Luận văn Một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá Minh Khai

Tài liệu Luận văn Một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá Minh Khai: 1 Luận văn Một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá Minh Khai 2 Lời mở đầu Quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang đặt ra những thách thức cùng những cơ hội phát triển cho tất cả các doanh nghiệp khác nhau đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh. Vận hành theo cơ chế thị trường nghĩa là các doanh nghiệp phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy luật khách quan của thị trường trong đó có quy luật cạnh tranh. Dưới tác động và yêu cầu của quy luật này, các doanh nghiệp phải vận dụng tối đa, linh hoạt và hợp thức các thủ pháp và nghệ thuật kinh doanh để đạt tới các lợi thế tương đối để tăng trưởng và phát triển cặp thị trường - sản phẩm, khách hàng tiềm năng - thị phần nhằm tối ưu hoá lợi nhuận mong muốn. Hậu quả tất yếu của động thái cạnh tranh này là một nhóm doanh nhgiệp do không hoà nhập hoặc...

pdf84 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1026 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá Minh Khai, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá Minh Khai 2 Lời mở đầu Quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang đặt ra những thách thức cùng những cơ hội phát triển cho tất cả các doanh nghiệp khác nhau đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh. Vận hành theo cơ chế thị trường nghĩa là các doanh nghiệp phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy luật khách quan của thị trường trong đó có quy luật cạnh tranh. Dưới tác động và yêu cầu của quy luật này, các doanh nghiệp phải vận dụng tối đa, linh hoạt và hợp thức các thủ pháp và nghệ thuật kinh doanh để đạt tới các lợi thế tương đối để tăng trưởng và phát triển cặp thị trường - sản phẩm, khách hàng tiềm năng - thị phần nhằm tối ưu hoá lợi nhuận mong muốn. Hậu quả tất yếu của động thái cạnh tranh này là một nhóm doanh nhgiệp do không hoà nhập hoặc xác định không đúng các thủ pháp cạnh tranh nên bị suy thoái, thậm chí phá sản và bị gạt ra khỏi thị trường, một số doanh nghiệp thích ứng được và vận dụng đồng bộ các thủ pháp cạnh tranh hợp lý thì không ngừng phát triển. Hiện nay, Việt nam đă tham gia Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEBT) để thành lập khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA) vào năm 2003, đã tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á-Thái Bình Dương (APEC) và đang xúc tiến xin gia nhập tổ chức thương mại Thế giới (WTO) . Những sự kiện trên cũng có nghĩa là trong thời gian tới, doanh nghiệp Việt Nam nói chung không những chỉ cạnh tranh với nhau ở trong nước mà còn phải trực diện cạnh tranh với các doanh nghiệp ở nước ngoài. Thực tế trong lĩnh vực sản xuất khoá và máy móc thiết bị đã phản ánh đầy đủ và điển hình các yếu tố của môi trường kinh doanh trong cơ chế cạnh tranh. Công ty khoá Minh khai là một Công ty kinh doanh trong lĩnh vực này, do vậy đòi hỏi phải có những biện pháp thiết thực để nâng cao năng lực cạnh tranh 3 của doanh nghiệp trên thị trường giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển ngày một vững mạnh. Vấn đề này được quan tâm nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp các nguyên lý kinh doanh trong tình hình cạnh tranh nhằm nghiên cứu thực trạng hoạt động cũng như tình hình cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của Công ty khoá Minh Khai. Bài viết này được chia thành 3 phần chính: Phần I: Những vấn đề lý luận về nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phần II: thực trạng khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá minh khai. Phần III: một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá minh khai 4 Phần I Những vấn đề lý luận về khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I. Vai trò và loại hình Cạnh tranh của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 1. Khái niệm cạnh tranh của Doanh nghiệp Thuật ngữ “cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La tinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị nhằm đặt được những ưu thế, lợi thế mục tiêu xác định. Trong hình thái cạnh tranh thị trường, quan hệ ganh đua xảy ra giữa hai chủ thể cung (nhóm người bán) cũng như chủ thể cầu (nhóm người mua) , cả hai nhóm này tiến tới cạnh tranh với nhau vì được liên kết với nhau bằng giá cả thị trường. Động cơ của bất kỳ một cuộc cạnh tranh nào cũng là nhằm đạt được ưu thế, lợi ích hơn về lợi nhuận, về thị trường mục tiêu Marketing, về nguồn cung ứng, về kỹ thuật, về khách hàng tiềm năng.Chính vì động cơ này các chủ thể kinh doanh căn cứ vào vị trí, thế lực của mình để lựa chọn phương cách, công cụ cạnh tranh thích hợp. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là cường dộ các yếu tố sản xuất trong tương quan so sánh của doanh nghiệp. Sức cạnh tranh không đồng nhất với quy mô của doanh nghiệp và nó không được đo lường bởi các yếu tố cạnh tranh kinh điển mà phải đặt nó trong mối quan hệ với thị trường cạnh tranh, môi trường cạnh tranh, vì vậy ta có thể có khái niệm tổng quát: “Sức cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp là tổng hợp các yếu tố để xác lập vị thế so sánh tương đối hiọc tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng và phát triển bền vững, ổn định của doanh nghiệp trong mối quan hệ so sánh với tập các 5 đối thủ cạnh tranh trong cùng một môi trường và thị trường cạnh tranh xác định trong một khoảng thời gian hoặc một thời điểm định gía xác định” 2. Vai trò của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp 2.1. Đối với doanh nghiệp. - Cạnh tranh buộc các doanh nghiệpphải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh,phải triệt để không ngừng sáng tạo, tìm tòi. - Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nắm bắt thông tin kịp thời. - Cạnh tranh quy định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường thông qua những lợi thế mà doanh nghiệp đạt được nhiều hơn đối thủ cạnh tranh. Đồng thời cạnh tranh cũng là yếu tố làm tăng hoặc giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. 2.2. Đối với người tiêu dùng. - Cạnh tranh mang đến cho người tiêu dùng ngày càng nhiều hơn chủng loại hàng hoá, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của khách hàng, của người tiêu dùng. Khôngnhững thế, cạnh tranh đem lại cho người tiêu dùng sự thoả mãn hơn nữa về nhu cầu. 2.3. Đối với nền kinh tế quốc dân: - Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. - Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng cao vào sản xuất, hiện đại hoá nền kinh tế xã hội. - Cạnh tranh góp phần xoá bỏ những độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ những bất bình đẳng trong kinh doanh. Tuy nhiên không phải tất cả các mặt của cạnh tranh đều mang tính tích cực mà bản thân nó cũng phải thừa nhận các mặt tiêu cực như: + Bị cuốn hút vào các mục tiêu cạnh tranh mà các doanh nghiệp đã không chú ý đến các vấn đề xung quanh như: xử lý chất thải, ô nhiễm môi trường và hàng loạt các vấn đề xã hội khác. 6 + Cạnh tranh có thể có xu hướng dẫn tới độc quyền. + Cường độ cạnh tranh mạnh sẽ làm ngành yếu đi. 3. Các loại hình cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Chúng ta có thể phân biệt thành bốn mức độ cạnh tranh căn cứ vào mức độ thay thế của sản phẩm: * Cạnh tranh nhãn hiệu: Doanh nghiệp có thể xem những doanh nghiệp khác có bán sản phẩm và dịch vụ tương tự cho cùng một số khách hàng với giá bán tương tự là các đối thủ cạnh tranh của mình. * Cạnh tranh ngành: Doanh nghiệp có thể xem một cách rộng hơn tất cả những doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hay một lớp sản phẩm đều là đối thủ cạnh tranh của mình. * Cạnh tranh công dụng: Doanh nghiệp có thể xem một cách rộng hơn nữa là tất cả những doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm thực hiện cùng một dịch vụ là đối tượng cạnh tranh của mình. Để cụ thể hơn, ta có thể phân biệt thành năm kiểu cơ cấu ngành căn cứ vào số lượng người bán và sản phẩm đồng nhất hay rất khác biệt như sau: + Độc quyền hoàn toàn: Độc quyền hoành toàn tồn tại khi chỉ có một doanh nghiệp duy nhất cung cấp một sản phẩm hay dịch vụ nhất định trong một nước hay một khu vực nhất định. + Nhóm độc quyền hoàn toàn: Gồm một vài doanh nghiệp sản xuất phần lớn một loại sản phẩm (ví dụ: dầu mỏ, thép...) . + Nhóm độc quyền có khác biệt: Gồm một vài doanh nghiẹp sản xuất ra những sản phẩm có khác nhau một phần (ví dụ: ô tô, xe máy...) . + Cạnh tranh độc quyền: Gồm nhiều đối thủ cạnh tranh có khả năng tạo ra những điểm khác biệt cho toàn bộ hay một phần sản phẩm của mình (ví dụ: nhà hàng, khách sạn...) . 7 + Cạnh tranh hoàn hảo: Gồm nhiều đối thủ cạnh tranh cùng cung ứng một loại sản phẩm và dịch vụ (ví dụ: thị trường chứng khoán, thị trường hàng hoá...) . 4. Mối quan hệ giữa cạnh tranh và hợp tác: Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững thì không thể duy trì một biện pháp cạnh tranh cứng nhắc. Những mối quan hệ tốt chính là những tài sản quý giá của doanh nghiệp. Do sự biến đổi không ngừng của môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải có sự điều chỉnh thích hợp với những biến động đó để có thể hạn chế tối thiểu những điểm yếu, phát huy tối đa những mặt mạnh của mình để chủ động trong kinh doanh, khai thác tốt những cơ hội trên thị trường. Sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc đề ra các chính sách kinh doanh là một tố chất không thể thiếu được đối với những nhà quản lý giỏi. Có thể ở một thời điểm nào đó, các doanh nghiệp cạnh tranh với một cường độ rất gay gắt, đôi khi là một mất, một còn nhưng ở một thời điểm khác, do những biến động nào đó của môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp lại liên kết, hợp tác với nhau nhằm khai thác một cơ hội kinh doanh nào đó hoặc để chống đỡ những nguy cơ nào đó từ phía môi trường. II. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu: Mỗi chủ thể khi tham gia vào hoạt động kinh doanh đều phải biết phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của mình để từ đó tìm ra và phát huy những thế mạnh, hạn chế giảm bớt những mặt yếu. Sau đây là một số công cụ cạnh tranh chủ yếu mà doanh nghiệp thường sử dụng : 1. Cạnh tranh bằng sự đa dạng hoá: 1.1. Đa dạng hoá sản phẩm: Có 3 phương thức: * Đa dạng hoá đồng tâm: Là hướng phát triển đa dạng hoá trên nền của sản phẩm chuyên môn hoá dựa trên cơ sở khai thác mối liên hệ về nguồn vật tư và thế mạnh về cơ sở vật chất - kỹ thuật. 8 Ví dụ: Công ty khoá Minh Khai ngoài sản xuất khoá còn sản xuất các loại như bản lề, ke, chốt mạ... * Đa dạng hoá theo chiều ngang: Là hình thức tăng trưởng bằng cách mở rộng các danh mục sản phẩm và dịch vụ cung cấp cho khách hàng hiện có của doanh nghiệp. Thông thường những sản phẩm này không có mối liên hệ với nhau nhưng chúng có những khách hàng hiện có nắm rất chắc . * Đa dạng hoá hỗn hợp: Là sự kết hợp của hai hình thức trên. Sử dụng chiến lược này thường là những tập đoàn kinh doanh lớn hay những Công ty đa Quốc gia. Đa dạng hoá hỗn hợp đang là xu thế của các doanh nghiệp hiện nay. 1.2. Khác biệt hoá sản phẩm: Khác biệt hoá sản phẩm là tạo ra các đặc điểm riêng, độc đáo được thừa nhận trong toàn ngành có thể là nhờ vào lợi thế công nghệ sản xuất sản phẩm. Khác biệt hoá sản phẩm nếu đạt được sẽ là chiến lược tạo khả năng cho Công ty thu được tỷ lệ lợi nhuận cao hơn bởi nó tạo nên một vị trí vững chắc cho hẵng trong việc đối phó với 5 lợi thế cạnh tranh. Khác biệt hoá sản phẩm tạo ra sự trung thành của khách hàng vào nhãn hiệu sản phẩm, điều này sẽ dẫn đến khả năng ít biến động hơn về giá. Sự chênh lệch giữa chi phí khác biệt hoá ản phẩm khá lớn với chi phí thấp hơn của các đối thủ cạnh tranh thì người mua có thể sẵn sàng hy sinh một vài đặc tính tốt của sản phẩm, dịch vụ khác biệt hoá để tiết kiệm một khoản tiền lớn. