có ích cho các bạn sinh viên nghiên cứu về câu ngôn hành và vị từ ngôn hành. 2. Điểm qua các cơng trình liên quan đến đề tài 2.1. Các nhà nghiên cứu nước ngồi 2.1.1. J. L. Austin Cĩ thể nĩi rằng nhà triết học người Anh J. L. Austin được xem là người đặt nền mĩng cho việc phát hiện nghĩa tương tác xã hội, hay nghĩa liên nhân của câu nĩi, vào năm 1955. Ơng trình bày 12 chuyên đề ở trường Đại học Tổng hợp Harvard (Mỹ). Những chuyên đề này được tập hợp lại xuất bản thành sách với nhan đề How to do things with words (hành động như thế nào bằng lời nĩi), xuất bản năm 1962, hai năm sau ngày tác giả qua đời. Cuốn sách này năm 1970 được dịch sang tiếng Pháp với nhan đề Quand dire, c’est faire (Khi nĩi tức là làm). J. L. Austin nhận thấy rằng, cho đến thời gian đĩ, các nhà logic và các nhà ngơn ngữ chỉ quan tâm đến những câu khảo nghiệm (cịn gọi là khẳng định, trần thuyết, xác tín, miêu tả), xem chúng là đối tượng nghiên cứu cơ bản. Đây là những câu về mặt ngữ nghĩa đều cĩ thể được đánh giá theo tiêu chuẩn chân ngụy cịn những phát ngơn khác, mặc dù rất giống với những phát ngơn khảo nghiệm về hình thức nhưng khơng thể đánh giá nội dung theo tiêu chuẩn chân ngụy. Chẳng hạn những câu như: Cannibalism is wrong. (Tục ăn thịt người là sai.) Hoặc: Monet is a better painter than Manet. (Họa sĩ Monet giỏi hơn họa sĩ Manet). tùy theo phong tục và thẩm mỹ riêng của từng người mà được coi là đúng hay sai, và nĩi chung, là khơng thể xác định được là đúng hay sai. J. L. Austin phê phán cái gọi là Ngụy thuyết miêu tả, tức khuynh hướng nghiên cứu chỉ chú trọng đến nghĩa miêu tả của câu, là loại nghĩa cĩ thể kiểm nghiệm theo chân ngụy khi đối chiếu với thực tế. Nhấn mạnh đến chiều kích liên nhân, hay chiều kích tương tác mang bản chất xã hội trong ý nghĩa của câu nĩi, J.L. Austin đề nghị chia câu nĩi thành hai loại: câu tường thuật (constative) và câu ngơn hành. Câu tường thuật là câu nêu nhận định (cĩ thể đánh giá theo tiêu chuẩn chân ngụy), cịn câu ngơn hành là phát ngơn mà khi nĩi ra chúng, người nĩi đã đồng thời làm một điều gì đĩ hơn là nêu một nhận định về một điều gì đĩ. Thử xem hai câu: Tao hứa từ nay sẽ khơng hút thuốc lá nữa và Mời cụ lớn xơi nước ạ, chúng ta thấy người nĩi chẳng hề nêu ra một nhận định nào hết mà chỉ đơn giản là thực hiện các hành động “hứa” và “mời”. J. L. Austin cho rằng những câu này khơng phải là những câu giả- khẳng định, cũng khơng phải là những câu vơ nghĩa. Chúng được phát ngơn ra khơng nhằm trình bày một kết quả khảo nghiệm, một sự miêu tả về các sự vật, sự kiện, chúng khơng phải là những báo cáo về hiện thực mà nhằm làm một việc gì đĩ, chẳng hạn việc hỏi, việc mời, việc đánh cuộc… Như vậy ta thấy rằng nhờ phân biệt được phát ngơn tường thuật miêu tả và phát ngơn ngơn hành, J. L. Austin đã phát hiện ra bản chất hành động của ngơn ngữ. Tuy nhiên vốn khơng phải là một nhà ngơn ngữ học cho nên sau đĩ J. L. Austin đi đến từ bỏ sự phân biệt về hai loại câu này (câu tường thuật miêu tả đối lập với câu ngơn hành) để khẳng định rằng, tất cả các câu đều là ngơn hành sau khi phân biệt các biểu thức ngơn hành tường minh và các biểu thức ngơn hành hàm ẩn. Ơng cho rằng một câu ngơn hành khơng nhất thiết phải sử dụng một vị từ ngơn hành. Ơng viết: “Tuyệt nhiên khơng nhất thiết một câu ngơn hành phải được thực hiện trong một hình thái được coi là bình thường như vậy… nĩi “ Đĩng cửa lại đi!” rõ ràng là cũng cĩ tính ngơn hành, cũng là thực hiện một hành động đúng như khi ta nĩi “Tơi ra lệnh cho anh đĩng của lại”. J. L. Austin phân loại ra năm phạm trù hành động ngơn từ: 1. Phán xử (Verditives, verditifs) Đây là những hành động đưa ra lời phán xét (verdicts) về một sự kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cớ hiển nhiên hoặc dựa vào lý lẽ vững chắc như: xử trắng án, xem là, tính tốn miêu tả, phân tích, đánh giá, phân loại, cho là, nêu đặc điểm… 2. Hành xử (Exercitives, exercitifs). Đây là những hành động đưa ra những quyết định thuận lợi hay chống lại một chuỗi hành động nào đĩ: ra lệnh, chỉ huy, biện hộ cho, khẩn cầu, đặt hàng, giới thiệu, van xin, khuyến cáo và các hành vi ngơn ngữ như: bổ nhiệm, đặt tên, tuyên bố khai mạc, bế mạc, cảnh cáo, tuyên ngơn. 3. Cam kết (Commissives, commissifs). Những hành động này ràng buộc người nĩi vào một chuỗi những hành động nhất định: hứa hẹn, bày tỏ lịng mong muốn, giao ước bảo đảm, thề nguyền, thơng qua các quy ước, tham gia một phe nhĩm. 4. Trình bày (Expositives, expositifs). Những hành động này được dùng để trình bày các quan niệm, dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ như khẳng định, phủ định, chối, trả lời, phản bác, nhượng bộ, dẫn ví dụ, chuyển dạng lời, báo cáo các ý kiến... 5. Ứng xử (Behabitives, comportementaux). Đây là những hành vi phản ứng với cách xử sự của người khác, đối với các sự kiện cĩ liên quan, chúng cũng là cách biểu hiện thái độ đối với hành động hay số phận của người khác: xin lỗi, cảm ơn, khen ngợi, chào mừng, phê phán, chia buồn, ban phước, nguyền rủa, nâng cốc, chống lại, thách thức, nghi ngờ… Bảng phân loại của J. L. Austin được xem về cơ bản là phân loại từ vựng các động từ ngơn hành tiếng Anh. 2.1.2. J. R. Searle Cũng như J. L. Austin và các tác giả khác, J. R. Searle tiến hành phân loại các động từ ngơn hành. Ơng cịn chỉ ra những hạn chế trong bảng phân loại của J. L. Austin vì ơng cho rằng J. L. Austin khơng định ra các tiêu chí phân loại, do đĩ kết quả phân loại cĩ khi giẫm đạp lên nhau. J. R. Searle cho rằng trước hết là phải phân loại các hành động ngơn từ chứ khơng phải phân loại các động từ gọi tên chúng và nếu xác lập được một hệ tiêu chí thích hợp với các hành động ngơn từ thì cĩ thể giải tỏa được tình trạng giẫm đạp lên nhau của các phạm trù. (Xem Đỗ Hữu Châu 2005) J. L. Searle phân lập được năm loại hành động ngơn từ. Đĩ là các hành động: 1. Tái hiện (Representatives). Yếu điểm ngơn trung (illocutionary point) là miêu tả lại một sự tình đang được nĩi đến. Hướng khớp ghép là lời-hiện thực, trạng thái tâm lý là niềm tin vào điều mình xác tín, nội dung mệnh đề là một mệnh đề. Các mệnh đề này cĩ thể đánh giá theo tiêu chuẩn chân ngụy. Cần chú ý cĩ một số động từ cĩ khả năng biểu thị hành động ngơn từ mà nội dung mệnh đề cĩ thể đánh giá theo tiêu chuẩn chân ngụy nhưng khơng quy về các xác tín bình thường. Ví dụ than thở, khoe cũng nĩi lên các nội dung mệnh đề nhưng lực ngơn trung của chúng khác với lực của phát ngơn miêu tả, khẳng định, tường thuật thơng thường ở chỗ người phát ngơn thực hiện chúng là vì lợi ích của mình. Kết luận, suy diễn cũng là xác tín nhưng ngồi yếu điểm ngơn trung chung với tái hiện chúng cịn cĩ thêm các chỉ dẫn về mối quan hệ giữa nội dung tái hiện đĩ với phần cịn lại của diễn ngơn hay của ngữ huống. 2. Cầu khiến (Directive): (ra lệnh, yêu cầu, hỏi, cho phép). Yếu điểm ngơn trung của loại này là ở chỗ người nĩi dùng ngơn từ để khiến người nghe làm một việc gì. Nội dung mệnh đề chính là cái hành động đĩ. Hỏi cũng là một hành động cầu khiến. 3. Hứa hẹn (Commissives) (hứa hẹn, tặng, biếu). J. R. Searle chấp nhận cách định nghĩa của J. L. Austin: “người nĩi cam kết sẽ thực hiện một hành động nào đĩ”. Đĩ là nội dung mệnh đề phát ngơn. Hứa hẹn và cầu khiến đều cĩ một hướng chung là thích nghi hiện thực với lời lẽ, nhưng ở cầu khiến thì do người nghe làm, cịn ở hứa hẹn là do người nĩi làm. 4. Bày tỏ (Expressives): Yếu điểm ngơn trung là bày tỏ một trạng thái tâm lý đối với một sự tình được chỉ rõ trong nội dung mệnh đề, như “cảm ơn”, “xin lỗi”, “lấy làm tiếc”. Nội dung mệnh đề là một hành động hay một tính chất nào đĩ của người nĩi hay người nghe. Ở đây khơng cĩ sự thích nghi giữa lời nĩi và hiện thực. Chẳng qua sự tình được giả định là thực hữu. 5. Tuyên bố (Declarations) (tuyên bố, buộc tội). Yếu điểm ngơn trung của loại này là hành động ngơn từ, nếu được thực hiện đúng quy cách và nếu người nĩi cĩ đủ tư cách đưa đến sự tương ứng giữa nội dung mệnh đề và hiện thực. Nội dung mệnh đề là một mệnh đề. Đây là những lời ngơn hành. 2.1.3. Anna Wierbicka Anna Wierbicka trong tác phẩm English Speech Act Verbs (1987) dùng ngơn ngữ ngữ nghĩa để giải nghĩa 270 động từ ngơn hành trong tiếng Anh, 270 động từ này được quy về 37 nhĩm sau đây: 1. Nhĩm ra lệnh (Order) 2. Nhĩm cầu xin (Ask 1) 3. Nhĩm hỏi (Ask 2) 4. Nhĩm mời gọi (Call) 5. Nhĩm cấm (Forbid) 6. Nhĩm cho phép (Permit) 7. Nhĩm biện luận (Argue) 8. Nhĩm trách mắng (Reprimand) 9. Nhĩm giễu (Mock) 10. Nhĩm phê phán (Blame) 11. Nhĩm buộc tội (Accuse) 12. Nhĩm cơng kích (Attack) 13. Nhĩm cảnh báo (Warn) 14. Nhĩm khuyến cáo (Advise) 15. Nhĩm cho tặng (Offer) 16. Nhĩm khen ngợi (Praise) 17. Nhĩm hứa hẹn (Promise) 18. Nhĩm cám ơn (Thank) 19. Nhĩm tha thứ (Forgive) 20. Nhĩm than phiền (Complain) 21. Nhĩm cảm thán (Exclaim) 22. Nhĩm đốn định (Guess) 23. Nhĩm gợi ý (Hint) 24. Nhĩm kết luận (Conclude) 25. Nhĩm kể (Tell) 26. Nhĩm thơng tin (Inform) 27. Nhĩm tĩm tắt (Sum up) 28. Nhĩm chấp nhận (Admit) 29. Nhĩm xác tín (Assert) 30. Nhĩm củng cố (Confirm) 31. Nhĩm nhấn mạnh (Stress) 32. Nhĩm tuyên bố (Declare) 33. Nhĩm rửa tội (Baptize) 34. Nhĩm ghi chú (Remark) 35. Nhĩm trả lời (Answer) 36. Nhĩm thảo luận (Discuss) 37. Nhĩm trị chuyện (Talk) 2.2. Các nhà nghiên cứu trong nước Đến nay đã cĩ nhiều nhà Việt ngữ học cĩ những cơng trình nghiên cứu cơng phu về câu ngơn hành như Cao Xuân Hạo, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Đức Dân, Diệp Quang Ban, Nguyễn Văn Hiệp,... Ngồi ra cịn cĩ các luận văn, luận án của các sinh viên, nghiên cứu sinh cũng tập trung nghiên cứu về câu ngơn hành như Nguyễn Văn Lập, Cao Thị Quỳnh Loan, Võ Thị Ngọc Duyên… Đỗ Hữu Châu nghiên cứu rất kĩ lưỡng về phát ngơn ngơn hành. Ơng cơng nhận sự tồn tại của hai loại câu ngơn hành là câu ngơn hành tường minh và câu ngơn hành hàm ẩn theo tư tưởng sau này của J. L. Austin. Đỗ Hữu Châu cho rằng câu ngơn hành tường minh là câu cĩ chứa biểu thức ngữ vi1, trong đĩ cĩ lõi là động từ2 ngữ vi. Theo ơng động từ ngữ vi là những động từ cĩ thể thực hiện chức năng ngữ vi trong phát ngơn. Xét theo khả năng cĩ thể hay khơng cĩ thể được dùng với chức năng ngữ vi trong các biểu thức ngữ vi, ơng chia các động từ nĩi năng tiếng Việt ra làm ba loại: Thứ nhất là động từ miêu tả hành vi ở lời3. Ví dụ: khoe, chế giễu… Thứ hai là động từ ngữ vi chỉ dùng trong chức năng ngữ vi. Ví dụ: phỉ thui, đa tạ… Thứ ba là động từ vừa dùng trong chức năng ngữ vi vừa dùng trong chức năng miêu tả. Ví dụ: hứa, hỏi… Cũng dựa trên cơ sở nghiên cứu lí thuyết hành động ngơn từ của J. L. Austin, Diệp Quang Ban chia vấn đề câu ngơn hành tiếng Việt ra làm hai loại. Đĩ là câu sử dụng hành động nĩi trực tiếp và câu sử dụng hành động nĩi gián tiếp. Câu sử dụng hành động nĩi trực tiếp lại bao gồm hai kiểu câu là câu 1 Tức performative. Cao Xuân Hạo dịch là ngơn hành. 2 Cao Xuân Hạo gọi là vị từ. 3 Tức illocution. Cao Xuân Hạo dịch là hành động ngơn trung. ngơn hành tường minh và câu ngơn hành hàm ẩn. Cịn câu sử dụng hành động nĩi gián tiếp là trường hợp câu cĩ đặc điểm cấu tạo về thức cĩ thể được sử dụng khơng đúng với chức năng (mục đích nĩi) vốn cĩ của nĩ, như dùng câu nghi vấn để nhận định một sự việc nào đĩ, dùng câu trình bày để hỏi…, chẳng hạn như Thứ ấy kiếm ở đâu cho ra được, Sao mà ồn thế… Cao Xuân Hạo cho rằng: “Câu ngơn hành là một loại câu trần thuật tự biểu thị”, nĩ biểu thị chính cái hành động mà động từ làm hạt nhân của câu đĩ gọi tên, “được thực hiện trong khi nĩi nĩ ra và chính bằng cách nĩi nĩ ra”. Kiểu câu này sử dụng một loại động từ chỉ hành động mà J. L. Austin gọi là vị từ ngơn hành. Cao Xuân Hạo khơng thừa nhận dạng phát ngơn ngơn hành hàm ẩn. Ơng phân tích rất kĩ: “Nếu ta thừa nhận sự tồn tại của phát ngơn ngơn hành hàm ẩn thì tất cả các phát ngơn đều cĩ tính ngơn hành”. Vì phát ngơn nào cũng cĩ thể hiểu là được mở đầu bằng Tơi xin nĩi rằng và do đĩ “việc phân biệt ra loại câu ngơn hành trở thành hồn tồn vơ nghĩa lí”. Ơng cũng đưa ra các “điều kiện nhất định khá ngặt nghèo” để một vị từ gọi là vị từ ngơn hành cĩ được tính ngơn hành của nĩ: 1. chủ ngữ là ngơi thứ nhất (chủ ngữ cĩ thể ẩn), 2. vị từ cĩ thể dùng ở thì hiện tại, 3. bổ ngữ tiếp nhận hành động phải là ngơi thứ hai. Các nhà ngơn ngữ học Việt Nam khơng thực hiện việc phân loại các loại hành động ngơn hành. Hoặc cĩ chăng chỉ là phân biệt vị từ ngơn hành cĩ biểu thức ngơn hành (khuyên, cam đoan,…) và vị từ ngơn hành khơng cần cĩ biểu thức ngơn hành (cảm ơn, chào, xin lỗi) mà thơi. Mặc dù về cơ bản các nhà Việt ngữ học cĩ cùng quan điểm khi cơng nhận dạng thức đặc biệt của vị từ ngơn hành và giá trị ngơn trung của nĩ nhưng vấn đề nhận dạng vị từ ngơn hành và vấn đề ngữ nghĩa, ngữ dụng của nĩ thì cĩ những quan điểm khác nhau. Ở đây, luận văn theo quan điểm của Cao Xuân Hạo. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn này sẽ khảo sát và đưa ra những tiêu chí về một vị từ ngôn hành, khảo sát giá trị ngữ nghĩa và ngữ dụng của vị từ ngôn hành và xây dựng một danh sách những vị từ ngôn hành trong tiếng Việt. Vì những lí do thực tiễn, “vị từ” ở đây thực ra bao gồm vị từ và trong một số trường hợp, cả ngữ vị từ nữa. Chẳng hạn, trong các ví dụ sau đây: – Cơ Út về quê, mình gởi lời hỏi thăm hai bác ở quê nhé! – Tao ra điều kiện cho mày là mày sẽ cưới vợ, nếu khơng tao sẽ từ mày, cịn gia tài tao thề là sẽ bán và tiêu xài hết, tao sẽ khơng để lại cho mày một xu nhỏ! (Trích Cơ tiểu thư nơng dân – A. Puskin – Nguyễn Duy Bình dịch) thì gởi lời hỏi thăm, ra điều kiện rõ ràng là biểu thức ngơn hành. Nếu viện cớ đây là ngữ vị từ, chứ khơng phải là vị từ, để gạt ra khỏi đối tượng nghiên cứu, thì sự “chặt chẽ” này chỉ làm nghèo đi kết quả nghiên cứu mà thơi. Luận văn sẽ thống kê các vị từ ngôn hành từ việc tra cứu từ điển tiếng Việt và đưa ra một danh sách các vị từ ngôn hành. Ở đây luận văn sử dụng ba quyển từ điển chính là Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên, Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản chủ biên và Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên. Luận văn có đưa ra một số nghĩa từ vựng của một vài vị từ ngôn hành không thấy ghi nhận trong từ điển tiếng Việt (cả ba quyển từ điển đã dẫn). 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 4.1. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thống kê ngơn ngữ Luận văn thống kê các vị từ ngơn hành trong tiếng Việt, kể cả một số ít vị từ ngày nay khơng cịn thấy xuất hiện trong giao tiếp hằng ngày nữa như: bái biệt, bá cáo… Phương pháp miêu tả Luận văn tập trung phân tích ngữ liệu để rút ra những nhận xét, kết luận đến các vấn đề cĩ liên quan đến câu ngơn hành và vị từ ngơn hành. Phương pháp phân tích Dựa trên nguồn ngữ liệu thu thập được và khảo sát từ thực tế luận văn phân tích các đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ dụng của từng vị từ ngơn hành một để làm rõ được tính chất ngơn hành của nĩ. 4.2. Nguồn ngữ liệu Về nguồn ngữ liệu, luận văn chủ yếu dựa vào ba cuốn từ điển, đĩ là Từ điển tiếng Việt do Hồng Phê chủ biên, Từ điển tiếng Việt do Nguyễn Kim Thản chủ biên, và Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên. Các phát ngơn trong giao tiếp hằng ngày cũng như trong các tác phẩm văn học, tục ngữ, ca dao…được sử dụng làm dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề được khảo sát. 5. Bố cục của luận văn Trên cơ sở xác định mục đích và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu, ngồi phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm hai chương. Chương 1 dành để trình bày về lý thuyết hành động ngơn từ và khái niệm câu ngơn hành. Từ đĩ, luận văn đặt vấn đề nhận diện vị từ ngơn hành, những điều kiện để một phát ngơn trở thành phát ngơn ngơn hành và những vị từ trong phát ngơn đĩ trở thành vị từ ngơn hành và một số vấn đề chung về ngữ nghĩa và ngữ dụng của vị từ ngơn hành. Chương 2 là từ điển vị từ ngơn hành tiếng Việt, gồm 189 mục từ. Đây là phần trọng tâm của luận văn cho nên nĩ cũng chiếm dung lượng lớn nhất. Ở chương này, luận văn tiến hành khảo sát từng vị từ ngơn hành một để tìm hiểu giá trị ngữ nghĩa của chúng thơng qua những ví dụ cụ thể. Phần Kết luận tổng kết nội dung của luận văn, nêu những hạn chế, khĩ khăn mà luận văn chưa đạt được. Cuối cùng là danh mục 40 tài liệu tham khảo. Chương 1: VỊ TỪ NGƠN HÀNH TIẾNG VIỆT – ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG 1.1. Hành động ngơn từ và câu ngơn hành 1.1.1. Hành động ngơn từ Như ở phần đầu đã trình bày, J. L. Austin là người đã phát hiện ra vấn đề câu ngôn hành nhờ vào việc phân biệt các hành động ngôn ngữ. Ông cho rằng khi chúng ta nói năng là chúng ta thực hiện một hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ. Hơn thế nữa ông còn cho rằng khi nói ra một câu, ta không chỉ thể hiện một hành động mà là ba hành động được thể hiện đồng thời: đó là hành động tạo ngôn, hành động ngôn trung và hành động xuyên ngôn. Hành động tạo ngôn là hành động sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ như âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu để tạo ra một phát ngôn. Hành động ngôn trung là những hành động mà người nói thực hiện bằng lời nói. Đó là các hành động như ra lệnh, yêu cầu, xin lỗi, cảm ơn, bác bỏ, hứa hẹn, thông báo… Còn hành động xuyên ngôn là tác động tâm lý mà câu nói mang lại đối với người nghe. Chẳng hạn một lời cảm ơn có thể làm người nghe mát lòng, một lời xin lỗi có thể làm người nghe không còn cảm thấy tức giận, một lời hứa hẹn có thể làm người nghe cảm thấy phấn chấn tinh thần, v.v. Ở luận văn này, với mục đích nghiên cứu và xây dựng một hệ thống vị từ ngôn hành tiếng Việt, chúng tôi chỉ chú ý đến hành động ngôn trung của phát ngôn mà thôi. Xét theo hành động ngôn trung, sự khác nhau của các kiểu câu chỉ phụ thuộc vào một số tiểu từ tình thái. Trong khi đó câu ngôn hành lại là một dạng câu mà về nội dung và hình thức có tính chất nhất quán hơn, bởi khi phát ngôn ra một câu ngôn hành thì người nói đồng thời thực hiện luôn cái hành động được nêu ra bằng chính cái vị từ của phát ngôn ấy. Mặc cho thái độ, trạng thái tâm lí của chủ thể phát ngôn có chân thành hay giả dối, thì cái hành động kia cũng đã thực hiện xong. Chẳng hạn các phát ngôn sau sẽ được gọi là phát ngôn ngôn hành. – Tớ thách cậu giải được bài toán này đấy! – Tôi cảm ơn anh ! – Tôi quyết định hoãn lại ngày lên đường. – Tôi đề nghị mọi người giữ trật tự. – Tôi đảm bảo đây là hàng thật. Bởi vì các phát ngôn này có chứa các vị từ chỉ rõ loại hành động phát ngôn được thực hiện: thách, cảm ơn, quyết định, đề nghị, đảm bảo. Các động từ như vậy được gọi là vị từ ngôn hành. J. L. Austin cho rằng thực ra các phát ngôn tường thuật (nêu ra một nhận định nào đó có giá trị chân ngụy) cũng chỉ là một loại phát ngôn ngôn hành mà thôi. Từ đó, ông phân biệt thành hai loại, đó là phát ngôn ngôn hành tường minh và phát ngôn ngôn hành nguyên cấp hay hàm ẩn. Và theo ông, phát ngôn ngôn hành tường minh là những phát ngôn có chứa từ ngữ dùng để biểu thị hành động được thực hiện ngay khi nói của người nói và ở thì hiện tại. Đây là chủ trương bị E. Benveniste phê phán trên quan điểm của ngôn ngữ học (dẫn theo Cao Xuân Hạo 2004: 125). Nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo cho rằng J. L. Austin có sự lẫn lộn giữa hành động ngôn từ và câu ngôn hành. Bởi khi quan niệm tất cả các loại câu khi được phát ngôn đều là câu ngôn hành, thì tất cả các phát ngôn có thể tưởng tượng được đều có tính ngôn hành, không trừ một phát ngôn nào, vì bất kỳ một phát ngôn nào cũng đều có một phần mở đầu ngôn hành hàm ẩn: Tôi (xin) nói rằng…, và do đó, việc phân biệt ra loại câu ngôn hành với loại câu không ngôn hành trở thành hoàn toàn vô nghĩa lý. Đứng ở góc độ lực ngôn trung, cần phải phân biệt câu ngôn hành với câu khảo nghiệm. Đỗ Hữu Châu (2005) chỉ rõ lực ngôn trung của các phát ngôn khảo nghiệm không hoàn toàn đồng nhất với lực ngôn trung của phát ngôn ngôn hành. Ta xem ví dụ: – Con phải xin lỗi bạn! Có thể khảo nghiệm hoá thành: – Bố ra lệnh cho con phải xin lỗi bạn! Hoặc phát ngôn cảm thán: – Giời ôi là giời! Khổ thân tôi chưa! Có thể khảo nghiệm hoá thành: Tôi cảm thấy tôi đang phải chịu đựng một nỗi đau khổ rất lớn mà tôi không chịu nổi khiến tôi phải kêu lên. Trong trường hợp câu ngôn hành đe dọa thể diện của người nghe, thì dạng phát ngôn ngôn hành tường minh sẽ căng thẳng, nhấn mạnh, đe doạ thể diện của người nghe mạnh hơn. Bởi vì tính chủ quan của người nói thể hiện rõ ràng hơn do hành động ngôn từ được biểu thị trong câu ngôn hành là một hành động trước hết nói về mình, tức về bản thân người nói, yếu tố chủ quan lộ ra một cách hiển ngôn. Ta so sánh hai phát ngôn hỏi của ông bố đối với cậu con trai vừa bị hành xóm mách về tội đánh nhau sau đây: Bố 1: – Ai bảo mày đánh nhau? Con: (im lặng, không trả lời) Bố 2: – Nam, tao hỏi ai bảo mày đánh nhau? Chúng ta thấy rằng cách phát ngôn có vị từ ngôn hành (Bố 2) đã thể hiện sự thay đổi thái độ như thế nào của ông bố so với phát ngôn không có động từ ngôn hành (Bố 1). Ngay cả Austin cũng đã thừa nhận sự thất bại của sự phân biệt ngôn hành hàm ẩn / tường minh. Ông nhận thấy rằng, thứ nhất, có rất nhiều phát ngôn ngôn hành hàm ẩn không thể tường minh hoá bằng phát ngôn ngôn hành tường minh; có nghĩa là cái hành động ngôn từ tạo ra biểu thức nguyên cấp đó không có vị từ ngôn hành biểu thị thì hành động ngôn từ đó không thể dùng trong chức năng ngôn hành. Thứ hai, như trên đã trình bày, việc tường minh hoá một biểu thức ngôn hành hàm ẩn bằng một vị từ ngôn hành có nhiều khả năng làm thay đổi ngữ nghĩa của phát ngôn. 1.1.2. Câu ngơn hành So sánh hai câu: a. Tôi xin lỗi anh. b. Tao đánh mày. Khi phát âm câu b. Tao đánh mày thì chúng ta chưa thực hiện hành động đánh. Đối tượng “mày” sẽ không bao giờ cảm nhận được là “bị đánh” nếu chúng ta chỉ nói bằng miệng, dẫu điệu bộ có hùng hổ đến đâu đi chăng nữa. Trái lại, khi ta nói Tôi xin lỗi anh (câu a) là ta đã làm tròn cái việc được gọi là “xin lỗi anh”. Câu được phát ngôn đồng thời là tín hiệu và là hành động được báo hiệu, nghĩa là phát ngôn với hành động là một [6]. Câu ngôn hành là câu có chức năng thực hiện hành động mà vị từ ngôn hành của nó gọi tên. Nó có một thuộc tính rất đặc biệt: đó là nó là loại câu trần thuật tự biểu thị. Nó biểu thị chính cái hành động được thực hiện trong khi nói nó ra và chính bằng cách nói nó ra. Nội dung của câu ngôn hành không có giá trị chân lý, nghĩa là người ta không thể nói rằng nó đúng sự thật hay sai sự thật, như khi nói về một câu trần thuật bình thường mà chỉ có thể là ổn hay không ổn. Ta xem các trường hợp: – Nó hứa nó đến mà nó có đến đâu! Ở đây, việc “nó hứa” và việc “nó đến” là hai việc hoàn toàn khác nhau, cho nên câu trên là câu chấp nhận được. Nhưng người ta không thể nói: – Nó hứa với tôi là nó đến mà nó đâu có hứa! (?) Tương tự như vậy, người ta có thể nói: – Cô nói rằng cô yêu tôi nhưng thực ra cô không hề yêu tôi. Hay: – Anh ta nói rằng anh ta rất hiểu tôi nhưng thật ra anh ta chẳng hiểu tôi một chút nào! Nhưng không thể nói: – Lúc gặp tôi nó nói chào tôi nhưng thực ra nó không hề chào tôi. (?) – Nó nói với tôi “cháu cảm ơn ông” nhưng thật ra nó chưa cảm ơn. (?) Vì hành động hiểu và yêu là những hành động không phải chỉ được thực hiện bằng lời nói là được. Chúng