Luận văn Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa: LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở Việt Nam, vị trí và đặc điểm của các nguồn lực đang được đánh giá và nhìn nhận lại, trong đó con người được coi là nguồn lực nội tại, cơ bản, quyết định thành công của công cuộc phát triển KT - XH. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Có thể thấy rằng, quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam được thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng phát triển bền vững trong đó nhân tố con người là trung tâm. Trong tiến trình đó, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang là những yêu cầu hết sức cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lự...

pdf180 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở Việt Nam, vị trí và đặc điểm của các nguồn lực đang được đánh giá và nhìn nhận lại, trong đó con người được coi là nguồn lực nội tại, cơ bản, quyết định thành công của công cuộc phát triển KT - XH. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Có thể thấy rằng, quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam được thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng phát triển bền vững trong đó nhân tố con người là trung tâm. Trong tiến trình đó, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang là những yêu cầu hết sức cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá. Trong nền kinh tế hiện đại, nguồn nhân lực đã trở thành động lực tăng năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, đây chính là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Bởi vì, chỉ có nguồn nhân lực mới có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác (vốn, khoa học - công nghệ, tài nguyên thiên nhiên) trở thành động lực trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế phát triển theo chiều sâu dựa chủ yếu vào tri thức, chúng ta càng nhận thức rõ hơn về vai trò quyết định của nguồn nhân lực trong phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây đã cho thấy rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản: “áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. Trong đó, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong một nền kinh tế toàn cầu, đầy biến động và cạnh tranh quyết liệt, ưu thế cạnh tranh sẽ nghiêng về các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và xã hội ổn định. Một số nước ở khu vực châu Á đang điều chỉnh chiến lược cạnh tranh trong tương lai - khi phát triển nền kinh tế tri thức, đã xác định phát triển nguồn nhân lực là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở nhận thức lý thuyết, ở tư duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, mà điều này được khẳng định trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng ta đã khẳng định: “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”, đồng thời Nhà nước đã có nhiều chính sách phát huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực, đã góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức cao và ổn định. Trong quá trình phát triển, tạo ra lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực sẽ là nguồn nội lực, là yếu tố nội sinh và động lực to lớn để phát triển đất nước, đảm bảo đi tắt đón đầu, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Trong điều kiện ngày nay, trí tuệ con người giữ vai trò quyết định sức mạnh của mỗi quốc gia, nó là tài nguyên của mọi tài nguyên. Nguồn nhân lực nếu được khai thác hiệu quả trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ là giải pháp đột phá nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển KT - XH trong tương lai. Công cuộc đổi mới ở nước ta đã làm thay đổi cơ bản KT - XH, các địa phương thuộc miền Đông Nam bộ cũng nằm trong xu thế vận động phát triển đó. Miền Đông Nam bộ gồm 6 tỉnh, thành: Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh, đây là vùng kinh tế phát triển năng động nhất của các tỉnh phía Nam và cả nước. Vùng ĐNB nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam - đầu tàu trong phát triển của cả nước; là vùng duy nhất hội đủ các điều kiện và lợi thế để phát triển công nghiệp, dịch vụ, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập; đặc biệt phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, tin học, công nghiệp dầu khí và sản phẩm hóa dầu; phát triển dịch vụ cao cấp, dịch vụ du lịch, dịch vụ viễn thông, tài chính, ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao,… phát triển các ngành kinh tế hiện đại. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu, nhiều cơ hội mở ra thì song song đó cũng phải đối mặt với thách thức, nguy cơ. Trong đó, nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao sức mạnh cạnh tranh cũng là thách thức lớn. Phát triển Vùng ĐNB đến 10, 20 năm nữa chắc chắn sẽ có thay đổi lớn như dân số phát triển, hạ tầng kinh tế kỹ thuật mở rộng, hình thành và phát triển các cụm kinh tế kỹ thuật và khoa học công nghệ… tạo ra nhiều cơ hội mới cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Do đó, Vùng ĐNB rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu này. Mặt khác, hiện nay nguồn nhân lực của Vùng ĐNB chưa được chuẩn bị tương xứng với yêu cầu CNH, HĐH. Ngành giáo dục chưa chủ động gắn kết quy hoạch phát triển giữa các địa phương trong vùng; chưa dự báo được yêu cầu nhân lực cho từng ngành kinh tế trong chiến lược phát triển KT - XH của cả Vùng trong dài hạn. Tình trạng này cần phải khắc phục nhanh, vì nếu không nó sẽ không phát huy được tiềm năng to lớn và triển vọng tăng trưởng cao từ chất lượng nguồn nhân lực của Vùng. Điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu KT - XH của Vùng ĐNB trong giai đoạn tới. Các quyết sách cho những vấn đề còn tồn tại cần đặt trong một chỉnh thể chiến lược dài hơi hơn là những giải pháp rời rạc, tình huống. Chính vì thế, nhóm nghiên cứu lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” để nghiên cứu lúc này có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng thực hiện thành công quá trình CNH, HĐH và hội nhập của nước ta, đặc biệt là đòi hỏi của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Các công trình nghiên cứu trong nước tập trung theo các vấn đề sau đây: 3.1. Quan niệm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực. - “Con người và phát triển con người”, Hồ Sĩ Quý, NXB Giáo dục, Hà Nội 2007. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác, cuốn sách nghiên cứu khả kỹ về khoa học con người, làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu nguồn nhân lực. - “Quan điểm của Đảng ta về: Bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt”, Vũ Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 12 (187) 12-2006. Bài viết tập trung luận giải sự đúng đắn quan điểm của Đảng ta về doanh nhân, là lực lượng đảm đương vai trò tiên phong trong phát triển kinh tế, tạo động lực và để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 3.2. Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập. - “Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH dựa trên tri thức của nước ta hiện nay”, Đặng Hữu, Tạp chí Cộng sản, số 4/2005. Công trình nghiên cứu khá kỹ về yêu cầu của CNH, HĐH và sự phát triển kinh tế tri thức, do đó cần phải có sự đổi mới trong giáo dục. Tác giả nêu ra 3 nhiệm vụ cơ bản của nền giáo dục nước ta là: Nâng cao mặt bằng dân trí; Đào nguồn nhân lực chất lượng cao thích nghi quá trình đổi mới và phát triển nhanh, đáp ứng được nhu cầu rút ngắn quá trình CNH, HĐH dựa vào tri thức; Phải chăm lo bồi dưỡng và phát triển đội ngũ nhân tài. - “Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”, Vũ Bá Thể, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội 2005. Cuốn sách phân tích vấn đề trên trong 3 chương. Chương 1, hệ thống hóa một số vấn đề liên quan đến nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực, vai trò,…. Chương 2, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta: ưu điểm, hạn chế, xu hướng phát triển,…. Chương 3, xuất phát từ quan điểm của Đảng và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp phát huy nguồn nhân lực ở nước ta. Các công trình nghiên cứu trên phân tích khá sâu những đặc điểm, yêu cầu của quá trình CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, các công trình này chỉ dừng lại ở tính khái quát, lý luận. 3.3. Vấn đề giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. - “Phát triển nhân tài chấn hưng đất nước”, Nguyễn Đắc Hưng, NXB CTQG, Hà Nội 2007. Cuốn sách tập trung giới thiệu những phẩm chất cần có của nhân tài, kinh nghiệm đào tạo, sử dụng nhân tài của ông cha ta và một số quốc gia trên thế giới, những nội dung cơ bản về phát triển nhân tài. - “Mô hình năng lực trong giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực”, Nguyễn Hữu Lam, Tạp chí Phát triển kinh tế số 3/2004. Tác giả phân tích các lý thuyết về mô hình năng lực trong giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực có giá trị tham khảo phục vụ cho nghiên cứu đề tài. - “Một số vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam”, Vũ Thành Hưng, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (số 90) 12/2004. Nội dung công trình phân tích những thành tựu và hạn chế vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của nước ta, từ đó đề xuất một số kiến nghị nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua đào tạo. Vấn đề giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực được các công trình trên đi sâu phân tích. Tuy nhiên, hầu hết chưa đưa ra mô hình giáo dục - đào tạo phù hợp với điều kiện hội nhập của Việt Nam, đáp ứng sự phát triển các ngành kinh tế hiện đại. 3.4. Phát triển nguồn nhân lực trong các loại hình doanh nghiệp. - “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, Trần Kim Dung, Tạp chí Phát triển kinh tế số 3/2004. Công trình phân tích và chỉ ra những bất cập trong hoạt động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh qua số liệu điều tra 120 cá nhân về hoạt động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và 558 cá nhân về quan điểm của nhân viên trong các doanh nghiệp. - “Phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nhà nước”, Lê Thị Ngân, Nguyễn Huy Oánh, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 4/2004. Công trình nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước và nguyên nhân, từ đó xác định những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp này. - “Thực trạng lao động trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam”, Lê Thị Ngân, Tạp chí Lý luận chính trị số 12/2003. Tác giả phân tích những đặc điểm của lao động trong khu vực FDI ở Việt Nam, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng lao động góp phần thu hút FDI ở Việt Nam. Các công trình nêu trên đề cập đến những nội dung phát triển nguồn nhân lực ở cấp độ doanh nghiệp, chưa nghiên cứu đến sự phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện hội cho một vùng kinh tế. 3.5. Vai trò của Nhà nước, thị trường lao động và chất lượng nguồn nhân lực - “Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp”. Nguyễn Thị Thơm, NXB CTQG, Hà Nội 2006. Cuốn sách trình bày những vấn đề cơ bản về thị trường lao động, kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Nội dung cuốn sách cung cấp cho người đọc bức tranh tổng thể về thị trường lao động nước ta hiện nay. - “Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội”, Bùi Văn Nhơn, NXB Tư Pháp, Hà Nội 2006. Cuốn sách cung cấp cơ sở lý thuyết những nội dung cơ bản trong quản lý phát triển nguồn nhân lực như: phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực , thị trường lao động, các chính sách,… - “Thị trường lao động; Vấn đề lý thuyết và thực trạng hình thành, phát triển ở Việt Nam”, Phạm Đức Chính, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 308 (1/2004). Tác giả phân tích khả kỹ những nội dung liên quan đến thị trường lao động như: Khái niệm thị trường lao động; Bản chất của