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ lưỡng các nguy hiểm khi thưch hiện chính sách này. 2. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm: Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng, thị trường ngày càng đòi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm có chất lượng cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng. Doanh nghiệp cần phải thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh. 9 Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, đặc trưng kinh tế, kỹ thuật được thể hiện qua sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế sản phẩm cho đến khi sản xuất xong tiêu thụ sản phẩm. Có nhiều yếu tố tác động đến chất lượng sản phẩm như: khâu trang bị sản xuất, chất lượng nguyê vật liệu, chất lượng máy móc thiết bị và chất lượng lao động. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, trong quá trình sản xuất kinh doanh, cán bộ quản lý chất lượng phải chú ý ở tất cả các khâu trên, đồng thời phải có chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh do các nhân viên kiểm tra chất lượng thực hiện. Phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận Marketing với bộ phận nghiên cứu, thiết kế sản phẩm... 3. Cạnh tranh bằng giá cả. 3.1. Cạnh tranh bằng chính sách định giá. a/ Chính sách định giá cao: Thực chất là đưa giá bán sản phẩm cao hơn giá bán trên thị trường và cao hơn giá trị. Chính sách này thường được áp dụng cho các doanh nghiệp có sản phẩm hay dịch vụ độc quyền, không bị cạnh tranh hoặc được áp dụng cho các loại hàng hoá xa sỉ, sang trọng phục vụ cho đoạn thị trường có mức thu nhập cao. Các doanh nghiệp sản xuất có các loại sản phẩm có chất lượng cao vượt trội so với các đối thủ khác cũng có thể áp dụng chính sách định giá cao. b/ Chính sách định giá ngang với giá cả trên thị trường. Định ra mức giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá cả trên thị trường. Đây là cách đánh giá khá phổ biến, các doanh nghiệp có thể tổ chức tốt các hoạt động chiêu thị và các hoạt động bán hàng để tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ nhằm nâng cao lợi nhuận. c/ Chính sách định giá thấp. Là định ra mức giá bán sản phẩm thấp hơn giá thị trường để thu hút khách hàng về phía mình nhằm tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ. 10 Các doanh nghiệp có thể áp dụng chính sách định giá thấp khi muốn đưa sản phẩm mới thâm nhập nhanh vào thị trường hoặc các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh cũng có thể áp dụng chính sách định giá thấp để có thể đánh bại đối thủ hay đuổi các đối thủ mới ra khỏi thị trường. 3.2. Cạnh tranh bằng cách hạ giá thành. Giá thành đơn vị sản phẩm được tập hợp từ các chi phí về nguyên vật liệu, các chi phí về nhân công sản xuất và các chi phí cố định phục vụ cho sản xuất chung. Kiểm soát giá thành gồm có: a/ Giảm chi phí về nguyên vật liệu: - Chi phí về nguyên vật liệu trong sản phẩm thường chiếm trên 50% tổng giá thành sản phẩm. Có những loại sản phẩm chi phí về nguyên vật liệu chiếm 70% tổng giá thành. Vì vậy, giảm chi phí về nguyên vật liệu là biện pháp có ý nghĩa nhất trong việc thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm. - Chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ lệ cao trong giá thành sản xuất nên chỉ cần tiết kiệm một tỷ lệ nhỏ chi phí nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đến kế hoạch giá thành. b/ Giảm chi phí về nhân công: - Chi phí về nhân công trong giá thành sản phẩm chiếm tỷ lệ khá cao. Thông thường chi phí nhân công trong giá thành đối với sản phẩm được giảm bằng cách nâng cao năng suất lao động. Phương pháp này có thể được thực hiện thông qua việc giảm định mức lao động tiêu hao đối với sản phẩm. Để thực hiện đầy đủ điều này, thông thường người ta thay thế yếu tố kinh tế cho yếu tố lao động thông qua đầu tư, đổi mới công nghệ. c/ Giảm chi phí cố định: - Chi phí cố định bao gồm khấu hao tài sản cố định, các chi phí lãi cho vốn vay và chi phí về quản lý. Để giảm chi phí cố định trong giá thành đơn vị sản phẩm cần phải tận dụng thời gian hoạt động cuả máy móc thiết bị sản xuất, áp dụng phương pháp khấu hao nhanh để giảm bớt hao mòn vô hình, tổ chức hợp lý lực lượng cán bộ quản trị để giảm bớt chi phí quản lý. 11 Tóm lại, giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm bằng cách tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm trong doanh nghiệp. 3.3. Giảm các chi phí thương mại: - Phí tổn thương mại gồm toàn bộ các chi phí có liên quan đến việc bán sản phẩm từ những chi phí trực tiếp liên quan đến hoạt động Marketing đến các chi phí khác như chi phí quản lý bán hàng, chi phí lưu thông. Chi phí thương mại có thể giảm tới mức tối thiểu nhưng nếu thực hiện như vậy thì doanh nghiệp rất khó có thể thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, giảm phí tổn thương mại ở đây có thể hiểu giảm đến mức tối ưu chi phí cho các hoạt động có liên quan đến bán sản phẩm như: Chi phí vận chuyển, chi phí cho công tác chiêu thị, chi phí cho lực lượng bán hàng. 4. Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm: 4.1. Lựa chọn hệ thống kênh phân phối: - Trước hết để tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phái nghiên cứu thị trường, lựa chọn thị trường và lựa chọn kênh phân phối để sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ nhanh chóng, hợp lý và đạt hiệu quả cao. Thông thường có 4 kênh phân phối sau: Sơ đồ số 1: Hệ thống kênh phân phối Kiểu 1: Kiểu 2: Kiểu 3: Ngi bán l Ngi sn xut Ngi tiêu dùng cui cùng Ngi sn xut Ngi bán buôn Ngi bán l Ngòi tiêu dùng cui cùng Ngi sn xut Ngi tiêu dùng cui cùng 12 13 Kiểu 4: Việc lựa chọn kênh phân phối phải dựa trên đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của sản phẩm cần tiêu thụ, đồng thời cũng phải dựa trên đặc điểm của thị trường cần tiêu thụ, đặc điểm về khoảng cách giữa doanh nghiệp đến thị trường. Từ những đặc điểm trên, doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình một hệ thống kênh phân phối hợp lý, hiệu quả. 4.2. Một số biện pháp yểm trợ bán hàng: a/ Chính sách quảng cáo: Muốn thực hiện được nhiệm vụ quảng cáo đó thì quảng cáo phải thoả mãn được những yêu cầu sau: - Quảng cáo phải có tính tập trung cao - Quảng cáo phải có tính trung thực - Quảng cáo phải có tính hấp dẫn - Quảng cáo phải có tính hiệu quả Để quảng cáo cho một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó của doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều loại phương tiện khác nhau. Vì mỗi phương tiện quảng cáo khác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến người nhận thông tin quảng cáo nên doanh nghiệp phải lựa chọn và kết hợp có lợi nhất các phương tiện quảng cáo phù hợp. b/ Một số chính sách phục vụ khách hàng: * Chính sách thanh toán: Ngi sn xut Ngi bán buôn Ngi bán l Ngi tiêu dùng cui cùng Ngi u c môi gii 14 - Chính sách thanh toán là một công cụ nhằm hấp dẫn khách hàng về phía doanh nghiệp. Trong trường hợp 2 doanh nghiệp cùng bán một loại sản phẩm theo cùng một giá thì điều kiện thanh toán sẽ trở thành quyết định đối với sự lựa chọn của người mua. Các chính sách bán trả chậm, chính sách bán trả góp thường áp dụng cho khách hàng là người mua cuối cùng. * Chính sách phục vụ ở đây là hoạt động khuyến mại nhằm hấp dẫn khách hàng về phía mình. Chúng ta có thể chia các chính sách phục vụ khách hàng thành 2 giai đoạn chính là chính sách phục vụ trước và sau khi bán hàng. Cạnh tranh ngày càng gay gắt thì các hoạt động phục vụ khách hàng ngày càng mở rộng, đặc biệt là các hoạt động, dịch vụ sau bán hàng. Ngoài một số biện pháp trên, các doanh nghiệp còn sử dụng thêm một số biện pháp khác như: tham gia hội chợ, chào hàng, tăng cường quảng cáo… III. sự cần thiết của việc nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. 1. Khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp. Loại thị trường phổ biến trong thực tế là loại thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Do vậy, các doanh nghiệp tồn tại trong thị trường cạnh tranh đều có một vị trí nhất định của nó. Vì thế, nếu doanh nghiệp tham gia vào thị trường mà không có khả năng cạnh tranh hoặc cạnh tranh yếu thì không tồn tại được. Kết quả tổng hợp các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cạnh tranh của doanh nghiệp được phản ánh bằng quy mô tiêu thụ. Vì vậy, phần thị trường chiếm lĩnh của doanh nghiệp được coi là chỉ số tổng hợp đo lường tính cạnh tranh của nó, qua chỉ số đồng nhất này có thể đánh giá thành tích của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác cũng như so sánh thắng lợi giữa các đối thủ cạnh tranh với nhau. 15 2. Tính tất yếu của nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chúng ta không một ai nói đến việc nâng cao khả năng cạnh tranh là cần thiết cho doanh nghiệp. Bởi một thực tế là các doanh nghiệp không phải cạnh tranh với nhau mà chỉ cần thực hiện các chỉ tiêu Nhà nước giao, nhà nước đảm bảo mọi khâu, mọi mặt trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ngày nay nền kinh tế Nhà nước ta vận hành theo cơ chế thịt rường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, nó hoạt động theo quy luật khách quan vốn có của nó đó là quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh thể hiện rất rõ trong nền kinh tế thị trường. Có kinh tế thị trường thì tất yếu có cạnh tranh. Cơ sở của cạnh tranh là chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp là một tất yếu khách quan. Thêm vào đó với chính sách mở cửa của nền kinh tế, ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào lĩnh vực kinh doanh trên thị trường Việt Nam thì tình hình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt hơn. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra rất yếu trong cạnh tranh so với các doanh nghiệp nước ngoài. Bởi nước ta mới chuyển đổi nền kinh tế dó đó các doanh nghiệp Việt Nam chưa quen với cạnh tranh. Vì vậy mà hàng hoá nước ngoài cạnh tranh gay gắt, chèn ép sản phẩm trong nước. Hơn nữa, các hình thức trong kinh doanh, cách làm ăn của các doanh nghiệp trong nước thường mang tính chụp giật, cạnh tranh không lành mạnh và rất ít doanh nghiệp áp dụng chiến lược kinh doanh. Vậy, có thể nói nâng cao khả năng cạnh tranh là một tất yếu khách quan của các doanh nghiệp làm thay đổi mối tương quan thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. 16 17 Phần II thực trạng khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá minh khai I. Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty khoá minh khai. 1. Quá trình hình thành và phát triển. 1.1. Quá trình hình thành. Công ty khoá Minh Khai trước đây là nhà máy khoá Minh Khai, được thành lập từ năm 1972 theo quyết định số 561/BKT của Bộ Trưởng Bộ Kiến Trúc (nay là Bộ xây dựng) với sự giúp đỡ của Ba Lan về nhà xưởng, máy móc thiết bị. Về loại hình tổ chức: Công ty khoá Minh Khai là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp lý trực tiếp của Tổng công ty cơ khí xây dựng - Bộ xây dựng. * Trụ sở chính: 125D-Minh Khai-Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội. * Lĩnh vực kinh doanh: Sản xuất thiết bị máy móc cho ngành xây dựng, vật liệu xây dựng, sản xuất phụ tùng, phụ kiện bằng kim loại và kinh doanh các sản phẩm cơ khí xây dựng * Hình thức hoạt động: Theo ngành kinh tế sản xuất. * Tổng số công nhân viên: 340 người, trong đó cán bộ nhân viên, quản lý là 70 người. 