là những hành động trạng thái diễn ra bên trong chủ thể. Trong khi đó, chào, cảm ơn là những hành động ngoại động, cụ thể là phải được thực hiện bằng ngôn ngữ. Từ những đặc điểm đã nêu trên, có thể quy thành những điều kiện của câu ngôn hành, những điều kiện đó như sau: (1) Thứ nhất, câu có biểu thức ngôn hành, nghĩa là câu có chứa vị từ gọi tên hành động nói đang được thực hiện (vị từ ngôn hành). So sánh hai câu: – Thầy khen em. – Thầy thưởng em. ta thấy câu thứ nhất là ngôn hành, mà câu thứ hai thì không. (2) Thứ hai, câu ngôn hành phải được dùng ở ngôi nhân xưng thứ nhất. Nếu đó là ngôi thứ hai hay ngôi thứ ba thì câu ấy lập tức trở thành câu trần thuật. Chẳng hạn những câu sau đây không phải là những câu ngôn hành mà chỉ là những câu tường thuật mặc dù có chứa vị từ ngôn hành. – Có người đề nghị giải lao kìa! – Mày tuyên bố thế! (3) Thứ ba, câu ngôn hành phải được dùng ở thì hiện tại, không có dấu hiệu chỉ quan hệ thời gian như: đã, sẽ, đang, vừa, mới… Vì chỉ như thế thì câu nói mới có thể đồng thời là cái hành động được nó biểu hiện, nếu vị từ ấy được dùng trong một mệnh đề phụ (trạng ngữ hoặc bổ ngữ) hoặc ở một thì không phải thì hiện tại thì câu nói không thể có tính ngôn hành được nữa. Đó là lý do những câu sau đây không phải là câu ngôn hành: – Hôm qua tôi có hứa với nó là sẽ đến. – Mai tôi sẽ tuyên án. Những điều kiện trên là phải đặt trong quy định mà Austin và Searle đã định ra sau đây [35]. Những điều kiện chung đó là: – Điều kiện chung: đối với những người tham gia giao tiếp là họ phải hiểu ngôn ngữ sử dụng, họ không đóng kịch hoặc nói chơi. – Điều kiện nội dung chung quy định những điều kiện cần thiết, cụ thể cho việc thực hiện hành động ngôn từ. Đối với hành động hứa và hành động cảnh báo thì nội dung của phát ngôn phải nói về một sự kiện tương lai, hành động hứa đòi hỏi sự kiện tương lai ấy sẽ là hành động của người hứa. – Điều kiện ban đầu quy định những gì liên quan đến sự cần thiết để hành động ngôn từ được thực hiện. Hành động mệnh lệnh thì người nói phải ở vị thế cao hơn, có đủ quyền để buộc người nghe thực hiện việc trong mệnh lệnh. – Điều kiện chân thực là điều kiện quy định người nói phải chân thành trong nội dung phát ngôn: ra lệnh thì phải thực sự tin mình có quyền ra lệnh và người nghe phải chấp hành. Đối với cảnh báo thì người nói phải thực sự tin rằng sự kiện tương lai không mang lại hiệu quả tốt. – Điều kiện thiết yếu quy định trách nhiệm và sự ràng buộc của người nói. Khi hứa, người hứa đã gắn trách nhiệm thực hiện lời hứa vào mình. Khi ra lệnh, trách nhiệm và sự ràng buộc lại gắn vào người nghe. 1.2. Vị từ ngơn hành Vị từ ngôn hành là vị từ làm hạt nhân của câu ngôn hành. Ví dụ: – Từ rày trở đi, tao thề là sẽ không bao giờ thò tay mặt đặt tay trái vào bất cứ thứ gì của mày nữa, gớm, tưởng báu lắm đấy! Cả phát ngôn trên là một câu ngôn hành, trong đó có biểu thức ngôn hành là tao thề… Và thề là vị từ ngôn hành làm trung tâm của biểu thức ngôn hành đó. Thật ra, không có khái niệm “vị từ ngôn hành” nếu xét theo phương diện từ loại. Bởi vì tính chất ngôn hành chỉ tồn tại trong những ngữ huống phát ngôn mà chúng ta gọi là câu ngôn hành mà thôi. Trong câu khơng phải là câu ngơn hành, “vị từ ngôn hành” chỉ là một vị từ bình thường. Ngồi đặc điểm biểu đạt hành động được thực hiện khi làm hạt nhân của câu ngơn hành, vị từ ngôn hành vẫn chỉ là một vị từ bình thường: cĩ thể tham gia làm vị ngữ của bất kỳ dạng câu nào, trần thuật, nghi vấn, mệnh lệnh, cảm thán… và thậm chí, nếu được chuyển loại từ loại thành danh từ, nĩ cịn cĩ thể làm chủ từ trong câu. Cĩ lẽ vì điều này mà Cao Xuân Hạo cho rằng nĩi đến câu ngơn hành thì tốt hơn là nĩi đến vị từ ngơn hành [6, tr. 421]. Nhưng không phải vị từ nào cũng có thể làm hạt nhân cho câu ngôn hành: đó phải là những vị từ biểu thị những hành động chỉ có thể thực hiện bằng lời nói. Như vậy, đứng ở cấp độ từ, cái gọi là vị từ ngôn hành thực ra chỉ là từ có khả năng làm hạt nhân cho câu ngôn hành, chứ không phải hễ tồn tại vị từ đó trong câu, thì lập tức câu ấy trở nên ngôn hành. Chính vì điều này mà Cao Xuân Hạo cho rằng khơng thể cĩ những vị từ thường xuyên mang tính ngơn hành mà chỉ cĩ những phát ngơn cĩ được tính ngơn hành trong những điều kiện nhất định nhờ nĩ phát huy được một khả năng đặc biệt của một số vị từ mà ta gọi là vị từ ngơn hành mà thơi [6, tr. 420]. 1.3. Ngữ nghĩa – ngữ dụng của vị từ ngơn hành tiếng Việt Vị từ ngôn hành là nhóm vị từ nằm trong lớp động từ nói năng. Nó có đầy đủ tính chất của một động từ nói năng, nhưng đồng thời nó lại có thêm những khả năng đặc biệt mà một động từ nói năng đơn thuần không thể có, đó chính là khả năng tự biểu thị hành động. Một vị từ ngôn hành không phải nêu lên một hành động mà chính nó đã là hành động rồi. Theo Đỗ Hữu Châu (2005: 453), động từ nĩi năng là những động từ biểu thị, gọi tên các hành động ngơn từ (mà ơng gọi là hành vi ngơn ngữ). Trong tiếng Việt, động từ nĩi năng bao gồm: – Động từ chỉ cách thức nĩi năng, như: làu bàu, ngắc ngứ, rủ rỉ, toang toang… – Động từ chỉ các hành động ở lời như: chất vấn, nĩi kháy, vặn, đe, chửi, tâng bốc, hỏi xỏ… – Động từ ngơn hành: hứa, xin, cảm ơn… Theo quan điểm của Cao Xuân Hạo, vị từ ngôn hành tiếng Việt có thể được chia ra làm hai nhóm lớn. Nhóm thứ nhất bao gồm các vị từ ngôn hành cần có một bổ ngữ chỉ nội dung mới làm thành một phát ngôn ngôn hành được, như: nói, khuyên, cam đoan… Ví dụ: – Tôi nói chị tính sao cứ tính mà. (Nguyễn Thi – Những đứa con trong gia đình) Hay: – Tôi cam đoan với ông những gì tôi nói là đúng sự thực. Nhóm thứ hai bao gồm các vị từ ngôn hành như: chào, kiếu, cảm ơn…, là những vị từ ngôn hành không cần có một bổ ngữ chỉ nội dung đi kèm cũng có thể trở thành một phát ngôn ngôn hành được. Tuy nhiên vấn đề trên còn tùy thuộc vào ngữ cảnh giao tiếp. Vì trong ngữ cảnh giao tiếp, hội thoại là một chuỗi tung, hứng của người nĩi và người nghe về rất nhiều vấn đề, về quan điểm của cả hai khi tham gia hội thoại. Ở đĩ bao gồm cả sự chấp nhận ngầm giữa người nĩi và người nghe về tất cả các quy ước, các tiền đề được coi là đương nhiên giữa hai người. Vì thế cho nên việc khẳng định một vị từ cần cĩ bổ ngữ chỉ nội dung đi kèm hay khơng cịn cần phải dựa vào ngữ huống phát ngơn của câu ngơn hành ấy nữa. Chẳng hạn, như trên đã nĩi, cam đoan là một vị từ ngơn hành cần phải kèm theo một bổ ngữ chỉ nội dung mới trở thành một phát ngơn ngơn hành được, nhưng trong ngữ cảnh sau: A: Chị cĩ cam đoan với tơi rằng những gì chị kể là đúng sự thực khơng? B: Tơi xin cam đoan. Ta thấy phát ngơn của A khơng phải là câu ngơn hành mà phát ngơn của B mới là câu ngơn hành. Và ở câu ngơn hành này, vị từ ngơn hành cam đoan khơng cần cĩ bổ ngữ chỉ nội dung đi kèm, nĩ đã bị tỉnh lược. Đặc điểm tỉnh lược bổ ngữ chỉ nội dung trong câu ngơn hành chúng ta cĩ thể bắt gặp ở rất nhiều trường hợp các vị từ ngơn hành như: hứa, đánh cuộc, bảo đảm, thề… Ví dụ: Nàng: Anh sẽ khơng bao giờ phản bội em chứ? Anh thề đi! Chàng: Anh xin thề! Hoặc: C: Cậu thế nào chiều nay cũng phải đến chỗ mình đấy nhé! D: Ừ, tớ hứa! Cũng như vậy, với trường hợp các vị từ ngơn hành như: cám ơn, xin lỗi, chào, kiếu, từ,… là những vị từ khơng cần cĩ nội dung đi kèm. Trong đĩ chỉ cĩ chào, kiếu, từ là luơn luơn khơng cần đến bổ ngữ chỉ nội dung đi kèm khi thực hiện câu ngơn hành mà thơi, chẳng hạn: – Xin chào! Hay: – Em chào chị! – Từ nay, tao từ mày! – Thơi trễ rồi, tơi xin kiếu! Cịn với những vị từ ngơn hành như cám ơn, xin lỗi tuy chúng cĩ thể thực hiện câu ngơn hành mà khơng cần cĩ bổ ngữ chỉ nội dung như Tơi xin lỗi anh hoặc Mình cảm ơn cậu nhé nhưng đây chỉ là một sự tỉnh lược: giữa người nĩi và người nghe cĩ một sự quy ước ngầm, chấp nhận ngầm vì cả người nĩi và người nghe đều biết được vì sao người kia xin lỗi (hoặc cám ơn) mình. Hồn tồn cĩ thể bắt gặp những phát ngơn khơng tỉnh lược, như ở các ví dụ sau sẽ chứng minh điều này: – Tơi xin lỗi anh vì đã vơ ý làm mất quyển sách mà anh cho mượn rồi. – Cảm ơn cậu về mĩn quà cậu tặng mình hơm sinh nhật nhé! Như vậy, sẽ là thiếu sĩt và vội vàng nếu ta cho rằng cảm ơn, xin lỗi là những vị từ ngơn hành khơng cần đến bổ ngữ chỉ nội dung. Thêm nữa là, cĩ những vị từ mà xét theo ngữ dụng học, phạm vi ứng dụng để làm thành một vị từ ngơn hành của nĩ thấp hơn rất nhiều so với phạm vi ứng dụng để làm một động từ nĩi năng. Đĩ là những vị từ như: nĩi, hỏi… Trong một tình hưống sau đây: Thầy (1): Tại sao em khơng làm bài tập về nhà? Trị: (im lặng) Thầy (2): Tơi hỏi/nĩi tại sao em khơng làm bài tập ở nhà. Rõ ràng ở phát ngơn (2), tính chủ quan của chủ thể phát ngơn mạnh hơn, đe dọa đến thể diện của người nghe nhiều hơn. Điều đĩ giải thích tại sao ít khi các vị từ này được dùng làm vị từ trong câu ngơn hành. Vì lí do văn hĩa, tập quán cư xử tế nhị của người Việt mà cĩ những vị từ rõ ràng là cĩ đầy đủ tính chất của một vị từ ngơn hành nhưng hầu như khơng bao giờ thấy xuất hiện trong câu ngơn hành như: thách cưới, phái,… mà người ta chỉ sử dụng chúng trong những câu tường thuật bình thường mà thơi. Chẳng hạn, khơng ai nĩi: Gia đình chúng tơi xin thách cưới là mười triệu đồng vì thách cưới liên quan đến vấn đề vật chất vốn ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách, thể diện của người nĩi. Để “thách cuới”, người ta dùng những câu với từ ngữ tế nhị hơn, như xin chẳng hạn… Ngồi ra, cịn cĩ những vị từ luơn luơn được dùng trong câu phủ định như từ nan chẳng hạn. Từ nan được từ điển tiếng Việt giải nghĩa là: từ chối, thối thác việc khĩ khăn. Rõ ràng, nếu được sử dụng nĩ cĩ thể làm một vị từ ngơn hành. Bởi vì từ chối là một vị từ ngơn hành; khi từ chối lời mời hay sự gợi ý giúp đỡ của ai đĩ, ta cĩ thể nĩi: xin từ chối. Nhưng xét về mặt ngữ dụng khơng ai nĩi: Tơi từ nan hoặc Tơi xin từ nan, mà người ta chỉ nĩi Dù khĩ đến mấy, tơi xin khơng từ nan hoặc Xin khơng từ nan dù việc ấy cĩ khĩ đến đâu. Như vậy từ nan với tư cách là vị từ ngơn hành chỉ được dùng với nghĩa phủ định. Cần lưu ý rằng câu ngơn hành được thực hiện bằng hai cách, nĩi và viết. Khi viết Quyết định, Chỉ thị, Đơn xin phép nghỉ… thì điều đĩ tương đương như một phát ngơn ngơn hành: người viết thực hiện hành động quyết định, chỉ thị, xin nghỉ phép, v.v. Như vậy, khi xem xét đánh giá một vị từ ngơn hành, lý thuyết hành động ngơn từ khơng chỉ nghiên cứu về mặt ngữ nghĩa, mà cịn phải nghiên cứu về mặt ngữ dụng học nữa. Chương 2: TỪ ĐIỂN VỊ TỪ NGƠN HÀNH TIẾNG VIỆT  A-lơ: tiếng gọi dùng trong điện thoại hoặc khi gọi loa để gây sự chú ý. Thật ra đây là một cảm từ nhưng nĩ cĩ giá trị của một vị từ ngơn hành do ngữ dụng của nĩ. Khi nghe tiếng chuơng điện thoại, chúng ta nhấc máy lên và trả lời A-lơ. Từ a-lơ trong trường hợp này vừa là hành động hỏi (“Ai gọi đấy”, “Gọi cĩ việc gì?”) vừa cĩ giá trị là một hành động trả lời (“Cĩ tơi đây”, “Tơi nghe thấy rồi”). Đây là sự phối hợp nhiều hành động trong cùng một phát ngơn tức là nĩ cĩ nhiều lực ngơn trung. Cùng với sự bùng nổ cơng nghệ thơng tin giao tiếp, thì từ a-lơ đã được chuyển nghĩa: nĩ đã trở thành một hành động chứ khơng cịn là một cảm thán từ nữa. Ví dụ người ta cĩ thể nĩi: “Tơi gọi điện thoại đến nhà nĩ hai lần mà chẳng thấy ai a-lơ cả”. Như vậy khi nghe chuơng điện thoại reo, chúng ta mở máy và “A-lơ” thì cĩ nghĩa là chúng ta đã làm cái việc a-lơ.  Ấn định: định ra một cách chính thức để mọi người theo đĩ mà thực hiện. Trong ngữ cảnh thích hợp thì ấn định chính là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: Một ơng giám đốc nĩi với nhân viên: – Tơi ấn định cho các anh đến thứ hai tuần tới phải nộp báo cáo cho tơi. Trong ví dụ trên, ơng giám đốc đang làm cái việc gọi là ấn định thời gian nộp báo cáo mà các nhân viên của ơng phải thực hiện.  