thị trường lao động; Những đặc trưng hoạt động của thị trường lao động; Ý nghĩa của thị trường lao động và cuối cùng tác giả phân tích thực trạng thị trường lao động ở Việt Nam, rút ra một số đặc điểm chủ yếu của thị trường lao động. Các công trình đề cập tương đối toàn diện vai trò của Nhà nước trong việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, các công trình mới chỉ dừng lại những vấn đề chung và chưa đề cập nhiều đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong điều kiện hội nhập. 3.6. Khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực - “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam”, Nguyễn Hữu Dũng, Nxb Lao động - Xã hội, 2003. Cuốn sách trình bày hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta đến năm 2020. - “Hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta và giải pháp nâng cao”, Nguyễn Thị Thơm, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2003. Công trình đánh giá hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta trên các nội dung: mức độ toàn dụng lao động thấp, việc bố trí và sử dụng lao động còn bất hợp lý, năng suất lao động hay hiệu quả hoạt động thấp, từ đó đưa ra những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta. Nhìn chung các công trình trên chủ yếu tập trung vào nội dung định tính để đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, chỉ đề cập đến một số chỉ số cơ bản và đặt ra nhiều nội dung cần tiếp tục nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Để đạt mục tiêu nghiên cứu đặt ra, Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích thống kê, phân tích định lượng, phương pháp chuyên gia và phương pháp phỏng vấn sâu. a. Phân tích thống kê: Sử dụng các số liệu thống kê, so sánh kết hợp với phương pháp định lượng để tìm ra các kết luận khoa học. b. Phương pháp chuyên gia: Tổ chức hội thảo trong quá trình thực hiện nhằm tìm kiếm sự thống nhất trong các phân tích, đánh giá cũng như đề xuất các giải pháp, kiến nghị. Chuyên gia là các cán bộ chỉ đạo thực tiễn của tỉnh và một số nhà nghiên cứu. 3. Mục tiêu của đề tài Mục tiêu chung của đề tài là xây dựng những luận cứ khoa học và căn cứ thực tiễn về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh miền Đông Nam bộ trong thời kỳ hội nhập (về khái niệm, nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực, các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, xu hướng phát triển của nguồn nhân lực), những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất hệ thống các quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh Vùng ĐNB trong thời kỳ hội nhập. Nhiệm vụ cụ thể của đề tài: - Hệ thống lý luận về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Phân tích hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn miền Đông Nam bộ, xác định những hạn chế và nguyên nhân. - Xây dựng những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh miền Đông Nam bộ trong thời kỳ hội nhập. 4. Đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu Đề tài nghiên cứu vấn đề chất lượng nguồn nhân lực của Vùng ĐNB từ năm 2000 trở lại đây. Về mặt lý luận, chất lượng nguồn nhân lực là tổng hòa của ba yếu tố: thể lực, trí lực và phẩm chất của người lao động. Đề tài nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực trên 3 nội dung cơ bản: - Giáo dục - đào tạo và dạy nghề; - Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng; - Vấn đề nghèo đói và thu nhập. Đề tài được trình bày trong ba chương: Chương 1: Lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và nâng cao nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập Chương 2: Phân tích hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực Vùng ĐNB trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực miền Đông Nam bộ trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1.1. Lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực 1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực 1.1.1.1. Quan điểm Mácxit về nguồn lực con người Những thành tựu trong nhận thức về con người mà loài người đạt được ở thời đại ngày nay là kết quả của sự tích luỹ những giá trị tinh hoa của nhân loại qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong đó, những cống hiến của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin có tính chất quyết định, tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Ngược dòng lịch sử nghiên cứu về con người có thể nhận thấy: thời cổ đại, do hạn chế về thế giới quan, về điều kiện lịch sử, trình độ sản xuất còn thấp kém, khoa học chưa phát triển, nên quan niệm của các nhà triết học còn phiến diện, mang nặng tính chất thần bí, siêu hình. Sang thời phong kiến, triết học là nô tỳ" của thần học, các quan niệm về con người mất hết ý nghĩa tích cực của nó. Con người được hiểu như là sự sáng tạo của Thượng đế, không có khả năng làm chủ cuộc sống của mình. Thời kỳ Phục Hưng và Khai Sáng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và dần dần thắng thế ở châu Âu đã mở ra một thời kỳ mới trong việc khám phá bản chất con người. Quan niệm về con người thường gắn với vai trò của nó trong xã hội, hướng tới giải phóng con người khỏi thần học, khỏi các điều kiện nô dịch áp bức trong xã hội. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật siêu hình, các quan niệm về con người chỉ phản ánh những khía cạnh hạn hẹp, thiếu tính hệ thống. Như vậy, nghiên cứu những quan niệm về con người trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau: - Các nhà triết học trước Mác mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và giải thích con người từ nhiều phương diện với nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng cuối cùng vẫn chưa nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của con người trong sự phát triển của xã hội, chưa đề ra được những phương hướng, biện pháp nhằm giải phóng hoàn toàn con người. - Phần lớn các học thuyết triết học trước Mác, khi quan niệm về con người thường chỉ xuất phát từ một phía: bản thể tinh thần (Chủ nghĩa duy tâm), hoặc bản thể vật chất (chủ nghĩa duy vật). Họ không thấy được mối quan hệ biện chứng giữa những yếu tố tự nhiên, sinh học và những yếu tố xã hội của con người. - Khi xem xét con người trong mối quan hệ với hoàn cảnh, các nhà triết học trước Mác không thấy tính năng động, sáng tạo của con người, coi con người như một thực thể thụ động trước tác động của hoàn cảnh. Triết học mácxit trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những di sản lý luận trước đó và những thành tựu của khoa học tự nhiên, xuất phát từ con người hiện thực và hoạt động thực tiễn để xem xét bản chất con người. Trong quan niệm của triết học Mácxít con người là một thực thể trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Luận đề nổi tiếng về con người được C. Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc: Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội" 26, tr.11 . Với quan niệm đó, C. Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người. Ở đây, cá nhân được hiểu với tư cách là những cá nhân sống, là người sáng tạo các quan hệ xã hội; sự phong phú của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó. Hơn thế, mỗi cá thể là sự tổng hợp không chỉ của các quan hệ hiện có, mà còn là lịch sử của các quan hệ đó. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội, biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của xã hội loài người. Vạch ra vai trò của mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất của con người, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng của triết học mácxit. Kế thừa những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tri thức triết học phương Đông và vốn văn hoá dân tộc, luôn chú ý đến con người. Theo Hồ Chí Minh chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người" 21, tr.644. Với ý nghĩa đó, khái niệm con người mang trong nó bản chất xã hội, là con người xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng trong đó con người hoạt động và sinh sống. Hồ Chí Minh thường đặt mỗi cá nhân con người trong mối quan hệ ba chiều: quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất định trong đó mỗi con người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định trong đó con người được làm chủ hay bị áp bức bóc lột; quan hệ với tự nhiên trong đó con người là một bộ phận không thể tách rời. Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất giữa thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống cấu trúc bao gồm: sức khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh thần... Người cho con người là tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng và phát triển con người, coi con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng. Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con người chính là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với tư cách là nguồn sáng tạo có ý thức, là chủ thể của lịch sử. 1.1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực Theo Từ điển Tiếng Việt: Nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân lực là sức của con người bao gồm: sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức được vận dụng vào quá trình lao động của mỗi cá nhân (trí lực), những ham muốn, hoài bão của bản thân người lao động hướng tới một mục đích xác định (tâm lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của nó bao gồm ba yếu tố có sự liên hệ biện chứng với nhau, đó là thể lực, trí lực, tâm lực. Nguồn nhân lực được hiểu là nơi phát sinh, nơi cung cấp sức lực của con người trên đầy đủ các phương diện cho lao động sản xuất. Nguồn lực con người" hay nguồn nhân lực" là khái niệm được hình thành trong quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động lực của sự phát triển. Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây đề cập đến khái niệm nguồn nhân lực với các góc độ khác nhau. Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “ Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển KT - XH trong một cộng đồng”. Việc quản lý và sử dụng nguồn lực con người khó khăn phức tạp hơn nhiều so với các nguồn lực khác bởi con người là một thực thể sinh vật - xã hội, rất nhạy cảm với những tác động qua lại của mọi mối quan hệ tự nhiên, kinh tế, xã hội diễn ra trong môi trường sống của họ. Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ “vốn người” (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. Nguồn lực con người được coi như là một nguồn vốn bên cạnh các nguồn vốn khác như tài chính, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên... Ở nước ta, một số nhà khoa học tham gia chương trình khoa học - công nghệ cấp nhà nước mang mã số KX - 07 cho rằng nguồn lực con người được hiểu là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc. GS. Phạm Minh Hạc cho rằng “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó” 16, tr.269. TS Nguyễn Thanh xác định “nguồn nhân lực đó là tổng thể sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội” 33, tr.70. Nghiên cứu các khái niệm trên cho thấy nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội. Khái niệm nguồn nhân lực" (Human Resoures) được hiểu như khái niệm nguồn lực con người". Khi được sử dụng như một khái niệm công cụ để điều hành, thực thi chiến lược phát triển KT - XH, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có tham gia lao động - hay còn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của nguồn lao động gồm toàn bộ những người từ độ tuổi lao động trở lên có khả năng và nhu cầu lao động được gọi là lực lượng lao động. Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều thống nhất nội dung cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Theo chúng tôi, con người với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển thì không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, chúng tôi cho rằng nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội. Khái niệm nguồn lực con người bao quát được những mặt, những khía cạnh, phương diện cơ bản của nguồn lực con người, khắc phục được những hạn chế trong nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa các mặt số lượng và chất lượng con người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và tâm lực, khẳng định nguồn lực con người vừa là khách thể, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và quan hệ xã hội. Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến con người đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình phát triển KT - XH. Ở đây, cần lưu ý đến một số vấn đề sau: Thứ nhất, con người không tồn tại một cách biệt lập, mà liên kết chặt chẽ với nhau thành lực lượng thống nhất về tư tưởng và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể người trong hoạt động. Xét ở khía cạnh này, nguồn nhân lực là tổng hợp những con người với những phẩm chất nhất định đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình phát triển KT - XH. Năng lực sức mạnh này bắt nguồn trước hết từ những phẩm chất vốn có bên trong của mỗi con người và nó được nhân lên gấp bội trong tổng thể những con người cụ thể. Do đó, khi đề cập đến nguồn lực con người về phương diện xã hội, chúng ta không thể không bàn đến số lượng và chất lượng của nó. Trong đó: + Số lượng nguồn nhân lực chính là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực lượng lao động được xác định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính, sự phân bố dân cư theo khu vực và lãnh thổ. + Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trạng thái nhất định của nguồn lực con người với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái trí lực, thể lực, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của nguồn nhân lực. Như vậy, về phương diện xã hội, nói đến nguồn nhân lực là nói tới hàng loạt các vấn đề về số lượng dân cư, sự phát triển dân số, lực lượng lao động, vấn đề phân bố và sử dụng lao động, vấn đề tổ chức quản lý vĩ mô đối với nguồn nhân lực... Thứ hai, nói tới nguồn lực con người phải nói tới phương diện cá thể - chủ thể của nó. Bởi vì, con người đóng vai trò chủ động, là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá trình phát triển KT - XH, hướng nó tới mục tiêu đã được chọn. Phương diện này được hiểu như là những yếu tố tạo thành cơ sở hoạt động của cá nhân và cơ sở để phát triển một con người với tư cách là một cá nhân. Đó là sự kết hợp giữa trí lực, thể lực và những phẩm chất khác của nhân cách. + Trí lực là toàn bộ năng lực của trí tuệ, tinh thần, quyết định phần lớn khả năng lao động sáng tạo của con người. Trí tuệ được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu của nguồn lực con người bởi tất cả những gì thúc đẩy con người hành động tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ". Khai thác và phát huy tiềm năng trí tuệ trở thành yêu cầu quan trọng nhất của việc phát huy nguồn lực con người. Trí lực quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con người, là yếu tố ngày càng có vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là trong thời đại khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối óc con người làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình. Với ý nghĩa đó, nhà tương lai học Mỹ Alvin Toffler đã khẳng định rằng: “Tri thức có tính chất lấy không bao giờ hết được” và xếp quyền lực trí tuệ ở vị trí hàng đầu trong tất cả các quyền lực đã có trong lịch sử. + Thể lực đó là trạng thái sức khoẻ của con người biểu hiện ở sự phát triển sinh học, không có bệnh tật, có sức làm việc trong một hình thái lao động- nghề nghiệp nào đó, có sức khoẻ để tiếp tục học tập, làm việc lâu dài…, là điều kiện đảm bảo cho con người phát triển, trưởng thành một cách bình thường, hoặc có thể đáp ứng được những đòi hỏi về sự hao phí sức lực, thần kinh, cơ bắp trong lao động. Trí lực ngày càng đóng vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực, song, sức mạnh trí tuệ của con người chỉ có thể phát huy được lợi thế trên nền thể lực khoẻ mạnh. Chăm sóc sức khoẻ cho người dân là một nhiệm vụ rất cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo tiền đề phát huy có hiệu quả tiềm năng con người. + Đạo đức cá nhân phản ánh những giá trị và những chuẩn mực đạo đức xã hội. Những giá trị và chuẩn mực đó phản ánh bản chất của xã hội, lý tưởng đạo đức mà xã hội vươn tới, được cá nhân lĩnh hội và thể hiện trong đời sống của mình, nhất là trong hoạt động lao động, trong lối sống và nếp sống hàng ngày. Các giá trị chuẩn mực đó phải thể hiện thành hiệu quả công việc, đóng góp vào sự phát triển xã hội, vào sự hoàn thiện nhân cách cá nhân. Đạo đức gắn liền với năng lực tạo nên những giá trị cơ bản của nhân cách, của chất lượng nguồn nhân lực từ phương diện cá thể đến phương diện xã hội. Ngày nay, cái đem lại lợi thế cho nguồn nhân lực ngoài trí lực và thể lực, còn phải tính đến phẩm chất đạo đức, nhân cách con người. Bởi vì, trí lực cũng như thể lực chỉ có thể tạo ra sức mạnh thúc đẩy tiến bộ xã hội khi chủ nhân của nó là những con người có phẩm chất đạo đức, nhân cách tốt. Trình độ phát triển nhân cách, đạo đức đem lại cho con người khả năng thực hiện tốt các chức năng xã hội, nâng cao năng lực sáng tạo của họ trong hoạt động thực tiễn xã hội. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực, ngoài việc quan tâm nâng cao mặt bằng và đỉnh cao dân trí, tới việc bồi dưỡng và nâng cao sức khoẻ cho mỗi con người, cho cộng đồng xã hội, chúng ta phải đặc biệt coi trọng việc xây dựng đạo đức, nhân cách, lý tưởng cho con người. Như vậy, cấu thành nguồn lực con người xét từ phương diện cá thể, đó là một tổng hợp các năng lực và giá trị về trí lực, thể lực và những phẩm chất tinh thần. Vì vậy, muốn phát huy nguồn nhân lực trước hết phải phát triển cá nhân con người, tức là phải đầu tư chăm lo cho sự phát triển về trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, tinh thần của từng con người, từng thế hệ. Thứ ba, vai trò của nguồn lực con người so với các nguồn lực khác trong quá trình phát triển KT - XH đã được Đảng ta xác định là nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Dĩ nhiên, ngay cả khi xã hội đã phát triển cao với tiềm lực phong phú dồi dào về vốn vật chất thì “vốn người” vẫn không hề mất đi vai trò quyết định của nó. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau: + Các nguồn lực khác (vốn, tài nguyên thiên nhiên...) tự nó tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ trở thành động lực của sự phát triển khi kết hợp với nguồn lực con người, trở thành khách thể chịu sự cải tạo, khai thác và sử dụng của con người. + Các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ có nguồn nhân lực với cốt lõi là trí tuệ mới là nguồn lực có tiềm năng vô hạn, biểu hiện ở chỗ trí tuệ con người không chỉ tự sản sinh về mặt sinh học, mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Kinh nghiệm của nhiều nước đã cho thấy thành tựu phát triển KT - XH phụ thuộc chủ yếu vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nhiều quốc gia đã đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển của mình. Nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn lực con người và đầu tư cho chiến lược con người, đặt lên hàng đầu chất lượng nguồn lao động, coi giáo dục - đào tạo là chìa khoá của sự tăng trưởng đã đem lại thành công cho các nước công nghiệp mới Đông Á. Hàn Quốc từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một trong những quốc gia công nghiệp mới hùng mạnh nhất về kinh tế của thế giới thứ ba, vượt xa An-giê-ri - quốc gia có cùng điểm xuất phát về trình độ cách đây 40 năm. Một nước Nhật đạt được những bước tiến vượt bậc cũng do biết đặt vấn đề con người vào trung tâm của sự phát triển bằng các triết lý nhân sự mang tính dân tộc, biết sử dụng nguồn lực con người thông qua các thành tựu khoa học công nghệ và đã nhanh chóng bứt lên trở thành cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới. Do vậy, không phải ngẫu nhiên các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: lịch sử phát triển chân chính của xã hội là lịch sử phát triển con người, do con người và vì con người. Tiến trình phát triển lịch sử được quyết định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong đó người lao động ngày càng trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu. Nhận thức sâu sắc về vai trò của con người trong chiến lược phát triển KT - XH, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhiều lần khẳng định mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Vì vậy, chiến lược ổn định và phát triển KT - XH, xét về thực chất là chiến lược con người. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng, phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH đất nước" 11, tr.21. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục xác định: “nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ...” 12, tr.112. Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá để làm chuyển động toàn bộ tình hình KT - XH. Từ vai trò của nguồn lực con người đối với sự phát triển KT - XH, vấn đề tất yếu đặt ra là phải phát huy được nguồn lực con người. “Phát huy” là làm cho cái hay, cái tốt toả tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm. Theo đó phát huy nguồn nhân lực chính là nâng cao vai trò của nguồn lực con người trong sự phát triển KT - XH, qua đó làm gia tăng giá trị của con người. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, cần phân biệt khái niệm nguồn lực con người" với nhân tố con người". Trước hết, nguồn lực con người" và nhân tố con người" có cùng nghĩa như nhau khi đặt trong quan hệ với các nhân tố khác, nguồn lực khác (nguồn lực vật chất) ở chỗ chúng đều biểu hiện những đặc trưng, thuộc tính cơ bản của con người như: là nhân tố hoạt động, sống, khả năng tái sinh, tiềm năng vô tận của trí tuệ, tinh thần con người. Do đó, phát huy nhân tố con người có thể hiểu như là phát huy nguồn lực con người, khi con người trở thành một điều kiện, một tiềm năng cần phát huy để tạo ra động lực phát triển của một quá trình xã hội. Điểm khác nhau giữa hai khái niệm này: nguồn lực con người" được coi là khái niệm công cụ cơ bản để xây dựng chiến lược phát triển KT - XH, theo quan điểm hệ thống phải đặt nó trong mối quan hệ với các nguồn lực khác. Nó biểu hiện khả năng và phẩm chất của lực lượng lao động cả về mặt số lượng và chất lượng. Còn nhân tố con người" là cái cốt lõi, đặc trưng xã hội, giữ vị trí trung tâm trong tiềm năng của nguồn lực con người, phản ánh bản chất xã hội, mặt chất lượng của nguồn lực con người, nhấn mạnh tính chất tích cực, tự giác, sáng tạo của nguồn lực con người trong quan hệ với thể lực, kinh nghiệm thói quen của chủ thể. Thực chất của việc phát huy nhân tố con người là hướng mỗi cá nhân, đề cao tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của cá nhân hoặc đặt con người vào đúng vị trí của nó để con người có cơ hội bộc lộ mình cống hiến cho sự phát triển. Nhưng chúng ta chỉ hiểu được khái niệm nhân tố con người khi đặt nó trong hoạt động thực tiễn mà hoạt động bản thân là hoạt động lao động. Vì vậy, khi nhấn mạnh hệ thống các chỉ số về chất lượng lao động thì khái niệm nguồn lực con người là sự cụ thể hoá của khái niệm nhân tố con người. Tuy nhiên, phát huy nguồn lực con người" xét theo quan điểm đầu tư cho sự phát triển KT - XH bao hàm nghĩa rộng hơn phát huy nhân tố con người". Phát huy nguồn lực con người thể hiện ở ba mặt: phát triển nguồn nhân lực, sử dụng nguồn nhân lực và nuôi dưỡng môi trường cho nguồn nhân lực. Điều đó liên quan đến hàng loạt vấn đề từ việc nuôi dưỡng, giáo dục - đào tạo đến việc tổ chức khai thác, sử dụng nguồn nhân lực; từ việc phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của mỗi cá nhân đến việc tạo môi trường xã hội thuận lợi cho sự cống hiến và hưởng thụ của con người; từ việc nâng cao năng lực và phẩm chất của người lao động với tư cách là chủ thể nhận thức và hoạt động thực tiễn trong quá trình phát triển KT - XH đến khâu khai thác hợp lý, có hiệu quả trí lực, thể lực, tâm lực của họ với tư cách là khách thể của sự khai thác; từ việc sử dụng con người với tư cách là một nguồn lực, động lực cho sự phát triển đến việc chăm lo cho con người với tư cách là mục tiêu của sự phát triển KT - XH... Những vấn đề trên nếu được thực hiện tốt sẽ phát huy được vai trò của nguồn lực con người trong quá trình phát triển KT - XH. Trong bối cảnh ngày nay, vấn đề CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong xu thế toàn cầu hóa. Quá trình CNH, HĐH đã được các nước phát triển thực hiện thành công và các nước đang phát triển đang trong quá trình đẩy nhanh tiến trình này. Hiện nay, trên phạm vi toàn cầu, khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, làm thay đổi vượt bậc trên tất cả các mặt của đời sống con người. Việt Nam khẳng định con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, từng bước hiện đại hóa nền kinh tế là một nhiệm vụ trung tâm của quá trình phát triển đất nước. Định hướng phát triển trong giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta là xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vấn đề nguồn nhân lực hiện đang là một vấn đề trung tâm cần giải quyết cho quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “...Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH...”. Nguồn lực con người là điểm cốt yếu nhất của nội lực, do đó phải bằng mọi cách phát huy yếu tố con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực (Human Resources) là nguồn lực con người, yếu tố quan trọng, năng động nhất của quá trình tăng trưởng kinh tế của mọi quốc gia. Nguồn nhân lực được xác định trong một thời gian và không gian nhất định của một quốc gia, vùng, lãnh thổ, địa phương. Nguồn nhân lực khác với các nguồn lực khác (vốn, khoa học - công nghệ và tài nguyên thiên nhiên) ở chỗ nó có khả năng hoạt động sáng tạo, tác động vào thế giới tự nhiên, biến đổi thế giới tự nhiên. Trong quá trình lao động làm nảy sinh các mối quan hệ lao động và quan hệ xã hội, nguồn nhân lực của một quốc gia được hiểu hiện trên hai khía cạnh sau: - Nguồn nhân lực là yếu tố đầu vào, nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Nguồn nhân lực có thể hiểu là tổng thể những tiềm năng của con người (trước hết và cơ bản nhất là tiềm năng lao động) của một quốc gia, vùng, lãnh thổ và địa phương. Tiềm năng đó bao hàm tổng hòa năng lực về thể lực, trí lực, nhân cách của con người (lao động) của một quốc gia (vùng, lãnh thổ), đó chính là tiềm năng của người lao động về số lượng, chất lượng và cơ cấu. - Với tư cách là khả năng đảm đương lao động chính của xã hội thì nguồn nhân lực bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động theo luật định. Theo cách hiểu này thì khái niệm nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động. Nguồn nhân lực được hiểu là tổng hòa trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội của con người. Theo quy định của Tổng cục Thống kê thì nguồn nhân lực - dùng trong thống kê thị trường lao động gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm (lao động đang làm việc) và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang ở trong các tình trạng sau đây: - Đang thất nghiệp; - Đang đi học; - Đang làm nội trợ trong gia đình mình; - Không có nhu cầu làm việc; - Những người thuộc tình trạng khác chưa tham gia lao động. 1.1.1.3. Phát triển nguồn nhân lực Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển nguồn nhân lực. Theo UNESCO, phát triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Các nhà kinh tế có quan niệm phát triển nguồn nhân lực gần với quan niệm của UNESCO là phải gắn với sản xuất, và chỉ nên giới hạn phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi phát triển kỹ năng lao động và thích ứng với yêu cầu về việc làm. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), phát triển nguồn nhân lực bao hàm phạm vi rộng hơn, không chỉ là kỹ năng lao động, vấn đề đào tạo nói chung mà còn đề cập đến phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung, nâng cao kiến thức trong quá trình sống và làm việc. Theo Liên hợp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển KT - XH và nâng cao chất lượng cuộc sống. Như vậy, theo chúng tôi, phát triển nguồn nhân lực phải được tiếp cận với các nội dung vừa là yếu tố sản xuất của tăng trưởng kinh tế, vừa là mục tiêu của tăng trưởng. Phát triển nguồn nhân lực chính là phát triển con người có năng lực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và sử dụng năng lực đó một cách có hiệu quả. Tóm lại, phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển KT - XH. Quá trình đó bao gồm phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, chuyên môn; nền văn hóa truyền thống lịch sử dân tộc, ý chí của con người trong lao động (quá trình nâng cao thể lực, trí lực và nhân cách). 1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH CNH, HĐH là con đường tất yếu mà mọi quốc gia phải trải qua để phát triển. Cốt lõi của quá trình CNH, HĐH là nâng cao trình độ công nghệ của đất nước. Sự phát triển của khoa học công nghệ là chính là nền tảng của CNH, HĐH. Đổi mới và phát triển khoa học công nghệ là phương thức nhanh nhất để đạt được mục tiêu phát triển KT - XH. Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 BCH TƯ Đảng (khóa VII) đã xác định: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao. Sự đổi mới và phát triển công nghệ sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ có trình độ kỹ thuật, công nghệ cao, có giá trị cao sẽ tạo ra sự tăng trưởng và phát triển cho nền kinh tế, cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho sự phát triển. Chủ thể của quá trình này không ai khác chính là nguồn lực con người. Karl Marx đã từng khẳng định: con người là yếu tố quan trọng nhất, là chủ thể của mọi hoạt động xã hội, từ hoạt động sản xuất vật chất đến các hoạt động văn hóa, chính trị - xã hội. Con người với tư duy khoa học sáng tạo của mình là những chủ thể không ngừng cải tạo thiên nhiên, phát triển xã hội và trong quá trình đó, không ngừng cải biến chính bản thân mình. Và như vậy, trong mọi thời đại, nguồn lực con người luôn là nguồn lực quan trọng nhất đối với sự phát triển của xã hội. Nước ta đang tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến chuyển. Thế kỷ 21 được dự báo là thế kỷ của nền kinh tế tri thức với sự phát triển vượt bậc về khoa học - công nghệ. Ngay trong những thập niên đầu của thế kỷ này, sự phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ, sự bùng nổ về thông tin và truyền thông đang tạo ra những biến đổi to lớn về nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường với qui mô và mức độ ảnh hưởng ngày càng sâu rộng. Nếu trước đây, sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc chủ yếu nhờ vào tài nguyên thiên nhiên, nguồn tư bản, thị trường… thì trong giai đoạn hiện nay, tri thức, khoa học - công nghệ lại trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp có thể tạo nên sự thịnh vượng cho mỗi quốc gia dân tộc. Phát triển nền kinh tế tri thức sẽ tiếp tục là ưu tiên trong chính sách phát triển của nhiều nước, nhất là tại các nước công nghiệp phát triển. Kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do hóa thương mại sẽ được đẩy mạnh; đầu tư, lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng mở rộng… Thời đại kinh tế tri thức toàn cầu hóa có thể mang lại cơ hội cho những nước đi sau rút ngắn khoảng cách phát triển bằng cách tiếp thu công nghệ mới để hiện đại hóa nền kinh tế. Khi đã tham gia vào mạng lưới toàn cầu hóa, các nước đang phát triển, về nguyên tắc có thể tìm kiếm các nguồn lực cho sự phát triển của mình không chỉ từ những thứ mà các quốc gia này đang có, mà còn từ những cái đang hiện hữu trong toàn bộ nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh phát triển như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH”[13, tr.87]. Để thực hiện mục tiêu trên, cần tập trung huy động các nguồn lực khác nhau như vốn, tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị, công nghệ, khai thác các nguồn tài nguyên… Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là phải có nhân lực thực hiện, hay nói cách khác, phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng, có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến là yếu tố quan trọng hàng đầu để thực hiện chiến lược “đi tắt, đón đầu” trong quá trình CNH, HĐH đất nước hiện nay. Vai trò động lực của sự phát triển luôn thuộc về con người. Chính con người với sức mạnh trí tuệ và phẩm chất của mình là yếu tố quyết định hiệu quả của việc khai thác các nguồn lực khác và do đó, là yếu tố quyết định sự phát triển thịnh vượng của mỗi quốc gia dân tộc. Nhất là trong thời đại kinh tế tri thức và toàn cầu hóa hiện nay, khi sự phát triển của kinh tế thị trường ngày càng dựa trên sự phát triển của tri thức; sức cạnh tranh xoay quanh tâm điểm là hàm lượng chất xám khoa học trong giá trị sản phẩm. Nếu đầu thế kỷ 20, hàm lượng đó chưa vượt quá 20% thì hiện nay ở nhiều sản phẩm đã đạt tới 80-90%. Cơ sở duy nhất để có hàm lượng khoa học cao trong giá trị sản phẩm chính là chất lượng nguồn nhân lực. Sự phát triển KT - XH phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan, việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển và hội nhập. Phát huy, khai thác, sử dụng đúng các nguồn lực sẽ nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình phát triển. Nguồn lực nói chung là một khái niệm rộng nó bao gồm hệ thống các nhân tố vật chất và tinh thần mà các nhân tố này có khả năng góp phần thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại đã chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản là: áp dụng công nghệ mới, phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành động lực quan trong cho quá trình tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong nền kinh tế toàn cầu, năng lực cạnh tranh quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhân lực, đây là cơ sở cho việc xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Dưới góc độ phát triển bền vững (tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường) thì phát triển nguồn nhân lực vừa là động lực, vừa là mục tiêu, điều này càng có ý nghĩa đối với định hướng phát triển của Việt Nam - con người làm trung tâm của sự phát triển. Muốn vậy, nguồn nhân lực phải được phát triển và huy động tối đa vào quá trình phát triển KT - XH, đảm bảo có đủ việc làm, tiến đến nâng cao năng suất trên cơ sở giải phóng năng lực xã hội, sáng tạo của con người. Nguồn nhân lực còn được xem xét trong mối quan hệ biện chứng của tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần. Trong quá trình phát triển, cùng với các nguồn lực khác (vốn, khoa học - công nghệ và tài nguyên thiên nhiên), nguồn nhân lực được xem như năng lực nội sinh, chi phối quá trình phát triển của mỗi quốc gia, khai thác và sử dụng các nguồn lực khác, do đó nó giữ vai trò quyết định năng lực sản xuất quốc gia - tức tổng cung của nền kinh tế. Mặt khác, để tồn tại và phát triển, nguồn nhân lực với tư cách là người sử dụng và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế là một bộ phận của tổng cầu. Giữa tổng cung và tổng cầu luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đây là hai nội dung quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhu cầu được đáp ứng sẽ trở thành động lực to lớn cho quá trình phát triển xã hội. Ngược lại, nhu cầu đó không được đáp ứng, định hướng đúng vào việc phát triển một xã hội văn minh, dân chủ và công bằng, thì ý nghĩa phủ định của nó là rất lớn, làm trì trệ, kiềm hãm sự phát triển KT - XH. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở nhận thức lý thuyết, ở tư duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, mà điều này luôn luôn được khẳng định trong cuộc sống sinh động. Nguồn nhân lực là yếu tố vật chất quan trọng nhất, quyết định năng lực của lực lượng sản xuất xã hội, trực tiếp sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Thực tế cho thấy, mô hình tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới cũng như thực tiễn quá trình đổi mới đất nước của Việt Nam hơn 20 năm qua khi chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, Nhà nước đã có nhiều chính sách huy động các nguồn lực cả trong và ngoài nước, trong đó nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Do vậy, việc phát huy lợi thế nguồn nhân lực phải là nội dung trọng tâm trong việc hoạch định chiến lược phát triển KT - XH, Đảng ta đã khẳng định: “lấy việc phát huy yếu tố nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, “con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH”. 1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực 1.2.1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến quy mô nguồn nhân lực - Quy mô và tốc độ tăng dân số Đây là nhân tố cơ bản quyết định số lượng nguồn nhân lực. Nếu quy mô dân số càng lớn và tốc độ gia tăng dân số càng cao thì trong tương lai quy mô và tốc độ gia tăng nguồn nhân lực cũng sẽ càng lớn và ngược lại. Cần lưu ý rằng sự gia tăng của dân số lại chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như: phong tục, tập quán, trình độ phát triển kinh tế, mức độ chăm sóc y tế, chính sách của nhà nước... Do đó, xét đến cùng, thì số lượng nguồn nhân lực lại phụ thuộc vào những nhân tố này. Trên thực tế, việc gia tăng số lượng nguồn nhân lực trong một không gian và thời gian nhất định, không chỉ phụ thuộc vào tốc độ gia tăng dân số tự nhiên mà còn chịu ảnh hưởng của tốc độ gia tăng dân số cơ học. - Cơ cấu dân số theo độ tuổi (tháp tuổi) Cơ cấu dân số theo độ tuổi là sự phân bố tổng số dân theo từng nhóm tuổi (độ tuổi). Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực, người ta thường chia tổng dân số thành 3 nhóm chính: (1) nhóm dưới tuổi lao động, (2) nhóm trong tuổi lao động và (3) nhóm trên tuổi lao động. Thông thường ở các nước đang phát triển có tốc độ gia tăng dân số cao, nhóm dân số dưới tuổi lao động chiếm tỉ lệ lớn (khoảng 40%, thậm chí cao hơn), nhóm dân số trong tuổi lao động khoảng 50% và nhóm dân số trên tuổi lao động khoảng 10%, những nước này được xếp vào loại quốc gia có cơ cấu dân số trẻ. Một quốc gia có cơ cấu dân số trẻ cho thấy tiềm năng về nguồn nhân lực dồi dào để phát triển kinh tế. Mặt khác, nó cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết như: chi phí nuôi dưỡng và đào tạo, khả năng dư thừa lao động và thiếu việc làm cao, thu nhập bình quân đầu người thấp do tiềm năng sinh sản lớn. Đối với các nước công nghiệp phát triển, thường có tốc độ gia tăng dân số hợp lý, tỷ lệ dân số dưới tuổi lao động ở mức trung bình (khoảng 27%), tỷ lệ dân số trong tuổi lao động cao nhất (khoảng 50%) và tỷ lệ dân số trên tuổi lao động ở mức 20-23%. Đây là những nước có quy mô dân số ổn định, có nguồn nhân lực bảo đảm cho mục tiêu phát triển. Ngoài hai tình trạng trên, ta thấy có một số ít nước ở vào tình trạng có cơ cấu dân số già. Ở những nước này, tốc độ gia tăng dân số thấp (khoảng 0,4 đến 0,5%/ năm), vì thế tỷ lệ dân số dưới tuổi lao động ít (khoảng trên 10%), nhưng tỷ lệ dân số trên tuổi lao động lại rất cao (do tuổi thọ bình quân cao) khoảng gần 30%. Do đó, đối với những nước này trong tương lai sẽ thiếu hụt nguồn nhân lực và gánh nặng đối với người già tăng lên. - Quy định về độ tuổi lao động của từng quốc gia: Nếu cận dưới của độ tuổi lao động nhỏ, cận trên lớn thì số lượng nguồn nhân lực cao và ngược lại cận dưới của độ tuổi lao động cao và cận trên nhỏ thì số lượng nguồn nhân lực thấp. - Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động nhưng không tham gia vào hoạt động kinh tế: Những người được tính vào tỷ lệ dân số này gồm 4 nhóm: người đang đi học; người làm công việc nội trợ không nhận tiền công; người mất khả năng hoặc không có khả năng lao động; người không có nhu cầu lao động. Nếu tỷ lệ dân số này cao thì quy mô nguồn nhân lực thấp và ngược lại tỷ lệ dân số này thấp thì quy mô nguồn nhân lực cao. Tỉ lệ này thường được sử dụng để ước tính quy mô của dự trữ nguồn nhân lực trong nền kinh tế. Ngoài ra, còn có các nhân tố ảnh hưởng khác đến nguồn nhân lực như tuổi thọ bình quân, thu nhập, điều kiện sống, phong tục tập quán, chiến tranh, dịch bệnh... Ở nước ta do ảnh hưởng của chiến tranh, thu nhập, mức sống của nhân dân chưa cao làm cho thể chất người lao động thấp. Điều đó cũng dẫn đến một bộ phận dân cư thiếu khả năng lao động và do đó cũng ảnh hưởng đến số lượng nguồn lao động. Riêng đối với nhân tố phong tục tập quán ăn sâu, bám rễ trong người dân lao động, trong giai đoạn CNH, HĐH không phải một sớm một chiều thay đổi được. Chính vì vậy cần thường xuyên xây dựng tác phong công nghiệp cho người lao động. - Hợp tác quốc tế về lao động Trong xu thế toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ thì mỗi quốc gia đều phải hòa vào dòng chảy toàn cầu đó tùy theo năng lực hội nhập, khả năng đáp ứng sự phân công lao động quốc tế của mình nhằm mục tiêu như: sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trong nước, tăng thu nhập cho người lao động,… đồng thời tranh thủ được khả năng lao động của quốc tế. Quá trình hợp quốc tế về lao động có tác động đến quy mô nguồn nhân lực, thể hiện ở các nội dung sau: - Di cư ra nước ngoài, gồm những người từ một nước đến sinh sống và làm ăn tại một nước khác trên thế giới. Hình thức di cư này có quy mô lớn hơn khi xu hướng toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu - quá trình tự do di chuyển các nguồn lực. Ngày nay, quá trình di cư ra nước ngoài không chỉ từ các nước kém phát triển sang các nước phát triển mà còn có đặc trưng di cư lao động kỹ thuật cao từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, do tại các nước này thiếu loại lao động chất lượng cao. - Xuất khẩu lao động: là quá trình một nước cung ứng lao động có thời hạn cho một nước khác để giải quyết việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nước, từ đó tăng thu nhập cho người lao động, thu nhập quốc gia. Việc xuất khẩu lao động có thời hạn được thực hiện trên cơ sở các ký kết hiệp định về cung ứng lao động giữa các nước. - Nhập khẩu lao động: là một nước tiếp nhận lao động của các nước khác để đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động trong nước nhằm đảm bảo cho quá trình ổn định và phát triển kinh tế. Khi thị trường lao động thế giới càng phát triển, hoạt động năng động thì các dòng chảy lao động từ xuất khẩu và nhập khẩu lao động càng diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, tác động đến quy nguồn nhân lực 1.2.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực 1.2.2.1. Sự phát triển KT - XH - Trình độ phát triển của nền kinh tế Trình độ phát triển của nền kinh tế tác động đến chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện trước hết là mức sống của người dân nói chung và nguồn nhân lực nói riêng. Khi thu nhập được nâng cao, các hộ gia đình có điều kiện cải thiện chế độ dinh dưỡng, khả năng chi trả cho các dịch vụ giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe,… Khi sức khỏe, trình độ văn hóa, chuyên môn, kỹ thuật, các mối quan hệ xã hội được nâng lên, nó ảnh hưởng đến khả năng lao động của người lao động và do đó nó quy định chất lượng nguồn nhân lực. Mặt khác, trong một nền kinh tế hiện đại thường có một cơ cấu kinh tế hợp lý và sử dụng phần lớn công nghệ cao. Do đó, lao động trong nền kinh tế này đa số được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, có hệ thống giáo dục hiện đại hướng đến việc đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho nền kinh tế. - Tăng trưởng đầu tư của nền kinh tế Lý thuyết kinh tế phát triển đã chứng minh rằng tỷ lệ đầu tư luôn có mối quan hệ đến tốc độ tăng trưởng kinh tế (Mô hình Harrod - Domar), khi nền kinh tế tăng trưởng làm tăng khả năng giải quyết việc làm, nâng cao trình độ công nghệ, đặc biệt là năng suất lao động, từ đó nâng cao thu nhập. Khi việc làm và thu nhập được tăng lên sẽ tác động tích cực đến đời sống vật chất và tinh thần của dân cư và người lao động và vì vậy chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên. - Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn dựa trên một nền tảng cơ cấu kinh tế nhất định. Quá trình tăng trưởng và phát triển diễn ra đồng thời với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý và hiện đại trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế của địa phương, vùng hay toàn bộ nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành hiện đại (công nghiệp và dịch vụ) giảm tỷ trọng ngành truyền thống (nông nghiệp) tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động - giảm lao động trong các ngành truyền thống, tăng lao động trong các ngành hiện đại, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thực tiễn ở nước ta cho thấy, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động chịu tác động rất lớn của cơ cấu kinh tế, tuy nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm hơn so với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Nhóm nhân tố văn hóa - xã hội Nhóm nhân tố này bao gồm giáo dục, đào tạo, cơ chế, chính sách, yêu cầu sử dụng lao động của xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống... + Giáo dục, đào tạo là một hoạt động mang tính chủ quan của nhà nước, đó là hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các năng lực, phẩm chất, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo để hoàn thiện nhân cách, khả năng làm việc cho mỗi cá nhân để từ đó họ có những kiến thức nhất định để có thể trực tiếp lao động hoặc tham gia thị trường lao động một cách dễ dàng và làm việc thật sự có năng suất, hiệu quả. Kết quả của giáo dục còn làm tăng nguồn nhân lực có trình độ, tạo khả năng thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ. Giáo dục, đào tạo phải gắn với nhu cầu của thị trường lao động, đào tạo những ngành nghề mà thị trường cần chứ không phải mang tính chủ quan của Nhà nước nhưng lại phi thị trường. Với vai trò to lớn của giáo dục, đào tạo để cung ứng cho xã hội, cho thị trường lao động những người có kiến thức, kỹ năng làm việc cho nên việc nhà nước đầu tư cho giáo dục, đào tạo phải trên giác độ toàn diện cả văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật, truyền thống, kinh nghiệm, ý thức cộng đồng... Đó là sự đầu tư trực tiếp về mặt trí lực, cơ bản và lâu dài cho sự phồn thịnh của đất nước. + Yêu cầu sử dụng lao động của xã hội: Mỗi bước phát triển của KT - XH đều đòi hỏi sự tương xứng của chất lượng nguồn nhân lực. Ngày nay việc phát triển kinh tế sẽ làm xuất hiện những ngành nghề mới, công nghệ mới, quản lý mới. Điều đó đòi hỏi người lao động phải không ngừng tự hoàn thiện, phát triển để làm chủ quá trình phát triển KT - XH. + Tập quán, truyền thống: Nhân tố này có tác động lớn đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tập quán, truyền thống được hình thành và tích luỹ lại trong một quá trình phát triển của một dân tộc gắn liền với việc tiếp thu những tinh hoa của văn minh nhân loại. Bên cạnh những tập quán tiến bộ cũng còn tồn tại đan xen những dấu ấn của tập quán sản xuất lạc hậu, lỗi thời chưa được thay thế. Để loại bỏ những tập quán lạc hậu cần phải có thời gian và sự tham gia của cả cộng đồng. 1.2.2.2. Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe Nhóm nhân tố liên quan đến thể chất nguồn nhân lực: đó là môi trường sống, y tế, dinh dưỡng, di truyền. Chế độ dinh dưỡng sẽ quyết định đến chất lượng nòi giống, thể lực, trí lực, tâm lí của người lao động. Chi phí cho sức khỏe và dinh dưỡng chẳng những làm tăng chất lượng nguồn nhân lực mà còn góp phần đáng kể vào việc làm tăng số lượng nguồn nhân lực do việc kéo dài tuổi thọ và từ đó tăng được thời gian lao động, có sức khỏe người lao động mới phát huy được trí tuệ, khả năng của mình trong lao động. Sức khỏe là sự phát triển hài hòa của con người cả về thể chất và tinh thần. Sức khỏe thể chất là sự cường tráng, năng lực chân tay, sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động tinh thần, khả năng vận động của trí tuệ, khả năng biến tư duy thành hành động thực tiễn, khả năng thích ứng, đối phó với biến động môi trường xã hội. Nhà nước nên có chính sách về y tế, dinh dưỡng để chăm sóc sức khoẻ cho người lao động trên các phương diện: bồi bổ sức khỏe trong quá trình lao động bị tiêu hao một cách tương xứng, bồi bổ sức khỏe về mặt đời sống vật chất, tinh thần. Đối với những ngành nghề liên quan đến bệnh nghề nghiệp thì phải thường xuyên chăm lo, thăm khám và khắc phục bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Cơ chế, chính sách y tế phù hợp sẽ tạo cơ hội cho các tầng lớp dân cư, người lao động. 1.2.2.3. Phát triển giáo dục và đào tạo Phát triển giáo dục, đào tạo là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực, vì nó không chỉ quyết định trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật của người lao động mà còn tác động đến sức khỏe, tuổi thọ của người dân, thông qua các yếu tố về thu nhập, khả năng xử lý thông tin kinh tế, xã hội,… nhân tố này tác động đến chất lượng nguồn nhân lực với các nội dung: - Trình độ chuyên môn - kỹ thuật của nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo là nguồn gốc cơ bản để nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn - kỹ thuật của nền kinh tế. Mức độ phát triển giáo dục và đào tạo là điều kiện để nâng cao chất lượng theo chiều sâu của nguồn nhân lực. Trong một nền giáo dục phát triển thì chất lượng đầu ra được đảm bảo, đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động và xã hội. Đây là một trong những yêu cầu cấp thiết trong phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo ở nước ta hiện nay. - Giáo dục và đào tạo cung cấp trình độ văn hóa cơ bản là tiền đề để tiếp thu tri thức, tính sáng tạo, từ đó nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập góp phần phát triển toàn diện con người. Trong nền kinh tế hiện đại - kinh tế tri thức, giáo dục và đào tạo càng giữ vai trò chủ đạo quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia mà nội dung cơ bản của nó là hàm lượng khoa học và công nghệ, chất xám kết tinh trong sản phẩm, quyết định giá trị sản phẩm được sản xuất ra. - Theo UNESCO, bốn trụ cột chính của giáo dục trong thế kỷ XXI để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là: + Học để biết (Learn to know), khả năng thích ứng với những thay đổi nhanh của khoa học, công nghệ và kinh tế mang lại, con người cần phải kết hợp vốn văn hóa chung với khả năng làm việc chiều sâu ở các lĩnh vực chuyên môn - kỹ thuật. Vốn văn hóa chung này là tiền đề cho việc học suốt đời, đem lại cho người học sự thích thú và những cơ sở để học suốt đời. + Học để làm (Learning to do), ngoài việc học chuyên môn - kỹ thuật, con người cần phát triển khả năng đương đầu với nhiều tình huống khác nhau và làm việc trong một tập thể - một khía cạnh hiện nay chưa được quan tâm trong các phương pháp giáo dục. Những kỹ năng này sẽ dễ có được hơn nếu người học có cơ hội phát triển năng lực của mình bằng cách tham gia các hoạt động nghề nghiệp, xã hội đồng thời với việc học tri thức. + Học để tự khẳng định mình (Learning to be), đòi hỏi mỗi người khả năng tự quản và phán đoán cao hơn, biết tạo ra lợi thế riêng của mình, song song với việc tăng cường trách nhiệm cá nhân để đạt được mục tiêu chung. + Học để cùng chung sống (Learning to live together), đòi hỏi mọi người về khả năng hợp tác, thân thiện với những người xung quanh, coi trọng truyền thống tốt đẹp, tiếp nhận cái mới tiến bộ, nhận biết được những nguy cơ và thách thức tương lai, giải quyết những xung đột không thể tránh được một cách thông minh và hòa bình. 1.2.2.4. Các chính sách của Chính phủ Vai trò của Chính phủ có tầm quan trọng rất lớn đối với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia. Chính phủ hoạch định các chính sách tạo môi trường pháp lý cho phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo cả chiều rộng và chiều sâu. Hệ thống các chính sách xã hội đúng đắn vì mục tiêu của con người sẽ là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển KT - XH. Cơ chế, chính sách phải nhằm phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và tinh thần. Cơ chế, chính sách phải theo hướng tạo mở, thúc đẩy và khích thích người lao động, doanh nghiệp, Nhà nước và toàn xã hội chăm lo đến chất lượng nguồn nhân lực. Có như vậy người lao động mới phát huy được khả năng trí tuệ của bản thân để đóng góp cho xã hội và qua đó chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia sẽ được nâng cao. 1.2.2.5. Trình độ phát triển của thị trường lao động Thị trường lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ bản nhất như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã hội, tranh chấp lao động…), ở đó diễn ra sự trao đổi, thỏa thuận giữa một bên là người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động. Thị trường lao động là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động (người lao động làm thuê) và người mua sức lao động (người sử dụng sức lao động), thông qua các hình thức thỏa thuận về giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện làm việc khác, trên một hợp đồng lao động. Chi tiết hơn, thị trường lao động là tập hợp những quan hệ kinh tế, pháp lý, xuất hiện giữa người sở hữu sức lao động (người lao động) và người sử dụng nó (người thuê lao động), nơi mà hàng hóa và dịch vụ sẽ được hình thành trong sản xuất chứ không phải trên thị trường. Đối với người nắm giữ sức lao động sẽ được tạo ra cơ hội để nhận chỗ làm việc, nơi mà anh ta có thể làm việc, thể hiện khả năng và nhận thu nhập để tái sản xuất sức lao động của mình. Đối vối người thuê lao động sẽ có cơ hội tăng lợi nhuận kinh tế. Trên thị trường sẽ hình thành những quan hệ việc làm. Hàng hóa mua và bán trên thị trường lao động là “sức lao động”. Sức lao động được hiểu là tổng hợp toàn bộ thể lực và trí lực ở con người, nó nói lên khả năng để có lao động, còn lao động là hoạt động có mục đích của con người, là tiêu dùng sức lao động trong quá trình lao động. Lao động không thể trở thành hiện thực nếu không có sức lao động và muốn sức lao động được thực hiện, thì phải có lao động. Lao động là một quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần, cùng các loại dịch vụ. Quá trình này được bắt đầu sau khi sự giao dịch trên thị trường lao động được ký kết, quan hệ thị trường kết thúc và quá trình sản xuất được bắt đầu. Để trở thành hàng hóa thì đối tượng phải có sẵn trước khi bán, ngưng đối với lao động thì lại không diễn ra như vậy. Khi bán hàng hóa sẽ chuyển từ người bán sang người mua. Xuất phát từ các nội dung phân tích trên, đối tượng mua và bán trên thị trường lao động là “sức lao động”, và nếu xét về phương diện lý thuyết thì thị trường đó phải được gọi là “thị trường sức lao động”. Nhưng trong thực tế, trong các văn bản chính thống của tổ chức lao động thế giới (ILO), cũng như ở nhiều nước phát triển và ở Việt Nam thường được dùng tên gọi “thị trường lao động”, vì vậy để cho thống nhất cách gọi trong đề tài này như một khái niệm đồng nhất với “thị trường sức lao động”. Thị trường lao động góp phần phân bổ, điều tiết lao động theo yêu cầu phát triển các đơn vị, các ngành và nền kinh tế - một nguồn lực, yếu tố đầu vào để tạo sản phẩm đầu ra trong hoạt động của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Thị trường lao động cung ứng sức lao động - với tính cách là yếu tố sản xuất hàng hóa - cho các hoạt động sản xuất hàng hóa. Trình độ phát triển của thị trường lao động có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực thông qua quan hệ cung - cầu lao động, tính cạnh tranh của thị trường và giá cả tiền lương. Từ quan hệ cung - cầu về lao động, tạo ra sự cạnh tranh - đặc biệt là từ phía cung lao động, để có thể tìm được chỗ làm phù hợp với năng lực của mình và có thu nhập cao đã buộc lực lượng lao động chưa có việc làm hoặc đang có việc - nhưng dưới áp lực mất việc phải tự nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động của mình để nâng cao sức cạnh tranh trong thị trường nhằm khẳng định năng lực lao động và ổn định thu nhập trong tương lai. Như vậy, xét về phía cung lao động, tạo sự cạnh tranh cần thiết về năng lực, kỹ năng lao động đã tác động đến chất lượng nguồn nhân lực. Cạnh tranh là một yếu tố thị trường lao động quan trọng mà các chủ thể tham gia thị trường phải tính đến khi đưa ra quyết định hành động nhằm tạo và nâng cao lợi thế của mình trong các hoạt động đào tạo, mua bán sức lao động hàng hóa trên thị trường. Quan hệ cạnh tranh được coi là cơ chế phát triển đối với các chủ thể tham gia lao động. Với thị trường lao động có tính cạnh tranh cao sẽ tạo động nâng cao trình độ giáo dục, kỹ năng lao động cơ hội phát triển cá nhân đối với đội ngũ chuẩn bị tham gia vào thị trường lao động. Do vậy nó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ khi đội ngũ này còn đang trong quá trình đào tạo. Mặt khác, mức độ phát triển của thị trường lao động tạo ra cơ chế gắn kết giữa người sử dụng lao động với người cung cấp sức lao động và các cơ sở đào tạo. Từ đó, tạo khả năng ăn khớp giữa năng lực lao động được đào tạo với yêu cầu công việc, do đó nó góp phần nâng chất lượng nguồn nhân lực, vấn đề bố trí, sử dụng lao động làm việc trái chuyên môn đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của nguồn nhân lực. Giá cả sức lao động trên thị trường lao động được thể hiện qua hình thức tiền lương, tiền công và trực tiếp, cụ thể nhất là mức thu nhập của người lao động có được từ kết quả lao động của mình. Giá cả sức lao động là một phạm trù kinh tế cho nên nó cũng nằm trong trạng thái động. Đối với các chủ thể tham gia quan hệ lao động nội dung cơ sở xác định giá cả sức lao động có sự khác biệt. Đối với người lao động giá cả sức lao động được xác định từ các cơ sở. + Tiền lương: Cơ sở để tính lương cho người lao động hiện nay chính là quy định về mức lương tối thiểu của nhà nước. + Thu nhập ngoài lương: Gồm tiền trả cho người lao động theo cổ phần, chi phí học nghề, tiền ăn (ăn trưa, ăn bồi dưỡng ca). Chi phí học nghề, mức thu nhập ngoài lương phụ thuộc vào mức doanh thu, lợi nhuận doanh nghiệp đạt được qua các kỳ kinh doanh. Đối với doanh nghiệp: ngoài lương và tiền ưu đãi trợ cấp xã hội thì phần trợ cấp xã hội chuyển vào các nguồn vốn khác nhau cũng nằm trong giá cả sức lao động, bao gồm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thân thể, bảo hiểm thất nghiệp, tiền công khi nghỉ ốm, phúc lợi khi sinh con. Tất cả những khoản này được xác định căn cứ vào mức doanh thu, lợi nhuận doanh nghiệp đạt được trong từng kỳ kinh doanh và quy định của nhà nước. 1.3. Lý thuyết về các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.3.1. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh Lý thuyết tăng trưởng nội sinh có thể được dùng để giải thích quá trình hình thành vốn con người. Những người theo lý thuyết này lý luận rằng việc phân loại hoạt động đầu tư theo nghĩa rộng, như việc tích lũy kiến thức và vốn con người, không chịu ảnh hưởng của thuyết lợi ích giảm dần bởi vì chúng tạo ra hiệu ứng lan tỏa về năng suất cho phần còn lại của nền kinh tế (Romer, 1986). Thế hệ thứ hai của lý luận nội sinh trong đầu những năm 1990 đã tìm cách sử dụng lại mô hình tân cổ điển của Solow (1956) bằng cách tập trung vào khía cạnh nội sinh hóa thay đổi công nghệ. Thay đổi công nghệ phát sinh phần lớn vì hành động cố ý do những cá nhân hoặc doanh nghiệp phản ứng lại các ưu đãi thị trường [Romer, 1990, tr.72]. Các doanh nghiệp phản ứng lại với các ưu đãi thị trường sẽ đầu tư nguồn lực nhiều hơn trong các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R & D) nhằm giới thiệu sản phẩm mới hoặc phức tạp hơn tạo lợi nhuận lớn hơn. Khi kiến thức mới được dịch chuyển sang hàng hóa với giá trị thực (Romer, 1990) và với việc ngày càng nhiều các sản phẩm tinh vi hơn được giới thiệu trong một thị trường nhất định, lợi nhuận từ đầu tư tăng thêm vào các hoạt động R & D giảm dần. Nhưng các ưu đãi giảm dần cho đầu tư liên tục về R & D được bù đắp bởi thực tế là một khi chi phí của việc tạo ra một hướng dẫn công nghệ mới phát sinh, các hướng dẫn công nghệ có thể được sử dụng mãi mãi mà không mất chi phí bổ sung và phát triển hướng dẫn công nghệ mới tốt hơn là tương đương với sự phát sinh chi phí cố định. Lợi nhuận của đầu tư mới R & D được duy trì qua thời gian do sự tăng trưởng dài hạn. 1.3.2. Lợi tức từ đầu tư vào giáo dục Trọng tâm nghiên cứu của kinh tế học về giáo dục hiện nay là xác định và đo lường lợi tức của giáo dục, tiền tệ và phi tiền tệ, tư nhân và xã hội, cũng như liên hệ chúng với đầu tư (Appiah & McMahon, 2002; McMahon, 1999; Psacharopouls,1994; Psacharopoulos & Woodhall, 1985). Sở dĩ vì đối với lợi tức về tiền tệ, các mô hình tăng trưởng nội sinh mới được phát triển bởi Romer (1986, 1990) và Lucas (1988) kết hợp với kiểm định thực chứng cho thấy giáo dục có vai trò trung tâm trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Nhưng cũng là vì đã có những tiến bộ gần đây trong đo lường và đánh giá không chỉ lợi tức thị trường mà còn là lợi ích xã hội phi tiền tệ từ giáo dục và học tập suốt đời bằng cách sử dụng cả dữ liệu vi mô và tổng hợp (ví dụ McMahon, 1999, 2004). Có người hoài nghi (ví dụ, Pritchett, 1996; Wolf, 2002) nhưng họ thường sử dụng kỹ thuật kiểm soát để loại bỏ những ảnh hưởng gián tiếp của giáo dục lên sự tăng trưởng. Giáo dục là một hình thức đầu tư vốn con người. Các kết quả thực nghiệm xác nhận lợi tức (nghĩa là khả năng sinh lợi) của giáo dục tiểu học, giáo dục phổ thông và giáo dục của phụ nữ (Psacharopoulos, 1989, 1994; Psacharopoulos & Patronos, 2004; McMahon, 1984, 1987a, b, 1998, 1999, 2004). Lợi tức lớn nhất từ giáo dục thuộc về các nước có thu nhập trung bình thấp. Suất lợi tức xã hội và cá nhân (tư nhân) cao nhất cho giáo dục tiểu học ở các nước nghèo, theo sau trung học và ngược lại giáo dục đại học, theo trật tự tương tự. Trong tất cả các cấp học ở tất cả các nước, suất lợi tức tư nhân vượt suất lợi tức xã hội bởi vì giáo dục được trợ cấp công khai. Tuy nhiên, biến dạng công-tư nhân lớn nhất trong các quốc gia nghèo nhất và ở các cấp độ cao hơn của giáo dục (Psacharopoulos, 1984, 1989). Các nhà nghiên cứu đã xem xét lợi tức (khả năng sinh lợi) của giáo dục như là một hình thức vốn, và so sánh với vốn vật chất. Kết quả khảo sát này giúp định hướng các quyết định chính sách về phân bổ, sử dụng và quản lý nguồn lực giữa giáo dục và nguồn vốn vật chất (cơ sở hạ tầng xã hội). Suất lợi tức cũng đã được sử dụng để giải thích 'phần dư’. Hàm sản xuất kiểu của Schultz dẫn đến ước lượng tham số là suất sinh lợi biên tế của giáo dục, của vốn vật chất và của các nguồn khác của tăng trưởng (McMahon, 1998). 1.3.3. Lợi tức phi tiền tệ từ đầu tư vào giáo dục Không phải tất cả các lợi tức của giáo dục từ cơ chế thị trường (thu nhập bằng tiền tệ) của các nền kinh tế. Những lợi ích phi tiền tệ của giáo dục đem đến trực tiếp cho cá nhân (ví dụ, thói quen dinh dưỡng tốt hơn) được gọi là những lợi ích phi thị trường hay lợi ích tiêu dùng (McMahon, 1999) và cũng như những lợi ích rộng lớn hơn của việc học (Bynner và cộng sự, 2003). Các lợi ích phi tiền tệ khác mà McMahon (1999) kiểm tra trong dữ liệu chéo quốc gia bao gồm sự đóng góp của giáo dục đến dân chủ, nhân quyền, và ổn định chính trị (Appiah & McMahon, 2002), giảm tội phạm và bảo vệ môi trường. Mc.Mahon (1999) lập luận rằng việc mở rộng các quyền chính trị, các quyền dân sự hoặc nhân quyền, và sự ổn định chính trị là khía cạnh quan trọng của sự phồn vinh. Đây là những khía cạnh của sự phát triển nằm ngoài khái niệm hẹp của tăng thu nhập trên đầu người (một chỉ số đã một thời thống trị đo lường tăng trưởng kinh tế và phát triển). Mc.Mahon (1999) ám chỉ rằng một xã hội học tập rút ra sự hài lòng mang bản chất phi tiền tệ từ các quyền tự do chính trị, tự do dân sự và sự ổn định kinh tế hợp lý đem lại cho cá nhân thu nhập tiền lâu dài. Nhưng cũng có những hiệu ứng phản hồi được tích lũy từ dân chủ hóa đến ổn định chính trị để đạt mức đầu tư cao hơn và tăng trưởng kinh tế nhanh hơn (McMahon, 1999, p. 92). 1.3.4. Giáo dục và vấn đề ngoại ứng Lợi ích tiêu dùng (lợi ích phi thị trường) nói trên thuộc về học sinh hoặc gia đình, những người thực hiện những khoản đầu tư giáo dục. Ngược lại, ngoại ứng không thuộc về người ra quyết định, mà tác động đến xã hội rộng lớn hơn. Mặc dù nhà nước ra quyết định có thể thu được các lợi ích về thu nhập và lợi ích phi thị trường tư nhân, nhưng họ không thể nắm bắt (tất cả) các lợi ích bên ngoài hay ngoại ứng. Lợi ích cụ thể bên ngoài của giáo dục và nghiên cứu bao gồm sự đóng góp cho xã hội một thể chế dân chủ hoạt động và quyền tự do liên quan, thường rất thích hợp cho các thế hệ tương lai, nhằm giảm tỷ lệ tội phạm và tăng cường sách, báo và văn học cũng như khả năng tiếp cận truy Internet dễ dàng hơn. Các nền kinh tế và các thị trường của nó hoạt động tốt hơn trong môi trường có học vấn, có khả năng thích ứng, và sự hiểu biết. 1.4. Yêu cầu khách quan nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Miền Đông Nam bộ trong quá trình CNH, HĐH Quá trình CNH, HĐH đặt ra đối với nguồn nhân lực Vùng ĐNB các yêu cầu chính sau đây: - Nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức cùng với đòi hỏi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững đang đặt ra những yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực của cả nước nói chung và Vùng ĐNB nói riêng trong việc khai thác và phát huy tiềm năng tri thức con người. Do đó phải tăng cường đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật các cấp trình độ (công nhân kỹ thuật, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học). Để thực hiện được yêu cầu này, giáo dục phổ thông có vai trò quan trọng trong tạo nguồn đầu vào cho quá trình đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn - kỹ thuật. Nhận thức được vai trò của giáo dục và đào tạo trong quá trình CNH, HĐH đất nước, Đảng ta xác định “Nâng cao giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”[13, tr 95]. Yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức của nước ta và phát triển nhanh của khoa học - công nghệ đã làm biến đổi mạnh mẽ cơ cấu lao động xã hội theo hướng tăng tỷ trọng của lao động trí tuệ, làm cho lao động trí tuệ trở thành nhân tố quan trọng nhất trong quá trình phát triển kinh tế. - Nguồn nhân lực trình độ cao, Vùng ĐNB với vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước, khả năng phát triển KT - XH của Vùng ĐNB có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển KT - XH nước ta. Quá trình đó đòi hỏi phải giải quyết các yêu cầu sau: Thứ nhất, yêu cầu của mục tiêu hình thành một xã hội và một nền kinh tế phát triển, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi nguồn nhân lực phải có phẩm chất cao về kỹ năng và phong cách. Thứ hai, yêu cầu của chính sự lựa chọn mô hình CNH, HĐH của Việt Nam theo phương thức phát triển rút ngắn, “đi tắt, đón đầu”, tạo vị thế vững chắc trong phân công lao động quốc tế và khu vực. Do vậy, điều kiện tiên quyết là phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, đối với Vùng ĐNB, điều này càng đặt ra yêu cầu cao hơn nữa. Thứ ba, yêu cầu vượt khỏi tình trạng kém phát triển về kinh tế hiện nay, mà trong đó, một tiềm năng lớn về nguồn nhân lực ở Việt Nam nói chung và ở Vùng ĐNB nói riêng vẫn còn đang bị lãng phí nghiêm trọng. Đáp ứng yêu cầu đó, đòi hỏi Vùng ĐNB phải phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trình độ cao. Nhân lực trình độ cao được hiểu là nhân lực có kiến thức, kỹ năng, ý tưởng chuyên môn, kỹ thuật, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo; có năng lực tổ chức, quản lý các quá trình lao động; có phẩm chất đạo đức tốt, kinh nghiệm ở mức độ cao. Đối với Vùng ĐNB, việc phát triển nguồn nhân lực trình độ cao cho phép Vùng ĐNB khai thác hiệu quả lợi thế về KT - XH, điều kiện thiên nhiên,… trong quá trình CNH, HĐH. Quá trình này đòi hỏi lực lượng sản xuất phải phát triển ở trình độ cao hơn, trong đó yếu tố con người đóng vai trò quyết định, nó trở thành nhân tố trung tâm trong việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và hiện đại của Vùng ĐNB, từ đó phát huy tiềm năng của mình trong cạnh tranh quốc tế cũng như việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. - Cơ cấu lao động hiện đại, phù hợp định hướng phát triển Vùng ĐNB hiện đại - trung tâm thương mại, tài chính, khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. Trong chiến lược phát triển KT - XH, Vùng ĐNB phải chuyển dịch nhanh sang cơ cấu kinh tế hiện đại, tập trung vào 2 ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây là một cơ cấu kinh tế tất yếu trong quá trình phát triển của vùng, nó đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành kinh tế hiện đại, nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao; cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế trong từng giai đoạn phát triển. Cơ cấu lao động được xem xét trên nhiều phương diện: trong bản thân của nguồn nhân lực (cơ cấu trình độ - kỹ thuật, độ tuổi, giới,…), theo các ngành kinh tế, thành phần kinh tế, vùng kinh tế và trình độ công nghệ trong điều kiện đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. - Trong sự nghiệp đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH của vùng ĐNB, đội ngũ doanh nhân đóng vai trò động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao trình độ và năng lực phát triển kinh tế vùng, tiến đến xác lập một cơ cấu kinh tế hiện đại. Đây là lực lượng có đủ năng lực và tâm huyết trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có năng lực cạnh tranh toàn cầu phải được hun đúc, phải định vị những giá trị cho họ, do đó phải tìm cách vừa tôn vinh họ, vừa giúp họ xây dựng được những tiêu chí, chuẩn mực. Muốn thế, phải xây dựng một đội ngũ doanh nhân có văn hóa. Doanh nhân có văn hoá không chỉ là những người kinh doanh buôn bán bình thường mà phải có triết lý làm giàu, có lý tưởng cao rộng trong kinh doanh không chỉ dừng lại ở lợi nhuận mà còn gắn kết với vinh quang dòng họ, với quê hương, gắn kết với lợi ích của dân tộc. Điều này càng có ý nghĩa trọng trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường mà nòng cốt của nó chính là các nhà doanh nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa là vai trò của doanh nhân được đề cao trong xã hội, sứ mệnh phát triển kinh tế, ổn định xã hội một phần không nhỏ được đặt lên vai cộng đồng các doanh nghiệp. Để hoàn thành, khẳng định được vai trò của mình nhà doanh nghiệp cần phải đạt được những tiêu chuẩn nhất định mà xã hội yêu cầu, trước tiên là phải có được văn hoá kinh doanh. Bởi văn hoá kinh doanh được đánh giá là nền tảng tinh thần, là linh hồn cho hoạt động kinh doanh của một xã hội, một quốc gia. Văn hoá kinh doanh của mỗi dân tộc được hình thành ngay từ khi xuất hiện hoạt động kinh doanh trong đời sống xã hội của dân tộc đó. Vì vậy, tự nó là một nhu cầu của văn minh thị trường và là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Bác Hồ kính yêu đã gửi thư cho giới công thương động viên họ tham gia Công Thương cứu quốc đoàn. Trong bức thư lịch sử này - Người viết: “Việc nước việc nhà bao giờ cũng đi liền với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công thương nghiệp thịnh vượng". 