18 1.2. Các giai đoạn phát triển. Năm 1972, do chiến tranh tàn phá nên Công ty đã ngừng hoạt động để đi vào phục hồi lại, do đó đến cuối năm 1973 Công ty chính thức đi vào hoạt động. Do đặc điểm của thị trường và nhu cầu của người tiêu dùng thay đổi theo từng thời kỳ nên quá trình phát triển của Công ty khoá Minh Khai đã trải qua các giai đoạn sau: - Giai đoạn từ 1973-1980: Công ty hoạt động theo đúng chức năng nhiệm vụ, mục tiêu ngành nghề theo quy định ban đầu về sản xuất. Sản phẩm gồm các loại: khoá, bản lề, ke cửa, chốt, móc gió. Thời gian đầu Công ty sản xuất sản phẩm theo mẫu thiết kế của Ba Lan nên có phần nào chưa phù hợp với điều kiện của Việt Nam. - Giai đoạn 1981-1988: Công ty sản xuất theo kế hoạch Bộ giao. Ngoài những sản phẩm cũ như trên còn có giàn giáo thép, bi đan và mắt sàng xi măng, đồng thời sản xuất thêm các mặt hàng kim khí, phục vụ xây dựng như của xếp, của chớp lật, cửa hoa. Trong giai đoạn này Công ty đã tiến hành hai vấn đề lớn: + Nâng cao chất lượng sản phẩm và đã xuất khẩu các khoá, le, bản lề, cremon cho các nước Hungary, Cuba, Lào và xuất khẩu tại chỗ cho Tây Đức. + Công ty đã nghiên cứu và chế tạo bi nghiền cho công nghiệp xi măng và phụ tùng khác. Ngoài ra còn là đơn vị đi tiên phong trong việc nghiên cứu công nghệ sản xuất giàn giáo thép. - Giai đoạn từ 1989-1991: thời kỳ chuyển mạch từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, bước đầu có nhiều khó khăn, nhất là đối với ngành cơ khí. Nhưng nhà máy đã đưa ra mục tiêu: giữ vững được sản xuất và tiêu thụ, không để công nhân nghỉ vì thiếu việc làm, hàng hoá sản xuất phải tiêu thụ hết và đảm bảo đời sống công nhân viên. Rút lại một phần lớn lao động dôi dư không có trình độ tay nghề, sức khoẻ và chuyển sang công tác khác cho phù hợp, đồng thời gửi cán bộ, công nhân đi lao động, học tập ở nước ngoài, một phần cho nghỉ hưu, về mất sức. - Giai đoạn từ 1992-> nay: giai đoạn này Công ty đã chuyển hoá mạnh vào nền kinh tế thị trường. Công ty đã tiến hành sắp xếp lại sản xuất theo Nghị định số 388/HĐBT. Công ty đã chú trọng nhiều vào việc sản xuất, đa dạng hoá các 19 loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế của đất nước. Việc quan tâm tới chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật của sản phẩm được đưa lên hàng đầu. Thời kỳ này bên cạnh việc sản xuất những mặt hàng truyền thống, Công ty đã tung ra thị trường nhiều sản phẩm mới với mẫu mã phong phú và cải tiến tiện lợi hơn. Ngày 5/5/1983 Bộ trưởng Bộ xây dựng đã ký quyết địng số 163A/BXD- TCLĐ thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước với tên gọi nhà máy khoá Minh Khai trực thuộc liên hiệp các xí nghiệp cơ khí xây dựng-Bộ xây dựng. Ngày 7/3/1994 Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 90 TTg về việc tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, liên hiệp các xí nghiệp xây dựng được gọi là Công ty cơ khí xây dựng và nhà máy Khoá Minh khai được đổi tên thành Công ty khoá Minh Khai. Trải qua quá trình xây dựng và trưởng thành, Công ty khoá Minh Khai đã không ngững phấn đấu về mọi mặt. Công ty đã thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, tự cân đối về tài chính, coi trọng hiệu quả kinh tế đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, đời sống của cán bộ công nhân viên được nâng cao. Mặt khác, Công ty không ngừng cải tiến, mua sắm máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm và nắm bắt kịp thời thị hiếu người tiêu dùng để tung ra thị trường những sản phẩm chất lượng cao, phù hợp với người tiêu dùng nhất. Hiện nay, sản phẩm của Công ty đủ sức mạnh cạnh tranh và tiêu thụ tốt trên thị trường. Năm 1994, Công ty đã có 4 sản phẩm đạt huy chương Vàng tại hội chợ Quốc tế Hàng công nghiệp Việt Nam. Đó là khoá MK10, khoá treo MK10N, bản lề 100 và cremon MK 23A. 2. Bộ máy tổ chức và lao động. 2.1. Bộ máy tổ chức Để đảm bảo cho tổ chức quản lý sản xuất có hiệu quả, Công ty tổ chức bộ máy quản lý gọn nhẹ với chế độ một thủ trưởng, đứng đầu là Giám đốc Công ty, người có quyền hành cao nhất, chịu mọi trách nhiệm trước Nhà nước và tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty ở mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Bộ phận giúp việc cho Ban giám đốc bao gồm: 20 + Một phó Giám đốc kỹ thuật + Một phó Giám đốc sản xuất + Các trường phòng ban khác Cùng với hoạt động quản lý ở các phòng ban, phân xưởng sản xuất thì quản đốc là người chịu trách nhiệm hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình: Bố trí từng tổ đội sản xuất sao cho phù hợp với khả năng trình độ của họ, thường xuyên giám sát hướng dẫn kỹ thuật của đơn vị mình. Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận trong bộ máy tổ chức của Công ty khoá Minh Khai được phân bổ như sau: - Bộ phận Marketing: Là bộ phận tham mưu cho ban Giám đốc về tình hình thị trường, giá cả, vật tư, sản phẩm có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời đề xuất các phương án có liên quan đến các hoạt đông hỗ trợ trước và sau khi bán hàng. - Bộ phận kế hoạch: Là bộ phận giúp ban Giám đốc lập kế hoạch đôn đốc, theo dõi các kế hoạch sản xuất tiêu thụ ngắn và dài hạn. Ngoài ra còn thu nhận các thông tin từ các bộ phận để kịp thời kiểm tra và chỉnh lý các kế hoạch của Công ty, đồng thời thực hiện các công việc đột xuất khi cần. - Bộ phận kỹ thuật: Xây dựng các định mức kinh tế -kỹ thuật đồng thời nghiên cứu và lập ra các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Ngoài ra còn phải thiết kế khuôn mẫu, bản vẽ thiết kế, nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Hơn nữa còn phải xác định thời gian bảo trì sửa chữa đại tu máy móc sản xuất. - Bộ phận KCS: Kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi nhập vào kho của Công ty theo tiêu chuẩn phòng kỹ thuật đề ra. - Bộ phận cung tiêu: 21 Cùng phòng kế hoạch xây dựng các phương án đảm bảo cung ứng đầy đủ và kịp thời các thông tin cần thiết để cân đối giữa vật tư, lao động và máy móc thiết bị, đồng thời kết hợp với phòng kế hoạch để có phương án tiêu thụ sản phẩm hợp lý với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty - Bộ phận tài vụ: Giúp Giám đốc về quản lý tài chính, kế toàn thống kê thực hiện hạch toán sản xuất kinh doanh, thanh quyết toán với khách hàng và Nhà nước. Ngoài ra còn làm nhiệm vụ tính bảo hiểm và thuế. - Bộ phận tổ chức, lao động tiền lương. Tham mưu cho Giám đốc về việc sắp xếp, bố trí lao động trong Công ty về số lượng, trình độ nghiệp vụ, tay nghề từng phòng ban, phân xưởng. Kiểm tra định mức đơn giá và giải quyết các chế độ chính sách cho người lao động. - Bộ phận hành chính: Giải quyết các hoạt động hỗ trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh toàn Công ty về mặt hành chính. - Bộ phận cơ khí: Có nhiệm vụ tạo phôi ban đầu như: dập đinh ra các khuôn mẫu (phôi, ke, khoá) hay đúc tay nằm nhón đồng thoi để tiện lõi khoá. Nếu bộ phận giản đơn thì bộ phận có thể hoàn chỉnh như bản lề, chốt cửa. Ngoài ra, phân xưởng cơ khí còn làm theo đơn đặt hàng như: giàn giáo, cửa xếp, cửa hoa. Với số công nhân không lớn trong phân xưởng nhưng đây là đơn vị mạnh nhất tạo ra giá trị sản lượng lớn nhất trong Công ty. - Bộ phận cơ điện: Chịu trách nhiệm sửa chữa thường xuyên, trùng tu máy móc, thiết bị trong Công ty cả phần cơ và phần điện. Phân xưởng này đảm bảo cho các phân xưởng khác làm việc liên tục không bị gián đoạn bởi máy móc, thiết bi hay đường điện. Phân xưởng còn chịu trách nhiệm chế tạo khuôn mẫu ke, bản lề khoá. Đây là nhiệm vụ khá quan trọng và phức tạp đòi hỏi độ chính xác để đảm bảo khi đúc chi tiết khoá có thể khớp nhau được. - Bộ phận lắp ráp: 22 Có nhiệm vụ lắp ráp toàn bộ các loại khoá từ các bộ phận, chi tiết thành phẩm hoàn chỉnh. - Bộ phận mạ: Mạ quai khoá, ke bản lề, chốt cửa. Công nghệ mạ đòi hỏi phải có kỹ thuật cao và theo quy trình công nghệ nghiêm ngặt để đảm bảo sản phẩm mạ có độ bền và độ bóng cao. Các phân xưởng này chịu sự điều khiển của quản đốc phân xưởng và Phó giám đốc kỹ thuật chỉ đạo trực tiếp. Loại hình sản xuất của Công ty là kiểu chế biến liên tục, quy mô sản xuất thuộc loại vừa, sản phẩm có thể tạo ra cùng trên một quy trình sản xuất theo cùng một phương pháp công nghệ song giữa các loại, các thứ thành phẩm có những đặc tính khác nhau về kích cỡ, yêu cầu kỹ thuật cả về mặt mỹ thuật. Trang bị kỹ thuật của Công ty chủ yếu là những máy móc cũ được Ba Lan trang bị từ khi mới thành lập: máy tiện, máy đập, máy bào. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế Công ty đã trang bị thêm một số máy móc, sửa chữa một số máy móc cũ cho phù hợp với yêu cầu tạo ra sản phẩm mới. 2.2. Lao động Trong những năm gần đây trước sự phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trường, để có thể đáp ứng được tình hình sản xuất kinh doanh, Công ty khoá Minh Khai đã tiến hành sắp xếp và bố trí lại đội ngũ lao động, nhằm tạo ra được một đội ngũ lao động không những giỏi một nghề mà còn biết được nhiều nghề, đồng thời tạo ra một sự thay đổi linh hoạt trong sản xuất kinh doanh để có thể đáp ứng được mọi yêu cầu của thị trường. Để làm được điều này hàng năm Công ty đã cho công nhân đi đào tạo thêm hay tổ chức các khoá thi nâng bậc với mục đích là nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. Hơn thế, với những người có tài và tâm huyết với nghề nghiệp đươc nhà máy kịp thời phát hiện và cho đi đào tạo thêm để trở thành cán bộ nòng cốt của Công ty. Nhờ vậy, trong những năm qua hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã có những nét thay đổi rõ rệt. Bảng số 1: Cơ cấu và chất lượng đội ngũ lao động (Nguồn: Thống kê lao động Phòng kế hoạch năm 2001) 23 Danh mục Đơn vị Tổng số % Tổng số lao động có trong danh sách Người 340 100 - Số lao động nữ Người 160 - Số lao động nam Người 180 I. Số lao động có trình độ Chuyên môn kỹ thuật + Có trình độ từ đại học, cao đẳng trở lên - Lao động nam 41 12,06 - Lao động nữ 15 4,41 + Có trình độ trung học chuyên nghiệp 27 7,94 - Lao động nam 17 5,24 - Lao động nữ 10 2,7 + Công nhân kỹ thuật 272 80 - Lao động nam 146 42,94 - Lao động nữ 126 37,06 II. Lao động trực tiếp 1. Trình độ - Bậc nghề 1/7 48 14,12 - Bậc nghề 2/7 67 19,70 - Bậc nghề 3/7 47 13,82 - Bậc nghề 4/7 37 10,88 - Bậc nghề 5/7 55 16,18 - Bậc nghề 6/7 14 4,12 - Bậc nghề 7/7 4 1,18 2. Số lao động trong các ngành nghề + Công nhân xây dựng 6 1,76 - Lao động nữ 3 0,88 - Lao động nam 3 0,88 + Công nhân lắp máy 0 + Công nhân cơ khí 261 76,76 - Lao động nữ 135 39,7 - Lao động nam 126 37,06 + Công nhân kỹ thuật khác 0 + Lao động phổ thông 5 - Lao động nữ 5 1,47 - Lao động nam 0 0 24 III. Số lao động trong các ngành Lao động gián tiếp 1. Lãnh đạo quản lý 19 5,59 - Lao động nữ 5 1,47 - Lao động nam 14 4,12 2. Làm công tác KH-KT 15 4,41 - Lao động nữ 0 0 - Lao động nam 15 4,41 3. Làm công tác chuyên môn 4 1,18 - Lao động nữ 4 1,18 - Lao động nam 0 0 4. Làm công tác nghiệp vụ 18 5,29 - Lao động nữ 13 3,82 - Lao động nam 5 1,47 5. Làm công tác hành chính 8 2,35 - Lao động nữ 1 0,29 - Lao động nam 7 2,06 6. Làm công tác khác 4 1,18 - Lao động nữ 3 0,88 - Lao động nam 1 0,29 IV. Chia lao động theo nhóm tuổi 340 100 - Từ 40 tuổi trở xuống 277 72,65 - Từ 41 tuổi – 50 tuổi 79 23,23 - Từ 51 tuổi trở lên 14 4,12 3. Máy móc thiết bị và quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm 3.1. Máy móc thiết bị. Công ty khoá Minh Khai thành lập được tương đối lâu, máy móc thiết bị của Công ty được