Luận văn Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp: LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp MỞ ĐẦu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của nền kinh tế, nhu cầu vốn đã trở nên vô cùng cấp thiết cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động của các ngân hàng thương mại đã trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình phát triển đó. Kể từ khi chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại hình, mạng lưới, quy mô hoạt động và năng lực tài chính, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền. Ngoài hệ thống ngân hàng quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh,… Các nghiệp vụ cũng đổi mới và từng bước hiện đại hóa, tiếp cận với công nghệ và thông lệ quốc tế...

pdf86 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp MỞ ĐẦu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của nền kinh tế, nhu cầu vốn đã trở nên vô cùng cấp thiết cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động của các ngân hàng thương mại đã trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình phát triển đó. Kể từ khi chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại hình, mạng lưới, quy mô hoạt động và năng lực tài chính, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền. Ngoài hệ thống ngân hàng quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh,… Các nghiệp vụ cũng đổi mới và từng bước hiện đại hóa, tiếp cận với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng, ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên trong bối cảnh môi trường kinh tế vĩ mô đang trong thời kỳ chưa ổn định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các NHTM đang gặp rất nhiều khó khăn, nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi còn lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng, để từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài và được nhiều người quan tâm tới. Nói như vậy bởi lẽ, trong điều kiện hiện nay hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản nhất, chủ yếu nhất trong toàn bộ các hoạt động của NHTM. Hoạt động đó đã tạo ra phần lớn tài sản trong tổng tài sản của các NHTM và là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chính của mỗi NHTM dưới hình thức thu nhập từ lãi cho vay. Tuy nhiên hoạt động này luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, có thể gây tổn thất lớn, dẫn đến mất khả năng thanh toán hay phá sản ngân hàng. Chính vì vậy mà "chất lượng tín dụng" luôn là vấn đề "sống, còn" trong hoạt động kinh doanh mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đặc biệt quan tâm trong suốt quá trình tồn tại và phát triển. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Việt Nam - Chi nhánh Nam Hà Nội là chi nhánh được thành lập từ tháng 05 năm 2001. Là một chi nhánh mới, lại hoạt động trên địa bàn Thủ đô - Trung tâm kinh tế chính trị của cả nước. Đây vừa là một môi trường hấp dẫn, vừa là tiềm năng lớn trong kinh doanh nhưng đồng thời cũng là một thách thức không nhỏ đối với chi nhánh. Hoạt động trên cùng một địa bàn với nhiều NHTM lớn, sự cạnh tranh trong kinh doanh là không tránh khỏi. Song, kể từ khi thành lập đến nay, Chi nhánh đã từng bước phấn đấu, ngày một hoàn thiện hơn và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, có tốc độ phát triển tương đối nhanh về mọi mặt, đã khẳng định được vị trí trên thị trường. Tuy vậy trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội hiện nay hoạt động tín dụng của chi nhánh cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới, tiềm ẩn rủi ro lớn trong kinh doanh. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tín dụng, cùng với những kiến thức đã học tập và nghiên cứu tại trường và quá trình làm việc thực tế, tôi quyết định chọn đề tài "Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp" để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài - Nghiên cứu và làm rõ hơn cơ sở lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng của các NHTM trong nền kinh tế thị trường. - Khảo sát một cách toàn diện và có hệ thống về thực trạng chất lượng tín dụng của Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội trong thời gian qua và kinh nghiệm của một số NHTM các nước trong việc nâng cao chẩt lượng tín dụng. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: + Các lý luận cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường. + Thực trạng chất lượng tín dụng cho vay của NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội. - Phạm vi nghiên cứu: các hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Nam Hà Nội trong khoảng thời gian từ 2008 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp thống kê, thu thập tài liệu trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tín dụng và chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Nam Hà Nội. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Nam Hà Nội. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.1.1. Khái niệm Trong nền kinh tế hàng hóa tiền tệ, do tính chất vận động của các nguồn vốn hàng hóa, tiền tệ và sự độc lập tương đối của tiền tệ, nên tất yếu nảy sinh mâu thuẫn tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn tiền tệ. Để giải quyết căn bản mâu thuẫn đó tín dụng đã xuất hiện như là một hiện tượng tất yếu khách quan. Biểu hiện bên ngoài của quan hệ tín dụng trước hết đó là sự chuyển giao quyền sử dụng vốn theo thời hạn giữa chủ thể sở hữu chúng nhưng chưa có nhu cầu sử dụng với chủ thể đang có nhu cầu sử dụng nhưng chưa có đủ khả năng tạo lập. Hay nói một cách cụ thể hơn tín dụng được biểu hiện trước hết là sự vay, mượn tạm thời một số vốn tài sản hàng hóa hay tiền tệ mà qua đó người đi vay có thể có được quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định theo cam kết giữa các bên. Như vậy quan hệ tín dụng là một quan hệ xã hội biểu hiện thông qua các liên hệ về kinh tế, trong đó yếu tố lòng tin được xem như đặc trưng cơ bản nhất. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự hoàn chỉnh của thị trường, từ thấp tới cao quan hệ tín dụng cũng ngày càng phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Trong nền kinh tế thị trường đã và đang tồn tại nhiều hình thức tín dụng như: tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng ngân hàng và các hình thức tín dụng kết hợp khác... Tuy nhiên tín dụng ngân hàng với các đặc trưng riêng vẫn được coi là hình thức tín dụng cơ bản và giữ vai trò quan trọng nhất trong hệ thống tín dụng. Vậy có thể hiểu: Tín dụng ngân hàng là các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ phát sinh giữa các ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả theo thời hạn. 1.1.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường Hoạt động tín dụng luôn được coi là hoạt động cơ bản và bao trùm nhất trong toàn bộ các hoạt động kinh doanh của các NHTM bởi nó là hoạt động tạo ra phần lớn các tài sản của ngân hàng (dưới hình thức các khoản cho vay) và cũng là hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu của các NHTM. Tuy nhiên, kinh doanh tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường phải đối mặt với nhiều áp lực như: sự cạnh tranh của thị trường, các yếu tố kinh tế vĩ mô, mức độ hấp thụ vốn, chất lượng của nền kinh tế cùng với nhiều quan hệ xã hội khác,… nên hoạt động tín dụng thường xuyên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bởi mục tiêu cao nhất của mọi chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đều là phải tối đa hóa lợi nhuận, mà một trong các yêu cầu cơ bản nhất để thực hiện mục tiêu đó là phải thỏa mãn nhu cầu vốn kinh doanh. Do đó vì mục tiêu lợi nhuận, các NHTM thường phải tối đa hóa khả năng huy động vốn và cho vay, cũng vì lợi nhuận các khách hàng của NHTM cũng cần thiết tối đa hóa khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên cả NHTM và các khách hàng của NHTM đều bị chi phối bởi các yếu tố từ bên trong và các yếu tố từ bên ngoài nền kinh tế, nên nhiều khi trong hoạt động nảy sinh mâu thuẫn trong sử dụng vốn là điều tất yếu sẽ xảy ra. Với chức năng cơ bản là "trung gian tín dụng" của nền kinh tế, các NHTM đã thực hiện giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó bằng cách là thực hiện tập trung các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, và sử dụng chính các nguồn tiền tệ đó hình thành nên quỹ cho vay để thỏa mãn các nhu cầu vốn tạm thời thiếu cho xã hội. Như vậy, phương châm hoạt động cơ bản của NHTM trong nền kinh tế thị trường là "đi vay để cho vay". 1.1.3. Đặc điểm chủ yếu của tín dụng ngân hàng - Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tức là: các ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay. Khi huy động, các ngân hàng sử dụng các hình thức huy động khác nhau để thu hút mọi nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi để tạo lập nguồn vốn kinh doanh, lúc này ngân hàng đóng vai trò là người đi vay lớn nhất trong nền kinh tế. Khi cho vay, các ngân hàng lại dùng chính nguồn vốn đã huy động được để cho vay lại đối với nền kinh tế, lúc này ngân hàng lại đóng vai trò là người cho vay lớn nhất trong nền kinh tế. - Huy động vốn và cho vay của NHTM đều chủ yếu thực hiện dưới hình thức tiền tệ: trong quan hệ tín dụng ngân hàng, các ngân hàng bằng cơ chế thích hợp, huy động các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo ra quỹ cho vay của ngân hàng. Như vậy, tiền ở đây là công cụ thực hiện tín dụng, đó là loại tiền tín dụng hay còn gọi là công cụ lưu thông tín dụng ngân hàng. - Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Vốn tín dụng là bộ phận không thể thiếu trong quá trình vận động của mọi hoạt động xã hội nói chung và các hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng. Tuy nhiên, do tính độc lập tương đối của tiền tệ trong mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cho nên người ta thường quan niệm vốn tín dụng ngân hàng có tính độc lập tương đối với quá trình tái sản xuất xã hội. Bởi vì trong quá trình vận động, vốn tín dụng ngân hàng có thể tham gia vào bất cứ một giai đoạn nào của chu kỳ vận động, song dường như đều dễ nhìn thấy đó là ở giai đoạn đầu (dưới hình thức các nhu cầu chi phí bằng tiền) và giai đoạn kết thúc (dưới hình thức các khoản thu nhập bằng tiền của quá trình tái sản xuất). Do đó khi nền kinh tế ở trạng thái cân bằng (cân đối hàng hóa - tiền tệ) nguồn vốn tín dụng vận động theo sự vận động của các nguồn vốn của quá trình tái sản xuất (T - H hoặc H - T). Nhưng khi nền kinh tế phát triển đến một mức nhất định tất yếu nảy sinh mâu thuẫn trong quá trình chu chuyển vốn là nhu cầu vốn bằng tiền không tương thích với nhu cầu hàng hóa trong trao đổi. Khi đó với chức năng "trung gian tín dụng" và với các công cụ huy động vốn, cho vay, thanh toán để góp phần đưa nền kinh tế về trạng thái cân bằng theo các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Do đó, có thể khẳng định sự vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng chịu sự tác động và phụ thuộc vào quá trình vận động của quá trình tái sản xuất xã hội, nhưng có tính độc lập tương đối với quá trình đó. Cho nên trong thực tế tín dụng ngân hàng thường được coi là một công cụ hữu hiệu để thúc đẩy tăng trưởng, hoặc điều chỉnh, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. - Phạm vi hoạt động của tín dụng ngân hàng là toàn bộ nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường hầu như mọi quan hệ trao đổi đều có thể "tiền tệ hóa ", do vậy với công cụ thực hiện chủ yếu là "quyền sử dụng tiền tệ" nên tín dụng ngân hàng có thể tham gia vào mọi quan hệ xã hội. Điều đó được biểu hiện ra bên ngoài là các NHTM có thể thực hiện huy động vốn tiền tệ, cho vay vốn và cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho hầu hết mọi chủ thể trong xã hội. Có nghĩa là tín dụng ngân hàng có thể thỏa mãn nhu cầu sử dụng tiền cho mọi đối tượng, mọi phạm vi, mọi khoảng thời gian của toàn xã hội. Tuy nhiên sự thỏa mãn đó phải nằm trong sự điều chỉnh chung của nhà nước và sự ràng buộc của pháp luật trong từng giai đoạn, tình hình cụ thể của nền kinh tế. 1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng Trong nền kinh tế hiện đại, các NHTM phân loại tín dụng theo các tiêu thức cơ bản sau: 1.1.4.1. Theo mục đích sử dụng tiền vay Căn cứ vào tiêu thức này người ta chia tín dụng ra thành hai loại: - Tín dụng đối với sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại cấp tín dụng cho các đơn vị kinh doanh để tiến hành sản xuất lưu thông hàng hóa. - Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa lâu bền như máy giặt, điều hòa, tủ lạnh,… 1.1.4.2. Theo thời hạn sử dụng tiền vay Theo cách này tín dụng ngân hàng được phân làm ba loại: - Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp. Nó có thể được vay cho những sinh hoạt cá nhân. - Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1 - 5 năm. Loại tín dụng này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật công nghệ, mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. - Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 5 năm trở lên, loại tín dụng này dùng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng các công trình mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn. Tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một phần bổ sung cho vốn lưu động thường xuyên 1.1.4.3. Theo hình thức đảm bảo tiền vay Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia thành hai loại: - Đảm bảo bằng tài sản: là loại tín dụng được ngân hàng cung cấp với điều kiện phải có tài sản đảm bảo như thế chấp, cầm cố, hoặc cần có bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng khi vay vốn đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo, sự đảm bảo này là căn cứ kinh tế để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù đắp lại khoản tiền vay trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ. - Đảm bảo không bằng tài sản: là loại tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không cần đòi hỏi nguồn thu nợ bổ sung. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng trong việc truy đòi các khoản nợ có vấn đề phát sinh. 1.1.4.4. Theo thành phần kinh tế - Tín dụng đối với thành phần kinh tế nhà nước. - Tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Ngoài ra tín dụng có thể phân theo: loại tiền, phạm vi quốc gia, cơ cấu vốn tín dụng tham gia, đối tượng tạo lập của vốn vay. 1.1.5. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường Tín dụng là mối quan hệ kinh tế nên tín dụng có tác động nhất định đối với hoạt động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức và vận dụng quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý kinh tế của con người. Tín dụng ngân hàng ra đời xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn trong nền kinh tế luôn làm phát sinh hiện tượng có những chủ thể tạm thời thừa vốn và những chủ thể khác tạm thời thiếu vốn. Tín dụng ngân hàng đã giải quyết được mâu thuẫn giữa cung cầu về vốn, là sự cần thiết khách quan phù hợp với sự vận động vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Khối lượng tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế, ngày càng giữ vị trí quan trọng đối với lĩnh vực sản xuất và lưu thông hàng hóa cũng như lưu thông tiền tệ. Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường được cụ thể hóa bằng các vai trò sau đây. 1.1.5.1. Đối với bản thân ngân hàng - Tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại nguồn thu nhập cho ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động tín dụng được hình thành chủ yếu bởi chênh lệch giữa lãi cho vay với lãi suất huy động và một số các khoản phí khác theo quy định, khoản thu nhập này là phần thu nhập đáng kể trong tổng thu nhập của các NHTM. Đặc biệt ở các nước chưa có thị trường vốn phát triển thì hoạt động cho vay truyền thống vẫn được coi như hoạt động bao trùm nhất trong kinh doanh của NHTM. Do đó thu nhập từ cho vay có thể được xem như khoản thu nhập chính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, Tuy nhiên hoạt động tín dụng lại là hoạt động tiềm ẩn rủi ro lớn nhất trong kinh doanh ngân hàng nên các NHTM thường rất coi trọng và nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng. - Hoạt động tín dụng góp phần đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của ngân hàng, giúp ngân hàng mở rộng đối tượng và phạm vi đầu tư từ đó giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trước hết chúng ta thấy quan hệ tín dụng là quan hệ lớn nhất và quan trọng nhất trong các quan hệ với khách hàng của ngân hàng. Mặt khác thông qua hoạt động tín dụng các ngân hàng có thể tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích cung ứng cho chính bản thân họ. Thông qua hoạt động huy động vốn (nhất là hoạt động tiền gửi) ngân hàng có thể tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ tiền tệ như: dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ thu hộ, chi hộ, dịch vụ ủy thác, dịch vụ két sắt,… và các dịch vụ tiền tệ khác có liên quan. Thông qua hoạt động cho vay ngân hàng có thể tạo ra các dịch vụ liên quan như: dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ kinh doanh chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ,… Nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển thì hầu hết các NHTM đều xây dựng chiến lược phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại để lần lượt thay thế cho các sản phẩm kinh doanh truyền thống, và coi đây là chiến lược kinh doanh chủ yếu nhất trên thị trường. 1.1.5.2. Đối với khách hàng - Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để quá trình sản xuất được liên tục: Trong nền kinh tế, có nhiều chủ thể kinh tế hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau, mỗi chủ thể, mỗi ngành kinh tế lại có chu kỳ sản xuất khác nhau, trong khi đó, quá trình tái sản xuất xã hội lại diễn ra liên tục trên cơ sở phân công lao động và hợp tác trong toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, tất yếu xảy ra tình trạng nơi tạm thời thừa vốn, nơi tạm thời thiếu vốn. Với tư cách là trung gian tài chính, các ngân hàng tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, và cho vay đối với các thành phần đang tạm thời thiếu vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục. Điều này có nghĩa là tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động theo phương châm "đi vay để cho vay", tín dụng ngân hàng không những đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra bình thường, mà còn đẩy nhanh quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa, mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ sản xuất mới, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. - Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh thêm năng động và có hiệu quả hơn: Hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng vận động để phù hợp với những biến động của thị trường. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của mình doanh nghiệp phải đi vay ngân hàng và phải hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định, do đó doanh nghiệp cần tìm hiểu và đầu tư vốn vào những ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận cao, qua đó vừa duy trì được hoạt động của mình, vừa hoàn trả được vốn vay ngân hàng. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển vốn, góp phần thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh. Tín dụng ngân hàng thực sự là công cụ kinh tế quan trọng góp phần tạo ra các nguồn vốn hỗ trợ hữu hiệu, và các sản phẩm dịch vụ tiện ích phục vụ đắc lực cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời nó cũng là công cụ điều tiết có hiệu quả của nhà nước để tác động vào mọi hoạt động kinh doanh theo các mục tiêu chung của nền kinh tế, từ đó làm cho các hoạt động kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động và linh hoạt hơn. 1.1.5.3. Đối với nền kinh tế Quá trình hình thành và phát triển của tín dụng cho thấy vai trò quan trọng của hoạt động tín dụng trong nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế hiện nay. Hoạt động tín dụng tồn tại khách quan với tư cách là người mở đường, người tham gia quyết định mọi quá trình sản xuất, tập trung nguồn vốn nhàn rỗi ngoài lưu thông dưới dạng tiết kiệm đem lại đầu tư để phục vụ phát triển kinh tế. - Hoạt động tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế: Là trung gian điều hòa cung cầu về vốn cho nền kinh tế, hoạt động tín dụng là cầu nối giữa các dòng vốn tạm thời thừa với các nhu cầu vốn tạm thời thiếu. Qua thực tế chúng ta có thể nhận thấy khi các quan hệ hàng hóa - tiền tệ ngày càng phát triển thì các quan hệ về tín dụng cũng ngày càng phát triển, ngược lại các quan hệ tín dụng phát triển ngày càng đa dạng và phong phú là điều kiện hỗ trợ và kích thích các quan hệ hàng hóa - tiền tệ cũng phát triển hơn. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không thể chỉ dựa vào nguồn vốn tự có. Bởi lẽ trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể thừa vốn ở giai đoạn này nhưng lại thiếu vốn ở giai đoạn khác. Trong quá trình chu chuyển vốn đó tình trạng tạm thời thừa và thiếu vốn có thể xuất hiện trong nhiều khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Song xu thế chung cho ta thấy tình trạng thiếu vốn trong ngắn hạn và cả trong dài hạn ở các doanh nghiệp là mang tính phổ biến. Bởi hoạt động tín dụng ngân hàng có tính bao trùm cả xã hội do đó các NHTM có thể "mua về" và "bán ra" với một khối lượng vốn lớn tương đương với cả tổng nguồn vốn đầu tư trong xã hội theo quan hệ cung - cầu vốn tín dụng. Qua đó NHTM có thể tiếp nhận được hầu hết mọi nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội và lại dùng chính nguồn vốn đó để thỏa mãn các nhu cầu vốn tạm thời thiếu cho chính các chủ thể đó, khi có quan hệ vay vốn với ngân hàng, vì vậy khả năng thỏa mãn các nhu cầu vốn qua kênh tín dụng lớn hơn nhiều so với các kênh phân phối khác. Mặt khác thông qua sự vận dụng lãi suất linh hoạt (cả lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay) và các công cụ khác, tín dụng ngân hàng còn góp phần định hướng đầu tư, xác định hiệu quả kinh doanh một cách cụ thể, giúp cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực quản trị, và có thể lượng hóa rõ hơn các rủi ro có thể xảy ra trong sản xuất kinh doanh. Đồng thời cũng có thể thông qua tín dụng ngân hàng, nhà nước có thể vận dụng nhiều biện pháp ưu đãi cho doanh nghiệp (hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh, cho vay chỉ định,…) để giải quyết các khó khăn về tài chính trong điều kiện nền kinh tế có những biến động lớn. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thị trường vốn ngắn hạn. Thông qua việc huy động vốn và cho vay tín dụng đã góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn xã hội thông qua việc điều tiết các vốn chậm sang chỗ có vòng chu chuyển vốn nhanh hơn. Đồng thời thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng có thể tạo ra nhiều công cụ lưu thông (như kỳ phiếu ngân hàng) và nhiều dịch vụ tiện ích (chiết khấu, bao thanh toán, bảo lãnh,…) phục vụ đắc lực cho quá trình vận động vốn của mọi chủ thể trên thị trường. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển mở rộng thị trường vốn ngắn hạn. - Hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, đáp ứng các nhu cầu trao đổi: Ngân hàng trung ương (NHTW) thông qua quan hệ tín dụng để điều tiết khối lượng cho vay tại các tổ chức tín dụng (TCTD). Với vai trò là người cho vay cuối cùng, việc mở rộng hay thu hẹp cửa sổ chiết khấu sẽ ảnh hưởng đến quy mô tín dụng, từ đó sẽ tác động đến khối lượng cho vay của các TCTD. Thông qua hoạt động tín dụng, NHTW có thể sử dụng NHTM như là chiếc "cầu nối" giữa nhà nước với thị trường thông việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để từ đó có thể điều tiết được khối lượng tiền cung ứng. Đồng thời thông qua hoạt động của NHTM, NHTW có thể thu nhận các dấu hiệu, các thông tin thị trường để từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời và phù hợp với thực tế về cung - cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong nền kinh tế đang có lạm phát hay bất ổn định. Như vậy, NHNN thông qua cửa sổ chiết khấu đã tác động tới khối lượng cho vay của các TCTD, từ đó quản lý được lượng tiền mặt trong lưu thông nhằm đạt được các mục tiêu như mong muốn. Hoạt động điều tiết được thực hiện bởi việc thực thi chính sách tiền tệ thông qua các công cụ như lãi suất, tái chiếu khấu, hoạt động thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán… Chính phủ có thể kiểm soát được lượng tiền trong lưu thông, kiềm chế lạm phát và ổn định sức mua của đồng tiền. - Tín dụng ngân hàng là góp phần thúc đẩy việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để có thể đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị và khoa học công nghệ thì cần phải có vốn. Việc đầu tư này ngoài nguồn vốn của ngân sách nhà nước (NSNN) thì cũng có một phần vốn đóng góp không nhỏ của các TCTD. Thực tế cho thấy ở các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam thì tín dụng ngân hàng là một công cụ tài trợ đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Tín dụng ngân hàng là công cụ thực hiện chính sách xã hội: Các chính sách xã hội có thể được tài trợ bởi phương thức tài trợ không hoàn lại NSNN. Tuy nhiên, phương thức này thường bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả và gây lãng phí nguồn lực. Vì thế hiện nay phương thức tài trợ không hoàn lại đã bị thay thế dần bởi phương thức tài trợ có hoàn lại. Thông qua phương thức này, các mục tiêu chính sách được đáp ứng một cách chủ động và có hiệu quả hơn. Mặt khác thông qua việc sử dụng các công cụ tín dụng như lãi suất, thời hạn, hạn mức tín dụng,… đã tác động mạnh vào các đối tượng chính sách được tài trợ buộc phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn thì kỹ năng lao động của họ cũng được cải thiện từng bước. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho sự ổn định tài chính của các đối tượng chính sách và từng bước làm cho họ có thể tồn tại độc lập với các nguồn tài trợ. - Hoạt động tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển và mở rộng kinh tế đối ngoại: Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì hoạt động sản xuất hàng hóa càng đa dạng và phong phú. Các doanh nghiệp không chỉ bó hẹp quan hệ kinh doanh trong phạm vi một quốc gia mà đã mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp nước ngoài. Nhờ có hoạt động tín dụng mà cụ thể hơn là bảo lãnh ngân hàng đã tạo cơ hội cho sự phát triển của các doanh nghiệp, nâng cao vị thế của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế, từ đó mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đa số các NHTM hiện nay đều mở các ngân hàng đại lý bên nước ngoài để phục vụ khách hàng quốc tế trong hoạt động thanh toán thẻ, cho vay cá nhân và các tổ chức nước ngoài. Tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện để nối liền kinh tế của các nước với nhau. Đặc biệt với các nước đang phát triển, tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa đồng thời nhờ nguồn vốn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tóm lại, trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển tín dụng ngân hàng luôn được coi là một trong các biện pháp cơ bản để điều hòa các dòng vốn trong xã hội và đáp ứng các yêu cầu trong sử dụng vốn của nền kinh tế. Thực tế cho chúng ta thấy tín dụng ngân hàng thực sự là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, giữa tiêu dùng và sản xuất, giữa trong nước và quốc tế,… Do vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung, chất lượng tín dụng ngân hàng nói riêng không chỉ là vấn đề quan tâm của các NHTM mà thực sự là vấn đề lớn của cả nền kinh tế trong điều kiện hiện nay. 1.2. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.2.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng ngân hàng Chất lượng của hàng hóa là yếu tố cơ bản quyết định đến sự thành công hay thất bại của các nhà sản xuất. Do vậy, để một sản phẩm hàng hóa được thị trường chấp nhận thì sự hấp dẫn về hình thức của sản phẩm như tên gọi, bao bì, nhãn mác,… là điều luôn được người tiêu dùng quan tâm, song điều quan trọng hơn cả đó là chất lượng của sản phẩm. Bởi chất lượng sản phẩm mới thực sự là sự thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng và là cái đích của nhà sản xuất, cung ứng vươn tới để đạt mục tiêu của hoạt động. Như vậy, có thể quan niệm rằng chất lượng của sản phẩm hàng hóa là khả năng thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng đối với sản phẩm mà nhà sản xuất, cung ứng theo mục tiêu định sẵn và đáp ứng được yêu cầu chung của thị trường. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nên tất yếu cũng phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm của mình, đặc biệt là chất lượng tín dụng. Bởi vì tín dụng là một trong các hoạt động chính của ngân hàng, đem lại phần lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nên việc đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Vậy, Chất lượng tín dụng là sự thỏa mãn các nhu cầu của các bên liên quan (khách hàng, bản thân ngân hàng và nền kinh tế nói chung) đến hoạt động tín dụng của NHTM. Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (có thể đo lường qua các chỉ tiêu định lượng như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn,…), vừa trừu tượng (có thế được xem xét thông qua những chỉ tiêu định tính như khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế,…). Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của cả một quá trình phối kết hợp hoạt động của ngân hàng và các khách hàng vì một mục đích chung. Do đó để đạt được chất lượng cần có sự quản lý khoa học và chặt chẽ. Đặc biệt là phải có chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp với điều kiện của thị trường trong từng thời kỳ nhất định. Do đó chúng ta có thể nhận thức về chất lượng tín dụng trên nhiều góc độ khác nhau: * Đối với ngân hàng: Chất lượng tín dụng trước hết phải nói đến tính an toàn của khoản vay, việc đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ và đúng hạn của khách hàng, sau đó là sự mang lại lợi nhuận cho chính bản thân ngân hàng. Điều đó có nghĩa là chất lượng tín dụng phải được thể hiện ở sự gia tăng lợi nhuận, sự tăng trưởng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng mức quy định và ngày càng giảm, sự cân đối giữa nguồn vốn với dư nợ của ngân hàng, sự hợp lý của cơ cấu tín dụng,… * Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng được hiểu là sự phù hợp của khoản tín dụng với nhu cầu vay vốn của khách hàng tức là khách hàng được vay với lãi suất và kỳ hạn hợp lý. Ngoài ra, thủ tục cho vay đơn giản, đảm bảo tiết kiệm thời gian và chi phí cho khách hàng nhưng vẫn tuân thủ đúng các nguyên tắc và các quy định của pháp luật về tín dụng. * Đối với nền kinh tế: Chất lượng tín dụng thể hiện ở việc tạo ra hiệu quả kinh tế và cải thiện đời sống xã hội. Cụ thể: chất lượng tín dụng được nâng cao phải góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, qua đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội, tăng thu nhập cho dân cư, và tăng nguồn thu cho NSNN. Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng đối với sự thay đổi của thị trường, phản ánh sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc giảm được rủi ro tín dụng, nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả, an toàn và lành mạnh, góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng là vô cùng cần thiết. Tóm lại, để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. Hay nói cách khác, chất lượng tín dụng tương quan tỷ lệ với hiệu quả và độ tin cậy. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân tồn tại về chất lượng sẽ giúp ngân hàng tìm được những biện pháp quản lý thích hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động, đứng vững trong nền kinh tế thị trường sôi động và cạnh tranh gay gắt như hiện nay. 1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại Ở bất cứ một lĩnh vực kinh doanh nào, một mức lợi nhuận hứa hẹn càng lớn thì rủi ro tiềm ẩn càng cao, hoạt động trong lĩnh vực tài chính với những đối thủ riêng biệt buộc các ngân hàng phải đối mặt với không ít rủi ro. Vì thế, các NHTM không còn cách nào khác là phải kiểm soát chặt chẽ hiệu quả hoạt động của mình, đặc biệt là vấn đề chất lượng tín dụng. Nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ có ý nghĩa lớn lao đối với ngân hàng mà còn đem lại những mặt tích cực cho khách hàng và cho toàn bộ nền kinh tế. Ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp, vì thế mục tiêu hoạt động cũng là lợi nhuận, lợi nhuận cao và bền vững luôn là cái đích mà các NHTM hướng tới. Tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng, vì vậy muốn tăng trưởng thu nhập, không thể không chú ý đến chất lượng tín dụng. Một chất lượng tín dụng tốt sẽ là cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng, tạo đà cho sự tăng trưởng ổn định của ngân hàng. Thêm vào đó sẽ giải quyết tốt mối quan hệ giữa an toàn và sinh lời. Khi nâng cao được chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc sản xuất kinh doanh phát triển, từ đó nâng cao được đời sống vật chất của dân chúng và góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, kiềm chế và kiểm soát lạm phát. Ngoài ra nâng cao chất lượng tín dụng còn thúc đẩy phát triển các mối quan hệ đối ngoại. Tín dụng có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế xã hội. Để có chất lượng tín dụng tốt ngoài sự nỗ lực của bản thân các NHTM thì đòi hỏi nền kinh tế phải ổn định với các cơ chế chính sách phù hợp, sự phối hợp nhịp nhàng và có hiệu quả giữa các cấp, các ngành tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tín dụng. 1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại 1.2.3.1. Các chỉ tiêu định tính - Để bảo đảm nguyên tắc cho vay, mỗi tổ chức kinh tế hoạt động đều dựa trên một nguyên tắc nhất định. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế, xã hội của đất nước, do vậy các nguyên tắc hoạt động của ngân hàng rất chặt chẽ. Với mỗi ngân hàng lại có những nguyên tắc khác nhau. Thực tiễn nguyên tắc cho vay là một yêu cầu quan trọng đối với hoạt động cho vay, là căn cứ pháp lý cơ bản để đảm bảo sự hoạt động vững chắc của mọi ngân hàng. Vì vậy để đánh giá chất lượng một khoản vay điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc vay hay không. Nguyên tắc cơ bản của cho vay là: + Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn kinh doanh của ngân hàng là nguồn vốn huy động từ nền kinh tế. Nguyên tắc hoàn trả phản ánh đúng bản chất quan hệ tín dụng, tính chất của tín dụng sẽ bị phá vỡ nếu nguyên tắc này không được thực hiện đầy đủ. Nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, các khoản tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp không được hoàn trả đúng hạn nhất định sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng. Do đó, khách hàng khi vay vốn phải cam kết trả cả gốc và lãi trong một thời hạn nhất định, cam kết này được ghi trong khế ước vay nợ. Tín dụng đúng mục đích không những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của tín dụng. Quan hệ tín dụng phản ánh nhu cầu về vốn và lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng là cơ sở để doanh nghiệp tính toán các yếu tố hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời nó cũng là một trong những yếu tố đảm bảo khả năng trả nợ của ngân hàng. Để thực hiện nguyên tắc này, ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng tiền vay đúng mục đích như đã cam kết trong hợp đồng, bởi vì mục đích đó đã được ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, trường hợp khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn. + Người đi vay phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Một trong những yếu tố giúp cho việc thực hiện nguyên tắc này là triển khai cho vay ngân hàng phải xác định chính xác thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay được xác định kể từ khi người vay nhận khoản vốn vay đầu tiên cho đến khi người vay trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận cho vay căn cứ vào: Chu kỳ sản xuất kinh doanh của người đi vay. Thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư. Khả năng trả nợ của khách hàng. Tính chất thời hạn nguồn vốn hiện có để cho vay của ngân hàng. Thông qua đó sẽ quy định rõ thời hạn khách hàng trả tiền lãi, tiền gốc cho ngân hàng. Việc xác định thời hạn cho vay sẽ gắn liền với trách nhiệm của người vay với khoản vay, buộc họ phải sử dụng vốn vay kinh doanh có hiệu quả trong khoảng thời gian đó. Việc xác định thời hạn cho vay rất quan trọng, nó thể hiện trình độ của cán bộ tín dụng, nó quyết định đến khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng thì họ không thể trả nợ đúng hạn vì chu kỳ sản xuất kinh doanh chưa kết thúc, họ chưa có nguồn thu để trả nợ, điều này sẽ gây khó khăn cho khách hàng trong việc trả nợ ngân hàng. Nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh thì cũng không tốt