Bá cáo: truyền rộng ra cho ai nấy đều biết. Bá cáo là một từ cổ, được dùng với sắc thái biểu cảm trang trọng, ngày nay nĩ ít được dùng. Chúng ta thường bắt gặp nĩ trong văn thơ cổ. Ví dụ: Xa gần bá cáo, ai nấy đều hay! (Nguyễn Trãi – Bình Ngơ Đại Cáo, bản dịch) Đây là một vị từ ngơn hành cĩ thể vừa được sử dụng trong văn nĩi vừa được sử dụng trong văn viết. Trong ví dụ được trích dẫn ở trên thì bá cáo được dùng trong văn viết. Nhưng nếu ta đặt trường hợp bài Cáo của Nguyễn Trãi được phát loa cho nhân dân khắp vùng nghe thấy, và chủ thể phát ngơn của câu ngơn hành đĩ là vua Lê (vì Nguyễn Trãi nhân danh Lê Lợi mà viết bài Cáo này) và vua Lê đang làm cái việc bá cáo nghĩa là truyền báo khắp trong nhân dân về chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc chiến chống quân Minh xâm lược, thì lúc đĩ bá cáo là hành động được thực hiện bằng cách phát ngơn, chính vì thế nĩ là vị từ ngơn hành.  Bác: Đây là một vị từ ngơn hành được từ điển tiếng Việt giải nghĩa gồm hai nghĩa như sau: Nghĩa thứ nhất: Gạt bỏ bằng lý lẽ, quan điểm, ý kiến của người khác. Ta xem ví dụ: – Chúng tơi bác cái luận điệu vu cáo đĩ! Ở ví dụ trên ngơi thứ nhất là số nhiều (cĩ thể do một cá nhân đại diện phát ngơn) đang thực hiện việc bác một phát ngơn nào đĩ mà anh ta (hoặc chị ta) cho là luận điệu vu cáo. Nghĩa thứ hai: Khơng chấp nhận. Ví dụ: Bác đơn. Đây là một hành động mà khi được người cĩ thẩm quyền phát ngơn ra trong ngữ cảnh cụ thể, thì phát ngơn đĩ đồng thời cũng là hành động “bác đơn”. Ví dụ: Một nhân viên viết đơn xin nghỉ gửi cho cấp trên của mình. Vị này sau khi xem phán: – Tơi bác đơn này của anh vì lý do anh đưa ra để xin nghỉ khơng chính đáng.  Bác bỏ: Bác đi, gạt đi khơng chấp nhận. Bác bỏ cĩ nghĩa như vị từ ngơn hành bác ở trên, thậm chí rõ nghĩa hơn được dùng để gạt đi, phản bác đi một ý kiến hay một vấn đề nào đĩ mà người nĩi (chủ thể phát ngơn) khơng đồng tình, khơng chấp nhận. Ví dụ: – Chúng tơi bác bỏ lời lẽ bịa đặt vu khống đĩ! – Tơi bác bỏ ý kiến mang tính chất xuyên tạc vừa rồi của anh. – Chúng tơi bác bỏ dự án đĩ vì nĩ khơng cĩ tính khả thi.  Bài báng: chế giễu nhằm gạt bỏ. Đây là một từ ít được dùng nhưng nếu được phát ngơn (hoặc viết) thì nĩ cĩ đầy đủ tính chất là một vị từ ngơn hành. Ta xem ví dụ: – Chúng tơi bài báng những bài viết mang tính chất lá cải mà tờ báo của các ơng đã cho đăng tuần rồi. Như trên đã nĩi, từ bài báng vốn ít được dùng trong phát ngơn, và nĩ cĩ vẻ hợp hơn trong một câu trần thuật nhưng nếu được dùng trong điều kiện câu ngơn hành mà ta đã biết, nĩ sẽ trở thành một vị từ ngơn hành.  Bãi: Bỏ, thơi khơng dùng hoặc khơng thi hành nữa; kết thúc, hết một buổi làm việc gì. Ví dụ: Lời ơng vua để kết thúc một buổi làm việc với các quan, phán: – (Truyền) Bãi chầu!  Bãi binh: thơi khơng xuất quân đi đánh. Nĩ sẽ trở thành vị từ ngơn hành nếu nĩ được phát ngơn như ở vị trí sau: Một vị chủ tướng nĩi to với các quân lính của mình: – Truyền bãi binh! Hoặc một văn bản cĩ tên là Lệnh bãi binh thì bãi binh là vị từ ngơn hành.  Bãi bỏ: tuyên bố khơng cịn hiệu lực hoặc giá trị về mặt pháp lý. Bãi bỏ được sử dụng ở dạng văn bản viết nhiều hơn là ở phát ngơn. Bởi vì hành động bãi bỏ cĩ những tác động quan phương trong ngữ cảnh của thể chế trong đĩ nĩ được thực hiện. Khác với các hành động ngơn trung khác, hành động bãi bỏ cĩ đặc tính tiêu biểu là được thực hiện theo cách tuyên bố rộng rãi trong một nhĩm xã hội và hiệu quả của nĩ là do việc chủ thể phát ngơn cĩ được thể chế đĩ cĩ cho phép thực hiện hay khơng. Các ví dụ: Bãi bỏ một đạo luật Bãi bỏ những quy định cũ  Bãi chầu: (Xin xem bãi triều)  Bãi miễn: cách chức một đại biểu dân cử nào đĩ trước khi hết nhiệm kỳ, theo quyết định của đa số cử tri hoặc của cơ quan dân cử. Như vậy, ta thấy ngơi thứ nhất phát ngơn câu ngơn hành cĩ vị từ ngơn hành bãi miễn là một nhĩm người là số đơng, cho nên bãi miễn là vị từ ngơn hành thường được thực hiện ở dạng văn bản viết (cĩ thể cĩ những vị từ ngơn hành được phát ngơn bởi một nhĩm đơng người như: đả đảo, hoan hơ, lêu lêu…). Ví dụ: – Đa số cử tri chúng tơi bãi miễn đại biểu Nguyễn Văn A vì ơng A là đại biểu khơng xứng đáng.  Bãi nhiệm: chấm dứt nhiệm kỳ của một nhân vật được bầu khi người ấy cịn đang tại nhiệm. Đây là vị từ ngơn hành cĩ tính chất quan phương trong ngữ cảnh của thể chế nĩ được thực hiện. Người thực hiện hành động bãi nhiệm cĩ thể là số đơng hoặc là người cĩ được một nhĩm xã hội hoặc một thể chế nào đĩ. Bãi nhiệm được thực hiện bằng văn bản viết thì phổ biến hơn. Ví dụ: – Quốc hội bãi nhiệm tổng thống vì tổng thống phạm tội vi hiến.  Bãi triều: cho kết thức buổi chầu trong triều đình (cũng như bãi chầu). Đây là vị từ ngơn hành thường được nhà vua sử dụng. Ví dụ: Lời nhà vua: – Truyền bãi triều.  Bái biệt: chào tạm biệt một cách cung kính. Đây là một từ cổ cĩ sắc thái biểu cảm trang trọng, ngày nay ít được sử dụng. Ví dụ: – Đã đến giờ thượng lộ, Châu Tuấn tơi xin bái biệt! (Cải lương Thoại Khanh – Châu Tuấn)  Bái lĩnh: nhận lấy một cách cung kính, thành khẩn. Đây cũng là một vị từ ngơn hành mang phong cách cũ, cĩ sắc thái biểu cảm trang trọng. Cũng cần nĩi thêm rằng ở vị từ bái lĩnh với nghĩa nhận lấy một cái gì đĩ hữu hình thì tuyệt nhiên nĩ khơng phải là vị từ ngơn hành. Vì khi phát ngơn nĩ ra mà khơng nhận vật đĩ thì chưa phải là “lĩnh”. Mà kể cả khi đã nhận thì “lĩnh” cũng khơng phải là vị từ ngơn hành vì đĩ là phát ngơn đi đơi với hành động chứ khơng phải phát ngơn với hành động là một. Nhưng trong ngữ cảnh một người đưa ra một lời giáo huấn dạy bảo hay một lời khuyên răn mà người kia chắp tay nĩi Xin bái lĩnh (khơng phải là giễu cợt, bơng đùa) với một thái độ thành kính thì bái lĩnh là vị từ ngơn hành. Ví dụ: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. (Nguyễn Tuân – Chữ người tử tù)  Bái tạ: cám ơn một cách cung kính, lạy tạ. Đây cũng là một vị từ ngơn hành mang phong cách cũ, cũng cĩ sắc thái biểu cảm trang trọng. Tuy nhiên ở đây cần chú ý là từ bái và lạy cĩ nghĩa gần giống nhau (cùng là động từ ngoại động thể hiện một hành động là chắp tay và xá). Nhưng lạy là phải thực hiện động tác cịn bái thì cĩ thể vừa được thực hiện bằng động tác vừa được thực hiện bằng cách nĩi nĩ ra. Và đây chính là lý do để nĩ trở thành vị từ ngơn hành. Ở đây vị từ ngơn hành bái tạ thể hiện hành động cảm ơn bằng lời nĩi. Thêm nữa là từ bái kết hợp được với nhiều từ khác cho ra từ mới với nghĩa ngơn hành như: bái biệt, bái yết, bái kiến, bái tạ… Ví dụ: Để đáp lại lời khen ngợi của nhà vua dành cho mình, một viên quan trả lời: – Hạ thần xin bái tạ!  Bái yết: yết kiến, trình diện người trên một cách cung kính. Bái yết chỉ trở thành vị từ ngơn hành trong trường hợp mà người phát ngơn câu ngơn hành cĩ biểu thức ngơn hành bái yết đứng trước một người được xem là người trên thì lúc đĩ, bái yết mới cĩ tác dụng “ngơn hành”. Ví dụ: – Muơn tâu bệ hạ, hạ thần xin bái yết. Những câu như: Xin vào bái yết vua; Cho phép tơi được vào bái yết ngài bộ trưởng… đều là những câu trần thuật thuần túy, khơng phải câu ngơn hành.  Ban: Đây là một từ cĩ rất nhiều nghĩa khác nhau, trong đĩ cái nghĩa “truyền cho mọi người biết” làm cho ban cĩ khả năng trở thành vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Chính phủ lâm thời chúng tơi ban lệnh giới nghiêm trong nhân dân. Hay: Lời nhà vua: – Ta ban lệnh cho các ngươi biết: kẻ nào phản quốc, hai lịng sẽ bị nghiêm trị.  Ban bố: ban hành và cơng bố để mọi người biết. Ban hành và cơng bố là hai vị từ ngơn hành thường được sử dụng ở dạng văn bản (viết) nhưng ban bố (nĩi chung là ban hành và cơng bố) thì thường được thực hiện bằng phát ngơn. Ví dụ: – Chính phủ lâm thời chúng tơi xin ban bố một số đạo luật như sau.  Bảo: Đây là một vị từ nĩi năng mà theo chúng tơi cĩ khả dĩ trở thành một vị từ ngơn hành trong những điều kiện thích hợp. Từ điển tiếng Việt giải nghĩa là: Nghĩa thứ nhất: Nĩi ra điều gì đĩ với người ngang hàng hay người dưới. Ví dụ: – Tao bảo mày câm miệng! – Trâu ơi ta bảo trâu này! Trâu ra ngồi ruộng trâu cày với ta. (Ca dao) Nghĩa thứ hai: Nĩi cho biết để phải theo đĩ mà làm. Ví dụ: – Tơi bảo anh này, ngâm giống thì phải ba sơi hai lạnh.  Bảo đảm: Cĩ hai nghĩa khả dĩ khiến bảo đảm cĩ khả năng làm vị từ ngơn hành. Nghĩa thứ nhất: Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc cĩ đầy đủ những gì cần thiết. Ví dụ 1: – Tơi bảo đảm sẽ hồn thành kế hoạch đúng thời gian quy định. Ví dụ 2: Một gia đình xin nhận một em bé về nuơi và nĩi với nhà chức trách: – Chúng tơi bảo đảm là sẽ nuơi dạy cháu nên người. Nghĩa thứ hai: Nĩi chắc chắn và chịu trách nhiệm về lời nĩi của mình. Ví dụ: – Tơi bảo đảm là cĩ thật như vậy. – Tơi xin bảo đảm giữ bí mật.  Bảo hành: bảo đảm máy mĩc bán ra hoặc đã chữa chạy tốt trong một thời hạn nhất định. Ví dụ: Chủ một cửa hàng bán đồ điện máy nĩi với ơng khách vừa mua chiếc ti vi cửa cửa hàng: – Cửa hàng chúng tơi xin bảo hành chiếc ti vi này cho quý khách hai năm.  Bảo lãnh: Bảo đảm là người khác thực hiện một nghĩa vụ và đứng ra chịu trách nhiệm một khi người đĩ khơng thực hiện. Ví dụ: – Tơi xin đứng ra bảo lãnh cho cơ A để cơ ấy vay số tiền này.  Bảo lĩnh: (cũng như bảo lãnh)  Báo: Cĩ hai nghĩa làm cho báo cĩ khả năng trở thành vị từ ngơn hành.. Nghĩa thứ nhất: cho biết việc gì đĩ đã, đang hay sẽ xảy ra. Ví dụ: Một bà mẹ đe anh con trai vốn sợ bố: – Tao báo cho mày biết trước là tối nay ơng ấy [ơng bố] sẽ về đến nhà đấy! Nghĩa thứ hai: cho người cĩ trách nhiệm nào đĩ biết về việc xảy ra cĩ thể hại đến trật tự an ninh. Ví dụ: Một người gọi điện đến trụ sở cơng an và nĩi: – Tơi xin báo cho các anh biết là tối qua nhà tơi bị kẻ gian cạy cửa lấy đi hai xe máy. Ở dạng văn bản viết, thì tính chất ngơn hành của từ báo bắt gặp trong các trường hợp như: Giấy báo tin, Giấy báo tiền điện,…  Báo cáo: – Nghĩa thứ nhất: trình bày cho biết tình hình, sự việc. Ví dụ: Một người đứng giữa hội nghị và nĩi rằng: – Tơi xin báo cáo tình hình cơng tác tháng qua như sau:.. Và cứ thế anh ta báo cáo về tình hình cơng tác của tổ chức đĩ ở tháng vừa qua. Trong trường hợp này thì rõ ràng anh ta đang làm cái việc báo cáo cho nên báo cáo là vị từ ngơn hành cĩ bổ ngữ chỉ nội dung (phần phát ngơn sau từ báo cáo). Nhưng nếu như cái bổ ngữ chỉ nội dung mà anh ta báo cáo lại chẳng liên quan gì đến tính chất báo cáo cả, chẳng hạn như xin báo cáo nhưng anh ta lại con cà con kê, kết luận, đánh giá gì đĩ mà khơng phải là thơng tin cần báo cáo, thì trong trường hợp này báo cáo khơng phải là vị từ ngơn hành vì hồn tồn cĩ thể nĩi: Nĩ nĩi nĩ báo cáo, mà cĩ nghe nĩ báo cáo gì đâu! – Nghĩa thứ hai: từ dùng để mở đầu khi nĩi với cấp trên (thường gặp trong quân đội). Ví dụ: – Báo cáo đại đội trưởng: tơi, trung úy Truơng Văn Dũng đã cĩ mặt. Ở ví dụ trên, trung úy Truơng Văn Dũng đang làm cái việc báo cáo bằng cách nĩi ra câu cĩ chứa vị từ đĩ, cho nên báo cáo là vị từ ngơn hành. Báo cáo cịn là vị từ ngơn hành thường gặp ở văn bản viết. Ví dụ: – Bản báo cáo. – Báo cáo của chính phủ trước Quốc hội. – Báo cáo khoa học.  