nhập từ nhiều nước như Liên Xô cũ, Tiệp Khắc, Ba Lan, Trung Quốc. Các loại máy móc của Công ty tương đối lạc hậu, đã trải qua thời gian sử dụng tương đối dài, có thiết bị đã bị khấu hao hết từ lâu nhưng vẫn còn được sử dụng do đó đã gây ô nhiễm môi trường xung quanh và làm ảnh hưởng tới sức khoẻ của công nhân. 25 Việc nâng cao chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào đổi mới trang thiết bị máy móc. Qua bảng kê máy móc thiết bị dưới đây, chúng ta sẽ hiểu kỹ hơn về tình hình máy móc thiết bị của Công ty khoá Minh Khai. Biểu số 2: Biểu kê các máy móc, thiết bị của Công ty (Nguồn: Phòng kế hoạch năm 2000) Stt Tên máy móc thiết bị Nước sản xuất Công suất thiết kế Năm sử dụng Tình trạng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 Máy phay FHJ-9 Máy xọc 7a-420 Máy khoan bàn KDS-360 Khoan đứng WKA-40 Máy mài một đầu BBT-350 Máy khoan đứng 2a-125T Búa máy 160 Kg Máy tiện T6M16 Máy cuốn lò xo Bể mạ NIKEN (nhựa) Máy cưa cầu 85-72 Máy bơm lọc Máy TAZO Z51-2 Khoan bàn Z51-2 Tiệp Liên Xô Nhật Ba Lan Tiệp Liên Xô Bungary Việt Nam Việt Nam Việt Nam Liên Xô Hungary Ba Lan Trung Quốc 2,5 KW 1,5 KW 0,3 KW 4,67 KW 3 KW 3 KW 1000 lít 1,5 KW 0,2 KW 0,4 KW 1993 1996 1995 1974 1990 1996 1994 1987 1990 1995 1996 1995 1974 1988 Đang sử dụng Đang sử dụng Đang sử dụng Hỏng Đang sử dụng Đang sử dụng Đang sử dụng Đang sử dụng Đang sử dụng Đang sử dụng Đang sử dụng Đang sử dụng Đang sử dụng Đang sử dụng 3.2. Về quy trình công nghệ Hầu hết các quy trình công nghệ sản xuất ở Công ty khoá Minh Khai trước đây là đơn giản, quá trình sản xuất sản phẩm phải trải qua các phân xưởng. Nhưng do bố trí hợp lý giữa các phân xưởng nên công tác tổ chức sản xuất và quản lý chất lượng sản phẩm tương đối thuận tiện. Phôi tiện, chi tiết bán thành phẩm gia công thuê ngoài được nhập vào kho vật tư, từ kho vật tư xuất phôi tiện, các chi tiết bán thành phẩm xuống phân xưởng cơ khí, sau khi gia công xong được nhập vào kho thành phẩm nếu sản phẩm đó xuất bán. Cũng ở công đoạn này, sản phẩm nào bị hỏng thì được nhập lại kho vật tư. Từ kho bán thành phẩm được xuất xuống phân xưởng mạ, phân 26 xưởng lắp ráp. Số sản phẩm ở phân xưởng mạ được nhập vào kho chi tiết hoàn chỉnh và từ kho chi tiết hoàn chỉnh xuống phân xưởng lắp ráp hoàn chỉnh rồi được nhập vào kho thành phẩm xuất bán. Quy trình công nghệ sản xuất khoá của Công ty được tóm tắt theo sơ đồ sau: Sơ đồ 2: Quy trình sản xuất khoá của Công ty khoá Minh Khai 4. Về nguyên vật liệu chính mà Công ty đã và đang sử dụng. Trong thời kỳ bao cấp, Công ty được cung cấp nguyên vật liệu theo chỉ tiêu, sản xuất sản phẩm ra được phân bố tiêu thụ theo kế hoạch Nhà nước. Do vậy mà nguyên liệu sản xuất của Công ty không đồng bộ, không liên tục và không hợp lý, chẳng hạn có lúc nguyên liệu có trong kho rất nhiều, có lúc lại không đủ để sản xuất Sản phẩm của Công ty trong thời kỳ này chưa có đối thủ cạnh tranh, hơn nữa được Nhà nước giao kế hoạch tiêu thụ nên mặc dù sản Phôi tin Phân xng c khí Phân xng m Phân xng lp ráp hoàn chnh Kho bán thành phm Kho bán thành phm Kho thành phm Chi tit bán thành phm gia công Kho vt t 27 phẩm kém chất lượng vẫn tiêu thụ được. Do vậy, Công ty chưa chú trọng đến công tác chất lượng. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, tất cả các đơn vị sản xuất kinh doanh đều phải tự tìm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra cho mình, tự hạch toán kinh doanh do vậy việc tìm mua và theo dõi chất lượng nguyên vật liệu đầu vào được chú trọng và nó trở thành mắt xích đầu tiên để đảm bảo cho chất lượng sản phẩm sản xuất ra là tốt. Đối với Công ty khoá Minh Khai phần lớn nguyên vật liệu là mua ngoài hoặc thuê bên ngoài gia công do đó việc kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu cũng gặp không ít khó khăn trong khâu kiểm tra vật liệu trưóc khi nhập kho. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quy định cho mỗi loại sản phẩm riêng và công nghệ sản xuất lại có yêu cầu khác nhau về nguyên liệu mặc dù cùng sử dụng một loại nguyên liệu. Cùng làm khoá nhưng thép để làm khoá MK 10 đòi hỏi phải có hàm lượng sắt pha tạp ít nhưng thép để làm khoá MK10a lại cần có hàm lượng sắt pha tạp cao hơn. Từ tình hình trên ta thấy nguyên vật liệu ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm. 5. Sản phẩm và thị trường Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường các Công ty tự chủ hạch toàn kinh doanh. Công ty khoá Minh Khai cũng phải tìm thị trường đầu vào cho quá trình sản xuất và tìm thị trường đầu ra cho qua trình tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm của Công ty khoá Minh Khai như: khoá MK10C, khoá MK10E gang, khoá MK 10N gang, ke đen 120, ke mạ 160, bản lề cối mục 160, chốt cửa..., đã có mặt trên khắp các tỉnh miền Bắc, miền Trung và miền Nam nhưng thị trường tiêu thụ chủ yếu của Công ty là ở miền Bắc. cơ chế thị trường tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển, ở lĩnh vực nào có lợi nhuận, có thị trường là có cạnh tranh và ngày càng quyết liệt, đặc biệt trong cùng loại sản phẩm, chẳng hạn khoá cửa MK 10A trước đây chỉ có Công ty khoá Minh Khai sản xuất nay đã có nhiều Công ty trong và ngoài nước sản xuất loại khoá này. Do đã có uy tín trên thị trường nên sản phẩm của Công ty tiêu thụ khá tốt. 28 Các sản phẩm khoá của Công ty và của các Công ty khác đang cạnh tranh với nhau và cũng phải cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập. Do đó Công ty chỉ tồn tại và phát triển được khi chất lượng sản phẩm ngày một nâng cao, mẫu mã, chất lượng và đặc điểm của thị trường tiêu thụ các loại sản phẩm của Công ty cùng với sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ, đòi hỏi việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của Công ty luôn đảm bảo, giữ vững và nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu của thị trường. Các loại khoá, chốt của là mặt hàng thiết yếu của mỗi gia đình, cơ quan, xí nghiệp. Trong mỗi gia đình khoá đã có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ an toàn. Những sản phẩm của Công ty đã phần nào thoả mãn nhu cầu trên của mọi gia đình, cơ quan, xí nghiệp. Ngày trước, khi nói đến sản phẩm khoá là người ta nghĩ ngay đến khoá Minh Khai. Nhưng mấy năm gần đây, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã có nhiều đơn vị sản xuất, gia công loại sản phẩm này. Chỉ riêng địa bàn Hà Nội đã có tới 3 Công ty sản xuất khoá, mặt khác các sản phẩm khoá ngoại nhập tràn lan trên thị trường Việt Nam, các sản phẩm được sản xuất rất phong phú, đa dạng về chủng loại và mẫu mã, chất lượng bảo đảm và giá cả linh hoạt đang là thách thức rất lớn đối với Công ty khoá Minh Khai, sản phẩm của Công ty là sản phẩm cơ khí có thời gian sử dụng dài, do đó yêu cầu về mặt chất lượng là rất quan trọng. 29 Biểu số 3: Số lượng sản xuất từng mặt hàng của Công ty trong 3 năm gần đây (Nguồn: Phòng kinh doanh) Stt Tên sản phẩm Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Khoá MK 10 Khoá MK 10a Khoá MK 10C Khoá MK 10E gang Khoá dây xe đạp Ke đen 120 Ke mạ 120 Ke đen 160 Ke mạ 160 Ke inox 120 Bản lề cối 160 Bản lề mạ 160 Chốt mạ 110 Chốt mạ 200 Cremon 23K Cái Cái Cái Cái Cái Cái Cái Cái Cái Cái Cái Cái Cái Cái Cái 50 000 45 000 14 000 52 000 7 000 14 000 14 000 14 000 12 000 5 000 50 000 50 000 13 500 10 000 4 500 75 000 25 000 14 500 65 000 7 500 16 000 16 000 16 000 13 500 6 000 53 000 53 000 15 000 10 000 7 000 55 000 20 000 20 000 47 000 8 200 20 000 20 000 20 000 18 000 6 500 55 000 55 000 15 000 12 500 6 500 30 6. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty trong nhũng năm gần đây: Biểu số 4: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu tổng hợp của Công ty (trích từ báo cáo kết quả kinh doanh của phòng kế hoạch) Số năm Giá trị tổng sản lượng Doanh thu Sản phẩm chủ yếu % hoàn thành kế hoạch Giá trị (tr) % hoàn thành kế hoạch Giá trị (tr) % hoàn thành kế hoạch Giá trị (tr) 1997 129 447 94,4 -390 88,27 -26641 1998 110 777 110,7 990 107,3 11725 1999 99,7 -39 69,3 -552 72,7 -121144 2000 92,7 -923 93,2 -1019 99,8 -834 2001 112 780 112 1000 110,5 19846 Trong năm 1997 và năm 1998, giá trị tổng sản lượng của công ty vượt mức kế hoạch do trong thời gian này có nhận thêm lao động vào làm việc, do máy móc thiết bị của Công ty mới được thay thế để đưa vào sản xuất và trong thời gian này Công ty được bộ xây dựng giao kế hoạch phải phát triển Công ty theo chiều rộng. Tuy sản lượng có tăng lên nhưng doanh thu trong 2 năm vẫn không đạt được yêu cầu mà Công ty đề ra. Những năm 1999 và năm 2000 giá trị tổng sản lượng giảm so với kế hoạch đề ra, cụ thể năm 1999 chỉ đạt có 99,7% so với kế hoạch, năm 2000 đạt 92,7%. Nguyên nhân dẫn đến việc không hoàn thành kế hoạch là do yêu cầu kế hoạch trong hai năm tăng lên. Do các sản phẩm tồn kho của các năm trước nhiều. Nhưng năm 2001 giá trị tổng sản lượng tăng lên so với kế hoạch đề ra, đây mà năm mà Công ty làm ăn phát đạt. Doanh thu của Công ty vượt mức kế hoạch 12%. Đạt được kết quả trên là do Công ty đã điều chỉnh lại kế hoạch sản xuất, đây là một biểu hiện tốt mà Công ty cần phát huy. 31 Biểu số 5: Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu giữa các năm của Công ty. (Nguồn: Trích từ báo cáo từ kết quả kinh doanh-Phòng Kinh doanh tổng hợp) Stt Các chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 so với 1998 Năm 2000 so với 1999 Năm 2001 so với 2000 % Thực hiện Tăng thêm % Thực hiện Tăng thêm % Thực hiện Tăng thêm 1 2 3 Giá trị tổng sản lượng Doanh thu Các loại sản phẩm Tr Tr Cái 280.3 130.8 130,1 5860 2213 60364 154.7 154.9 53.14 0 4372 5162 53140 138.5 126.1 140.2 2175 1411 50700 Nhìn chung, giá trị tổng sản lượng của Công ty trong 2 năm 1998 và 1999 tăng lên, cụ thể tăng là 280,3% giá trị tổng sản lượng và tăng thêm một lượng là: 5.860.000.000 đồng. Doanh thu tăng 30,8%. Các sản phẩm của Công ty cũng tăng lên cụ thể tăng 30,1% tương ứng là 60.364 cái. Trong năm 1999 doanh thu của Công ty cũng tăng lên tương đối với sản phẩm làm ra của Công ty. Nhưng trong năm 1999 tốc độ tăng giá trị tổng sản lượng nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng số lượng sản phẩm và tốc độ doanh thu. Điều đó cho ta thấy trong năm 1999 sản phẩm của Công ty làm ra tốc độ tiêu thụ sản phẩm còn chậm và điều này có nghĩa lượng thành phẩm tồn kho trong năm 1999 là khá nhiều làm cho nguồn vốn lưu động của Công ty bị ứ đọng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tốc độ tiêu thụ sản phẩm của Công ty lại chậm hơn so với tốc độ tăng giá trị sản lượng là do mấy yếu tố sau đây: - Trong thời gian này, do Công ty đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị mới nên làm cho tốc độ tăng năng suất lao động tăng lên. Trên thị trường không những chỉ có sản phẩm của Công ty mà còn có sản phẩm của Công ty khác như Công ty khoá Việt Tiệp. Đặc biệt phải cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Một phần do khâu tiêu thụ sản phẩm của Công ty còn yếu. - Năm 1999, Công ty đã rút kinh nghiệm từ năm trước và đã chú trọng vào khâu sản xuất và khâu tiêu thụ sản phẩm, lập ra kế hoạch sản xuất hợp lý. Trong 32 năm này, sản phẩm của Công ty đã có mặt trên thị trường niềm Nam và miền Trung. Do vậy kế hoạch sản xuất, tiêu thụ hợp lý nên năm 1999, giá trị tổng sản lượng tăng 54,7% ứng với 4.372 triệu đồng. Doanh thu của Công ty tăng lên 54,9% tương đương với 5162 triệu đồng. - Năm 2000, giá trị tổng sản lượng năm này làm giảm đi so với giá trị tổng sản lượng năm 1999 cụ thể là giảm đi 7,3% làm cho giá trị tổng sản lượng giảm đi một phần tương ứng là 932 triệu đồng từ đó