1.5. Kinh nghiệm các nước về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Trên thế giới có rất nhiều quốc gia đạt được thành công trong tăng trưởng và phát triển kinh tế nhờ chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người. Do vậy việc nghiên cứu kinh nghiệm của những nước này không chỉ góp phần luận chứng các luận điểm đã nêu ở trên mà còn cung cấp bài học bổ ích vận dụng trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở Việt Nam nói chung và Vùng ĐNB nói riêng. Những kinh nghiệm quan trọng được rút ra qua việc khảo cứu là: Thứ nhất, lựa chọn phát triển nguồn nhân lực là trọng tâm của quá trình công nghiệp hóa và thực hiện có hiệu quả chiến lược này. Nội dung quan trọng trong chiến lược này là đầu tư, cải cách hệ thống giáo dục nhờ đó tạo nên nguồn lao động có chất lượng cao, đủ sức tiến hành công nghiệp hóa. Trường hợp của Nhật. Bại trận trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế rơi vào tình cảnh thiếu thốn, tụt hậu về kỹ thuật so với các nước phương Tây. Một trong những chiến lược phục hồi của Nhật là cải cách hệ thống giáo dục để đào tạo lực lượng lao động không chỉ có năng lực tiếp thu thành tựu khoa học – kỹ thuật thế giới mà còn có khả năng phát triển, ứng dụng sáng tạo và thực tế. Luật giáo dục năm 1947 của Nhật chỉ rõ giáo dục được coi là nhiệm vụ của quốc gia và là quyền cơ bản của người dân Nhật. Nền giáo dục được thể chế hóa theo hướng dân chủ hơn nhằm phục vụ một xã hội phát triển, thái bình, dân chủ. Chương trình học được các trường soạn thảo riêng trên cơ sở các môn do Bộ giáo dục qui định. Nội dung chủ yếu hướng vào mục tiêu thực dụng là đào tạo nhân công lao động có kiến thức phổ thông, tiếp thu và sử dụng các công nghệ nhập khẩu cũng như rất chú ý giáo dục nhân cách, kỷ luật. Hệ thống giáo dục này luôn đặt cao địa vị người thầy, người có học vấn. Giống như Nhật, các nước Đông Á khác cũng nhận thức rằng muốn tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống chỉ có một con đường là biến đất nước mình thành một xã hội học tập cao. Do vậy họ đều đã ưu tiên đầu tư để phổ cập giáo dục THCS, THPT và có tỷ lệ học sinh ở độ tuổi 20-24 vào đại học cao. Do vậy ngân sách đầu tư cho giáo dục rất lớn, thậm chí còn cao hơn cả ngân sách quốc phòng như Singapore là trường hợp ví dụ. Ngay sau ngày độc lập, Ông Lý Quang Diệu đã đề ra mục tiêu: “Biến Singapore thành một xã hội học vấn cao, giáo dục chính là chìa khóa để nâng cao đời sống và là động lực thúc đẩy xã hội phát triển”. Quan điểm này được Chính phủ ủng hộ trên mọi phương diện: ngân sách được ưu tiên, đào tạo toàn diện kết hợp khoa học kỹ thuật và văn hóa truyền thống, trường học mở rộng với tất cả ai có điều kiện học tập. Do vậy hệ thống trường đại học cao đẳng, viện nghiên cứu có mật độ cao trong một quốc gia nhỏ bé, trong đó một số trường trở nên nổi tiếng trong khu vực. Thứ hai, Nhà nước giữ vai trò điều phối giữa sự thay đổi kết cấu kinh tế và điều chỉnh mục tiêu giáo dục theo từng giai đoạn: (i) trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa chú trọng phát triển mạnh giáo dục phổ thông, nâng cao kiến thức văn hóa chung cho mọi người, chú trọng giáo dục dạy nghề, tỷ lệ học sinh học nghề và chuyên nghiệp cao trong tổng số học sinh; (ii) khi GDP/ người tăng lên thì đầu tư vào kỹ thuật công nghệ cao qua đầu tư cho giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao kiến thức chuyên sâu cho nguồn nhân lực. Điều này thể hiện rất rõ trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của các nước Đông Á. Thời kỳ chuẩn bị công nghiệp hóa các nước này chú ý mở rộng diện giáo dục, đào tạo trong mọi tầng lớp dân chúng. Họ chú ý đến trình độ giáo dục trung học chuyên nghiệp, dạy nghề để phát triển và tạo thành đội ngũ công nhân lành nghề. Họ cho rằng thời kỳ đầu công nghiệp hóa cần có đội ngũ công nhân lành nghề giỏi tiếp thu công nghệ phương Tây và triển khai ứng dụng nó. Các nước này xem việc gửi và khuyến khích học nước ngoài là một trong những giải pháp quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Sinh viên châu Á du học tại Mỹ và phương Tây tăng vọt. Sau khi tốt nghiệp phần đông họ trở về nước trở thành lực lượng lao động quí của mỗi quốc gia. Nhờ đội ngũ trí thức lớn, chất lượng tốt có khả năng tiếp thu vốn tri thức mới và công nghệ tiên tiến, các nước châu Á có khả năng rút ngắn thời gian công nghiệp hóa. Trong thực tế nhiều nước chỉ cần 50 năm đạt được nền công nghiệp mà châu Âu phải mất cả trăm năm. Ví dụ như trường hợp của Hàn Quốc, thời gian đầu công nghiệp hóa tập trung phát triển tiểu học và trung học để hình thành đội ngũ công nhân lành nghề. Thập kỷ 80, Hàn Quốc dành cho giáo dục trung học khoảng 80% ngân sách giáo dục đào tạo, nhờ đó tạo ra đội ngũ công nhân lành nghề. Cho đến đầu thập kỷ 90, giáo dục đại học mới được tập trung đầu tư kinh phí. Hiện nay Hàn Quốc rất coi trọng giáo dục năng khiếu và lựa chọn tài năng, cũng như đặc biệt coi trọng tuyển chọn sinh viên vào các lĩnh vực công nghệ, đưa sinh viên giỏi ra nước ngoài học tập. Toàn bộ hoạt động giáo dục của nước này được thể chế hóa thành luật, phân cấp rõ ràng trong tổ chức và quản lý. Về kinh nghiệm giáo dục dạy nghề thì các nước châu Âu mà điển hình là Đức là ví dụ rất đáng học tập. Tại Đức, số học sinh không học lên đại học, ở lứa tuổi 15-17 được học tại các trường dạy nghề kết hợp học văn hóa. Sau 3 năm nếu học sinh vượt qua được kỳ kiểm tra tay nghề sẽ được học thêm một số môn trong vài năm về quản trị kinh doanh, luật, kỹ thuật... để có thể tự lập doanh nghiệp riêng. Đây chính là điểm quan trọng đưa nền kinh tế Đức đến thành công. Việc lựa chọn thời điểm để mở rộng qui mô giáo dục đại học cũng thể hiện rất rõ trong chính sách giáo dục của nhiều nước phát triển. Nước Mỹ chỉ mở rộng qui mô giáo dục đại học mạnh mẽ sau khi đã phổ cập giáo dục cơ bản, phát triển giáo dục trung học và dạy nghề. Thứ ba, tăng nhanh việc làm, giảm thất nghiệp thông qua ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp dùng nhiều lao động trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa với các chính sách khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp qui mô vừa và nhỏ phát triển và đặc biệt ưu tiên phát triển CNH, HĐH nông thôn. Sau năm 1945, Nhật có chiến lược tận dụng tối đa nguồn nhân lực, phát triển kinh tế theo hướng đòi hỏi sử dụng nhiều lao động, kỹ thuật không cao; hướng các xí nghiệp lớn vào xuất khẩu, phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ cần ít vốn, sử dụng nhiều lao động. Qua công bố của Nhật giai đoạn sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, 99% xí nghiệp ở Nhật có qui mô vừa và nhỏ, nó sử dụng 80% lực lượng lao động sản xuất gia công cho các xí nghiệp lớn. Từ đó, với mức lương thấp, sản xuất ra sản phẩm nhiều và rẻ tạo được khả năng cạnh tranh áp đảo các quốc gia công nghiệp trên thị trường. Những nghiên cứu gần đây đã chứng minh được nguyên nhân tăng trưởng kinh tế nhanh của các nước Đông Á là do đã đầu tư cao cho việc phát triển nguồn nhân lực. Quan điểm phát triển ở các nước này là trình độ học vấn cao trong dân chúng sẽ tạo điều kiện cho nhiều người có thể học được cách ứng dụng các công nghệ tốt hơn. Giáo dục là yếu tố quan trọng cho sự thành công của các nền kinh tế này. So với những nước đang phát triển, tỷ lệ đi học ở các nền kinh tế Đông Á đạt mức cao hơn hẳn. Vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX, thu nhập quốc dân bình quân đầu người của Hàn Quốc và Ghana là tương đương nhau, nhưng tới thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đã vượt gấp 6 lần Ghana. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chênh lệch này là do Hàn Quốc đã thành công trong việc nâng cao trình độ dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sử dụng tri thức rộng rãi trong xã hội. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, đặc biệt là của các nước châu Á có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam đem lại nhiều bài học thiết thực. Kết quả của nhiều công trình nghiên cứu về thành công của các nước NICs, Đông Á đều có nguyên nhân chính là đã đặt phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực làm yếu tố trung tâm trong chiến lược công nghiệp hóa. Những phân tích ở trên cho thấy nguồn nhân lực luôn luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên ở mỗi trình độ, giai đoạn phát triển đòi hỏi những tiêu chuẩn khác nhau, do đó phát triển nguồn nhân lực nói chung, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói riêng là yêu cầu tất yếu, khách quan. Để có thể đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính định hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần phải đánh giá đúng thực trạng, phân tích cụ thể các yếu tố ảnh hưởng. Những nội dung này sẽ được giải quyết ở Chương 2 và 3. Chương 2 PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VÙNG ĐÔNG NAM BỘ TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 2.1. Đặc điểm tự nhiên, KT - XH có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực vùng ĐNB 2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên Đông Nam Bộ là một trong hai phần của Nam Bộ, có tên thường gọi khác là Miền Đông. Vùng Đông Nam Bộ có 5 tỉnh và một thành phố: Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh và TP.HCM. Đông Nam Bộ có tổng diện tích 22.575 km2 và chiều dài bờ biển gần 170 km rất thuận lợi để mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế, phát triển nền kinh tế mở, nhất là khi cơ sở hạ tầng giao thông vận tải được nâng cấp, hiện đại hóa. Vùng Đông Nam Bộ nằm ở phía Tây và Tây Bắc giáp Cam-pu-chia, lưu thông thuận lợi bằng các tuyến quốc lộ 22 (qua cửa khẩu Mộc Bài), quốc lộ 13 (qua cửa khẩu Hoa Lư). Phía đông bắc giáp Tây Nguyên, giao lưu trên các tuyến đường 14, đường 20. Phía đông giáp và Đông Nam giáp với Nam Trung Bộ và vùng Nam biển Đông, với vùng biển và thềm lục địa giàu tài nguyên, kinh tế biển phát triển đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Đông Nam Bộ. Phía Tây Nam giáp đồng bằng sông Cửu Long, việc giao lưu với đồng bằng sông Cửu Long thuận lợi bằng các tuyến đường sông và đường quốc lộ 1A. Vị trí Đông Nam Bộ nằm giữa khu vực Đông Nam Á đi bằng máy bay trong khoảng 2 – 3 giờ có thể tới thủ đô các nước trong ASEAN và trong tương lai khi xây dựng các tuyến đường bộ và đường sắt xuyên Á, Đông Nam Bộ sẽ là cửa ngỏ thông ra biển của các nước láng giềng. Đông Nam Bộ có đặc điểm của một vùng khí hậu cận xích đạo với nền nhiệt độ cao và hầu như không thay đổi trong năm. Về tài nguyên nước, trên địa bàn Vùng Đông Nam Bộ có hệ thống các sông lớn như sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Thị Vải, sông Bé... sông Sài Gòn và sông Thị Vải là nơi tập trung các cảng chính của Vùng như cảng Sài Gòn, cảng Cái Mép, cảng Thị Vải. Bờ biển khu vực này thuộc các địa phương: Bà Rịa - Vũng Tàu, TP.HCM và có nhiều bãi biển đẹp là khu nghỉ mát nổi tiếng như: bãi Sau, bãi Dứa, Long Hải, Phước Hải, nơi nghỉ mát cuối tuần lý tưởng và là trung tâm lớn về lưu trú và dịch vụ du lịch. Ngoài ra, Vùng biển và bờ biển Đông Nam Bộ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển tổng hợp kinh tế biển. Biển ấm, ngư trường rộng, hải sản phong phú, gần đường hàng hải quốc tế. Thềm lục địa nông, rộng, giàu tiềm năng dầu khí…là thế mạnh kinh tế cho các ngành khai thác dầu khí ở thềm lục địa, đánh bắt hải sản, giao thông, dịch vụ, du lịch biển. Trong vùng còn có hai hồ chứa lớn là hồ Dầu Tiếng và Trị An dung tích khoảng 3,6 tỷ m3. Về tài nguyên rừng, ở Đông Nam bộ rừng tự nhiên phân bố không đồng đều giữa các tỉnh, chủ yếu tập trung ở Đồng Nai và Bình Phước, là nguồn cung cấp gỗ dân dụng và gỗ củi cho TP.HCM và đồng bằng sông Cửu Long, nguồn nguyên liệu cho Liên hiệp giấy Đồng Nai. Các tỉnh khác chỉ có dưới 100 nghìn ha, ít nhất là TP.HCM (6.700 ha). Rừng vùng Đông Nam bộ có tác dụng tham gia điều hòa dòng chảy của các con sông lớn và giảm lũ. Các loại rừng phòng hộ, rừng đặc dụng tập trung chủ yếu ở khu vực đầu nguồn của hệ thống sông Đồng Nai, vườn Cát Tiên, Côn Đảo, khu bảo tồn thiên nhiên Bù Gia Mập, Bình Châu… Về khoáng sản, Đông Nam Bộ có trên 200 mỏ khai thác với quy mô khác nhau. Tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa nhất là dầu khí với trữ lượng dự báo khoảng 4 - 5 tỉ tấn dầu và 485 - 500 tỉ tấn m3 k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.pdf
Tài liệu liên quan