Bắt: Đây là một vị từ cĩ rất nhiều nghĩa được từ điển giải nghĩa như: 1. Nắm lấy, giữ lấy, khơng để cho tự do hoạt động. Ví dụ: Bị bắt sống. Mèo bắt chuột… 2. Tiếp, nhận vật từ nơi khác đến và thu lấy vào trong phạm vi tác động hoặc sử dụng của mình. Ví dụ: Bắt được quả bĩng. Bắt được thư nhà. 3. Bám chặt hoặc để cho bám chặt lấy, cái này tác động trực tiếp vào cái kia. Ví dụ: Da bắt nắng, xăng bắt lửa. 4. Phát hiện sự việc đáng chê trách của người khác và làm cho phải chịu trách nhiệm. Ví dụ: Bắt quả tang kẻ trộm. Bắt lỗi chính tả. 5. Khiến phải làm việc gì, khơng cho phép làm khác đi. Ví dụ: Chĩa súng bắt giơ tay hàng. Điều đĩ bắt anh phải suy nghĩ. 6. Làm cho gắn, cho khớp với nhau, khiến cái này giữ chặt cái kia lại. Ví dụ: Bắt đinh ốc. 7. Nối thêm vào một hệ thống đã cĩ sẵn. Ví dụ: Bắt điện vào nhà. Con đường bắt vào quốc lộ. Cả 7 nghĩa trên đây, khơng cĩ nghĩa nào cĩ thể là ngơn hành. Tuy nhiên, bắt cịn cĩ một nghĩa nữa mà khơng thấy giải nghĩa trong từ điển, đĩ là nghĩa chọn lựa. Đây là nghĩa cĩ tính chất ngơn hành. Hai người bạn đang xem trận đấu bĩng đá và cược một chầu cà phê xem đội nào thắng. Một người nĩi: – Tơi bắt đội Đức. Người kia: – Vậy thì tơi bắt đội Ý. Trong mẫu đối thoại trên thì từ bắt được dùng để thực hiện việc bắt đội nào. Như vậy nĩ là một vị từ ngơn hành.  Bắt buộc: buộc phải làm. So sánh hai câu sau: – Tơi bắt buộc phải ở lại. – Tơi bắt buộc em phải xin lỗi bạn! Rõ ràng câu thứ hai là ngơn hành, cịn câu thứ nhất thì khơng. Lý do là trong câu thứ nhất, bắt buộc chỉ một tình trạng, cịn ở câu thứ hai nĩ mới là một hành động hướng đến đối tượng là “em”.  Bắt đầu: Bước vào giai đoạn đầu của một cơng việc, một quá trình, một trạng thái. Với nghĩa này thì bắt đầu chưa phải là một vị từ ngơn hành. Nhưng với nghĩa khơi mào, là khai mạc, vị từ này khi được phát ngơn trong điều kiện ngơn hành, sẽ trở thành vị từ ngơn hành. So sánh: – Đứa trẻ bắt đầu tập nĩi / Lúa bắt đầu chín. với (Lời người chủ trì cuộc họp) – Cuộc họp xin bắt đầu!/ Chúng ta bắt đầu cuộc họp, ta thấy trường hợp thứ nhất là hai câu tường thuật bình thường; trong khi trường hợp thứ hai câu ngơn hành vì người chủ trì đang làm cái việc bắt đầu cuộc họp bằng cách nĩi câu cĩ chứa nĩ ra. Như vậy, bắt đầu là một vị từ ngơn hành.  Bắt đền: Bắt phải đền, phải bồi thường thiệt hại. Bắt đền cĩ khả năng trở thành một vị từ ngơn hành nếu nĩ được dùng trong điều kiện ngơn hành. Ví dụ: Một cậu bé bị mẹ làm vỡ quả bĩng bay: – Khơng biết đâu! Con bắt đền mẹ đấy! Trong phát ngơn trên thì bắt đền là một vị từ ngơn hành. Nhưng nếu bà mẹ dỗ con: – Được rồi, mẹ đền cho! Mặc dù bà mẹ nĩi ra câu cĩ từ đền thì đền khơng phải là một vị từ ngơn hành. Bởi đền phải gắn với việc bà mẹ phải mua cho con quả bĩng khác, chứ khơng phải là hành động được thực hiện bằng lời nĩi nên nĩ khơng phải là vị từ ngơn hành. Như vậy, bắt đền là vị từ ngơn hành cịn đền khơng phải là vị từ ngơn hành.  Bẩm: thưa, trình (thường dùng với người cĩ địa vị trong xã hội cũ). Đây là vị từ ngơn hành cĩ nguồn gốc là một cảm thán từ. Nhưng dần dần bẩm khơng cịn là nghĩa của cảm thán từ nữa (như dạ) mà là nghĩa trình, báo. Như vậy bẩm trở thành một vị từ ngơn hành. Ví dụ: Một người lính được một vị quan nọ cho địi, anh ta đi vào và nĩi: – Bẩm quan, con đã cĩ mặt ạ! Ở phát ngơn trên, nghĩa của bẩm cũng cĩ thể hiểu là: “Xin trình quan là con đã cĩ mặt”. Hay: – Lạy cụ ạ. Bẩm cụ… Con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ… Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại thích sinh ra ở tù, bẩm cĩ thế, con cĩ nĩi gian thì trời tru đất diệt, bẩm quả là đi tù sướng quá. Đi ở tù cịn cĩ cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nước một thước đất cắm dùi khơng cĩ, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ con lại đến kêu cụ cụ lại cho con đi ở tù… (Nam Cao – Chí Phèo) Trong phát ngơn trên ta thấy từ bẩm cĩ giá trị là trình, thưa chứ khơng cịn mang nghĩa của một cảm thán từ.  Bầu: chọn bằng cách bỏ phiếu hoặc biểu quyết để giao cho làm đại biểu, làm một chức vụ hoặc hưởng một vinh dự. Khi hành động “bầu” được thực hiện bằng lời nĩi, bầu sẽ là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: Trong buổi bầu ra ban cán sự lớp đầu năm, một bạn đứng lên phát biểu: – Thưa cơ và các bạn, em xin bầu bạn Hằng làm lớp trưởng ạ!  Bổ dụng: Đây là một vị từ ngơn hành cĩ nghĩa là bổ nhiệm.  Bổ nhậm: (cũng như bổ nhiệm)  Bổ nhiệm: cử giữ một chức vụ trong bộ máy nhà nước. Trong cuộc họp hội đồng, sau khi đã bỏ phiếu kín, một người trong ban lãnh đạo đứng lên phát biểu ý kiến: – Hội đồng sư phạm nhà trường chúng tơi bổ nhiệm ơng Nguyễn Văn Trung làm hiệu trưởng nhà trường. Trong ví dụ trên thì bổ nhiệm rõ ràng là một vị từ ngơn hành.  Bổ sung: thêm vào cho đủ. Trong một số trường hợp (dù khá hạn chế) bổ sung cĩ thể trở thành vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Tơi xin bổ sung đồng chí Nguyễn Văn A vào ban chấp hành.  Buộc: (xem bắt buộc)  Cá: cuộc, đánh cuộc. Tuy nhiên khơng phải lúc nào cá cũng cĩ thể là vị từ ngơn hành. Ta xem ví dụ: Hai người bạn cùng xem một trận đấu bĩng đá. Một người nĩi: – Tao với mày cá xem Đức hay Ý sẽ thắng trong trận này đi! (1) Trong phát ngơn trên thì việc cá vẫn chưa được thực hiện. Nhưng nếu người kia trả lời: – Ừ, cá! (2) Thì cá trong câu (2) là vị từ ngơn hành vì anh ta đã làm cái việc cá bằng lời nĩi và bằng cách nĩi nĩ ra. Đỗ Hữu Châu cho rằng trong trường hợp này cá (2) vẫn chưa phải là vị từ ngơn hành (mà ơng gọi là động từ ngữ vi) bởi vì cả hai chưa đưa ra điều kiện thắng – thua, chưa đưa ra phần thưởng – phạt, cho nên việc cá khơng diễn ra được. Nhưng theo chúng tơi việc đưa ra điều kiện hay đưa ra phần thưởng – phạt lại là một việc khác. Cịn cá là việc đồng ý đánh cuộc trong câu trên, cho nên cá đã đủ điều kiện là một vị từ ngơn hành rồi. Những điều kiện giao hẹn chỉ bổ sung cho việc cá mà thơi. Chúng ta chỉ xét cá với gĩc độ là một hành động ngơn ngữ, và chúng tơi nhận thấy nĩ hội đủ điều kiện ngơn hành để trở thành một vị từ ngơn hành (phát ngơn 2) Hay như ở ví dụ: – Tao cá với mày là đội Ý sẽ thắng. (3) thì cá là vị từ ngơn hành.  Cam đoan: nĩi chắc và hứa chịu trách nhiệm về lời nĩi của mình để cho người khác tin. Cam đoan là vị từ ngơn hành được sử dụng ở cả dạng văn viết và phát ngơn. Ví dụ: – Xin cam đoan với anh là tơi sẽ trả nợ đúng hạn. Ở dạng văn bản viết, thường gặp ở phần cuối đơn từ lời cam đoan như sau: Tơi xin cam đoan những lời khai trên là hồn tồn đúng sự thật. Nếu khai man tơi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật.  Cam kết: chính thức cam đoan làm đúng những điều đã hứa. Cam kết cĩ nghĩa như cam đoan, nhưng sắc thái biểu cảm mạnh hơn. Vì tính chất chính thức của cam kết nên nĩ thường được dùng trong văn bản viết nhiều hơn. Ví dụ: Giấy cam kết.  Cảm ơn: (xin xem cám ơn)  Cảm tạ: tỏ lịng biết ơn bằng lời cảm ơn. Ví dụ: – Tơi chân thành cảm tạ sự chăm sĩc của bác sĩ Cảm tạ thường được dùng ở dạng văn bản viết, thường là lời cảm tạ của tang gia đối với thân bằng quyến thuộc của người quá cố. Ví dụ: Thư cảm tạ.  Cám ơn: cĩ hai nghĩa và cả hai đều cĩ khả năng làm cám ơn trở thành vị từ ngơn hành. Nghĩa thứ nhất: tỏ lịng biết ơn về điều tốt người khác đã làm cho mình. Ví dụ: – Xin cám ơn ơng đã chiếu cố đến gia cảnh của chúng cháu. – Tơi cám ơn sự chăm sĩc của thầy đối với cháu Hồng nhà tơi. Nghĩa thứ hai: từ dùng làm lời nĩi lễ phép, lịch sự để nĩi với người đã làm việc gì đĩ cho mình, hoặc đã nhận lời hay để từ chối. Ví dụ: (– Mời anh ngồi.) – Cám ơn. (1) Hay: (Chàng: – Tối nay anh mời em đi xem phim, Lan nhé!) Nàng: – Cám ơn, tơi khơng rảnh! (2) Ở hai mẫu đối thoại trên thì Cám ơn (1) là đáp lại một cách lễ phép, lịch sự lời mời ngồi, cịn Cám ơn (2) là cố ý tạo ra sự lịch sự thái quá để chế giễu và để từ chối. Xét ở gĩc độ câu ngơn hành thì dù ở bất kỳ thái độ nào trong hai thái độ trên, thì cám ơn cũng là một vị từ ngơn hành vì cám ơn chính là hành động cám ơn. Cịn chuyện cĩ thật tâm hay khơng lại là một chuyện khác.  Can: làm cho thấy khơng nên mà thơi đi, khơng làm, khuyên đừng làm. Vì từ can cĩ thể được phát ngơn trong câu ngơn hành cho nên nĩ cĩ giá trị là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Tơi can hai ơng đấy, đừng cãi nhau nữa! Ở phát ngơn trên, rõ ràng can cĩ đầy đủ tính chất cần thiết của một vị từ ngơn hành. Cần nĩi thêm là can và cản cĩ nghĩa gần giống nhau, nhưng can là một vị từ ngơn hành cịn cản thì khơng. Bởi vì cản cũng là một vị từ biểu hiện hành động ngơn từ, nhưng cái hành động cản thường phải được hiện thực bằng một phát ngơn khơng chứa đựng vị từ cản. Chẳng hạn chúng ta khơng thể cản một người bằng cách nĩi Tơi cản anh nhưng cĩ thể nĩi: Tơi đã cản rồi mà anh khơng nghe! Nghĩa là trước đĩ, người phát ngơn xưng là “tơi” cĩ khuyên người kia đừng làm việc gì đĩ. Như vậy, cản là một vị từ nĩi năng chứ khơng phải là một vị từ ngơn hành.  Cáo: Đây là một vị từ cĩ hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất: viện cớ để từ chối, để xin khỏi phải làm. Chẳng hạn: cáo bệnh, khơng dự hội nghị; cáo quan. Nghĩa thứ hai: trình, thưa. Ở nghĩa thứ nhất, cáo khơng cĩ giá trị ngơn hành vì chẳng ai cĩ thể nĩi: Tơi xin cáo bệnh, khơng đi họp được. Như vậy, nĩ chỉ là vị từ nĩi năng mà thơi. Cịn ở nghĩa thứ hai, cáo là một vị từ ngơn hành. Nhưng đây là một từ cổ cho nên ngày nay chúng ta chỉ cịn thấy nĩ ở dạng văn bản viết trong những áng văn thơ cổ mà thơi. Ví dụ: Cáo tật thị chúng. (Mãn Giác Thiền Sư)  Cáo bạch: báo rõ cho mọi người biết. Đây cũng là một từ cổ ngày nay ít thấy được dùng trong phát ngơn mà chỉ cịn thấy ở dạng văn bản viết. Ví dụ: Giấy cáo bạch.  Cáo biệt: là tỏ lời xin từ biệt. Đây cũng là một từ cổ, cĩ sắc thái trang trọng và cĩ giá trị của một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Đã đến lúc tơi phải lên đường. Xin cáo biệt!  Cáo lỗi: xin lỗi. Đây là một vị từ vẫn tồn tại phổ biến trong giao tiếp hàng ngày, nhưng khơng hiểu sao vẫn khơng được ba cuốn từ điển tiếng Việt của Hồng Phê, của Nguyễn Kim Thản và của Nguyễn Như Ý ghi nhận. Cáo lỗi cĩ giá trị là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Vì gặp sự cố bất ngờ giữa đường nên tơi đến trễ. Xin cáo lỗi cùng các quý vị đại biểu cĩ mặt ở đây ạ! Ở dạng văn bản viết, mỗi khi chương trình lên ti vi bị gián đoạn chúng ta thường được đọc dịng sau: Vì lý do kỹ thuật, chương trình xin tạm ngừng trong giây lát, xin cáo lỗi cùng quý vị.  Cáo lui: nĩi lời chào ra về. Cũng cần nĩi thêm là cáo lui là vị từ ngơn hành cịn lui thì khơng phải là vị từ ngơn hành. Ta xem ví dụ: Cuối buổi tiệc, một vị khách đứng lên nĩi – Thơi, đã trễ rồi, tơi xin cáo lui! Ví thử mặc dù đã cáo lui rồi, mà ơng này vẫn cịn loay hoay chưa về thì hành động cáo lui của ơng trong lúc nĩi câu đĩ vẫn được đảm bảo. Vì cáo lui là chào để xin phép ra về, cịn việc “lui” (về) hay khơng của ơng ta là một việc khác. Giả sử cĩ ai đĩ cho rằng: Ổng nĩi cáo lui mà ổng cĩ cáo lui đâu thì người này hiểu sai nghĩa của từ : cáo lui là chào để ra về chứ khơng phải là ra về.  Cáo phĩ: báo tin về việc cĩ người chết, báo tang. Đây là vị từ ngơn hành (cĩ sắc thái trang trọng) thường được sử dụng trong văn bản viết. Ví dụ: Thư cáo phĩ. Văn bản cáo phĩ trên báo, đài.  Cáo từ: tỏ lời từ chối, xin ra về. Đây cũng là một từ cổ, cĩ tính chất kiểu cách. Cáo từ là một vị từ ngơn hành. Ta xem phát ngơn sau: – Đường về cịn xa mà trời đã về chiều. Tơi xin cáo từ!  Cắt cử: cắt đi làm việc gì. Đây là một từ cĩ vẻ là vị từ nĩi năng hơn là vị từ ngơn hành. Nhưng trong điều kiện cho phép, nĩ cĩ thể trở thành một vị từ ngơn hành. Ví dụ: Lời một ơng thủ trưởng: – Tối nay, tơi cắt cử anh Hà trực ở cổng chính cơ quan cịn anh Sơn trực ở cổng sau. Trong phát ngơn trên thì cắt cử là một vị từ ngơn hành.  Cắt đặt: sắp xếp cơng việc và cắt cử người làm. Đây cũng là một từ mà tính ngơn hành chỉ được thực hiện trong những ngữ cảnh hạn chế. Ví dụ: Cắt đặt cơng việc (1) Cắt đặt người vào việc nấy (2) Ở hai ví dụ (1) và (2) trên đây, cắt đặt chưa phải là vị từ ngơn hành mà chỉ là vị từ nĩi năng. Nhưng ở ví dụ (3) sau đây: – Bố cắt đặt thế này: chị Gái giã gạo cịn cái Tí bế em. thì nĩ là một vị từ ngơn hành: trong phát ngơn trên, ơng bố đang làm cái việc cắt đặt bằng cách nĩi câu cĩ từ cắt đặt ra.  