kéo theo doanh thu đã giảm đi 562 triệu đồng. Nguyên nhân của sự giảm đó là do người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi chất lượng cao và mẫu mã đẹp. Do sự biến động tài chính của các nước trong khu vực đã làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty trong nước. Sang năm 2001, giá trị tổng sản lượng của Công ty tăng 38,5%, doanh thu tăng 26,1%, số lượng sản phẩm tăng lên 40,2% tốc độ tăng số lượng sản phẩm tăng nhanh hơn tốc độ tăng giá trị tổng sản lượng, tốc độ tăng doanh thu. Đây là một biểu hiện tốt của Công ty vì sản phẩm của Công ty sản xuất ra tiêu thụ nhanh làm cho số vòng luân chuyển vốn tăng lên, doanh thu tăng. II. khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá minh khai trong những năm qua. 1. Sản phẩm và chất lượng sản phẩm. Sản phẩm và chất lượng sản phẩm là công cụ cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Nhìn chung, thị trường khóa ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng cả về chất lượng lẫn chủng loại. Sản phẩm khoá các loại thuộc loại sản phẩm cơ khí nên đánh giá chất lượng sản phẩm phải dựa trên các chỉ tiêu độ bền, độ an toàn. Ngoài ra chúng ta phải dựa vào cảm quan để đánh giá. Nếu tất cả chỉ tiêu đó đạt kết quả yêu cầu thì sản phẩm mới xem là đạt yêu cầu về chất lượng. Sản phẩm khoá của Công ty khoá Minh Khai trong thời kỳ trước được sản xuất ra với tiêu chuẩn do cấp trên quy định. Sản phẩm đã có tiếng trên thị trường được người tiêu dùng ưa thích, chất lượng tốt và gồm nhiều loại khoá như khoá MK 10, khoá MK 10A, khoá MK 10C, bản lề, ke các loại vv...,thành quả đó cũng xuất phát từ nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan. 33 Thứ nhất, do trong thời gian này, máy móc, thiết bị của công ty còn mới, còn tốt, nguyên vật liệu được bao cấp hết, các nguyên vật liệu chủ yếu là nhập ngoại nên chất lượng tốt. Đây là nguyên nhân chính trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm trong thời gian này. Vì vậy trong quá trình sản xuất kinh doanh, ngoài những chỉ tiêu kế hoạch về sản lượng, Công ty còn đạt mức chỉ tiêu cụ thể về chất lượng sản phẩm. Thứ hai, thời kỳ này trên thị trường chưa có nhiều sản phẩm khoá của các Công ty sản xuất khác, chưa có khoá ngoại nhập. Thị trường chưa có sức cạnh tranh nên sản phẩm của Công ty được ưa chuộng và tiêu thụ với khối lưoựng lớn. Những năm chuyển sang nền kinh tế thị trường vào cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 do máy móc, thiết bị xuống cấp, cơ chế lại chuyển đổi, Công ty phải tự hạch toán kinh doanh, không còn tồn tại chế độ bao cấp như trước. Nguyên liệu không được cung cấp đầy đủ nhất là những phụ kiện quan trọng. Công ty chưa thích nghi được với cơ chế mới nên có sự trì truệ trong sản xuất vàquản lý. Chất lượng sản phẩm sản xuất ra không đảm bảo yêu cầu, ngày càng bị giảm sút.b Mặt khác, các đối thủ cạnh tranh bắt đầu vươn lên làm cho sản xuất của công ty khoá Minh Khai lại càng khó khăn hơn. Để khắc phục những nguyên nhân trên, trong những năm gần đây, công ty đã nắm bắt kịp thời với nhịp độ và cơ chế của nền kinh tế thị trường, từng bước hoà nhập nvới sự chuyển đổi. Nhận thấy sự tụt hậu của mình cùng với những nguyên nhân đã nêu, Công ty đã đầu tư, chú trọng nhiều vào phát triển sản xuất bầng công tác đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm để dần lấy lại uy tín của công ty trên thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, Công ty đã sửa chữa, nâng cấp máy móc, thiết bị hiện có và mua sắm thêm một số dây chuyền sản xuất tiên tiến của các nước, mở rộng danh mục các mặt hàng bằng các sản phẩm mới; củng cố, mở rộng thị trường nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất bằng cách ký hợp nđồng với nhiều bạn hàng để đảm bảo cung cấp đầy đủ, đúng loại nguyên liệu theo yêu cầu của sản xuất. Củng ccố và hoàn thiện hệ thống kiểm tra quản lý chất lượng sản phẩm. 34 Biểu số 6: Bảng theo dõi sản phẩm- chính phẩm- phế phẩm của các loại khoá từ năm 1997 đến năm 2001 (Nguồn:Trích từ báo cáo của phòng Kế hoạch) Năm Số lượng (nghìn cái) Chính phẩm (nghìn cái) Số lượng phế phẩm (cái) Tỷ lệ phế phẩm % 1997 200 359 199 902 457 0,228 1998 260 725 260 286 439 0,168 1999 45 000 434 614 386 0,088 2000 373 669 373 256 413 0,011 2001 400 000 399 768 232 0,058 Trong thời gian qua, bằng những nỗ lực to lớn trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty. Thể hiện ở việc nghiên cứu cải tiến công nghệ, tìm nguyên liệu để thay thế khi thị trường nguyên liệu khan hiếm mà vẫn đảm bảo duy trì tiêu chuảan chất lượng ở mức tối đa, chất lượng sản phẩm khoá đã được nâng lên, đồng thời tỷ lệ phế phẩm đã giảm xuống. Qua bảng theo dõi trên, ta thấy đã giảm được tỷ lệ khoá không đạt chất lượng qua từng năm, tăng tỷlệ khoá chính phẩm. Điều đó chứng tỏ chất lượng của các loại khoá được chú trọng nâng cao. Tuy nhiên, tỷ lệ khoá thứ phẩm vẫn còn cao mặc dù tỷ lệ đó đã giảm qua các năm. Công ty cần chú trọng hơn nữa để giảm tỷ lệ khoá thứ phẩm xuống thấp hơn. ta hãy xem xét thực tỷạng chất lượng của một số sản phẩm tiêu biểu sau: - Thực trạng chất lượng của khoá 10E gang: Khi nhắc tới Công ty khoá Minh Khai, từ trước đến nay mọi người đều nghĩ ngay tới sản phẩm khoá Minh Khai. Khoá thân gang của Công ty ngay từ những năm đầu tiên đã chiếm được sự mến mộ của khách hành bởi chất lượng của nó. Cho đến bây giờ, khoá thân gang vẫn là chủ yếu và trở thành sản phẩm 35 cao cấp của Công ty. So với thời kỳ trước, khoá 10E gang bây giờ đa dạng và phong phú hơn nhiều về mẫu mã, chủng loại, chất lượng... Chất lượng khoá 10E gang trước tiên phụ thuộc vào chất lượng nguyên liệu đưa vào sản xuất. Để khắc phục tình trạng tiêu hao nguyên liệu trong quá trình sản xuất, giảm lượng thứ phẩm đến mức tối thiểu, Công ty đã tổ chức khuyến khích công nhân sản xuất đề ra sáng kiến cải tiến kỹ thuật và thiết bị. Cán bộ của Công ty đã nhiệt tình nghiên cứu, chế thử để tìm ra giải pháp tốt và bước đầu thấy khả quan. - Thực trạng chất lượng khoá MK 10A: Khoá MK 10A thuộc loại khoá truyền thống của Công ty. Khoá được sản xuất từ nhiều năm trước và số lượng sản xuất ra chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng khoá của Công ty, vào khoảng 33.5 % so với sản lượng khoá các loại. Trong thời gian trước, số lượng khoá này còn cao hơn. Điều đó cho thấy, để có thể tiêu thụ trên thị trường và được người tiêu dùng chấp nhận, chất lượng khoá MK10A đã phải cố gắng đến mức nào. Tuy nhiên, trên thực tế so với tiêu chuẩn hiện nay và cả trước đây,chất lượng khoá có phần nào bị giảm sút, chưa đảm bảo đúng chất lượng đặt ra. Trên thực tế, nguyên liệu làm khoá tuy đã được lựa chọn song vẫn không tránh khỏi sự không ổn định, vẫn có sự thay đổi luôn do khả năng cung ứng của thị trường nguyên liệu. Mặt khác, phụ liệu đưa vào sản xuất cũng bị thay đổi theo, do đó ảnh hưởng tới chất lượng khoá làm ra. Như chúng ta đã biết, công nghệ sản xuất khoá của Công ty khoá Minh Khai là công nghệ sản xuất đã cũ, máy móc, thiết bị có cái đã khấu hao hết nhưng vẫn chưa được thay thế; mặt khác trong quy trình sản xuất khoá vẫn có một số khâu làm thủ công như tạo rãnh, răng chìa khoá, lắp bi, lò xo khoá...Do có khâu làm thủ công cho nên không thể tránh khỏi những sai sót do công nhân gây ra như thực hiện không đúng kỹ thuật lao động,do chạy theo năng suất mà không chú ý tới chất lượng của khoá. Khâu lắp ráp hoàn chỉnh làm thủ công, đây là một nguyên nhân gây khó khăn lớn trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm. Để thấy được một cách cụ thể hơn tình hình chất lượng sản phẩm khoá MK10, chúng ta có thể xem xét bằng số liệu cụ thể sau: 36 Biểu số 7: Bảng so sánh chất lượng thực tế với chất lượng tiêu chuẩn của khoá MK10 từ năm 1997 đến năm 2001. (Nguồn: số liệu do phòng kỹ thuật cung cấp) Năm Tiêu chuẩn (%) Thực tế (%) Chính phẩm Phế phẩm Chính phẩm Phế phẩm Tổng số Trong đó Tổng số Trong đó Hỏng scđ Hỏng kscđ Hỏng scđ Hỏng kscđ 1997 91.5 8.5 5 3.5 89.65 10.35 7.5 2.85 1998 91.5 8.5 5 3.5 91.4 8.6 7.1 1.5 1999 91.5 8.5 5 3.5 92.9 7.1 5.9 1.2 2000 91.5 8.5 5 3.5 94.5 5.5 5 0.5 2001 91.5 8.5 5 3.5 93.75 6.25 5.63 0.62 Qua bảng theo dõi trên, ta thấy được chất lượng sản phẩm của Công ty ngày càng được nâng cao. Như vậy Công ty đã giảm được tỷ lệ khoá không đạt chất lượng qua từng năm, tăng tỷ lệ chính phẩm, hạ mứ phế phẩm hỏng không thể sửa chữa được xuống thấp hơn mức tiêu chuẩn, điều đó chứng tỏ chất lượng khoá MK nói chung đã được chú trọng nâng cao qua từng năm. Đạt được kết quả trên là bằng những nỗ lực to lớn của công nhân các phân xưởng, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý đã cố gắng khắc phục những nhược điểm và khó khăn trong sản xuất về thiết bị, nguyên liệu để ngày một nâng cao chất lượng khoá lên để đạt tới chất lượng tối đa. 2. Giá bán. Đối với mặt hàng tiêu dùng, ngoài yếu tố chất lượng và mẫu mã sản phẩm thì giá cả cũng là yếu tố quan trọng để đi đến quyết định mua của khách hàng,đặc biệt trong điều kiện mức thu nhập của người dân Việt Nam còn thấp. Công ty khóa Minh Khai đã sử dụng giá bán làm công cụ cạnh tranh chủ yếu đối với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. để sử dụng được công cụ này thì giá bán sản phẩm của Công ty phải thấp hơn tương đối so với sản phẩm của đối 37 thủ, đồng thời vẫn phải đảm bảo cho doanh nghiệp có lãi, đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Các biện pháp để cạnh tranh về giá là làm giảm giá thành đơn vị sản phẩm và giảm các chi phí thưoưng mại của hàng hoá bán ra. Trong những năm qua, Công ty khoá Minh Khai đã áp dụng nhiều biện pháp để hạ giá thành sản phẩm như: tiết kiệm nguyên vật liệu, thu hồi phế liệu và sản phẩm hỏng...Đối với nguyên vật liệu, Công ty đã cố gắng tìm nguồn cung ứng ổn định và giá cả hợp lý nhất. Công ty thường ký hợp đồng mua hàng trực tiếp với các doanh nghiệp sản xuất các loại nguyên vật liệu ở trong nước như: sắt, thép, đồng, fero...Với nguyên vật liệu nhập ngoại như phôi thép, chất đồng cứng...,Công ty đã có quan hệ hợp tác lâu dài với một số doanh nghhiệp của các nước như Thái Lan, Trung Quốc, Italia... Lựa chọn người cung ứng hợp lý, Công ty sẽ mua được nguyên vật liệu với giá rẻ và ổn định. Với các nguyên vật liệu trong nước có xu hướng ổn định, Công ty nên dự trữ ở mức vừa đủ đảm bảo cho sản xuất liên tục. Với phương pháp dự trữ này, Công ty đã tiết kiệm được chi phí dự trữ, đồng thời làm giảm mức độ hư hỏng, hao hụt, thất thoát nguyên vật liệu. Trong sản xuất, các sản phẩm hỏng dược sử dụng lại hoạc được sử dụng để sản xuất các loại sản phẩm khác. Ví dụ: phần vỡ của trục khoá sẽ được sử dụng lại qua quá trình tái sản xuất để hình thành bi khoá, chìa khoá hỏng cũng được đưa vào nấu chảy để tái sản xuất lại... Đối với chi phí nhân công trong giá thành sản phẩm, hình thức trả lương theo sản phẩm cho công nhân đã góp phần tăng năng suất lao động trong ca sản xuất, hạn chế được thời gian máy chạy không tải làm giảm chi phí cố định. Đồng thời, Công ty còn xác định số lượng lao động tối ưu cho từng loại dây chuyền trong ca, những dây chuyền sản xuất hiện đại chủ yếu là tự động được bố trí ít lao động so với các dây chuyền lạc hậu hơn. Cụ thể với việc bố trí hợp lý trên, năng suất lao động năm 2001 đã tăng từ 20-25 % so với năm 2000. Ngoài ra, để giảm chi phí gián tiếp, Công ty còn sử dụng biện pháp làm giảm chi phí thương mại cho hàng hoá bán ra, góp phần hạn chế sự tăng giá ở các khâu bán lẻ và khâu trung gian. Chi phí thương mại được phát sinh ở lĩnh vực vận chuyển được hạn chế bằng việc Công ty sử dụng các loại phương tiện sẵn có