vì khi đã hoàn thành một chu kỳ kinh doanh mà vẫn chưa trả nợ ngân hàng thì rất có thể họ sẽ sử dụng vốn đó vào chu kỳ kinh doanh tiếp theo hoặc một lĩnh vực kinh doanh khác, điều này sẽ gây khó khăn trong việc thu hồi nợ và ngân hàng sẽ bị đọng vốn. Việc trả nợ đúng thời hạn của khách hàng giúp ngân hàng bảo toàn và phát triển vốn, tăng cường hoạt động cho vay. Tuy nhiên trong thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau và do tác động của các hoạt động kinh tế - xã hội có thể dẫn đến việc khách hàng không trả nợ theo thời hạn thỏa thuận. Việc trả nợ không đúng hạn có thể xảy ra hai trường hợp: + Trả trước hạn đã định: có thể do khách hàng kinh doanh tốt sớm thu hồi vốn trả ngân hàng nhưng cũng có thể do khách hàng sau khi vay đã thay đổi ý định sản xuất kinh doanh hoặc vay tiền được ở một nơi khách với lãi suất thấp hơn, cũng có thể do khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích và bị buộc phải hoàn lại vốn vay. + Trả sau thời hạn đã định: khi gần đến kỳ hạn trả nợ, cán bộ tín dụng sẽ gửi giấy báo nợ cho khách hàng. Trường hợp khách hàng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh do nguyên nhân khách quan đưa lại thì khách hàng sẽ được gân hàng gia hạn nợ sau khi cán bộ tín dụng thẩm định lại những nguyên nhân và biện pháp mà khách hàng đưa ra có đúng với thực tế không. Đối với các khoản vay ngắn hạn, thời gian gia hạn nợ không vượt quá một chu kỳ sản xuất kinh doanh và tối đa là 12 tháng, còn các khoản vay trung và dài hạn tối đa không quá 1/2 thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp khách hàng không trả được nợ do nguyên nhân chủ quan thì sẽ chuyển sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn. Như vậy cả hai trường hợp trả nợ trước và sau đều thể hiện chất lượng tín dụng có vấn đề. - Các điều kiện để cho vay: + Người đi vay phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. + Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết. + Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, không vi phạm pháp luật, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. + Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi có hiệu quả, hoặc có dự án đầu tư phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật. + Thực hiện các quy định để đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam. - Quy trình tín dụng: quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng. Quy trình bao gồm 5 bước là lập hồ sơ, phân tích tín dụng, quyết định tín dụng, giải ngân và giám sát thanh lý nợ. Việc xây dựng quy trình tín dụng chặt chẽ và hợp lý, tuân thủ các nguyên tắc cấp tín dụng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị, giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn cho ngân hàng, nâng cao doanh lợi cũng như đảm bảo chất lượng tín dụng. - Khả năng thu hút khách hàng: ở đây chính là việc giữ được những khách hàng truyền thống và thu hút được nhiều khách hàng mới đến vay vốn, đồng thời phát triển tốt các quan hệ với khách hàng tiềm năng. - Tính bền vững: mục tiêu cuối cùng của ngân hàng là mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên để đạt mục tiêu đó thì hoạt động tín dụng của ngân hàng phải được duy trì và triển khai theo những chiến lược phát triển bền vững. Khi có hệ thống chiến lược phát triển bền vững sẽ đảm bảo cho kinh doanh ổn định, tăng trưởng đều đặn, giữ được khách hàng truyền thống, mở rộng tín dụng một cách vững chắc, nâng cao vị thế của mình, nhờ đó ổn định doanh thu, giảm thiểu chi phí và rủi ro. 1.2.3.2. Các chỉ tiêu định lượng - Tổng dư nợ: Tổng dư nợ = Tổng doanh số cho vay - Tổng doanh số thu nợ Chỉ tiêu này cho biết khối lượng tiền của ngân hàng cung ứng ra nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tín dụng của ngân hàng còn kém hiệu quả, chưa có khả năng mở rộng khách hàng. Tuy nhiên tổng dư nợ cao quá cũng chưa hẳn tốt. Khối lượng tiền cung ứng ra lưu thông nhiều nhưng chất lượng các khoản vay không tốt, nợ xấu gia tăng làm cho ngân hàng gặp rủi ro mất vốn, mặt khác, việc mở rộng quy mô tín dụng quá mức có thể làm cho giá cả tăng, lạm phát cao, các ngân hàng bị thiệt do mất giá của đồng tiền. - Tỷ lệ nợ quá hạn: Tỷ lệ nợ quá hạn = Số dư nợ quá hạn x 100% Tổng dư nợ Chỉ tiêu này cho biết trong tổng dư nợ thì có bao nhiêu phần trăm là nợ quá hạn. Tỷ lệ càng cao thì khả năng ngân hàng gặp rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng giảm. Nợ quá hạn cao, khả năng mất vốn ngân hàng gặp phải là rất lớn. Theo quy định của NHNN Việt Nam thì các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ lớn hơn 7% được xem là ngân hàng yếu kém, nhỏ hơn 5% thì ngân hàng đó được đánh giá là ngân hàng có hoạt động tín dụng tốt, chất lượng tín dụng cao. Nợ quá hạn là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng, do đó ngân hàng nào kiểm soát được nợ quá hạn thì ngân hàng đó có chất lượng tín dụng tương đối cao. Nói chung trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng không có dư nợ quá hạn đã là một thành công lớn của ngân hàng. Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ quá hạn người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ nợ xấu. - Tỷ lệ nợ xấu: Tỷ lệ nợ xấu = Số dư nợ xấu x 100% Tổng dư nợ Chỉ tiêu này phản ánh trong tổng dư nợ thì có bao nhiêu phần trăm là nợ xấu (hay trong tổng dư nợ thì có bao nhiêu phần trăm là bị rủi ro). Nợ xấu tăng làm tăng chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, giảm lợi nhuận của ngân hàng. Ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng đó thấp, năng lực tài chính, năng lực quản lý cũng như năng lực hoạt động của họ yếu kém và ngân hàng cần phải xem xét lại hoạt động tín dụng của mình nếu không muốn rơi vào tình trạng khó khăn. - Hiệu suất sử dụng vốn: Hiệu suất sử dụng vốn vay = Tổng dư nợ tín dụng x 100% Tổng nguồn vốn huy động Chỉ tiêu này thể hiện phần trăm vốn huy động được sử dụng cho hoạt động tín dụng. Chỉ tiêu này thấp đồng nghĩa với việc ngân hàng huy động được nhưng lại không cho vay được, gây ra tình trạng ứ đọng vốn, không đảm bảo khả năng sinh lời mà vẫn phải tốn kém chi phí cho huy động. Tuy nhiên, chỉ tiêu này cao quá cũng chưa hẳn là tốt đối với ngân hàng. Dư nợ tín dụng tăng quá nhanh có thể dẫn đến mức tăng trưởng quá nóng, tăng rủi ro mất vốn và rủi ro thanh khoản, lợi tức thu về không đảm bảo như dự kiến. - Vòng quay vốn tín dụng: Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ Dư nợ bình quân Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao càng chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hóa. Như vậy, vòng quay vốn tín dụng càng cao phản ánh tình hình tổ chức vốn tín dụng của ngân hàng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao. - Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng: Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động = Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng x 100% Tổng thu nhập Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản tín dụng, cứ một đồng vốn đầu tư tín dụng thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Sự phát triển và tồn tại của NHTM được quyết định phần lớn bởi lợi nhuận được tạo ra từ hoạt động kinh doanh của mình, trong đó hoạt động tín dụng giữ vai trò then chốt trong việc tạo ra lợi nhuận. - Khả năng sinh lời của vốn vay: Để xem xét hiệu quả sử dụng vốn vay của doanh nghiệp người ta thường đánh giá qua các chỉ tiêu khả năng sinh lời của dự án, qua đó giúp ta nhìn nhận được chất lượng tín dụng mà ngân hàng cung cấp. Khi phân tích cần chú ý: So sánh kỳ này với kỳ trước, thực tế với kế hoạch. So sánh với chỉ tiêu chung cũng như chỉ tiêu riêng của từng ngành. So sánh mức độ trung bình của các thông số giữa ngành này với ngành khác. - Các chỉ tiêu thẩm định tài chính khi quyết định cho vay: + Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV): Dùng để phản ánh lợi nhuận tuyệt đối của dự án:      n 0t t 11 )r1( CFTN NPV Trong đó: TNt: Thu nhập của dự án năm thứ t CFt: Chi phí của dự án năm thứ t r: Lãi suất chiết khấu được lựa chọn Nếu NPV < 0: thu nhập của dự án không bù đắp được chi phí bỏ ra. Nếu NPV = 0: tùy thuộc vào tình hình cụ thể mà chấp nhận hay từ chối. Nếu NPV > 0: dự án có hiệu quả, nếu NPV càng lớn thì hiệu quả tài chính càng cao, dự án càng hấp dẫn. + Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR): Tỷ suất doanh lợi nội bộ IR hay lãi suất hoàn vốn nội bộ là tỷ suất chiết khấu với mức lãi suất đó giá trị hiện tại các khoản thu trong tương lai do đầu tư mang lại bằng với giá trị hiện tại của vốn đầu tư. Để xác định IRR, người ta tìm một mức lãi suất sao cho NPV = 0 Khi đó ta có: 0 n 0t t t CF )IRR1( CF     IRR chính là tỷ suất thu hồi vốn mà tự bản thân dự án có thể được tạo ra. Chỉ tiêu IRR không chỉ phụ thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực đầu tư mà còn tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng dự án. + Chỉ tiêu phân tích độ nhạy cảm của dự án: Khả năng thanh toán nợ DSCR (Debit Service Cover Ratio): Khả năng thanh toán nợ của dự án được tính trên cơ sở so sánh giữa nguồn trả nợ hàng năm từ dự án với nợ phải trả (gốc và lãi) theo kế hoạch trả nợ. DSCR = LN ròng + KHCB + Mức lãi vay cố định năm thứ t Nợ gốc phải trả (gốc và lãi) + DSCRt > 1 thì dự án đảm bảo khả năng hoàn trả nợ theo dự kiến. + DSCRt < 1 thì dự án không có khả năng hoàn trả nợ vay theo kế hoạch và thời hạn trả nợ dự kiến. Độ nhạy cảm của dự án đầu tư: Khi phân tích độ nhạy cảm của dự án người ta thường tính toán sự thay đổi các chỉ tiêu NPV, IRR hoặc lãi ròng khi giả định có một nhân tố nào đó thay đổi Độ nhạy = Tỷ lệ thay đổi của chỉ tiêu hiệu quả (NPV, IRR,…) Tỷ lệ thay đổi của chỉ tiêu nhân tố (giá, sản lượng tiêu thụ,…) - Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu = Vốn tự có Tài sản có rủi ro quy đổi Tỷ lệ này cho biết một đồng vốn tự có bảo vệ cho bao nhiêu đồng tài sản có rủi ro của NHTM. Theo quy định của NHNN thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu không được thấp hơn 8%. - Lãi treo: là lãi tính trên nợ gốc và các khoản cho vay của ngân hàng nhưng chưa thu hồi được. Tổng các khoản lãi treo trên các món nợ càng thấp càng tốt. Lãi treo càng cao phản ánh rủi ro mất vốn của ngân hàng càng lớn và có khả năng mất cả vốn lẫn lãi. Từ đó chất lượng tín dụng bị giảm và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Trên đây là các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng. Dựa vào các chỉ tiêu đó có thể nhận định được chất lượng tín dụng ngân hàng cao hay thấp. Trên giác độ của các NHTM, đánh giá chất lượng tín dụng chủ yếu nhằm vào việc đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời cao cũng như đảm bảo sự phát triển bền vững của ngân hàng. Do vậy, khi đánh giá chất lượng tín dụng không chỉ căn cứ vào một chỉ tiêu đơn lẻ, cụ thể nào mà phải xem xét, đánh giá mọi phương diện để đưa ra kết luận một cách khách quan, trung thực và chính xác nhất. 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng 1.2.4.1. Nhân tố khách quan * Môi trường kinh tế: Để ngân hàng có thể huy động được nhiều vốn, mở rộng hoạt động cho vay phục vụ cho việc phát triển kinh tế thì phải có một nền kinh tế phát triển ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Về phương diện tổng thể, nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng tín dụng. Khi nền kinh tế phát triển ổn định, lạm phát vừa phải, không có khủng hoảng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy khả năng vay mượn và trả nợ vay không bị biến động lớn. Ngân hàng không phải chịu những thiệt hại do mất giá của đồng tiền, tránh được chất lượng tín dụng giảm, thấp. Chu kỳ kinh tế có tác động không nhỏ đến hoạt động tín dụng, nếu thời kỳ kinh tế hưng thịnh, sản xuất kinh doanh được mở rộng dẫn đến nhu cầu vốn tăng, hiệu quả tín dụng cũng tăng lên, giảm bớt rủi ro tín dụng nhưng cũng không loại trừ trường hợp do chạy đua trong sản xuất kinh doanh, nạn đầu cơ tích trữ làm cho nhu cầu tín dụng tăng lên quá cao và có nhiều TCTD thực hiện. Những khoản này cũng có thể khó được hoàn trả nếu sự phát triển sản xuất kinh doanh không có kế hoạch hoặc phát triển sản xuất kinh doanh vượt quá quy mô của khách hàng cả về vốn cũng như khả năng quản lý. Mặt khác, trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái, sản xuất trì trệ, kinh doanh bị thua lỗ, nhu cầu vốn tín dụng giảm và nếu vốn tín dụng được thực hiện thì cũng khó có thể sử dụng hiệu quả. Trong thời kỳ này, tình trạng thiểu phát kéo dài sản phẩm sản xuất ra vượt quá nhu cầu của nền kinh tế cũng như nguyên nhân dẫn đến đình trệ trong sản xuất kinh doanh do sản lượng sản phẩm tồn kho khó tiêu thụ, hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa do cạnh tranh trong lĩnh vực tiền tệ sẽ dẫn đến việc các ngân hàng nới lỏng các điều kiện cho vay để thu hút khách hàng. Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Hơn thế nữa, trong nền kinh tế thị trường lãi suất luôn biến động. Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng và lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Lợi tức ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng bị giới hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sử dụng vốn vay. * Môi trường xã hội: Khách hàng và ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm giữa hai bên. Vì vậy, chất lượng tín dụng phụ thuộc vào ba nhân tố: khách hàng, khả năng của ngân hàng và sự tin tưởng lẫn nhau. Tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, nó là tiền đề để tạo điều kiện không ngừng cải tiến chất lượng tín dụng. Khách hàng với tư cách vừa là người cung vốn, vừa là người cầu về vốn. Khách hàng mong muốn ở ngân hàng một mức lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, nhanh gọn. Ngân hàng vừa là người đại diện cho bên huy động vốn, vừa là người đại diện cho bên cung cấp tín dụng. Mối quan hệ xã hội thể hiện cụ thể giữa ngân hàng và khách hàng là nhân tố không kém phần quan trọng quyết định đến quy mô và hoạt động của ngân hàng. Sự thành công hay thất bại của một ngân hàng phụ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội. Ngoài những nhân tố trên, còn có những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng như: đạo đức xã hội, trình độ dân trí có liên quan tới rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó sự biến động của tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. * Môi trường pháp lý: Pháp luật là bộ phận không thể thiếu của kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hành lang pháp lý không phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế đó không thể tiến hành trôi chảy được. Một môi trường pháp lý hoàn chỉnh tạo điều kiện tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh thuận tiện và hiệu quả, và tạo ra cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề khiếu nại khi có tranh chấp. Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống luật pháp đầy đủ, các văn bản của Nhà nước ban hành liên quan đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển thì hệ thống các văn bản này càng phải hoàn chỉnh để bắt kịp sự phát triển đó. Hệ thống các văn bản pháp luật của hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng có tác động hết sức mạnh mẽ tới sự rủi ro trong hoạt động tín dụng hay bảo toàn vốn mà ngân hàng bỏ ra, trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ đúng các văn bản pháp luật thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho các bên tham gia. * Môi trường chính trị: Một nền chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng được diễn ra an toàn và đảm bảo. Môi trường chính trị lành mạnh và ổn định tạo niềm tin cho các nhà kinh doanh an tâm mở rộng đầu tư sản xuất từ đó nguồn tín dụng ngân hàng mới là nguồn tài trợ có hiệu quả. từ đó các ngân hàng cũng yên tâm giải vốn cho nền kinh tế, không lo các rủi ro đạo đức có thể xảy ra. Nếu chính trị bất ổn, các chính sách của Nhà nước thiếu sự nhất quán và nhiều xung đột sẽ gây bất lợi đối với sự phát triển kinh tế và ảnh hưởng xấu đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. * Môi trường tự nhiên: Đây là nhân tố gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng như chất lượng của nền kinh tế. Việt Nam là đất nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thiên tai hỏa hoạn, bệnh dịch thường xuyên xảy ra. Điều kiện khí hậu có ảnh hưởng lớn đến một số ngành, đặc biệt là những ngành có liên quan đến nông nghiệp, thủy sản, hàng hải,… Vì thế, việc đầu tư vào những ngành có thể dẫn đến những rủi ro do môi trường tự nhiên gây ra, làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng ngân hàng. * Môi trường quốc tế: So với các NHTM Việt Nam thì các Ngân hàng nước ngoài thể hiện sự hơn hẳn về tiềm lực tài chính, trình độ quản lý và trình độ công nghệ. Muốn đứng vững trong môi trường cạnh tranh đầy gay gắt thì các NHTM Việt Nam phải khẳng định vị thế của mình trên "sân nhà". Cách nhanh nhất là nâng cao chất lượng tín dụng nhằm tạo ra đội ngũ khách hàng đông đảo và trung thành. 1.2.4.2. Nhân tố chủ quan * Từ phía ngân hàng: - Chính sách tín dụng của ngân hàng: Chính sách tín dụng của ngân hàng là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc mở rộng hoặc hạn chế tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kỳ. Nếu chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp sẽ thu hút được khách hàng, mở rộng quy mô cho vay, đảm bảo được khả năng sinh lời trên cơ sở tuân thủ pháp luật và có thể phân tán được rủi ro. - Công tác tổ chức của ngân hàng: Công tác tổ chức là việc sắp xếp các phòng ban theo đúng chức năng, nhiệm vụ và phù hợp với năng lực chuyên môn nhằm phát huy hiệu quả hoạt động cao nhất. Đồng thời tổ chức tốt là việc giao cho đúng người, đúng việc sao cho mọi người phát huy hết khả năng của mình và phải tự chịu trách nhiệm về phần công việc của mình. - Quy trình tín dụng: Đây là những quy định cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm mục đích bảo toàn vốn. Quy trình tín dụng được bắt đầu từ khi ngân hàng thẩm định cho vay đến khi giải ngân, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay và thu hồi nợ. Trong đó thẩm định cho vay là khâu quan trọng, quyết định đến chất lượng tín dụng và là định hướng rủi ro trong cho vay. Việc thẩm định phải được tiến hành một cách kỹ lưỡng và phải tuân thủ chặt chẽ những quy định, và đưa ra quyết định đúng đắn trong cho vay nhằm hạn chế thấp nhất những rủi ro, đảm bảo tính ổn định của khoản vay. Trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay thì ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra xem nguồn vốn của mình có được sử dụng đúng mục đích không, rà soát và kịp thời phát hiện những sai phạm, có biện pháp xử lý kịp thời, hạn chế rủi ro, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Thu nợ và khâu thanh lý nợ là khâu để ngân hàng tồn tại và phát triển được, đây là kết quả cuối cùng của công tác cho vay, do đó cán bộ tín dụng phải tích cực trong công tác thu hồi vốn và lãi tiền vay, hạn chế nợ quá hạn. Việc ngân hàng làm tốt các bước của quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng bảo toàn vốn, nâng cao được chất lượng tín dụng. - Chất lượng nhân sự: Con người là nhân tố trung tâm trong mọi hoạt động và trong hoạt động tín dụng cũng không phải là ngoại lệ. Chất lượng nhân sự ở đây không chỉ là vấn đề về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tác phong làm việc, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động mà còn bao gồm cả lương tâm, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ ngân hàng, - Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Thông tin tín dụng là cơ sở, yếu tố cơ bảo trong quản lý tín dụng để đưa ra các quyết định cho vay hay không của ngân hàng. Thông tin tín dụng giúp theo dõi, quản lý các khoản tín dụng. Thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời thì khả năng phòng ngừa rủi ro càng lớn, hạn chế những tổn thất cho ngân hàng. - Kiểm soát nội bộ: Kiểm soát nội bộ giúp cho các lãnh đạo có được các thông tin về tình hình cho vay của các cán bộ tín dụng có phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách mà ngân hàng đưa ra hay không. Hoạt động này gồm những việc như: kiểm tra các thủ tục về thẩm quyền điều hành, quản lý, giám sát các khoản tiền vay, thủ tục, hồ sơ xin vay vốn,... nhằm mục đích phát hiện ra các sai phạm trong quá trình cho vay, từ đó giúp ban lãnh đạo đưa ra các quyết định để hạn chế rủi ro tín dụng. Hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng của mình. - Công nghệ ngân hàng: Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập, sự cạnh tranh ngày càng diễn ra gay gắt hơn. Điều này càng thấy rõ hơn trong lĩnh vực Ngân hàng. Hàng loạt các ngân hàng mới ra đời trong đó cần chú ý là sự gia nhập của các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng liên doanh với quy mô và công nghệ hiện đại hơn thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, do đó đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải không ngừng cải thiện công nghệ. Với các trang thiết bị máy móc, phương tiện kĩ thuật hiện đại sẽ tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, thông tin thu thập nhanh và chính xác hơn, tiết kiệm chi phí,... giúp ngân hàng kịp thời nắm bắt những thông tin, diễn biến trên thị trường, dự báo về khả năng phát triển kinh tế xã hội và hoạt động tín dụng nhằm đưa ra các quyết sách phù hợp với tình hình thực tế và đem lại sự tiện ích cho khách hàng. * Từ phía khách hàng Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn vay được vốn ngân hàng thì đều phải đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng mà ngân hàng cho vay đưa ra nhằm đảm bảo an toàn, ngăn ngừa và phòng tránh những rủi ro khi cho vay. Chỉ những khách hàng đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của ngân hàng thì sẽ được ngân hàng cho vay, như vậy khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng mà ngân hàng đưa ra cho khách hàng gồm: - Năng lực thị trường của khách hàng: Năng lực này thể hiện ở thị phần sản phẩm, chất lượng sản phẩm mà khách hàng đang cung cấp trên thị trường, thương hiệu, tương lai về sản phẩm,... năng lực này càng cao thì nhu cầu vốn đầu tư của khách hàng càng lớn và đây là một trong những cơ sở để ngân hàng xem xét khi cho vay. - Năng lực sản xuất của khách hàng: Năng lực này thể hiện rõ ở toàn bộ giá trị tài sản mà khách hàng đưa ra để sản xuất kinh doanh, biểu hiện cụ thể là các công nghệ mà khách hàng đưa vào sản xuất hiện đại hay lạc hậu, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Năng lực sản xuất là cơ sở để ngân hàng tính toán đến tính khả thi, nhu cầu vốn của dự án. - Năng lực tài chính của khách hàng: Năng lực này thể hiện ở cơ cấu vốn, khả năng tự tài trợ, các chỉ tiêu tài chính của khách hàng. Nếu khách hàng vay vốn có tiềm lực tài chính mạnh, khả năng thanh toán cao, các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao và ổn định,... thì điều đó có nghĩa là doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có khả năng trả nợ ngân hàng đủ và đúng hạn, ngân hàng sẽ an tâm hơn trong việc cho khách hàng đó vay vốn. Mỗi khách hàng như vậy sẽ làm cho chất lượng tín dụng của ngân hàng không ngừng được củng cố và tăng cường. - Năng lực quản lý của khách hàng: Khách hàng vay vốn phải có năng lực quản lý tốt. Điều này thể hiện ở khả năng tổ chức nhân sự, sắp xếp các phòng ban, tổ chức hệ thống hạch toán kế toán, quản lý tài chính vừa đúng theo quy định của Nhà nước, lại đảm bảo tính hiệu quả của hệ thống mà khách hàng đang quản lý. Sự hoạt động của hệ thống kế toán, tài chính, thống kê giúp cho ngân hàng trong việc cung cấp thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng, từ đó làm cơ sở cho ngân hàng ra quyết định cho vay kịp thời và hiệu quả. - Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp bảo đảm: Như chúng ta đều biết, hoạt động kinh doanh của khách hàng gắn liền với việc sở hữu một khối lượng tài sản nhất định, quyền sở hữu tài sản biểu hiện ở khả năng pháp lý của khách hàng được chiếm hữu, sử dụng và định đoạt khối tài sản đó. Giá trị, chất lượng và cơ cấu tài sản mà khách hàng sở hữu quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh, đo lường năng lực tài chính và quyết định khối lượng tín dụng cần cung cấp. Quyền sở hữu tài sản gắn liền với năng lực của khách hàng và khả năng sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện biện pháp đảm bảo tín dụng. - Tính khả thi của dự án / phương án: Khi khách hàng đã xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh khả thi thì bản thân khách hàng cũng thấy được định hướng công việc của mình và nó sẽ càng đảm bảo an toàn hơn cả cho khách hàng khi được ngân hàng đánh giá, tư vấn. Phương án sản xuất kinh doanh khả thi là phương án phải mang tính thị trường, không trái pháp luật, có khả năng được cung cấp đầu ra và đầu vào, có hiệu quả kinh tế. Phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả sẽ đảm bảo vững chắc nguồn trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng. - Tư cách đạo đức của người vay: Chỉ tiêu này rất khó nắm bắt và thẩm định nhưng trước khi cho vay buộc ngân hàng phải xem xét một cách kỹ lưỡng vì điều này liên quan tới việc khách hàng trả nợ sau này. Khách hàng yếu về tư cách đạo đức sẽ dẫn đến chây ỳ trong việc trả nợ, rất khó và tốn nhiều chi phí cho ngân hàng trong việc xử lý các khoản nợ. 1.3. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC RÚT RA ĐỂ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM 1.3.1. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới 1.3.1.1. Kinh nghiệm của Malayxia Các NHTM đều có quỹ dự phòng chung ít nhất 1%/tổng dư nợ. Ngoài ra còn có quỹ dự phòng đặc biệt cho các khoản nợ tổn thất và có nghi ngờ. Nợ tổn thất là nợ không có khả năng thu hồi, số tiền này cần được xóa sổ hoặc bù đắp bằng quỹ dự phòng. Nợ nghi ngờ là nợ được coi như không có khả năng thu hồi vì khó đánh giá số tiền mất nên đặt một tỷ lệ 50%. Nợ kém tính chất: ngân hàng phải chú ý thu hồi bớt nợ, bổ sung thế chấp, nắm thông tin thường xuyên để có giải pháp thích hợp. 1.3.1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan Xếp loại tài sản có thành 3 loại: tổn thất, có nghi ngờ, kém tiêu chuẩn. Quỹ dự phòng được lập cho các khoản tín dụng bị xếp loại nghi ngờ ở mức tỷ lệ 50% và mất trắng ở mức 100%. Nợ kém tiêu chuẩn ngân hàng được quyền xử lý. Ngoài ra chú ý tới các khoản nợ cần lưu ý (những khoản nợ tốt hơn khoản nợ kém tiêu chuẩn) để sớm đưa ra giải pháp xử lý, đưa các khoản nợ này trở thành những khoản nợ bình thường. 1.3.1.3. Kinh nghiệm của Nga Chia các khoản cho vay thành 5 nhóm rủi ro là: đạt tiêu chuẩn, chưa đạt tiêu chuẩn, nghi ngờ, nguy hiểm, khó đòi. Quỹ bù đắp rủi ro được tính từ chi phí và được ghi vào "các chi phí khác". Quỹ này được điều chỉnh ít nhất một lần căn cứ vào số dư nợ thực tế và nhóm rủi ro của các khoản vay. 1.3.2. Bài học rút ra vận dụng ở Việt Nam - Vấn đề an toàn trong hoạt động tín dụng là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với NHTM. Các NHTM trong hoạt động tín dụng phải chú trọng tăng cường công tác thu thập thông tin, sàng lọc những thông tin tin cậy để có những quyết định cho vay đúng đắn, tránh rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra. - Trích lập quỹ dự phòng rủi ro theo đúng quy định. - Nâng cao trình độ chuyên môn cũng như kiến thức xã hội cho cán bộ công nhân viên. - Áp dụng dần khoa học công nghệ kỹ thuật hiện đại vào dịch vụ ngân hàng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát một cách chặt chẽ. Tóm lại, tín dụng ngân hàng luôn có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển của một nền kinh tế, chính trị và xã hội. Việc củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng là điều thực sự cần thiết và vô cùng quan trọng vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của mỗi NHTM. Nhưng thực tế cho thấy chất lượng tín dụng ngân hàng còn nhiều vấn đề cần giải quyết, tháo gỡ. Trong điều kiện hiện nay, để có thể hội nhập với nền kinh tế thế giới thì việc tham khảo kinh nghiệm của ngân hàng các nước là sự cần thiết để nâng cao chất lượng tín dụng cho các NHTM Việt Nam. Chương 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH NAM HÀ NỘI 2.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH NAM HÀ NỘI 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển NHNo&PTNT Việt Nam là một NHTM có mạng lưới các chi nhánh lớn nhất trong hệ thống các ngân hàng với khoảng 2200 Chi nhánh và trên 41000 cán bộ nhân viên. Ngày 30/01/2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã có Quyết định số 214/QĐ-NHNN chuyển đổi NHNo&PTNT Việt Nam thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Về tên gọi, tên đầy đủ bằng tiếng Việt là NHNo&PTNT Việt Nam; Tên gọi tắt bằng tiếng Việt là Ngân hàng Nông nghiệp; Tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh: Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development; Tên viết tắt bằng tiếng Anh: Agribank. Về hình thức pháp lý, NHNo&PTNT Việt Nam là một doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức quản lý của NHNo&PTNT Việt Nam bao gồm Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc. NHNo&PTNT Việt Nam có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam; có con dấu và tài khoản riêng; tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Các TCTD, các quy định của pháp luật có liên quan và Điều lệ tổ chức và hoạt động của NHNN Việt Nam. Tháng 5 năm 2001, Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội chính thức bước chân vào thị trường tài chính, tiền tệ Việt Nam. Là chi nhánh ra đời đầu tiên theo chủ trương mở rộng mạng lưới hoạt động của Hội đồng quản trị. Để đứng vững và khẳng định vị thế của một chi nhánh ra đời hoạt động kinh doanh trên địa bàn thành phố tập trung các nhà đầu tư tài chính lớn trong nước và quốc tế như Thủ đô Hà nội là một lợi thế lớn nhưng đồng thời là những thử thách trong cạnh tranh gay gắt của Chi nhánh với những ngân hàng khác trong khu vực. Với những suy tư trăn trở đó, Ban lãnh đạo chi nhánh đã tập trung sức mạnh trí tuệ của tập thể đoàn kết, nhất trí định ra những hướng đi của riêng mình với mục tiêu "tăng trưởng ổn định, bền vững, hiệu quả" và "vững bước cùng khách hàng trong cạnh tranh và hội nhập". Những năm qua chi nhánh đã từng bước khảng định năng lực tài chính của mình, đưa tổng nguồn vốn huy động bình quân 8.000 tỷ đồng với cơ cấu nguồn vốn hợp lý, ổn định, tập trung vào mở rộng màng lưới để tăng cường thu hút nguồn vốn từ tất cả các đối tượng khách hàng tiềm năng như: sinh viên các trường Đại học (Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Học viện Ngân hàng, Đại học Thăng Long, Đại học Thuỷ lợi), các dự án do nước ngoài tài trợ, nguồn tiền gửi dân cư và các tổ chức kinh tế..., không ngừng đẩy mạnh công tác huy động vốn để chủ động đầu tư đáp ứng nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Do có được hướng đi đúng từ khi thành lập đến nay hoạt động kinh doanh của chi nhánh luôn đạt kết quả khả quan, tốc độ tăng trưởng ổn định luôn vượt xa kế hoạch được giao. Là một trong những chi nhánh hàng đầu của NHNo&PTNT Việt Nam với tổng nguồn vốn huy động thời điểm cao nhất lên tới 13 ngàn tỷ đồng. Tổng dư nợ cho vay thời điểm cao nhất lên tới hơn 5 ngàn tỷ đồng. Nợ xấu chiếm tỷ lệ thấp, không chỉ như vậy, Chi nhánh NHNo Nam Hà Nội luôn là điểm đến và là địa chỉ đáng tin cậy của khách hàng với đội ngũ cán bộ giao dịch viên được đào tạo từ các trường đại học chuyên ngành lớn trong nước, trẻ trung, năng động, nhiệt tình. Trụ sở giao dịch được xây dựng khang trang, hiện đại, hệ thống an ninh bảo vệ an toàn tuyệt đối luôn đáp ứng yêu cầu phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức Giám đốc Phó Giám đốc Phó Giám đốc Phó Giám đốc 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh 2.1.3.1. Tình hình kinh tế - xã hội Trong suốt 3 năm từ 2008 đến 2010, tình hình kinh tế trên thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tap, sự suy thoái và khủng hoảng của nền kinh tế thế giới đã tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam, nhất là hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM. Vì vậy, nhằm giảm thiểu những tác động xấu đến nền kinh tế Việt Nam, Chính phủ, NHNN đã đưa ra nhiều giải pháp điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm yêu cầu quốc phòng an ninh và bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua được giai đoạn khó khăn. Điểm lại thành tựu nước ta đạt được năm 2010: Năm 2010, Việt Nam đã ngăn chặn được suy giảm, kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá cao. Mặc dù sau khủng hoảng, kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, nhưng kinh tế nước ta đã sớm ra khỏi tình trạng suy giảm và có mức tăng trưởng khá cao, GDP cả năm 2010 tăng khoảng 6,7%. (tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 5 năm 2006 - 2010 đạt khoảng 7%/năm). Vốn đầu tư phát triển năm 2010 ước tăng 12,9% so với năm 2009 và bằng khoảng 41% GDP. Kết quả giải ngân vốn Nhà nước khá cao và có tiến bộ trong điều hành, đến hết tháng 9, đạt khoảng 70% và dự kiến cả năm sẽ đạt kế hoạch; nhờ đó sớm hoàn thành nhiều công trình kết cấu hạ tầng và tạo thêm cơ sở sản xuất mới, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phục hồi tăng trưởng. Kinh tế vĩ mô có bước cải thiện, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Tổng thu NSNN năm 2010 dự kiến vượt 12,7% so với dự toán và tăng 17,6% so với năm 2009, bảo đảm được các nhiệm vụ chi và góp phần giảm bội chi xuống dưới 6%, thấp hơn kế hoạch đề ra (6,2%). Đến hết năm 2010, dư nợ Chính phủ tương đương khoảng 44,5% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,7% GDP, nằm trong giới hạn an toàn. Chính sách tiền tệ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm phát, cơ bản bảo đảm được các mục tiêu đã đề ra từ đầu năm: tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 20%, dư nợ tín dụng tăng khoảng 25%. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước tăng 19,1%, gấp hơn 3 lần so với kế hoạch. Nhập khẩu được kiểm soát chặt chẽ hơn, tổng kim ngạch nhập khẩu ước tăng 16,5%. Nhập siêu cả năm khoảng 13,5 tỷ USD, dưới 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn tỷ lệ nhập siêu năm 2009 và đạt chỉ tiêu đề ra. Sản xuất kinh doanh phát triển, cân đối cung cầu được bảo đảm, cùng với các biện pháp tăng cường kiểm soát giá và chống đầu cơ, thị trường giá cả đã dần ổn định. Cùng với những diễn biến phức tạp của nền kinh tế, trong năm 2010 hoạt động ngân hàng đã phải đối mặt với nhiều khó khăn phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế: vốn tín dụng tăng cao do việc nới lỏng chính sách tiền tệ và thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất trong khi tốc độ tăng nguồn vốn huy động thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng nên các NHTM gặp rất nhiều khó hăng trong việc cân đối vốn, tỷ giá vàng, ngoại tệ liên tục biến động cùng với áp lực giảm giá VND khiến cho tình hình cung cầu ngoại tệ căng thẳng. Bám sát và triển khai kịp thời các chủ trương, giải pháp chỉ đạo của Chính phủ, NHNN, năm 2010 NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và NHo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội nói riêng đã có những giải pháp để điều hành hoạt động tín dụng phù hợp với diễn biến của nền kinh tế trong từng thời kỳ. 2.1.3.2. Về huy động vốn Vốn là điều kiện để đảm bảo hoạt động và luôn là một vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nhận thức rõ được vấn đề này, NHNo&PTNT Nam Hà Nội luôn coi trọng công tác huy động vốn và coi đây là công tác chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Từ quan điểm muốn mở rộng cho vay thì phải đảm bảo đủ nguồn vốn mà chủ yếu là nguồn vốn huy động tại địa phương, bằng cách thức huy động như: Thành lập các phòng giao dịch để mở rộng mạng lưới hơn nữa, đổi mới phong cách làm việc, tạo uy tín và sự tin cậy của khách hàng. Từ khi thành lập cho đến nay, nền kinh tế trên thế giới đang phải đối mặt với khủng hoảng tài chính, các nền kinh tế lớn suy giảm kéo theo hoạt động xuất khẩu bị trì trệ, giá nguyên vật liệu biến động khó lường, doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả,… Mặc dù Chính phủ đã đưa ra gói kích cầu nhằm hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp nhưng việc hấp thụ nguồn vốn đó cần có thời gian, mặt khác phụ thuộc rất nhiều vào nền kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh đó, NHTM nói chung và NHNo&PTNT Nam Hà Nội nói riêng bị ảnh hưởng không nhỏ. Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Tổng nguồn vốn 6.994 6.243 5.606 Trong đó: - Huy động hộ trung ương 2.207 2.187 2.187 - Huy động tại chi nhánh 4.787 4.508 3.419 1. Phân theo loại tiền - Nội tệ 6.414 5.641 4.980 - Ngoại tệ 580 602 626 2. Phân theo thời gian - Tiền gửi không kỳ hạn 889 830 666 - Tiền gửi có kỳ hạn < 12 tháng 1.880 1.757 1.606 - Tiền gửi có kỳ hạn  12 tháng 4.225 3.656 3.334 3. Phân theo thành phần kinh tế - Tiền gửi, tiền vay các TCTD 353 508 37 - Tiền gửi các tổ chức kinh tế 3.126 2.307 2.163 - Tiền gửi dân cư 3.515 3.428 3.406 Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của chi nhánh từ 2008 - 2010. Qua bảng số liệu trên ta thấy nguồn vốn huy động trong các năm qua của ngân hàng giảm tương đối. Tổng nguồn vốn năm 2009 đạt 6.243 tỷ đồng, giảm 751 tỷ đồng so với năm 2008, đạt 79% so với kế hoạch đề ra. Năm 2010, tổng nguồn vốn đạt 5.606 tỷ đồng, giảm 637 tỷ đồng so với năm 2009. Nguyên nhân của sự giảm sút này là do năm 2008 đã xảy ra khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế ở nhiều nước trên thế giới và mức lạm phát trong nước tăng cao đã làm cho sản xuất kinh doanh trên địa bàn gặp không ít khó khăn. Hơn nữa sang năm 2009 và năm 2010, nền kinh tế đã vượt qua đáy suy giảm nhưng tốc độ phục hồi còn chậm và đến năm 2010 Việt Nam đang chịu ảnh hưởng của những biến động thị trường thế giới, giá vàng, giá USD tăng cao, sự biến động không ngừng của lãi suất, đặc biệt là những tháng cuối năm đã ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng gửi tiền làm cho công tác huy động vốn gặp những khó khăn nhất định. Xét theo thành phần kinh tế ta thấy: tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng nguồn vốn huy động, tuy nhiên sự tăng giảm qua các năm lại không đồng đều: năm 2008 chiếm 44.48%, năm 2009 chiếm 37% và năm 2010 là 38%. Nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất là nguồn tiền gửi dân cư, đây là nguồn có tính chất ổn định và không thể thiếu được. Nhưng do sự cạnh tranh về lãi suất trên thị trường, nguồn tiền gửi này cũng giảm đi đáng kể do có xu hướng người dân rút tiền gửi từ Chi nhánh để sang ngân hàng khác có lãi suất cao hơn. Năm 2008 nguồn tiền gửi dân cư là 3.515 tỷ đồng, năm 2009 giảm 87 tỷ đồng và năm 2010 giảm 109 tỷ đồng so với năm 2008 còn 3.406 tỷ đồng. Xét theo loại tiền huy động thì huy động bằng nội tệ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động: năm 2008 chiếm 92%, năm 2009 chiếm 90% và năm 2010 là 89%. Bất cứ ngân hàng nào nhất là vào những thời điểm lãi suất biến động lớn, nguồn vốn ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng cao trong nguồn vốn huy động để đảm bảo khả năng thanh khoản cũng như hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Căn cứ theo thời gian thì tiền gửi có kỳ hạn ngắn chiếm tỷ trọng tương đối cao: năm 2008 là 40%, năm 2009 là 41%, năm 2010 là 41% và tất nhiên các khoản tiền gửi có kỳ hạn dài trên 12 tháng có xu hướng tăng, giảm không ổn định: năm 2008 là 60%, năm 2009 là 59% và đến năm 2010 là 60%. Tính từ năm 2008 đến 2010, chúng ta được chứng kiến cuộc leo thang về lãi suất chưa từng có. Khách hàng rút tiền gửi của mình để gửi kỳ hạn mới với lãi suất cao hơn. Chính vì tính chất bất ổn của nền kinh tế đã làm cho tiền gửi ngắn hạn có xu hướng tăng cao trong những năm qua. Nếu năm 2008, lãi suất tiền gửi ngắn hạn ở mức 8%/ năm, đến năm 2009 đã tăng lên từ 9% - 10%/năm và đến năm 2010 tăng lên từ 11% - 12%/năm và đỉnh điểm vào những tháng cuối năm là 13,5%/năm. Mặc dù trong những năm qua, chi nhánh đã áp dụng nhiều biện pháp tích cực như khuyến mại, tăng lãi suất huy động,… nhưng không cạnh tranh được với một số các ngân hàng cổ phần trên thị trường. Thêm vào đó là do một số các đơn vị rút vốn theo chủ trương hoặc đưa ra lãi suất đầu vào quá cao và các cá nhân không thật sự tích cực, chủ động trong công tác huy động vốn. Đây là những nguyên nhân khiến nguồn vốn của chi nhánh trong 3 năm qua giảm. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này, chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội mà cụ thể ở đây là từng cán bộ hoặc bộ phận phụ trách cần chủ động hơn trong công tác huy động vốn. 2.1.3.3. Về tình hình sử dụng vốn Có thể nói, nghiệp vụ tạo vốn là bàn đạp còn sử dụng vốn là lực quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Sự ổn định trong công tác huy động vốn đã phần nào tạo nền tảng vững chắc đối với hoạt động tín dụng của chi nhánh. Do bám sát định hướng phát triển kinh tế địa phương, định hướng kinh doanh của ngân hàng, chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã đưa ra các chính sách hợp lý với phương châm: chất lượng, hiệu quả và an toàn là trên hết, lấy hiệu quả của khách hàng là mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Dưới sự chỉ đạo của NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã tập trung nhiều sức, thời gian cho việc giải quyết nợ quá hạn và đầu tư vốn nhằm tăng dư nợ để đáp ứng nhu cầu vốn trên địa bàn và góp phần thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển. Chi nhánh được thành lập trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển, các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Đây là lợi thế đối với ngân hàng, tuy nhiên nền kinh tế cũng mới trong giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường, nên có nhiều biến động, ngoài ra trên địa bàn có nhiều đối thủ cạnh tranh đã thành lập trước đó. Nhưng Chi nhánh Nam Hà Nội đã nỗ lực trong việc thúc đẩy hoạt động cho vay và đã đạt được những kết quả đáng kể. Bảng 2.2: Tình hình sử dụng vốn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Tổng dư nợ 2.350 3.128 4.178 A. Dư nợ hộ Trung ương 511 478 448 B. Dư nợ tại Chi nhánh 1.839 2.650 3.730 1. Phân theo loại tiền - Nội tệ 1.421 2.044 2.612 - Ngoại tệ 418 606 1.118 2. Phân theo thời gian - Ngắn hạn 1.104 1.136 2.183 - Trung - dài hạn 735 1.514 1.547 3. Nợ xấu 19,8 10,5 12,82 Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của chi nhánh từ 2008 - 2010. Dư nợ qua các năm đều liên tục tăng trưởng. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế năm 2009 đạt 3.128 tỷ đồng, tăng 778 tỷ đồng so với năm 2008, trong đó: dư nợ tại Chi nhánh là 2.650 tỷ đồng, dư nợ nội tệ đạt 2.044 tỷ đồng, đạt 97% kế hoạch năm 2009, dư nợ ngoại tệ đạt 606 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch năm được giao, tăng 188 tỷ đồng so với năm 2008, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đạt 439 tỷ đồng, dư nợ chủ yếu phục vụ cho các dự án giải ngân đồng tài trợ, dự án dài hạn đi vào hoạt động để thu hồi vốn và phục vụ lĩnh vực thực phẩm, phân bón,… Và tính đến 31/12/2010, tổng dư nợ đạt 4.178 tỷ đồng, tăng 1.050 tỷ đồng so với năm 2009, trong đó: dư nợ tại Chi nhánh đạt 3.730 tỷ đồng, trong đó dư nợ nội tệ đạt 2.612 tỷ đồng (dư nợ nội tệ trong kế hoạch đạt 2.211 tỷ đồng, bằng 96,5% kế hoạch năm 2010, dư nợ nội tệ sử dụng vốn ngoài kế hoạch đạt 401 tỷ đồng/500 tỷ đồng Trung ương giao và chiếm 62,51%/tổng dư nợ), dư nợ ngoại tệ USD đạt 26,898 triệu USD tương đương 1.118 tỷ đồng chiếm 12,2%/tổng dư nợ (bằng 72,7% kế hoạch năm 2010 và tăng 512 tỷ đồng so với năm 2009); dư nợ hộ Trung ương đạt 448 tỷ đồng (chiếm 10,72%/tổng dư nợ và giảm 30 tỷ đồng so với năm 2009). Bên cạnh những thành tích đạt được, chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể là: năm 2008, theo quyết đinh 09/2008/NHNN ngày 10/04/2008 của thống đốc NHNN về việc "Cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư trú" đã gây khó khăn cho ngân hàng trong việc mở rộng đối tượng cho vay vốn ngoại tệ. Nợ xấu năm 2009 là 10,5 tỷ đồng (chiếm 0.4%/tổng dư nợ) giảm so với năm 2008 là 9,4 tỷ đồng (tỷ lệ nợ xấu năm 2008 ở mức 1,1%/tổng dư nợ). Tuy nhiên, đến 31/12/2010, nợ xấu chiếm 0,3%/ dư nợ địa phương và chiếm 9,08%/tổng dư nợ (Bao gồm cả nợ xấu Trung ương và địa phương). Nguyên nhân của việc gia tăng nợ xấu là một phần là do nền kinh tế bất ổn khiến cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh, còn một phần là do việc kiểm tra sau cho vay chưa tốt. 2.1.3.4. Các hoạt động khác Nghiệp vụ thẻ ATM: Nắm bắt được xu thế chung của xã hội là dần chuyển thanh toán tiền mặt sang thanh toán không dung tiền mặt nên ngân hàng đã thúc đẩy mạnh mẽ việc phát hành thẻ ATM, tiến hành làm thẻ liên kết cho các trường đại học, phát triển các dịch vụ đi kèm như SMS banking, mobilebanking, Vntopup, nạp tiền cho ví điện tử,… Số thẻ ATM ngày càng tăng lên qua các năm. Công tác quản lý các máy ATM tương đối tốt và an toàn đã nâng cao được uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Năm 2008, tổng số thẻ phát hành ra là 8.076 thẻ, trong đó có 7.930 thẻ ATM, 136 thẻ Visa và 10 thẻ tín dụng quốc tế. Năm 2009 số thẻ ATM phát hành ra là 18.000 thẻ. Đến năm 2010: số lượng thẻ tăng lên đến 22.000 thẻ, tăng 4.000 thẻ so với năm 2009, đạt 135% kế hoạch; số dư tiền gửi không kỳ hạn trên tài khoản thẻ đạt 42,2 tỷ đồng, tăng 4 tỷ so với năm 2009, đạt 93,7% kế hoạch đề ra; thu phí dịch thẻ ATM đạt 389 triệu đồng (chưa bao gồm phí giao dịch qua Banknet chưa phân bổ); khách hàng sử dụng mobile banking đạt 35%/tổng số khách hàng, tăng 10% so với năm 2009; cung cấp dịch vụ internet banking cho 58 khách hàng là tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số tồn tại: phát hành thẻ sinh viên với số lượng lớn nhưng chưa hiệu quả, chưa triển khai lắp đặt thiết bị chấp nhận thẻ. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế: Nằm trên địa bàn Hà Nội có nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nên chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ nhằm thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ hợp lý cho khách hàng hoạt động và tăng thêm thu nhập cho Chi nhánh. Bảng 2.3: Tình hình kinh doanh ngoại hối Đơn vị: triệu USD Nghiệp vụ Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 1. Kinh doanh ngoại tệ Doanh số mua 162,7 81,9 151,2 Doanh số bán 159,9 80,8 99,8 2. Thanh toán quốc tế Thanh toán L/C nhập 73,5 82,7 72,7 Thanh toán L/C xuất 112,3 44,2 11,2 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh từ năm 2008 - 2010 Năm 2008, do chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội là đầu mối phục vụ giải ngân 6 dự án: dự án hạ tầng cơ sở nông thôn dựa vào cộng đồng (102,78 triệu USD), ban quản lý dự án PMU5 (70 triệu USD), dự án hỗ trợ nông dân nghèo qua sản xuất lụa (0,6 triệu USD), dự án phát triển đô thị vừa và nhỏ miền trung (2 triệu USD), và dự án cải tạo tình trạng dinh dưỡng bổ sung vitamin A (1,2 triệu USD). Tổng số vốn của các dự án trên là 176,58 triệu USD nên năm 2008 là năm kinh doanh ngoại tệ phát triển mạnh. Năm 2009, một số dự án đã hoàn thành nên việc kinh doanh ngoại tệ có giảm so với năm 2008. Đặc biệt trong năm 2010, tình hình biến động về tỷ giá và nguồn cung ngoại tệ khó khăn tác động lớn đến hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại hối. Tuy nhiên chi nhánh vẫn cân đối đảm bảo cung cấp đủ nguồn ngoại tệ cho các đơn vị thanh toán xuất nhập khẩu cho chi nhánh và các nhu cầu khác như trả nợ, chuyển tiền cá nhân. Nghiệp vụ kế toán thanh toán: Với công nghệ hiện đại, chất lượng dịch vụ ngày càng hoàn thiện, mạng lưới liên kết rộng khắp. Do đó, lượng khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng ngày càng đông đã góp phần tăng nguồn vốn huy động, dư nợ cho vay và tăng phí dịch vụ. Tính đến 31/12/2010, nghiệp vụ kế toán thanh toán đã đạt được một số kết quả sau: - Doanh số chuyển tiền đi đạt 31,622 tỷ đồng. - Doanh số chuyển tiền đến đạt 22,659 tỷ đồng. - Doanh số thu, chi nội ngoại tệ đạt 26,6 tỷ đồng. - Thu phí dịch vụ đạt 4,458 tỷ đồng. 2.1.3.5. Đánh giá kết quả kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nam Hà Nội - Công tác huy động vốn: Năm 2008, năm 2009 nguồn vốn ổn định, hoàn thành vượt mức kế hoạch giao, chất lượng nguồn vốn được nâng lên, cơ cấu nguồn vốn hợp lý và tăng hiệu quả sử dụng. Đến năm 2010, công tác huy động vốn gặp nhiều khó khăn, nguồn của TCTD và tổ chức kinh tế giảm mạnh. Điều đó tác động lớn đến kết quả kinh doanh của Chi nhánh. - Công tác tín dụng: dư nợ tín dụng phù hợp với sự tăng trưởng nguồn vốn, đa dạng hoá khách hàng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tập trung vào các đối tượng khách hàng sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Chất lượng tín dụng được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên so với năm 2008, 2009, năm 2010 có khó khăn hơn về hoạt động tín dụng do ảnh hưởng cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. - Công tác tài chính: quỹ thu nhập tăng trưởng vào những năm 2008,2009, năm 2010 quỹ thu nhập giảm do không thu được lãi (vì nợ quá hạn cao và phải trích dự phòng rủi ro). Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 2.4: Kết quả kinh doanh của Chi nhánh Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 1. Tổng thu 592.084 529.426 517.577 - Thu từ lãi 541.704 475.241 425.958 - Thu ngoài lãi 50.380 54.185 91.619 2. Tổng chi 475.619 424.044 503.076 - Chi trả lãi 399.815 348.024 363.482 - Chi ngoài lãi 75.804 76.020 139.594 Lợi nhuận trước thuế 116.465 105.382 14.501 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh từ 2008 - 2010. Biểu đồ 2.1: So sánh kết quả kinh doanh qua các năm Nhìn vào bảng 2.4 biểu đồ 2.1 so sánh trên ta thấy kết quả kinh doanh trong ba năm giảm dần từ năm 2008 đến 2010, lợi nhuận của năm 2010 giảm mạnh so với năm 2008: 101.964 triệu đồng và giảm so với năm 2009 là 90.881 triệu đồng. Lợi nhuận giảm vì tiền thu từ lãi giảm dẫn đến tổng thu giảm: năm 2010 giảm so với 2009 là 11.489 triệu đồng và so với năm 2008 là 74.507 triệu đồng. Trong khi đó tổng chi tăng do chi ngoài lãi tăng (chi lãi tiền vay và chi dự phòng rủi ro). Nguyên nhân: - Năm 2009 đến năm 2010 tổng thu giảm do nguồn rẻ từ TCTD, tổ chức kinh tế giảm mạnh (nguồn tiền gửi của công ty quản lý vốn SCIC của Chính phủ và tiền gửi của Bảo hiểm xã hội Việt Nam) hoặc phải lấy lãi suất cao, nguồn dân cư cũng giảm và chỉ tập trung ở kỳ hạn ngắn. Lãi suất liên tục biến động làm cho chênh lệch lãi suất đầu ra, đầu vào thu hẹp dẫn tới việc chi trả lãi cao. 120.000 100.000 80.000 60.000 40.000 20.000 0 116.465 105.382 14.501 2008 2009 2010 Lợi nhuận trước thuế Đơn vị: Triệu đồng - Việc trích quỹ dự phòng rủi ro năm 2010 tăng cao so với năm 2009 tăng 50.772 triệu đồng và năm 2008 tăng 40.081 triệu đồng do năm 2010 nợ xấu tăng (từ dư nợ hộ Trung ương của công ty cho thuê tài chính ALC1 là 366,38 tỷ đồng) làm cho tổng chi tăng. Tóm lại, trong điều kiện khó khăn chung của toàn ngành, mặc dù lãi suất huy động tăng cao, hạn mức dư nợ giảm nhưng Chi nhánh đã tích cực tận thu tới mức tối đa như thu nợ đến hạn, xử lý rủi ro và tiết kiệm các khoản chi nên trong ba năm 2008 - 2010 quỹ thu nhập của Chi nhánh vẫn đảm bảo đủ lương và thưởng, chăm lo đời sống, văn hoá tinh thần cho cán bộ công nhân viên (trừ nợ quá hạn của Trung ương). 2.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NAM HÀ NỘI 2.2.1. Khung pháp lý hiện đang áp dụng tại chi nhánh - Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010; - Luật Các TCTD năm 2010; - Quyết định số 666/QĐ-HĐQT-TDHo ngày 15/06/2010 của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. - Quyết định số 528/QĐ-HĐQT-TDDN ngày 25/02/2010 của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về phân cấp phán quyết tín dụng trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. - Quyết định số 1300/QĐ-HĐQT-TDHo ngày 03/12/2007 của Hội đồng quản trị về quy định thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. - Quyết định số 398/QĐ-HĐQT-TD ngày 02/05/2007 của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về quy định bảo lãnh ngân hàng trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. - Quyết định số 1406/NHNo-TD ngày 23/05/2007 của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về tiêu chí phân loại khách hàng trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. - Quyết định số 636/QĐ-HĐQT-XLRR ngày 22/06/2007 của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về quy định phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. - Quyết định số 1235/NHNo-TD ngày 17/05/2002 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam về hướng dẫn phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. - Quyết định số 1289/QĐ-HĐQT-PC về ủy quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người đại diện theo pháp luật của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam. - Nghị quyết số 6535/HĐQT-NQ ngày 18/11/2010 và Nghị quyết số 1700/HĐQT- NQ ngày 29/11/2010 của Hội đồng quản trị về việc cho vay mua tài sản đầu tư, tài sản cho thuê của các Công ty cho thuê tài chính. - Quyết định 2849/NHNo-TDDN ngày 14/06/2010 về cho vay để nhập khẩu hàng hoá. - Quyết định số 2864/NHNo-TDDN ngày 16/06/2010 về thực hiện quyền phán quyết tín dụng đối với Chi nhánh có nợ xấu trên 5%. - Quyết định 1801/QĐ-HĐQT-TDDN ngày 10/12/2010 về cho vay bằng ngoại tệ đối với khách hàng là người trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. - Quyết định số 5322/NHNo-TDHo ngày 12/10/2010 của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về hướng dẫn cho vay thông qua tổ vay vốn. - Quyết định số 1434/QĐ-HĐQT-TDDN ngày 22/10/2010 của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về quy định cho vay đối với TCTD phi ngân hàng trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. - Quyết định số 6340/NHNo-TDHo của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam ngày 18/11/2010 về hướng dẫn cho vay cầm cố giấy tờ có giá. - Quyết định số 1487/QĐ-HĐQT-PC ngày 03/11/2010 của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về uỷ quyền ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay. - Các văn bản về xử lý đối với các khoản nợ của 2 công ty Cho thuê tài chính: Công văn số 122/NHNo-TDDN ngày 11/01/2010, số 1987/NHNo-TDDN ngày 27/04/2010, 2197/NHNo-TDDN ngày 12/05/2010, số 6110/NHNo-TDDN ngày 10/11/2010, và quyết định số 1788/HĐQT-TDDN ngày 08/12/2010. - Quyết định số 909/NHN-TD ngày 05/07/2010 của Giám đốc NHNo&PTNT Nam Hà Nội về phân cấp và uỷ quyền phán quyết tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội. 2.2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh Nam Hà Nội Khi nền kinh tế phát triển thì nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng, kinh tế cá thể cũng cần được đầu tư. Ngay từ năm 2008, thực hiện chương trình hành động của chính phủ, của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá X và nghị quyết số 24/2008/NQ-CP về chính sách kích cầu chống suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội, NHNo&PTNT và từng Chi nhánh phải đặc biệt quan tâm đến nông nghiệp nông thôn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ giữ vai trò chủ đạo. Nằm trên địa bàn thành phố nên việc cho vay của Chi nhánh chủ yếu ở một số thành phần kinh tế như doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Những thành phần khác chiếm tỷ trọng nhỏ hoặc không có như hộ gia đình, hợp tác xã. Hơn nữa, đang trong thời kỳ các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá nhiều, nhiều doanh nghiệp nhà nước phải giải thể hoặc sát nhập. Khi đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước các NHTM cũng phải nhắc, tính toán sao cho đồng vốn của mình sử dụng có hiệu quả nhất. 2.2.2.1. Cơ cấu dư nợ Bảng 2.5: Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010. Tổng dư nợ 1.839 2.650 3.730 I. Doanh nghiệp lớn - Số lượng (doanh nghiệp) 8 6 8 - Tổng dư nợ 715,318 570,459 707,769 Trong đó: 1. Doanh nghiệp nhà nước 715,318 570,459 410,120 2. Công ty cổ phần - - 297,649 3. Công ty hợp danh - - - 4. Công ty trách nhiệm hữu hạn - - - 5. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - - - 6. Doanh nghiệp tư nhân - - - 7. Pháp nhân khác - - - 8. Hợp tác xã - - - II. Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Số lượng (doanh nghiệp) 57 97 78 - Tổng dư nợ 1.123,682 2.079,541 3.022,231 Trong đó: 1. Doanh nghiệp nhà nước 286,681 250,541 205,880 2. Công ty cổ phần 355,561 1.151,183 2.013,600 3. Công ty hợp danh - - - 4. Công ty trách nhiệm hữu hạn 109,729 161,893 492,217 5. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - - - 6. Doanh nghiệp tư nhân 250 300 - 7. Pháp nhân khác 121,711 215,924 310,534 8. Hợp tác xã - - - Nguồn: Báo cáo cho vay doanh nghiệp vay theo thành phần kinh tế các năm 2008 - 2010. Năm 2009, tổng dư nợ của các doanh nghiệp lớn đạt 570,459 tỷ đồng, giảm 144,859 tỷ đồng, nhưng đến năm 2010 tăng 137,310 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2009. Thời kỳ này, có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời, cùng với nhiều chính sách kích cầu của Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì thế dư nợ các doanh nghiệp này tăng nhanh chóng. Năm 2009 tổng dư nợ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đạt 2.079,541 tỷ đồng, tăng 955,859 tỷ đồng, tương đương với 45% so với năm 2008. Năm 2010 tăng 942,690 tỷ đồng, tương đương với 31% so với năm 2009. Điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đa dạng được loại hình sản phẩm, từng bước chuyển kịp với cơ chế thị trường. Vì thế nguồn vốn vay ngân hàng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng và ngân hàng có thể mở rộng tín dụng. Việc cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy đa dạng và phong phú nhưng cũng đầy tính phức tạp. Cho vay đối với thành phần kinh tế này đòi hỏi phải có tài sản thế chấp làm đảm bảo tiền vay nhưng giấy tờ pháp lý thế chấp không đầy đủ hoặc khi vay doanh nghiệp lại gặp sự cố thì việc chuyển hoá tài sản thế chấp lại gặp khó khăn do thủ tục pháp lý. Bảng 2.6: Cơ cấu phân theo kỳ hạn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Tổng dư nợ 1.839 2.650 3.730 - Dư nợ ngắn hạn 980 1.136 1.981 - Dư nợ trung hạn 97 142 95 - Dư nợ dài hạn 762 1.372 1.654 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh 2008-2010. Trong tổng dư nợ tín dụng của Chi nhánh, cho vay ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn. Năm 2008, dư nợ ngắn hạn chiếm 46,2%/tổng dư nợ và đến năm 2010 đã lên đến 53,2%/tổng dư nợ. Nguyên nhân là do các doanh nghiêp vừa và nhỏ phát triển nhiều, Chi nhánh đã tiền hành tư vấn sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ để tạo uy tín đối với khách hàng. Kết quả là Chi nhánh đã thu hút một lượng khá lớn các khách hàng vay vốn để thoả mãn nhu cầu ngắn hạn. Bên cạnh cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn cũng tăng lên. Doanh số cho vay trung hạn năm 2009 đạt 142 tỷ đồng, tăng 45 tỷ đồng so với năm 2008 với tốc độ tăng là 34,5%, và đến năm 2010 lại giảm đi 47 tỷ đồng. Doanh số cho vay dài hạn năm 2009 đạt 1.372 tỷ đồng, tăng 610 tỷ đồng tương đương với 42% so với năm 2008, năm 2010 tăng 282 tỷ đồng, tăng 17% so với năm 2009. Giải thích cho sự tăng trưởng của tín dụng trung và dài hạn đó là các doanh nghiệp đang có nhu cầu vốn trung và dài hạn lớn để đầu tư vào chiều sâu, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh trước yêu cầu hội nhập. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên nhu cầu vay trung và dài hạn vẫn chiếm tỷ trọng ít hơn cho vay ngắn hạn Nhìn chung, hoạt động sử dụng vốn của Chi nhánh đạt hiệu quả tốt tuy nhiên nên chú trọng đến công tác thu nợ để chất lượng tín dụng đạt hiệu quả cao hơn 2.2.2.2. Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn là những khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi đã quá hạn. Ngoài những nguyên nhân khách quan, nợ quá hạn còn tạo ra những hoài nghi về hoạt động tín dụng của ngân hàng hay ít nhiều cũng là việc xác định không phù hợp các điều kiện cho vay như thời hạn trả nợ, phương thức trả nợ. Một trong những chỉ tiêu quan trọng được sử dụng trong đánh giá chất lượng tín dụng là tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ. Nợ quá hạn là vấn đề được quan tâm số một trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Nợ quá hạn là tồn tại cơ bản nhất, nếu không nhanh chóng khắc phục sẽ đe doạ trực tiếp đến sự lành mạnh và an toàn của ngân hàng cũng như nền kinh tế. Nợ quá hạn luôn là vấn đề nhức nhối đòi hỏi phải có nhiều biện pháp tập trung công sức và thời gian để xử lý. Bảng 2.7: Diễn biến nợ quá hạn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Nợ quá hạn 445,4 384,56 724,34 Tổng dư nợ 1.839 2.650 3.730 Nợ quá hạn/Tổng dư nợ (%) 24 14 19 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 2008 - 2010) Biểu đồ 2.2: So sánh nợ quá hạn và tổng dư nợ Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2008 - 2010. Dựa vào bảng 2.7 và biểu đồ 2.2 ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn các năm 2008 đến 2010 rất cao cho thấy chất lượng tín dụng của Chi nhánh không đảm bảo. Năm 2008 tỷ lệ này ở mức 24%, sang năm 2009 giảm xuống còn 14% và năm 2010 là 19%. Lý giải cho sự thay đổi không đồng đều qua các năm là do tình hình nền kinh tế qua các năm. Năm 2008, lạm phát kinh tế cao cộng với sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế đã làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn gặp k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội, thực trạng và giải pháp.pdf
Tài liệu liên quan