Cấm: cĩ hai nghĩa chính khiến cấm khả dĩ trở thành vị từ ngơn hành. Nghĩa thứ nhất: Khơng cho phép làm việc gì đĩ hoặc khơng cho phép tồn tại. Ở nghĩa này, cấm là một vị từ ngơn hành mà tính chất ngơn hành của nĩ thể hiện rất rõ ràng cả ở văn bản viết và trong phát ngơn. Bởi người ta chỉ cĩ thể cấm ai đĩ làm điều gì chỉ bằng cách nĩi nĩ ra (hoặc viết) khơng cịn biện pháp phi ngơn ngữ nào khác. Ví dụ: – Tao cấm mày mở miệng, nghe khơng! – Tao cấm chúng bay, từ nay hễ thấy tiền nong, khơng cứ là của ai, cũng khơng được tơ hào! (Nguyễn Cơng Hoan – Mất cái ví) Hay ở dạng viết như các biển cấm sau: – Cấm chặt cây và phá rừng. – Cấm hút thuốc. – Cấm lửa. Nghĩa thứ hai: Khơng cho phép tự do qua lại hoặc đi vào một khu vực nào đĩ. Trường hợp này, ta thường thấy ở dạng văn bản viết như sau: – Cấm đường. – Rừng cấm. Cấm ở nghĩa này, cũng là một vị từ ngơn hành. Bởi vì việc cấm chỉ được thực hiện khi viết ra từ cấm trên biển báo. Mà chữ viết cũng là một sự giao tiếp bằng ngơn ngữ.  Cấm cửa: khơng cho phép đến nhà mình nữa. Cấm cửa cĩ khả năng trở thành vị từ ngơn hành khi được phát ngơn trực tiếp để thực hiện việc cấm tới nhà. Ví dụ: – Thằng kia! Tao cấm cửa mày từ nay chớ cĩ bén mảng đến nhà tao nữa!  Cấm tiệt: cấm tiệt là cấm hồn tồn, cấm một cách nghiêm khắc. Cũng như cấm cửa, cấm tiệt là một vị từ mang phong cách ngơn ngữ sinh hoạt. Tuy nhiên, tính chất ngơn hành của vị từ cấm tiệt được thực hiện rõ ràng hơn vì nĩ mang phong cách nĩi, nghĩa là nĩ được sử dụng trong phát ngơn nhiều hơn so với cấm cửa. Ví dụ: – Tao cấm tiệt mày khơng được hẹn hị gặp gỡ gì thằng ấy nữa!  Cầu xin: xin với ai điều gì một cách khẩn khoản, thiết tha, nhẫn nhục. Cầu xin là một vị từ ngơn hành, bất chấp thái độ cầu xin của người thực hiện nĩ cĩ chân thành hay khơng.Về điều này thì cầu xin khác với cầu mong. Cầu mong là mong ước điều may mắn tốt lành, là sự tình diễn ra trong tâm của chủ thể thực hiện nĩ. Đây là một vị từ nội động, khơng phải là một vị từ ngơn hành, dù cĩ được phát ngơn ra thì phát ngơn và suy nghĩ khơng phải lúc nào cũng là một, và thậm chí nếu “cầu mong” trong tâm và phát ngơn ra là một thì nĩ cũng chưa phải là vị từ ngơn hành. Trong khi đĩ, cầu xin là một hành động chỉ cĩ thể được thực hiện bằng lời nĩi, cho dù lời cầu xin đĩ khơng thực lịng thì chủ thể thực hiện nĩ cũng đã làm cái việc cầu xin rồi, bằng chính cách nĩi nĩ ra. Ví dụ: – Cầu xin ơng tha mạng! Con xin đội ơn ơng! – Cầu xin Trời Phật phị hộ.  Cậy: Nghĩa thứ nhất: nhờ làm việc gì, nhờ giúp đỡ. Nghĩa này chính là vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Cậy anh đi giúp cho! Hay: – Cậy em em cĩ chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. (Nguyễn Du – Truyện Kiều) Nghĩa thứ hai: là ỷ vào ưu thế của mình như cậy thế cha, Chĩ cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng. Cậy ơ nghĩa này khơng phải là vị từ ngơn hành.  Chào: tỏ bằng lời nĩi hoặc cử chỉ thái độ kính trọng hoặc quan tâm đối với ai, khi gặp nhau hoặc khi từ biệt. Xét ở gĩc độ một vị từ ngơn hành thì chào chỉ cĩ thể trở thành vị từ ngơn hành khi được thể hiện bằng lời nĩi và bằng cách nĩi chính cái từ chào. Ví dụ: – Em chào thầy ạ! – Cháu chào bác! Bác đến tìm ai đấy ạ! Như vậy khi tỏ thái độ chào như mỉm cười, gật đầu chẳng hạn mà chưa nĩi ra từ chào thì lúc đĩ chào khơng phải là vị từ ngơn hành. Trong Chào cờ và Nhà hàng chào khách, chào khơng phải là những vị từ ngơn hành.  Chào đĩn: tỏ ý hoan nghênh, đĩn mừng. Chào đĩn là một vị từ ngơn hành thường thấy ở dạng viết như băng rơn, bảng hiệu. Ví dụ: – Chào đĩn ngày nhà giáo Việt Nam. – Chào đĩn quý khách.  Chào giá: (nĩi về một bên bên mua hoặc bán) biểu thị cho bên kia biết rõ ý muốn bán hoặc mua một mặt hàng nhất định. Trong điều kiện cho phép thì chào giá là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Cửa hàng chúng tơi xin chào giá chiếc xe máy này là hai mươi lăm triệu đồng.  Chào mừng: vui mừng chào đĩn. Cũng như chào đĩn, chào mừng là một vị từ ngơn hành thường được sử dụng ở dạng văn bản viết (thường thấy ở băng rơn, bảng hiệu). Ví dụ: – Chào mừng các vị khách. – Chào mừng ngày Quốc khánh. Chắc: cĩ nhiều nghĩa, trong đĩ nghĩa “cĩ tính chất khẳng định, cĩ thể tin được là sẽ đúng như thế” cĩ thể trở thành ngơn hành. Ta xem ví dụ: – Anh chắc với em là anh sẽ đến đúng giờ. (1) – Tao chắc với mày là đội Ý sẽ thắng. (2) Trong hai phát ngơn trên, chắc (1) cĩ thể hiểu là “hứa chắc” và nĩ là vị từ ngơn hành khơng cĩ gì bàn cãi. Nhưng ở chắc (2) lại cĩ thể hiểu là “tin chắc”, mà theo chúng tơi nhận thấy, chắc là một vị từ ngơn hành, trong khi tin chắc thì khơng phải là một vị từ ngơn hành vì khơng phải là một vị từ nĩi năng. Chắc chắn: cĩ tính chất khẳng định dứt khốt, cĩ thể tin được là đúng như thế. Ví dụ: – Tơi chắc chắn với anh sẽ hồn thành nhiệm vụ. – Tơi chắc chắn với anh là sẽ khơng trễ giờ. Chấm: cĩ nhiều nghĩa, nhưng chỉ cĩ nghĩa “chọn, kén người mình vừa ý nhất” là cĩ thể khiến chấm trở thành vị từ ngơn hành. Điều kiện để chấm, với nghĩa trên, trở thành vị từ ngơn hành là phải thực hiện bằng hành động nĩi năng. Ví dụ: – Trong ba cơ đĩ, tớ chấm cơ áo vàng. Chấp: Trong 4 nghĩa của từ này, cĩ hai nghĩa cĩ thể khiến chấp trở thành vị từ ngơn hành. Nghĩa thứ nhất: tỏ bằng lời nĩi cho đối phương được hưởng những điều kiện nào đĩ lợi hơn khi bắt đầu cuộc chơi, cuộc đấu. Ví dụ: – Mình chấp cậu một ngựa đấy! – Vậy thì mình chấp cậu đi trước. Nghĩa thứ hai: địch lại mà khơng sợ đối phương cĩ lợi thế hơn mình và tỏ bằng lời nĩi. Ví dụ: – Một mình tao chấp cả hai anh em nhà mày đấy! Chấp nhận: đồng ý điều người khác yêu cầu hoặc đề ra. Ví dụ: – Tơi chấp nhận tờ đơn này của chị. Hay: – Cơng ty chúng tơi chấp nhận các điều kiện đặt hàng của bên các anh. Chấp thuận: chấp nhận điều yêu cầu hoặc đề nghị. Ví dụ: – Ban Giám đốc chúng tơi chấp thuận đề nghị tăng lương của các anh. Trong phát ngơn trên, người nĩi đại diện cho một nhĩm người ở ngơi thứ nhất và đang nĩi với các nhân viên cơ quan (ngơi thứ hai). Ở đây, tiền giả định là trước đĩ các nhân viên cĩ yêu cầu tăng lương với ban giám đốc. Chỉ thị: (cấp trên) vạch ra điều gì đĩ cho cấp dưới thi hành. Ví dụ: – Tơi chỉ thị các đồng chí về điều động nhân lực ở địa phương mình chuẩn bị chống bão lụt. Trong phát ngơn trên, chỉ thị rõ ràng là một vị từ ngơn hành. Chịu: hai trong số tám nghĩa của từ này cĩ khả năng khiến chịu trở thành vị từ ngơn hành. Nghĩa thứ nhất: thừa nhận cái hay, cái hơn của người khác. Ví dụ: – Xin chịu ơng là người nhớ giỏi. Nghĩa thứ hai: tự nhận mình bất lực, khơng làm nổi, xin hàng. Ví dụ: – Bài tốn này khĩ quá, mình xin chịu! Cho: Hiểu theo nghĩa “cho phép” hay “làm cho người khác cĩ được điều kiện khách quan để làm việc gì”, từ này cĩ thể trở thành vị từ ngơn hành với điều kiện phải được tỏ bằng lời. Ví dụ 1: Cơ giáo nĩi với một học sinh vừa bị đuổi ra khỏi lớp tiết trước vì tội làm ồn: – Cho em vào lớp! Ví dụ 2: Bà Án quay sang bảo tên người hầu: – Cho mày lui! (Khái Hưng – Nửa chừng xuân) Ví dụ 3: – Tơi cho anh thời gian để suy nghĩ. Ta thấy trong các phát ngơn trên, cho là một vị từ ngơn hành. Cho phép: tỏ bằng lời nĩi để cho người khác được quyền làm việc gì. Cả ba cuốn từ điển đã dẫn đều khơng ghi nhận từ này. Ví dụ: Lời chủ tọa phiên tịa: – Cho phép nĩi! Hay: – Mẹ cho phép con đi chơi đấy! Trong các ngữ cảnh trên, rõ ràng cho phép là một vị từ ngơn hành. Chối từ: (xem từ chối) Chống án: (Đương sự) khơng tán thành bản án của tịa án cấp dưới và yêu cầu tịa án cấp trên xử lại. Đây là một vị từ cĩ khả năng trở thành vị từ ngơn hành nếu được tỏ bằng lời nĩi. Ví dụ: – Tơi chống án vì kết luận của tịa án khơng hợp lý! Trong phát ngơn trên thì chống án là một vị từ ngơn hành. Chuẩn y: đồng ý để cho thực hiện theo đúng như cấp dưới đề nghị hoặc dự thảo. Ví dụ: – Chúng tơi chuẩn y điểm sửa đổi của anh! Chúc: tỏ lời mong ước điều may mắn tốt đẹp cho người khác. Ví dụ: – Chúc bạn đạt nhiều thành tích! – Chúc anh lên đường may mắn! Ngồi việc chúc bằng tỏ lời, chúng ta cịn thấy chúc bằng thư, bằng thiệp, v.v. Như vậy việc chúc khơng chỉ được thực hiện bằng phát ngơn mà cịn bằng văn bản viết. Ví dụ: – Thiệp chúc mừng. Chúc hạ: Đây là vị từ ngơn hành cĩ tính chất trang trọng. Là một từ cổ cĩ nghĩa như chúc mừng. Chúc mừng: chúc nhân dịp vui mừng. Ví dụ: – Chúc mừng cơ dâu chú rể! – Nghe tin cậu thi đậu đại học, mình xin chúc mừng! Khơng chỉ tỏ bằng lời, chúc mừng cịn được thể hiện bằng văn bản viết. Ví dụ: Thiệp chúc mừng (ngày sinh nhật, ngày 8/3, v.v.) Thư chúc mừng. Chúc phúc: cầu mong thần thánh ban cho phước lành, theo quan niệm tơn giáo. Ví dụ: Lời cha xứ nĩi với con chiên: – Cha chúc phúc cho con! Chung thẩm: (tịa án) quyết định lần cuối cùng về một vụ án cho bản án cĩ hiệu lực pháp luật, sau đĩ đương sự khơng được chống án nữa. Ví dụ: Lời chủ tọa phiên tịa: – Tịa chung thẩm bị cáo Nguyễn Văn A ba tháng tù giam! Cĩ lời: Đây là một ngữ vị từ khi được dùng ở ngơi thứ nhất và thì hiện tại, nĩ cĩ vai trị chủ yếu là báo hiệu một phát ngơn ngơn hành. Tương tự như vị từ xin, cĩ lời hoặc xin cĩ lời làm cho vị từ đi sau nĩ cĩ được tính ngơn hành. Cả khi bổ ngữ chỉ người tiếp nhận là ngơi thứ ba. Ví dụ: – Tơi cĩ lời xin lỗi chị ấy. – Tơi cĩ lời khen ngợi các chú ấy. – Tơi cĩ chia buồn cùng gia đình. Cuộc: giao hẹn với nhau sẽ tính được thua về điều phỏng đốn đúng hay sai hoặc về điều thách thức làm được hay khơng làm được. Nghĩa của cuộc giống như cá đã trình bày ở phần trên. Cuộc là một vị từ ngơn hành nhưng khơng phải trong mọi trường hợp. Chúng ta so sánh các ví dụ: A và B nĩi chuyện với nhau: A: – Anh cĩ dám cuộc với tơi điều đĩ khơng? Trong câu trên cuộc chưa phải là vị từ ngơn hành, vì việc cuộc chưa được thực hiện, mà chỉ là câu rủ nhau cuộc mà thơi. Vì nếu như B đưa ra một điều kiện nào đĩ mà A khơng thuận tình thì việc cuộc sẽ khơng được thực hiện. Nhưng nếu B nĩi: – Được thơi, tơi cuộc với cậu đấy! thì cuộc trong câu nĩi của B là một vị từ ngơn hành. Hay như ở các ví dụ sau: – Tớ cuộc với cậu rằng chiều nay thế nào đội Cảng Sài Gịn cũng thắng. – Tơi cuộc với ơng nếu hơm nay nĩ khơng đến thì tơi đi bằng đầu. Trong các phát ngơn trên, cuộc là vị từ ngơn hành vì khi phát ngơn ra các câu đĩ, người nĩi chúng đang thực hiện hành động cuộc. Cử: Đây là một vị từ cĩ rất nhiều nghĩa, trong đĩ nhưng chỉ với nghĩa “lựa chọn ra để chính thức giao cho giữ một trách nhiệm hoặc làm một việc gì” thì cử cĩ thể làm một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Tơi cử anh Nguyễn Văn Nam phụ trách đội văn nghệ. – Tơi cử anh Trần Anh Hùng là đại biểu đi dự hội nghị. Trong hai phát ngơn trên, rõ ràng cử là vị từ ngơn hành.  Cược: (như cuộc)  Đa tạ: cảm ơn nhiều (dùng trong đối thoại để tỏ lịng biết ơn). Ví dụ: – Xin đa tạ ngài. – Tơi xin đa tạ tấm lịng của bà con! Đả đảo: đánh đổ. Với nghĩa này thì đả đảo khơng phải là một vị từ ngơn hành. Nhưng xét về mặt ngữ dụng, thì đả đảo chỉ dùng được trong khẩu hiệu đấu tranh biểu thị sự chống đối kịch liệt với tinh thần muốn đánh đổ. Như vậy, đả đảo khơng cịn mang nghĩa là “đánh đổ” nữa mà là “chống đối”.Và vì vậy, đả đảo trở thành một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Đả đảo bọn xâm lược! – Đả đảo chế độ độc tài!  Đánh cuộc: (xem cuộc).  Đặt: Đây là một vị từ cĩ nhiều nghĩa nhưng chỉ với nghĩa “đưa trước theo yêu cầu, theo thể thức đã định cho đối tác cĩ cơ hội đáp ứng đúng, để đảm bảo việc mua bán, thuê mướn” thì đặt mới cĩ khả năng trở thành một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Tơi xin đặt một bàn tiệc cho mười người lúc năm giờ chiều nay! – Tơi đặt một đơi giày size 40, ba hơm sau tơi đến lấy đấy nhé! Trong hai phát ngơn trên thì đặt là một vị từ ngơn hành.  