chở hàng hoá đến các đại lý ở gần,thay vì thuê vận chuyển với chi phí caohơn. Đối với các đại lý hay những người bán buôn ở xa, công ty khuyến 38 khích họ đưa phương tiện đến công ty trực tiếp nhận hàng. Các hoạt động quảng cáo, khuyến mại, khuyếch trương thì hầu như chưa được Công ty sử dụng. Bằng các biện pháp hạ giá thành sản phẩm vừa nêu, sản phẩm của Công ty khoá Minh Khai không ngững có giá thành thấp mà còn có chất lượng cao. Bên cạnh đó, để có một mức giá bán phù hợp với mức thu nhập của khacks hàng đồng thời cũng để thực hiện vấn đề cạnh tranh về giá đối với các đối thủ cạnh tranh khác thì Công ty đã tiến hành phân loại giá cả trên cơ sởnghiên cứu trên cơ sở giá bán của các sản phẩm cùng loại hiện có trên thị trường đồng thời thống nhất ý kiến của các phòng ban dựa trên tình hình thực tế, đặc biệt là ý kiến của Ban giám đốc Công ty. Do đó, giá bán sản phẩm của Công ty khoá Minh Khai hiện nay được chia thành hai loại: giá bán buôn và giá bán lẻ đối với các sản phẩm như ke, cụm cremon... cho nên trong những năm vừa qua, trước sự biến động của nền kinh tế và sự thay đổi chính sách thuế của Nhà nước từ thuế doanh thu sang thúe VAT đã làm cho tình hình sản xuất của Công ty gặp không ít khó khăn. Nhưng để đảm bảo uy tín lâu dài và giữ được khách hàng, Công tyđã luôn cố gắng để giữ giá ở một mức độ ổn định. 39 Biểu số 8: Giá bán sản phẩm tại công ty khoá Minh Khai (áp dụng từ ngày 01/03/2002- số liệu do phòng Marketing cung cấp) Đơn vị tính: đồng T T Danh mục sản phẩm Đvt Giá thanh toán (bao gồm cả thuế VAT) I Khoá các loại cái 1 Khoá Mk 10 cái 10000 2 Khoá MK10A cái 10000 3 Khoá MK10A đồng cái 15700 4 Khoá MK10E gang cái 12000 5 Khoá MK10E2 gang cái 12000 6 Khoá MK10E đồng cái 15700 7 Khoá MK10K gang cái 15500 8 KHOá Mk10K đồng cái 35000 9 Khoá MK 10C đồng cái 44000 10 Khoá MK10N gang cái 34000 11 Khoá MK10N đồng cái 19000 12 Khoá MK10N nhôm cái 29000 13 KHoá MS gang cái 17000 14 Khoá MS đồng cái 29000 15 Khoá MS nhôm cái 17000 16 Khoá MK10M cái 23000 17 Khoá xe đạp dây cái 13000 18 Khoá MK10NS sơn TĐ cái 18900 19 Khoá MK 10CS sơn TĐ cái 11000 II Ke các loại: cái 20 Ke đen120 cái 900 21 Ke đen160 cái 1400 22 Ke mạ120 cái 1700 23 Ke mạ160 cái 2200 24 Ke160 mạ kẽm cái 3000 III Bản lề các loại: cái 25 Bản lề cối đen160 cái 2800 26 Bản lề gông đen160 cái 3200 27 Bản lề cối mạ160 cái 4800 28 Bản lề 100NO cái 15000 IV Chốt các loại: cái 29 Chốt mạ110 cái 2200 30 bhốt mạ200 cái 2600 40 31 Chốt cửa trong cái 4500 Biểu số 9: Giá bán sản phẩm tại công ty khoá Việt Tiệp (áp dụng từ 01/03/2002- số liệu do phòng Marketing cung cấp) Đơn vị tính: đồng T T Danh mục sản phẩm Đvt Giá bán (bao gồm cả thuếVAT) I Khoá các loại: cái 1 Khoá MK10 cái 10500 2 Khoá MK10A cái 10500 3 Khoá MK10A đồng cái 16000 4 Khoá MK10E gang cái 12000 5 Khoá MK10E2 gang cái 12500 6 Khoá MK 10E đồng cái 16200 7 Khoá MK10K gang cái 36000 8 Khoá MK10K đồng cái 44000 9 Khoá MK10N gang cái 34500 10 Khoá MK10N nhôm cái 20000 11 Khoá MK10N đồng cái 28000 12 Khoá MK10S gang cái 14000 13 Khoá MK10S đồng cái 19000 14 Khoá xe đạp dây cái 15500 15 Khoá MK10NS sơn TĐ cái 32000 II Ke các loại: cái 16 Ke đen120 cái 1000 17 Ke đen160 cái 1500 18 Ke mạ120 cái 1600 19 Ke mạ160 cái 2400 20 Ke160 mạ kẽm cái 3000 III Bản lề các loại: cái 21 Bản lề cối đen160 cái 3000 22 Bản lề gông đen160 cái 3200 23 Bản lề cối mạ160 cái 5000 24 Bản lề 100NO cái 15000 IV Chốt các loại: cái 25 Chốt mạ110 cái 2500 41 26 Chốt mạ200 cái 2800 27 Chốt cửa trong cái 5000 Qua số liệu thực tế về giá bán sản phẩm ta thấy giá bán sản phẩm của Công ty khoá Minh Khai là tương đối phù hợp với túi tiền của người tiêu dùng. So với khoá Việt Tiệp, giá của khoá Minh Khai có hạ hơn chút ít, điều đó không có nghĩa chất lượng của sản phẩm khoá Minh Khai kém hơn. Sở dĩ để có giá thành hạ là do sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của tập thể Ban lãnh đạo và đội ngũ CBCNV trong Công ty cùng với sự hoàn thiện của hệ thống chất lượng đã giúp Công ty hạ giá thành nhờ vào việc tiết kiệm một khối lượng lớn chi phí vật tư dư thừa, chi phí sản phẩm sai hỏng... mang lại cho Công ty nhiều lợi thế trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt đây là công cụ sắc bén sử dụng trong cnhj tranh. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay khi Việt Nam chuẩn bị tham gia Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CFBT) để thành lập khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA) vào năm 2003 và đang xúc tiến xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì có nghĩa là khó khăn đối với khoá Minh Khai cũng tăng lên gấp bội. Khi hàng rào thuế quan được xoá bỏ thì các loại hàng háo trong đó có khoá ngoại nhập sẽ tràn ngập trên thị trường Việt Nam với chất lượng cao và giá rẻ sẽ chèn ép các sản phẩm khoá trong nước. Điều đó cũng đặt ra một thách thức lớn đối với Công ty khoá Minh Khai trong thời gian tới. Công ty cần phải chú ý đầu tư, đổi mới dây chuyền công nghệ hiện có, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân đồng thời phải luôn theo dõi, dự báo mức biến động về giá cả trên thị trường đặc biệt là chính sách giá cả của các đối thủ cạnh tranh khác để có sự điều chỉnh thích hợp, mang lại hiệu quả cao. 3. Công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Trong vài năm gần đây do có sự mở cửa của nền kinh tế với sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực hay các tổ chức kinh tế khác như: AFTA, WTO đã làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế trong nước, đi kèm với nó là chất lượng đời sống được nâng lên. Người tiêu dùng cũng đòi hỏi cao hơn đối với những sản phẩm mà họ mua. Do vậy, sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất nhằm kéo khách hàng về phía mình đang ngày càng gay gắt và Công ty khoá Minh 42 Khai cũng không tránh khỏi vòng xoáy đó. Trước đây, sản phẩm của Công ty chủ yếu là cung cấp cho thị trường miền Bắc nhưng gần đây để kéo khách hàng gần hơn về phía mình hay mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và giành giật thị trường đối với các đối thủ cạnh tranh của mình như khoá Việt Tiệp, HTX khoá Trúc Sơn, các loại khoá ngoại nhập khác... Công ty khóa Minh Khai đang hướng sản phẩm của mình vào thị trường tiêu thụ miền Trung và miền Nam nhưng điều đáng lo ngại nhất là các Công ty, các HXT đã “nhái” lại mẫu mã, kiểu dáng của Công ty khoá Minh Khai với giá rẻ hơn đã làm ảnh hưởng rất lớn đến uy tín và khả năng tiêu thụ của Công ty. Tuy nhiên đó là thực trạng chung của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đầu của nền kinh tế thị trường, cho nên để có thể tồn tại buộc Công ty phải có những biện pháp hữu hiệu từ quá trình sản xuất cho đến việc bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm của mình để khách hàng có một cách nhìn đúng đắn về những sản phẩm đích thực của Công ty. Do đặc điểm sản phẩm của Công ty bao gồm các mặt hàng cơ khí công nghiệp và cơ khí tiêu dùng, vừa phục vụ cho ngành sản xuất công nghiệp, vừa phục vụ cho dân cư. Vì vậy khoá Minh Khai đã tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm đồng thời theo đồng thời cả 3 loại kênh: Sơ đồ 4: Hệ thống kênh tiêu thụ của Công ty khoá Minh Khai Qua sơ đồ trên, ta thấy Công ty đang áp dụng các loại kênh phân phối có độ dài khác nhau: Ngi tiêu dùng cui cùng K1 K2 K3 Công ty i lý bán buôn i lý bán l i lý bán l 43 - Kênh 1: là kênh phân phối trực tiếp từ Công ty đến người tiêu dùng. Sản phẩm bán qua kênh này hoàn toàn do 3 cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm được đặt trước cổng Công ty đảm nhiệm. Số lượng sản phẩm bán qua kênh này rất nhỏ. đối tượng mua hàng chủ yếu là người tiêu dùng trực tiếp. Khách hàng đến với cửa hàng giới thiệu sản phẩm là vì họ tin tưởng vào chất lượng sản phẩm cũng như uy tín của Công ty, đồng thời cửa hàng giới thiệu sản phẩm là nơi trưng bày các loại sản phẩm mới đầu tiên của Công ty. Như vậy các cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm của Công ty đã thực hiện 3 chức năng cơ bản là quảng cáo, yểm trợ và bán hàng, nó có vai trò quan trọng trong việc thai thác triệt để thị trường và sự gia nhập các sản phẩm mơí vào thị trường. - Loại kênh thứ hai mà Công ty đang áp dụng là kênh dài hơn. Sản phẩm tiêu thụ được chuyển qua đại lý bán lẻ rồi đến người tiêu dùng. Các trung gian của kênh này bao gồm một số đại lý quốc doanh, một số đại lý tư nhân và một số khách hàng tự do. Đại lý chủ yếu của kênh này được tập trung chủ yếu ở khu vực Hà Nội. Các đại lý bán lẻ tư nhân là những người có cửa hàng khá lớn hoặc các tư nhân buôn bán. Khách hàng tự do là khách hàng mua theo hợp đồng muabán có khối lượng nhỏ. Ngoài việc bán hàng cho Công ty, các đại lý ở kênh này còn cung cấp cho Công ty những thông tin về thị trường một cách nhanh nhạy, chính xác, đặc biệt là các thông tin về chất lượng, quy cách sản phẩm, loại sản phẩm được ưa chuộng. Từ đó Công ty đề ra những kế hoạch để ứng phó với những thay đổi từ thị trường. - Loại kênh thứ 3 mà Công ty đang áp dụng là kênh dài, sản phẩm từ Công ty đến người tiêu dùng phải qua 2 khâu trung gian là đại lý bán buôn và đại lý bán lẻ. Việc tổ chức kênh dài tương đối chặt chẽ, khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường lớn. Các đại lý bán buôn tư nhân là các đại lý trung thành nhất của Công ty. Các đại lý này khá nhanh nhạy với việc tìm hiểu nhu cầu thị trường và thâm nhập vào thị trường mới. Họ đã giúp cho Công ty đưa hàng hoá vào thị trường một cách thông suốt và nhịp nhàng. Các đại lý bán buôn tư nhân mở rộng thị trường và tăng số lượng khách hàng bằng cách cho họ hươngr một số ưu đãi về tài chính. Với những nỗ lạc của các đại lý, số lượng hàng hoá tiêu thụ ngày càng 44 nhiều và thị trường của Công ty được mở rộng. Nhờ đó uy tín của công ty được nâng cao, sản phẩm trở lên nổi tiếng hơn trên thị trường. Với việc áp dụng 3 loại kênh phân phối trên, Công ty khoá Minh KIhai đã có được thị trường tiêu thụ rộng khắp cả nước. ở kênh tiêu thụ trực tiếpcó khối lượng hàng hoá tiêu thụ chiếm khoảng 15%, kênh ngắn (kênh 2) chiếm khoảng 60%, còn lại kênh dài (kênh 3) chiếm khoảng 25%. Dưới đây là bảng số liệu về tình hình tiêu thụ sản phẩm trong 2 tháng đầu năm 2002 của Công ty khoá Minh Khai. Biểu số 10: Tình hình tiêu thụ sản phẩm trong 2 tháng đầu năm 2002 (Nguồn: số liệu do phòng Marketing cung cấp) Tên sản phẩm Đv Tháng1 Tháng2 I. Khoá các loại: cái 1. Khoá Mk10 2346 2784 2. Khoá Mk 10A 822 349 3. Khoá Mk 10A đồng 22 0 4. Khoá MK 10E 3936 3157 5. Khoá MK10N 4560 4589 6. Khoá MK10N đồng 4906 805 7. Khoá MK 10S đồng 537 402 8. Khoá xe máy 82 305 0 9. Khoá MK 10T 50 510 10. Cụm ổ 14E 1500 256 II. Bản lề các loại: 11. Bản lề cối 160 1466 1038 12. Bản lề cối 160 mạ 950 3125 13. Bản lề gông 160 1450 1996 14. Bản lề 70 NO 1500 872 III. Chốt các loại: 15. Chốt 80 324 200 16. Chốt 110 mạ 173 341 17. Chốt 200 mạ 28 68 45 IV. Cremon: cụm 18. Cụm 23 AS 673 1757 19. Cụm 23 K 299 355 V. Thanh cài các loại: cái 20. Thanh cài mạ 0.5 m 33 201 21. Thanh cài mạ 1m 1102 1225 Biểu số 11: Tỷ trọng thị trường các vùng năm 2000- 2001 (nguồn: số liệu do phòng kế hoạch cung cấp) Stt Khu vực 2000 (%) 2001 (%) 1 Hà nội 40 40 2 Miền bắc 45 45 3 Miền trung 10 10 4 Miền nam 5 5 Qua bảng số liệu trên cho thấy các loại sản phẩm chủ yếu của Công ty hầu như được tiêu thụ ở thị trường phía Bắc mà tiêu biểu là thị trường Hà nội (40 %) . Các thị trường lân cận như Hải phòng, Nam định... mức tiêu thụ không lớn, luôn giữ vững sự ổn định về số lượng nhưng đối với thị trường miềm Trung và miền Nam thì sản phẩm tiêu