Đề bạt: cử (ai đĩ) giữ chức vụ cao hơn. Ví dụ: – Tơi đề bạt anh Lê Anh Tú trưởng phịng kỹ thuật lên làm phĩ giám đốc xí nghiệp, các anh thấy thế nào? Trong phát ngơn trên, đề bạt là một vị từ ngơn hành vì lời vị vừa nĩi chính là hành động đề bạt. Việc anh Lê Anh Tú cĩ lên được chức phĩ giám đốc hay khơng khơng ảnh hưởng đến hành động đề bạt này. Bởi vì đề bạt là “cử ra” cịn việc thăng chức của anh Tú kia là một việc khác.  Đề cử: giới thiệu ra để bỏ phiếu bầu chọn. Ví dụ: – Tơi đề cử đồng chí Nam vào ban chấp hành cơng đồn. Với phát ngơn trên thì người đĩ đã đề cử cho Nam.  Đề nghị: Đây là một vị từ ngơn hành được từ điển tiếng Việt diễn giải cĩ đến ba nghĩa. Cả ba nghĩa đĩ của từ đề nghị đều cĩ tính chất ngơn hành nếu được sử dụng hợp ngữ cảnh. Nghĩa thứ nhất: Đưa ra ý kiến về một việc nên làm nào đĩ để thảo luận, để xem xét. Ví dụ: – Tơi đề nghị áp dụng biện pháp kỹ thuật mới. Hay: – Tơi đề nghị phải cĩ những tiêu chí cụ thể để đánh giá thi đua, chứ khơng nên đánh giá chung chung. Nghĩa thứ hai: Yêu cầu, thường là việc riêng và mong được chấp thuận, được giải quyết (thường là dùng trong đơn từ) như yêu cầu nhưng hàm ý khiêm nhường hơn. Ví dụ: – Đơn đề nghị cho được chuyển cơng tác. – Đơn đề nghị tăng lương. Ở hai ví dụ trên, đề nghị cũng là một vị từ ngơn hành, thường được sử dụng trong văn bản viết như đơn từ, v.v. Nghĩa thứ ba: Từ dùng ở đầu câu để nêu lên một yêu cầu, địi hỏi phải làm theo (thường dùng thay thế cho một câu mệnh lệnh để cho cĩ vẻ lịch sự hơn). Ví dụ: – Đề nghị im lặng! – Đề nghị khơng hút thuốc lá! – Tơi đề nghị anh rời khỏi phịng tơi ngay lập tức! Trong các phát ngơn trên, vị từ ngơn hành đề nghị cĩ sắc thái tình thái là những câu mệnh lệnh, ý nghĩa là những lời ra lệnh. Tuy nhiên, tính chất ngơn hành của vị từ đề nghị vẫn được giữ nguyên, vì những câu trên về mặt hình thức là những câu đề nghị, người nĩi đang thực hiện hành động là đề nghị.  Điều: điều động, là cử người hay bộ phận nào đĩ đi làm việc gì. Nghĩa này dễ cho chúng ta kết luận điều là một vị từ ngơn hành. Nhưng xét về mặt ngữ dụng, thì trong cách nĩi của người Việt, khơng ai dùng điều như một vị từ ngơn hành. Hồn tồn cĩ thể nĩi – Điều cán bộ lên miền núi. – Điều động máy bơm về nơng thơn chống hạn. Nhưng bình thường khơng thể nĩi: – Tơi điều anh về làm thư ký cho tơi. – Tơi điều anh lên miền ngược cơng tác. Như vậy, điều là vị từ nĩi năng hơn là vị từ ngơn hành.  Đình: ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại. Trong ngữ cảnh cho phép thì đình cĩ thể trở thành một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Chúng tơi tạm đình lại việc thi hành quyết định thi hành án của bị cáo Nguyễn Văn B. Trong phát ngơn trên, đình là một vị từ ngơn hành.  Đình chỉ: ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại trong một thời gian hay vĩnh viễn. Ví dụ: – Quyết định đình chỉ hoạt động (đối với xí Nghiệp X). – Tơi đình chỉ cơng tác vĩnh viễn đối với cơng nhân Nguyễn Văn A.  Định: Trong hai nghĩa của định, thì nghĩa “nêu ra một cách rõ ràng, khơng thay đổi, sau khi đã cĩ suy nghĩ, tìm hiểu, cân nhắc” làm cho từ này cĩ thể trở thành vị từ ngơn hành Ví dụ: – Tơi định cho anh: đúng 3 giờ chiều mai phải cĩ mặt tại đây! Hay: – Bây giờ tơi định giá lần cuối cùng là chỗ cá đĩ hai mươi nghìn một cân, cĩ bán khơng? Trong hai phát ngơn trên, thì định là một vị từ ngơn hành.  Đố: nĩi khích người khác phải làm việc gì đĩ, với ngụ ý cho rằng người đĩ khơng làm nổi. Trong điều kiện của câu ngơn hành, thì đố sẽ là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Tí, tao đố mày dám đánh nhau với thằng Tèo đấy! – Khơng thầy đố mày làm nên. (Tục ngữ) – Đố anh chi sắc hơn dao, Chi sâu hơn biển chi cao hơn trời? (Ca dao)  Đồng tình: Đây là một vị từ được từ điển tiếng Việt diễn giải cĩ hai nghĩa. Xét theo nghĩa từ vựng thì đồng tình chỉ một hành động được thực hiện bên trong chủ thể phát ngơn, nĩ là một vị từ nội động. Tuy nhiên, xét về mặt ngữ dụng, luận văn nhận thấy đồng tình thường được dùng với nghĩa là ủng hộ và tán thành. Và nĩ thường được thể hiện bằng lời nĩi. Nghĩa thứ nhất: Cùng cĩ một ý, một lịng như nhau. Với nghĩa này, khi được tỏ ra bằng lời và một cách trực tiếp thì đồng tình là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Xin chủ sối ở lại đánh Tây với nhân dân! Anh em chúng tơi đồng tình theo chủ sối! Trong phát ngơn trên, thì đồng tình là một vị từ ngơn hành. Nghĩa thứ hai: Tán thành và tỏ bằng lời. Ví dụ: – Tơi đồng tình với quan điểm đĩ của anh! Ở phát ngơn trên, thì đồng tình cũng là một vị từ ngơn hành.  Đồng ý: cĩ cùng ý kiến như ý kiến đã nêu. Với nghĩa này, đồng ý chưa thể là một vị từ ngơn hành được. Vì đồng ý là cĩ cùng ý kiến, là quá trình diễn ra bên trong chủ thể phát ngơn, là vị từ nội động, chưa phải là hành động bằng lời. Do đĩ ở ví dụ Tơi đồng ý với quan điểm của anh, “tơi” cĩ thể bị đối tượng tiếp nhận nghi ngờ: “Ơng ấy bảo đồng ý nhưng chắc gì là ơng ấy đã đồng ý”. Như vậy, đồng ý chưa phải là một vị từ ngơn hành. Nhưng, đồng ý cịn một nghĩa nữa mà khơng thấy ghi nhận trong từ điển. Đĩ là chấp thuận, chấp nhận một điều gì đĩ được yêu cầu. Với nghĩa này, thì đồng ý là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Thưa bố, con xin phép bố cho con đến nhà bạn Lan học nhĩm ạ! – Đi học nhĩm à? Được, bố đồng ý! Trong phát ngơn trên, thì đồng ý rõ ràng là một vị từ ngơn hành.  Ép buộc: dùng quyền lực bắt phải làm điều gì đĩ hồn tồn trái với ý muốn. Ép buộc thường gặp trong câu tường thuật hơn là trong câu ngơn hành. Vì khi cần ép buộc ai đĩ làm điều gì, người nĩi (thường là cấp trên hoặc là người cĩ thẩm quyền) thường dùng những từ như: yêu cầu, đề nghị, v.v. cho lịch sự hơn. Hoặc giả khi cần tỏ ra cứng rắn hơn, người ta thường dùng ra lệnh. Tuy nhiên việc dùng từ ép buộc trong câu ngơn hành vẫn cĩ khả năng xảy ra: Ví dụ: Một vị lãnh đạo nĩi với một cán bộ thuộc cấp dưới quyền mình sau khi người này vướng vào một vụ bê bối: – Việc khơng hay của anh đã ảnh hưởng xấu đến cơ quan, tơi ép buộc anh phải từ chức. Nếu khơng tơi buộc phải cách chức anh. Trong phát ngơn trên thì ép buộc là một vị từ ngơn hành. Cần nĩi thêm rằng, ép buộc cĩ khả năng trở thành một vị từ ngơn hành nhưng ép thì khơng. Bởi vì ép là tác động đến, nhằm làm cho người khác phải miễn cưỡng nghe theo, làm theo. Xét về mặt ngữ dụng, ép được dùng trong câu tường thuật vì nĩ là vị từ nĩi năng chứ hầu như khơng thấy ở câu ngơn hành. Hoặc giả ở câu phủ định: Ví dụ: – Khơng muốn thì thơi, tơi khơng ép! Nhưng bình thường khơng ai nĩi: – Tơi ép anh phải làm việc đĩ! Hay: – Mẹ ép con phải lấy thằng ấy vì nĩ là người tốt. Như vậy, ép buộc là một vị từ ngơn hành, cịn ép thì khơng phải là một vị từ ngơn hành.  Giao hẹn: nêu rõ điều kiện đặt ra với ai đĩ trước khi làm việc gì. Ví dụ: – Tơi giao hẹn cho anh là phải trả tiền đúng hạn cho tơi thì tơi mới giao giấy tờ cho anh! Trong phát ngơn trên thì giao hẹn là một vị từ ngơn hành. Cần lưu ý thêm là mặc dù giao hẹn và giao kèo cĩ gần gũi nhau về mặt ý nghĩa nhưng giao hẹn là một vị từ ngơn hành cịn giao kèo thì khơng. Bởi vì giao kèo được dùng trong câu tường thuật như Hai bên giao kèo với nhau, chứ khơng ai nĩi rằng: Tơi giao kèo với anh là anh phải đúng hạn. Mặt khác, giao kèo cịn là một danh từ, ví dụ ký giao kèo, bản giao kèo.  Giới thiệu: cho biết vài điều cần biết, như tên họ, nghề nghiệp, chức vụ... về một người nào đĩ để bắt đầu làm quen với nhau. Ta xem các ví dụ: – Tơi xin tự giới thiệu: tơi tên Lan sinh viên năm thứ hai trường Đại học sư phạm, xin được làm quen với các bạn. Hay: – Xin trân trọng giới thiệu Bộ trưởng Nguyễn Văn H. lên phát biểu ý kiến. Ta thấy ở hai phát ngơn trên, người nĩi đang thực hiện hành động giới thiệu bằng lời nĩi và bằng chính từ giới thiệu. Như vậy, nĩ là một vị từ ngơn hành.  Gởi lời hỏi thăm: Đây là một ngữ vị từ khơng thấy ghi nhận trong từ điển tuy vẫn tồn tại trong lời ăn tiếng nĩi hằng ngày của người Việt. Gởi khơng phải là một vị từ ngơn hành nhưng gởi lời là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Cơ Út về quê, mình gởi lời hỏi thăm hai bác ở quê nhé! Tương tự như vậy, gởi lời chào cũng là một vị từ ngơn hành.  Hoan hơ: phát ra tiếng reo vui tán thưởng bằng lời hoặc bằng cách vỗ tay. Nếu A!, Ồ!, Chao ơi!, v.v. chỉ là những tiếng reo (hay kêu) chứ chưa thể là hành động thì hoan hơ đã được chuyển nghĩa thành một vị từ biểu thị hành động “hoan hơ”. Trong trường hợp “hoan hơ” được thược hiện bằng lời, thì vị từ hoan hơ một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Hoan hơ các cầu thủ đội tuyển Việt Nam! – Ý kiến rất hay, hoan hơ!  Hoan nghênh: Cĩ hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất: đĩn chào với thái độ vui mừng. Ví dụ: – Chúng tơi hoan nghênh các đại biểu về dự đại hội. Nghĩa thứ hai: tiếp nhận với thái độ vui vẻ, thích thú. Ví dụ: – Tơi xin hoan nghênh mọi ý kiến đánh giá, phê bình. Cả ở hai nghĩa trên, hoan nghênh đều cĩ khả năng làm vị từ ngơn hành.  Hoan nghinh: (cũng như hoan nghênh)  Kết án: (tịa án) định tội và tuyên bố hình phạt. Ví dụ: Lời chủ tọa phiên tịa: – Tịa kết án bị cáo Lê Văn A hai mươi tháng tù ngồi. Trong phát ngơn trên, lời kết án chính là hành động kết án.  Kết luận: Với nghĩa “đưa ra cái ý cuối cùng đã đạt tới, rút ra từ những sự kiện hay lập luận nhất định”, kết luận là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: Một cơ gái nhận định về bạn trai của một cơ bạn: – Hai ba lần liên tục lỗi hẹn với cậu như thế, tớ kết luận là anh ta chẳng yêu cậu đâu! Hay: – Tớ kết luận tên Nam chính là thủ phạm gây ra nhiều vụ mất cắp tiền ở phịng trọ chúng ta.  Khai mạc: mở đầu cuộc hội nghị, đêm biểu diễn, cuộc triển lãm, v..v Khai mạc cĩ khả năng trở thành một vị từ ngơn hành khi được phát ngơn trực tiếp. Ta xem ví dụ sau: – Tơi xin khai mạc cuộc hội nghị của chúng ta hơm nay. Trong phát ngơn trên, thì khai mạc là một vị từ ngơn hành.  Kháng án: chống lại bản án của tịa án để yêu cầu được xét xử lại. Ví dụ: Lời bị can trong phiên tịa sau khi nghe đọc bản án: – Bị can kháng án! Bị can nhận thấy bản án đĩ khơng hợp lý. Trong phát ngơn trên, người nĩi đang thực hiện hành động kháng án. Như vậy, kháng án là một vị từ ngơn hành. Cần lưu ý là kháng án là vị từ ngơn hành cịn kháng cáo khơng phải là vị từ ngơn hành vì kháng cáo là chống án lên tịa án cấp trên để yêu cầu được xét xử lại. Như vậy việc kêu cứu lên tịa án cấp trên phải là một quá trình chứ khơng thể thực hiện được bằng lời nĩi mà cụ thể là bằng cách nĩi từ kháng cáo đĩ ra.  Khước từ: từ chối, khơng nhận với một sắc thái biểu cảm trang trọng. Khước từ là một vị từ ngơn hành khi sự khước từ đĩ được thực hiện bằng lời nĩi và bằng cách nĩi trực tiếp từ khước từ. Ví dụ: – Cảm ơn sự tín nhiệm của mọi người đã trao chức vụ ấy lại cho tơi. Nhưng vì lý do sức khỏe khơng cho phép, tơi xin khước từ!  Kiếu: tỏ lời xin lỗi để ra về, để khơng dự hoặc khơng nhận lời mời. Đây là một vị từ cĩ tính chất kiểu cách, lại là một từ cũ, ngày nay ít thấy dùng. Kiếu là một vị từ ngơn hành thường được sử dụng ở dạng phát ngơn trực tiếp. Ví dụ: – Thơi! Thơi! Tơi xin kiếu!...