thụ của Công ty còn rất khiêm tốn. điều đó chứng tỏ công tác phát triển thị trường tiêu thụ của Công ty vẫn chưa được rộng khắp, cụ thể là ở khu vực miền Trung và miền Nam, các sản phẩm của Công ty vẫn chưa được thâm nhập sâu. Đây có lẽ là một điểm yếu của Công ty. Để cụ thể hơn, chúng ta xem xét tỷ trọng thị trường của khoá Việt Tiệp và khoá Đông Anh trong hai năm gần đây. Biểu số 12: Tỷ trọng thị trường của khoá Việt Tiệp và khoá Đông Anh. (Nguồn: số liệu do phòng Marketing cung cấp) Việt Tiệp Đông Anh Khu vực 2000 (%) 2001 (%) Khu vực 2000 (%) 2001 (%) 46 Miền Bắc 45 45 Miền Bắc 70 65 Miền Trung 25 25 Miền Trung 30 30 Miền Nam 30 30 Miền Nam 0 5 Biểu số 13: Số lượng các đại lý chính thức của khoá Minh Khai và khoá Việt Tiệp. (Nguồn: số liệu do phòng Marketing cung cấp) Khu vực Minh Khai Việt Tiệp 2000 2001 2000 2001 Miền Bắc 10 15 17 20 Miền Trung 2 3 2 2 Miền Nam 0 3 4 6 Tổng 12 21 23 28 Dựa vào bảng trên cho thấy, số lượng cá đại lý của Việt Tiệp luôn lớn hơn của Minh Khai. Tuy nhiên, tốc độ tăng qua từng năm của Minh khai lại lớn hơn của Việt Tiệp, điều đó chứng tỏ trong những năm gần đây, Công ty khoá Minh Khai đã tập trung nhiều vào công tác xây dựng mạng lưới phân phối sản phẩm. Đối với Công ty khoá Việt Tiệp, là một Công ty có số lượng chủng loại hàng hoá và số lượng tiêu thụ hàng năm lớn hơn gấp nhiều anf so với khoá Minh Khai (số lượng sản phẩm khoá sản xuất ra hàng năm của Công ty khoá Việt Tiêpj vào khoảng 3- 4 triệu khoá các loại) thì việc Công ty này có số lượng các đại lý nhiều hơn là điều đương nhiên. Nếu như năm 2001, Công ty khoá Minh Khai chỉ có 21 đại lý thì Việt Tiệp đã có 28 đại lý. Điều đó chứng tỏ, cong ty đã đi sau khoá Việt Tiệp về xây dựng mạng lưới tiêu thụ và thâm nhập mở rộng thị trường. Do vậy, muốn đẩy nhanh sức phát triển và tốc độ tiêu thụ sản phẩm ở mức cao hơn nữa, Công ty cần quan tâm chú ý đến việc đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị máy móc hiện đại, đổi mới công nghệ sản xuất. Ngoài ra, còn phải 47 lập ra các chiến lược chung Marketing, thực hiện các hình thức quảng cáo, giới thiệu sản phẩm đến các vùng miền... Như vậy thì sản phẩm của Công ty mới có thể chiếm lĩnh trên khắp các thị trường toàn quốc, đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác kể cả hàng ngoại nhập. 4. Các hoạt động quảng cáo-tiếp thị, yểm trợ bán hàng. Công cụ cạnh tranh của Công ty khoá Minh Khai là chất lượng sản phẩm nên các hoạt động quảng cáo, tiếp thị khuyếch trương sản phẩm không được Công ty chú trọng. Các sản phẩm của Công ty không được người tiêu dùng biết đến thông qua các hoạt động quảng cáo. Trong khi đó Công ty khoá Việt Tiệp lại có hoạt động quảng cáo rất mạnh trên các phương tiện thông tin dại chúng như báo chí, đài phát thanh, truyền hình, thông qua các tờ rơi...điều đó đã làm cho người tiêu dùng biết nhiều hơn về các sản phẩm của Công ty. Cũng như khoá Việt Tiệp, Công ty khoá Minh Khai tham gia vào các hội chợ hàng năm như hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợ hàng công nghiệp với mục đích là giới thiệu sản phẩm và ký các hợp đồng đại lý. Mặc dù chi phí dành cho các hội chợ là không nhiều, chủng loại được trưng bày và giới thiệu không đa dạng nhưng Công ty đã ký được khá nhiều hợp đôngf với các đại lý trong những năm vừa qua. Số lượng các đại lý của Công ty cũng tăng rất nhanh. Về hoạt động này, các đối thủ của Công ty khoá Minh Khai cũng tỏ ra rất mạnh. Công ty khoá Việt Tiệp cũng tham gia hội chợ với quy mô lớn hơn, chủng loại sản phẩm được trưng bày và giới thiệu nhiều hơn và Công ty này cũng đã có những thành công trong việc ký kết các hợp đồng đại lý. Đặc biệt, Công ty khoá Việt Tiệp còn áp dụng nhiều hình thức khuyến mãi như giảm giá, chiết khấu cho khách hàng vùng sâu, vùng xa mua hàng với khối lượng lớn. Đây là một điều mà Công ty khoá Minh Khai cũng cần phải nghiên cứu và áp dụng . Bên cạnh đó,Công ty khoá Minh Khai cũng cần phải nghiên cứu và lựa chọn một phương tiện quảng cáo hữu hiệu phù hợp với khả năng tài chính hiện có nhưng lại đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, nhằm hướng người tiêu dùng vào sản phẩm của mình một cách nhanh chóng và có tính thuyết phục cao. 48 Ngoài ra, Công ty cũng nên sử dụng một số biện pháp yểm trợ bán hàng khác như gửi kèm phiếu dự thi cho khách hàng khi mua sản phẩm , trợ giá vận chuyển đối với các đơn vị mua hàng hoá với số lượng lớn, xây dựng chính sách bảo hành sản phẩm cho khách hàng. Nếu làm tốt được điều trên thì các sản phẩm của Công ty mới có thể đứng vững được trên thị trường. 5. Các công cụ cạnh tranh khác. 5.1. Cạnh tranh về phương thức thanh toán và chính sách phục vụ. Trong trường hợp hai Công ty cùng bán một loại sản phẩm tương tự nhau trên thị trường với cùng một mức giá thì điều kiện thanh toán có thể trở thành yếu tố quyết định đối với việc lựa chọn của người mua. Đối với các sản phẩm của Công ty, điều kiện thanh toán mà Công ty có thể áp dụng đối với khách hàng là người bán buôn, các đại lý, những người mua hàng với khối lượng lớn và mối quan hệ kinh doanh lâu dài với Công ty. áp dụng phương thức thanh toán ưu đãi đối với khách hàng nhằm đưa hàng hoá thâm nhập vào thị trường một cách nhanh chóng và nhịp nhàng là chiến lược đẩy của chiến lược chung Marketing. Như trên đã nói, hiện nay Công ty khoá Minh Khai có khoảng 20 đại lý trên cả 3 vùng miền được chia thành hai loại hình: các đại lý quốc doanh và các đại lý ngoài quốc doanh. Đối với các đại lý quốc doanh, Công ty luôn khuyến khích họ trả tiền ngay. Hình thức khuyến khích là cho hưởng tỷ lệ hoa hồng ưu đãi cho các đại lý. đồng thời Công ty cho phép đại lý thanh toán bằng các phương thức có lợi nhất, thanh toán bằng tiền mặt, bằng séc hoặc có thể chuyển khoản qua Ngân hàng. Đối với các đại lý tư nhân, công ty cho phép thanh toán chậm, tuy nhiên đối với phương thức trả chậm, Công ty quy định các khoản ưu đãi khác với phương thức trả nhanh. Các đại lý này cũng có thể thanh toán bằng tiền mặt, séc hoặc bằng chuyển khoản. Với khách hàng là người bán buôn, Công ty vẫn áp dụng phương thức cho thanh toán chậm. Thời gian thanh toán được áp dụng riêng cho từng khách hàng tuỳ thuộc vào khả năng thanh toán cuả từng khu vực tiêu thụ. Chẳng hạn, khách 49 hàng của khu vực Hà nội có thể được phép thanh toán chậm từ 3- 5 ngày, các tỉnh thành Miền bắc từ 7- 15 ngày, các tỉnh Miền trung và Miền nam từ 15- 20 ngày. Ngoài chính sách thanh toán như đã nêu, Công ty còn áp dụng một số chính sách phục vụ như nhận chở hàng hoá đến nơi tiêu thụ, trợ giá vận chuyển cho các đại lý ở xa và mức trợ giá này phục thuộc vào quãng đường vận chuyển. Tuy nhiên, so với một số đối thủ cạnh tranh như khoá Việt Tiệp , khoá Đông Anh thì chính sách phục vụ và thanh toán của Công ty khoá Minh Khai còn chưa được bằng. Cụ thể,Công ty khoá Việt Tiệp cho các đại lý hưởng chiết khấu rất cao, từ 3- 5 % tuỳ theo từng loại sản phẩm; ngoài ra Công ty còn dùng chính sách thưởng cho đại lý nào đạt mức doanh thu cao và ổn định, cho phép đổi lại những sản phẩm khó tiêu thụ, bảo hành sản phẩm với thời gian dài... Do những hạn chế như đã nêu trên đã làm giảm đi phần nào khả năng cạnh tranh của Công ty khoá Minh Khai trên thương trường kinh doanh. 5.2. Quy mô và uy tín của Công ty trên thị trường. Quy mô cáng lớn thì Công ty càng được nhiều người tiêu dùng biết đến, đó là điều không thể phủ nhận được. Đây cũng là một yếu tố thuận lợi cho sản phẩm của Công ty tiếp cận với thị trường đặc biệt là xâm nhập vào thị trường mới. Hiện nay, Việt nam vẫn chưa có một hệ thống tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá quy mô của doanh nghiệp . Người ta thường so sánh quy mô giữa chúng thông qua các chỉ tiêu về số lượng lao động và sản lươngj hàng hoá sản xuất ra. Thông qua các số liệu ở phần trước chúng ta dễ nhận thấy rằng Công ty khoá Việt Tiệp có quy mô vưọt trội hơn hẳn so với các Công ty khác. Tiếp đến là Công ty khoá Minh Khai với số lượng lao động là340 người và sản lượng hàng hoá tiêu thụ là khoảng 500 nghìn khoá các loại (số liệu năm 2001) . Tiếp theo là khoá Đông Anh và khoá Trúc Sơn... Như vậy, có thể nói lợi thế cạnh tranh về quy mô của Công ty khoá Minh Khai là khá lớn. Về uy tín thì Công ty khoá Minh Khai đã tự khẳng định được mình qua chặng đường tồn tại và phát triển trên 40 năm trên thị trường, là một trong những Công ty sản xuất khoá đầu tiên của Việt nam, Công ty khoá Minh Khai 50 đã thực sự được người tiêu dùng biết đến thông qua các loại sản phẩm truyèen thống như khoá MK10, khoá treo, bản lề, cụm cremon... Các sản phẩm khoá của Công ty đã thực sự gây được ấn tượng với khách hàng bởi chất lượng , giá cả và cả phương thức phục vụ.Uy tín mà Công ty có được hiện nay chính là nhờ vào chất lượng của sản phẩm. Đó là tài sản vô hình của Công ty mà phải trải qua một quá trình phấn đấu lâu dài và bền bỉ mới có được. Mặc dù trên thị trường hiện nay có rất nhiều chủng loại khoávới nhiều xuất xứ khác nhau, trong nước có khoá Việt Tiệp, khoá Đông Anh, khoá Trúc Sơn..., nhập ngoại có khoá Thái Lan, khoá Trung Quốc, khoá Italia... nhưng có thể nói, sản phẩm khoá của Coong ty khoá Minh Khai đã được người tiêu dùng tin tưởng và sử dụng. Với ưu thế của uy tín này, Công ty khoá Minh Khai có thể xâm nhập thị trường mới và đưa sản phẩm mới ra thị trường một cách dễ dàng hơn so với một số đối thủ cạnh tranh khác. Đây là một lợi thế rất lớn mà Công ty cần biết tận dụng. III. các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá minh khai. 1. Các yếu tố bên ngoài. 1.1. Nhóm các yếu tố môi trường vĩ mô. 1.1.1. Các yếu tố về mặt kinh tế. Trong một vài năm gần đây, tốc độ phát triển nền kinh tế Việt nam khá cao và ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên do cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á nhất là vào cuối năm 97, đầu năm 98 đã ảnh hưởng hầu hết đến nền kinh tế của các nước trong khu vực. Thật vậy, trong thời gian gần đây Công ty khoá Minh Khai đang đứng trước 2 đe doạ lớn: Thứ nhất: do cuộc khủng hoảng kinh tế cùng với sự sụp đổ của khối bạn hàng truyền thống ở các nước Đông âu làm cho ngành cơ khí ở Việt nam nói chung và Công ty khoá Minh Khai nói riêng đều lâm vào tình trạng sản xuất không có đầu ra. 51 Thứ 2: chính sách kinh tế mở cửa đã hấp dẫn các Công ty nước ngoài tham gia vào thị trường khoá với sự xuất hiện của các loại khoá của Trung quốc, Thái lan, nhật... Hơn nữa, thị trường ở trong nước cũng ngày càng hạn hẹp hơn do sự xuất hiện của khoá Việt Tiệp, Khoá Trúc Sơn.. và một số cơ sở sản xuất nhỏ đã làm cho khả năng cạnh tranh của Công ty khoá Minh Khai cũng bị yếu đi rất nhiều và có lúc tưởng như không thể đứng vững trước sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Khả năng cạnh tranh của Công ty khoá Minh Khai lúc này đã bị yếu đi rất nhiều và có lúc tưởng như không thể tự đứng vững được trong cơ chế thị trường. 