Đừng vịi nữa. Tơi đã giao hẹn tơi chỉ cĩ hai đồng bạc. (Nam Cao – Làm tổ) Hay: – Thế thì đệ kiếu! Đệ phải về kẻo hết tàu điện. (Nam Cao – Đời thừa)  Kiếu từ: (xem cáo từ)  Lệnh: Đây vốn là một danh từ, là điều cấp trên truyền xuống cho cấp dưới phải thi hành nhưng trong phát ngơn hàng ngày, nĩ cĩ khả năng chuyển loại từ từ danh từ sang vị từ. Trong trường hợp đĩ, lệnh cĩ khả năng trở thành vị từ ngơn hành. Ví dụ: Lời cấp trên: – Tơi lệnh cho đồng chí phải cĩ mặt ở ban chỉ huy đúng 3 giờ chiều nay! Lệnh là một vị từ ngơn hành thường được đúng trong phát ngơn nhưng đồng thời nĩ cịn được thực hiện bởi văn bản viết, như văn bản cĩ tính pháp luật, do chủ tịch nước ký. Ví dụ: – Lệnh ân xá. – Lệnh tổng động viên. Hay giấy cho phép làm một việc gì: Ví dụ: – Lệnh xuất kho. – Lệnh khám nhà.  Lêu lêu: Đây là một từ khơng thấy ghi nhận trong từ điển tiếng Việt. Lêu lêu là một hành động trêu chọc và bằng cách nĩi ra từ lêu lêu, vì vậy nĩ cĩ khả năng trở thành vị từ ngơn hành. Lêu lêu cĩ nguồn gốc là một cảm thán từ nhưng dần dần chuyển nghĩa thành vị từ. Ví dụ: – Mẹ ơi, anh Tí lêu lêu con kìa! Trong ví dụ sau đây, lêu lêu là một vị từ ngơn hành. – Lêu lêu cu Tí, cu Tí lớn rồi mà cịn đái dầm!  Miễn: Với nghĩa là “khỏi làm, khỏi chịu hay đừng làm”, miễn chỉ động thái của ngơi thứ hai và khơng phải vị từ ngơn hành, như trong các ví dụ sau: – Khơng phận sự miễn vào. – Xin miễn hỏi. Nhưng với nghĩa “cho phép để khỏi phải chịu, khỏi phải làm” thì miễn chỉ động thái của ngơi thứ nhất, như ở ví dụ sau: – Trẫm miễn lễ cho các khanh! Và trong trường hợp này, miễn là sự cho phép của ngơi thứ nhất, và nĩ cĩ thể trở thành một vị từ ngơn hành.  Miễn nghị: (tịa án) bỏ, khơng xét xử một bản án và tha cho bị can. Ví dụ: Lời chủ tọa phiên tịa trong buổi xét xử: – Chúng tơi miễn nghị cho bị can Nguyễn Văn A. Trong phát ngơn trên, thì rõ ràng miễn nghị là một vị từ ngơn hành.  Miễn nhiệm: cho thơi khơng tiếp tục chức vụ nào đĩ trong bộ máy nhà nước; trái với bổ nhiệm. Ví dụ: Lời một vị cán bộ trong ban lãnh đạo hội đồng quản trị: – Tơi miễn nhiệm quyền giám đốc đối với anh Nguyễn Văn A vì những sai phạm của anh ta trong thời gian qua. Trong phát ngơn trên thì miễn nhiệm là một vị từ ngơn hành. Miễn tố: miễn truy tố trước tịa án. Miễn tố là một vị từ ngơn hành được dùng trong phát ngơn trước tịa và đồng thời cũng cĩ thể được dùng trong văn bản viết. Ví dụ: Lời chủ tọa phiên tịa: – Tịa miễn tố đối với bị can Nguyễn Văn A vì xét thấy hành vi của bị can Nguyễn Văn A chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hành sự, vả lại bị can A đã thành khẩn khai báo. Hay một văn bản cĩ nội dung miễn tố cho một bị can nào đĩ để khỏi bị truy tố trước tịa.  Miễn trừ: miễn cho khỏi (thường nĩi về những điều quy định theo pháp luật). Đây là một vị từ ngơn hành thường được sử dụng ở dạng văn bản viết. Ví dụ: – Miễn trừ thuế. – Miễn trừ trách nhiệm hình sự.  Mời: Với nghĩa “bày tỏ sự mong muốn ai đĩ làm việc gì với thái độ lịch sự, trân trọng” này thì mời là một vị từ ngơn hành. Những câu mời luơn luơn là những câu ngơn hành. Ví dụ: – Mời bác xơi nước ạ! – Mời bạn đi xem phim với mình tối nay. – Hơm nay tớ mời cậu đến nhà tớ dùng cơm, nhà tớ cĩ giỗ.  Mượn: Trong năm nghĩa của mượn, nghĩa “nhờ ai làm giúp việc gì” cĩ thể làm cho từ này trở thành vị từ ngơn hành. Ví dụ: Lời người dì nĩi với đứa cháu. – Mượn cháu viết hộ dì lá đơn! Hay: – Tơi xin mượn anh ngồi họ trong lễ hỏi của cháu Hồng nhà tơi. Trong hai phát ngơn trên, thì mượn là một vị từ ngơn hành.  Ngăn: Với nghĩa “chặn lại, khơng cho tiếp tục hoạt động’, ngăn cĩ khả năng trở thành một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Tơi ngăn anh đấy, đừng cãi nhau nữa! Phát ngơn trên là một câu ngơn hành và ngăn là một vị từ ngơn hành. Cần lưu ý thêm là: ngăn cĩ điều kiện để trở thành một vị từ ngơn hành, nhưng ngăn cản và ngăn cấm thì khơng thể trở thành một vị từ ngơn hành vì tuy ngăn cản, ngăn cấm cũng cĩ nghĩa là giữ lại, khơng cho tiếp tục hoạt động, phát triển nhưng lại là từ cĩ tính chất khái quát. Chính vì thế, ngăn cản và ngăn cấm thường dùng trong câu tường thuật.  Nghiêm cấm: cấm ngặt, hồn tồn khơng cho phép. Ví dụ: – Bố nghiêm cấm các con khơng được hút thuốc lá. – Cơ nghiêm cấm tình trạng đánh nhau trong lớp học của chúng ta, nếu em nào vi phạm sẽ bị kỷ luật nặng. Ngồi việc được sử dụng trong phát ngơn, nghiêm cấm cịn được dùng trong văn bản viết.  Nhắc: Trong ba nghĩa của từ này, cĩ hai nghĩa cĩ khả năng làm cho nhắc trở thành vị từ ngơn hành. Nghĩa thứ nhất: nĩi ra cho người khác nhớ. Ví dụ: – Tơi nhắc cho anh nhớ là anh cịn nợ tơi 2 triệu đồng đấy nhé! Nghĩa thứ hai: nĩi lại để người khác ghi nhớ mà thực hiện, mà làm đúng. Ví dụ: – Bố nhắc con là khi đi ngủ phải đĩng cổng lại nghe chưa!  Nhắn: báo tin nhờ người khác nĩi lại hoặc phương tiện trung gian nào đĩ chuyển hộ. Nhắn là một hành động cĩ thể của người phát ngơn đĩng vai người nhắn, tức người nhờ truyền tin, mà cũng cĩ thể là hành động của người được nhờ nhắn, tức nhân vật trung gian. Khi nhắn là một hành động của người phát ngơn thì nhắn cĩ khả năng trở thành vị từ ngơn hành. So sánh hai phát ngơn: – Người thương ơi em nhắn một điều Dẫu mà mai quán chiều lều cũng ưng (Ca dao) – Cậu về nhà nhắn với nhỏ Lan là mình cần gặp nĩ gấp nhé! Ví dụ thứ nhất là câu ngơn hành và nhắn là một vị từ ngơn hành. Cịn ví dụ thứ hai thì khơng phải là câu ngơn hành vì việc nhắn sẽ là hành động của ngơi thứ hai. Cần nĩi thêm là nhắn nhe khơng phải là vị từ ngơn hành vì đây là vị từ cĩ tính chất khái quát.  Nhấn mạnh: nêu bật lên để làm cho người khác quan tâm chú ý hơn. Xét ở gĩc độ ngữ dụng học, chúng ta thấy rằng nhấn mạnh khơng phải chỉ là một vị từ nĩi năng như đe dọa, mắng, nịnh,... Kèm theo các phát ngơn cĩ giá trị tương ứng với mỗi thái độ, hành động mà nhấn mạnh cịn được dùng như một vị từ ngơn hành; nĩ được thực hiện bằng chính cách nĩi nĩ ra, hay nĩi cách khác, bản thân nhấn mạnh là một hành động. Xét các ví dụ: (1) Vronky nhấn mạnh: – Anna, tơi muốn hỏi, tơi cần biết là cơ muốn gì ở tơi? (L. Tơnxtơi – Anna Karenina, Nhị Ca dịch) (2) Lời một vị lãnh đạo cơng ty: – Để thương hiệu sản phẩm cơng ty chúng ta đứng vững trên thị trường cĩ tính cạnh tranh khốc liệt này, địi hỏi chúng ta cần phải cố gắng thực hiện tốt các khâu. Ở đây, tơi nhấn mạnh vấn đề chất lượng sản phẩm. Trong hai phát ngơn trên, thì nhấn mạnh ở phát ngơn (1) chỉ là một hành động nĩi năng. Cịn ở phát ngơn (2) thì nhấn mạnh là một vị từ ngơn hành.  Nhận: Trong năm nghĩa của từ này, cĩ hai nghĩa cĩ khả năng khiến nhận trở thành vị từ ngơn hành. Nghĩa thứ nhất: đồng ý và hứa làm theo yêu cầu. Ví dụ: – Được, tớ nhận là tớ sẽ giúp cậu việc ấy! Nghĩa thứ hai: chịu là cĩ, là đúng, thừa nhận. Ví dụ: – Em xin nhận lỗi vì đã đánh bạn Lâm trong giờ Lý hơm qua. – Tớ nhận là hơm đĩ tớ cĩ hơi nĩng nảy, cậu bỏ qua cho tớ nhé!  Nhận lời: đồng ý theo lời yêu cầu hay đề nghị. Ví dụ: – Em xin nhận lời, anh yêu ạ!  Nhờ: Với nghĩa “yêu cầu người khác làm giúp cho việc gì’, nhờ cĩ khả năng làm thành một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Lan ơi, chị nhờ em bật hộ chị cái bĩng đèn lên nào! – Nhờ anh chuyển hộ tơi gĩi quà này về cho cháu. Cần lưu ý thêm là nhờ cĩ thể làm một vị từ ngơn hành nhưng nhờ cậy và nhờ vả thì khơng phải là vị từ ngơn hành. Vì đây là những từ cĩ tính chất khái quát.  Nĩi: Đây là một vị từ cĩ rất nhiều nghĩa, trong đĩ cĩ một nghĩa cĩ tính chất ngơn hành. Nghĩa đĩ được từ điển tiếng Việt giải nghĩa là: phát ra thành tiếng, thành lời để diễn đạt một nội dung nhất định trong giao tiếp. Xét theo lý thuyết hành động ngơn từ, với nghĩa trên, nĩi vừa là một vị từ nĩi năng vừa cĩ khả năng làm thành một vị từ ngơn hành. Ở đây, chúng tơi chỉ xét trường hợp nĩi là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Tơi nĩi cho cơ biết tơi khơng phải là thằng ở của cái nhà này. (Nguyễn Khải – Một trường hợp ly dị) Trong phát ngơn trên thì nĩi là một vị từ ngơn hành. Tuy nhiên cĩ những trường hợp nĩi là một vị từ nĩi năng nhưng rất dễ nhầm lẫn với vị từ ngơn hành. Chẳng hạn, ta xét đoạn đối thoại sau: Anh chồng to giọng: – Cơ mà khơng đoảng thì cịn ai đoảng? (1) Vợ anh nhìn anh ngỡ ngàng, rồi chị hỏi lại: – Cĩ phải anh vừa nĩi tơi là người rất đoảng, phải khơng? (2) Anh hét lên: – Tơi nĩi! Tơi nĩi! Tơi nĩi chứ cịn ai nĩi! (3) (Nguyễn Khải – Một trường hợp ly dị) Trong phát ngơn (3) nĩi là một vị từ nĩi năng chứ khơng phải là một vị từ ngơn hành. Vì câu nĩi Tơi nĩi của anh chồng cĩ ý nghĩa là “Tơi đã nĩi”. Điều mà anh ta đã nĩi chính là phát ngơn (1). Như vậy phát ngơn (3) là một chuỗi câu tường thuật chứ khơng phải là những câu ngơn hành.  Phản bác: gạt bỏ quan điểm, ý kiến của người khác bằng lí lẽ. Theo như cách giải nghĩa trên đây thì phản bác chưa phải là vị từ ngơn hành vì sự phản bác phải được thực hiện bằng lí lẽ. Nhưng nhiều dẫn chứng cho thấy phản bác cịn là biểu thức ngơn hành. Ví dụ: – Tơi phản bác luận điệu vu cáo đĩ! – Tơi phản bác ý kiến đĩ của anh! Trong hai phát ngơn trên, thì chủ thể phát ngơn đang thực hiện việc phản bác bằng cách nĩi nĩ ra, và như vậy phản bác là một vị từ ngơn hành.  Phản đối: chống lại bằng hành động hoặc lời nĩi. Ví dụ: – Tơi phản đối chính sách Apacthai, chính sách đĩ đã cắt ngang xã hội Nam Phi mà khơng dựa trên cơ sở luân lý, đạo đức nào! (Trích Gerald Gordon – Hãy để ngày ấy lụi tàn, Hồng Túy và Đắc Lê dịch)  Phạt: bắt phải chịu một hình thức xử lý nhất định vì phạm lỗi. Ví dụ: Cơ giáo nĩi với một học sinh vi phạm: – Cơ phạt em phải viết kiểm điểm vì tội đánh nhau trong lớp. Hay: Lời chủ tọa phiên tịa: – Tịa phạt bị cáo Nguyễn Văn A hai năm tù ngồi. Trong hai phát ngơn trên, thì phạt là một vị từ ngơn hành.  Phân cơng: giao cho (ai đĩ) làm một việc nhất định nào đĩ. Ví dụ: – Tơi phân cơng thầy Hùng làm giáo viên chủ nhiệm lớp 10A1. – Mẹ phân cơng chị Hoa tưới rau cịn em Nụ cho lợn ăn, chiều mẹ về mà hai chị em làm khơng xong là cĩ địn đấy! Rõ ràng trong hai phát ngơn trên thì phân cơng là một vị từ ngơn hành.  Phê bình: Đây là một vị từ cĩ nhiều nghĩa. Nghĩa thứ nhất: xem xét, phân tích đánh giá ưu điểm và khuyết điểm. Nghĩa thứ hai là: nêu lên khuyết điểm để gĩp ý kiến để chê trách. Nghĩa thứ ba là: nhận xét và đánh giá, làm cơng việc gọi là phê bình học. Nếu căn cứ theo ba nghĩa trên thì phê bình chưa phải là một vị từ ngơn hành. Trong lời ăn tiếng nĩi hằng ngày, chúng ta cịn thấy người ta phê bình bằng cách nĩi câu cĩ từ phê bình ra: Ví dụ: – Tơi phê bình thái độ thiếu trách nhiệm của đồng chí. Chính là ơng ta đang thực hiện việc phê bình. Và đây chính là trường hợp mà phê bình trở thành một vị từ ngơn hành.  Phê phán: vạch ra cái sai trái để tỏ thái độ khơng đồng tình hoặc lên án. Người ta cĩ thể phê phán bằng những phát ngơn khơng cĩ vị từ phê phán nhưng trong trường hợp mà người ta phê phán bằng cách trực tiếp nĩi nĩ ra trong điều kiện của câu ngơn hành thì nĩ là vị từ ngơn hành. Ví dụ: Cơ giáo nĩi trước lớp sau một kỳ thi học kỳ kém chất lượng: – Cơ phê phán thái độ học tập thiếu trách nhiệm của các em! Hay: – Tơi phê phán kiểu làm ăn theo lối bao cấp của các anh! Trong hai phát ngơn trên, thì phê phán là một vị từ ngơn hành.  Phỉ thui: Đây là một vị từ cĩ tính chất khẩu ngữ mang ý nghĩa bác bỏ, cĩ lẽ cĩ nguồn gốc từ một cảm thán từ (giống như lêu lêu, hoan hơ). Vị từ này khơng thấy ghi nhận trong từ điển tiếng Việt. Người ta thường dùng phỉ thui để quở trách một ý kiến nào đĩ bị cho là xui xẻo, khơng may mắn. Ví dụ: – Phỉ thui cái mồm anh! Cứ hễ mở miệng là nĩi gở!  Phủ nhận: khơng thừa nhận là đúng, là cĩ thật. Phủ nhận thường là vị từ nĩi năng, nhưng trong nhiều trường hợp, nĩ là một vị từ ngơn hành. Ví dụ: – Tơi phủ nhận tin đồn đĩ! – Tơi phủ nhận lời khai của bị cáo A vì lời khai đĩ khơng đúng sự thực. Trong hai phát ngơn trên thì phủ nhận là một vị từ ngơn hành.  Quy địn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVNNH020.pdf
Tài liệu liên quan