1.1.2. Các yếu tố về khoa học công nghệ. Sự thay đổi về môi trường công nghệ đôi khi trở thành mối nguy cơ đe doạ đến sự sống còn của doanh nghiệp. Nó làm cho máy móc tăng nhanh hao mòn vô hình do sự lạc hậu về công nghệ, tác động đến nhu cầu người tiêu dùng và giết chết sản phẩm của doanh nghiệp sau khi sản phẩm mới được tung ra thị trường nhờ áp dụng cải tiến bằng công nghệ hiện đại với giá rẻ hơn và phù hợp với người tiêu dùng hơn. ở Việt nam, công nghệ là một đột phá quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thông qua đó có thể tăng sức cạng tranh của hàng Việt nam trên thị trường thế giới, thị trường trong nước cũng như tăng hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, việc phát triển công nghệ ở Việt nam còn phải đối mặt với không ít khó khăn. Có thể liệt kê một số khó khăn đó như sau: - Tiêu chuẩn công nghệ sản xuất đã lạc hậu thế hệ so với thế giới và khu vực. Sự phát triển công nghệ trên thế giới được chia thành 7 giai đoạn thì Việt nam đang ở giai đoạn thứ nhất và thứ hai. Điều này có nghĩa là Việt nam đang ở giai đoạn sử dụng tài nguyên và cường độ lao động cao là chủ yếu. - Vấn đề thiếu vốn cho việc đổi mới và phát triển nghiên cứu để triển khai ở các doanh nghiệp là điều thường xảy ra - Nhận thức cho sự đầu tư, phát triển khoa học công nghệ còn sai lệch. - Các chính sách kinh tế đặc biệt là chính sách về thuế, tín dụng, xuất nhập khẩu chưa khuyến khích và thúc đẩy các doanh nghiệp dặc biệt là các doanh 52 nghiệp Nhà nưóc tích cực áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Với một môi trường công nghệ như vậy, rrõ ràng là ngàng cơ khí trong nước khó mà cạnh tranh nổi với các công ty nước ngoài có trình độ khoa học công nghệ cao hơn nhưng với sự nỗ lực vươn lên củ chính mình, Công ty khoá Minh Khai đã dần nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Hơn nữa, với sự trợ giúp của công nghệ thônh tin và việc thu thập, xử lý các tín hiệu của thị trường cũng nhanh hơn, chính xác hơn. Việc nắm bắt nhu cầu từ phía thị trường cũng như sự biến động của môi trường kinh doanh từ đó vachj ra những kế hoạch, đưa ra những quyết định đúng đắn phcj vụ sản xuất kinh doanh chính là công cụ ncạnh tranh mà Công ty khoá Minh Khai đang áp dụng. 1.1.3. Yếu tố về chính trị - luật pháp. Thể chế chính trị ổn định cùng mức tăng trưởng cao đã làm số lượng các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây. Chính trị ổn định đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh. Theo Nghị quyết TW 4 của Chính phủ, một trong những vấn đề cần quan tâm, giải quyết trong thời gian tới là: “Phát triển công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghệ hàng tiêu dùng, sản xuất hàng xuất khẩu và các công nghệ then chốt phục vụ nhu cầu nền kinh tế”. Theo Nghị quyết TW 4 nêu trên, ngành cơ khí phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong năm tới cũng sẽ được nhà nước ưu tiên cho đầu tư chiều sâu. Điều này được đánh giá là một biện pháp chiến lược của Nhà nước để phát triển nền kinh tế, làm tiền đề cho sự hội nhập với nền kinh tế thế giới trong những năm tới. Nó cũng có nghĩa là năng lực cạnh tranh của công ty khoá Minh Khai nói riêng và của ngành cơ khí tiêu dùng nói chung sẽ được nâng cao so với các đối thủ nước ngoài-các đối thủ hết sức lớn mạnh về quy mô thị trường cũng như sức cạnh tranh về chất lượng, giá cả sản phẩm. Tuy nhiên các lợi thế này sẽ mất đi nếu chính phủ các nước khác cũng ưu tiên cho ngành tiêu dùng, phục vụ xuất khẩu. 53 Việc ban hành luật thuế giá trị gia tăng (VAT) chính thức được thực hiện vào ngày 1/1/2000 có ảnh hưởng tới hầu hết các lĩnh vực và mọi ngành nghề trong nền kinh tế. ở một số ngành, những ảnh hưởng này còn gây xáo trộn hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là đối với những cơ sở sản xuất sản phẩm với tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu chiếm phần lơns trong giá thành. Trước đây Luật thuế doanh thu áp dụng đối với ngành cơ khí tiêu dùng là 1%. Sau khi Luật thuế VAT ban hành đã được áp dụng với mức thuế mới là 10%. Tất nhiên về lý thuyết luật thuế giá trị gia tăng là kết quả, là bước đi đúng đắn, đúc kết từ những kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới nhưng khi áp dụng vào Việt nam trong hoàn cảnh hiện nay thì nó vẫn còn nhiều bất cập, gây cản trở khó khăn đối với các doanh nghiệp. Một thực tế cho thấy sau khi luật thuế giá trị gia tăng được áp dụng ở Việt Nam rất nhiều các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có nguồn cung ứng nguyên vật liệu trong nước lâm vào tình trạng khó khăn, chi phí sản xuất tăng vọt và bị thua lỗ. Nguyên nhân là do phần lớn các nguyên vật liệu mà doanh nghiệp nhập vào đều không có xuất xứ, phải mua bán trôi nổi trên thị trường nên không có hoá đơn thuế giá trị gia tăng, do đó không được khấu trừ thuế đầu vào làm tăng chi phí sản xuất. 1.2. Nhóm các yếu tố môi trường vi mô. 1.2.1. Khách hàng. Bước sang nền kinh tế thị trường, phương châm hành động của Công ty khoá Minh Khai là chủ động tìm người mua để bán hàng và tìm nơi có nhu cầu để đề nghị ký kết hợp đồng sản xuất. Đây là một tư tưởng tiến bộ cho thấy có sự nhạy cảm của Công ty trong cơ chế thị trường nghĩa là ”bán cái họ cần chứ không phải cái mình có”. Công ty đã chủ động nối lạicác quan hệ làm ăn với những bạn hàng cũ, tìm thêm bạn hàng mới. Không những thế Công ty còn mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều Công ty nước ngoài. Cho đến nay, Công ty đã có quan hệ hợp tác kinh doanh với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới mà gần đây nhất là việc Công ty đã tiến hành chào hàng mẫu cho phía Pháp để thoả thuận giá cả để tiến tới ký hợp đồng chính thức. Từ khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, đến nay Công ty cũng đã và đang sản xuất nhiều loại sản phẩm đạt chất lượng cao, mẫu mã, hình dáng phù hợp 54 đáp ứng được nhu cầu thị trường. Nhìn chung Công ty có hai nhóm khách hàng chính như sau: - Nhóm khách hàng thị trường trong nước: Đây là nhóm khách hàng truyền thống của Công ty. hàng năm, doanh thu từ nhóm khách hàng này thường chiếm vào khoảng 60-70% tổng doanh thu của Công ty. Đây là đoạn thị trường có cường độ cạnh tranh khá mạnh bởi hiện nay, các sản phẩm khoá ngoại nhập tràn lan trên thị trường nội địa. Họ cạnh tranh gay gắt cả về chất lượng lẫn giá cả. Vè chất lượng thì đã có hàng của Đức, Italia..., tuy giá có hơi cao nhưng chất lượng sản hẩm có thể nói được phần đông khách hàng tin dùng. Về giá cả thì hàng Trung quốc vẫn là rẻ nhất. Đặc điểm của nhóm khách hàng nỳ là họ đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm, mẫu mã, chủng loại sản phẩm, độ chính xác trong gia công, các công dụng đa chức năng đồng thời yêu cầu về giá bán phải thấp do lượng cung cấp lớn. Sự cạnh tranh gay gắt của sản phẩm khoá ngoại nhập đã đem lại cho Công ty khoá Minh Khai không ít khó hkăn, bắt buộc Công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành để chiếm lại thị trường trong nươc vốn có nhiều lợi thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác ở nước ngoài như lợi thế về chiphí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, thuế xuất nhập khẩu. - Nhóm khách hàng thị trường nước ngoài: Đối với nhóm khách hàng này, yêu cầu về chất lượng là đòi hỏi số một, Công ty có thể thực hiện giá bán cao hơn so với ccs nhóm khách hàng khá để thu lợi nhuận lớn. Đây là nhóm thị trường đầy tiềm năng nhưng cũng rất khó xâm nhập. Để thực hiện nhiệm vụ hướng tới xuất khẩu, Công ty đã có quan hệ sản xuất và kinh doanh với một số nước XHCN như Cu ba, Ba lan từ đầu những năm 80. Tuy kim ngạch xuất khẩu còn chưa cao nhưng sự hiện diện của khoá MinhKhai ở những thị trường được coi là khó tính này là những nỗ lực rất lớn của Công ty. Nó khẳng định chất lượng sản phẩm cũng như giá cả của khoá Minh Khai là có đủ khả năng cạnh tranh được trên thị trường Quốc tế. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi sắp tới Việt nam gia nhập AFTA- khu vực mậu dịch tự do vào năm 2003, nghĩa là khoá Minh Khai phải cạnh tranh với sản phẩm của các nước ASEAN- các nước có ngành công nghiệp phát triển. 55 1.2.2. Các đối thủ cạnh tranh trong ngành. Các đối thủ cạnh tranh trong ngành là mối đe doạ hàng đầu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với các đối thủ nỳ không phải lúc nào doanh nghiệp cũng dùng chính schs đối đầu với họ mà phải luôn luôn giữ ở một mức quan hệ nhất định sao cho có lợi cho doanh nghiệp nhất. Nếu như cường độ ạnh tranh trong ngành quá mạnh, doanh nghiệp có thể hao công tốn của do ngững chi phí về cạnh tranh gây ra không đem lại hiệu quả kinh tế. Đối với ngành cơ khí, bản thân nó đã là một rào cản ra nhập rất quan trọng cho những công ty nào muốn quan tâm đến thị trường này. Các Công ty sản xuất mặt hàng này không nhiều nhưng hiện nay, những đối thủ được coi là trưởng thành và có thể cạnh trah được với Công ty khoá Minh khai đó là khoá Việt Tiệp, khoá Đông Anh, khoá Trúc Sơn... Sự tham gia của các Công ty vào thị trường khoá làm cho thị trường này trở lên phong phú và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt. Mỗi Công ty có một lợi thế riêng và sử dụng nó làm công cụ cạnh tranh hữu hiệu (cạnh tranh về chất lượng, về giá cả, chủng loại) . Ngoài ra còn có một số cơ sở sản xuất nhỏ cũng sản xuất khoá. Những cơ sở này tuy không có lợi thế về công nghệ và tài chính nhưng họ có khả năng làm ra các khoá với chi phí rất thấp khiến sản phẩm của họ có giá bán thấp hơn hẳn so với khoá của Công ty khoá Minh Khai. Nhưng ngược lại về chất lượng sản phẩm thì rất thấp vì sản xuất trên dây chuyền thủ công. Hơn nữa, họ có khả năng luồn lách vào các thị trường ngách và cơ sở “nhái” sản phẩm rất nhanh làm cho người tiêu dùng không phân biệt được. Chính bộ phận này đã làm cho cường độ cạnh tranh trong ngành tăng lên, làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty khoá Minh Khai. 1.2.3. Nhũng nhà cung ứng. Các yếu tố đầu vào được chia làm 2 loại: người cung ứng là những người cung ứng ở trong nước và những người cung ứng ở nước ngoài. Đối với những người cung ứng các yếu tố đầu vào ở trong nước thì không gây khó khăn cho Công ty bởi: 56 - Những người này thường muốn bán hàng, kinh doanh lâu dài cho Công ty vì Công ty là khách hàng chính của họ. - Nhà cung ứng không có khả năng tự khép kín sản xuất. Đối với người cung ứng các yếu tố đầu vào ở nước ngoài thì cũng gây ảnh hưởng không nhiều cho Công ty bởi nguyên liệu nhập từ nước ngoài chủ yếu do đơn đặt hàng và cơ sở gia công mang đến. Do đó có sự thoả thuận giữa hai bên nhưng điểm yếu là Công ty khoá Minh Khai chưa chủ động về mặt chuẩn bị nguyên vật liệu dẫn đến giá cả chưa thật hợp lý. Hiện nay, số lượng nguyên vật liệu của Công ty khoá Minh Khai được nhập chủ yếu từ các nguồn sau: * Trong nước: - Sắt, thép: Công ty kinh doanh vật tư kim khí, xí nghiệp kinh doanh cơ khí số 4. - Kim loại màu: Công ty Đông á, Công ty Nam Hải - Gang, sắt phế, fero: lấy từ Thái Nguyên là chủ yếu * Nước ngoài: Phôi thép, thép chế tạo, chất đồng cứng được nhập chủ yếu từ Thái Lan và Trung Quốc. Biểu số 14: Số lượng vật tư được sử dụng trung bình trong một năm của Công ty khoá Minh Khai (Nguồn: số liệu do Phòng điều độ sản xuất cung cấp) . TT Các loại vật tư sử dụng Số lượng (tấn) Đơn giá (đ/kg) 1 Gang, sắt phế 300 400-2000 2 Đồng 50 15000-20000 3 Kim loại đen 50 3600-7200 4 Kim loại màu 10 24000-39000 5 Fero 15 6000-14000 6 Than đá 150 200 57 Năm 2001, khối lượng vật tư chi dùng trong năm là: sắt thép khoảng 700 tấn. Giá trị vật tư mua về trong năm phục vụ sản xuất khoảng 8 tỷ, trong đó nhập khẩu khoảng 1.5 tỷ USD. Phần lớn, Vật tư chính đều được chuẩn bị và cung cấp kịp thời cho sản xuất. Công tác nhập khẩu vật tư, thiết bị luôn được Công ty quan tâm đặc biệt . Đối với các hoạt động phải dùng vật tư đại chúng như thép cây phoi lớn làm trục lô ép, thép inox, thép tấm... đều được mua thông qua nhập khẩu, điều đó đã làm giảm đi ít nhiều khả năng canh tranh của Công ty. 1.2.4. Nguy cơ nhảy vào cuộc của các công ty mới. Chính sách mở cửa cộng với khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và khuyến khích đầu tư trong nước có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế thì nguy cơ nhảy vào cuộc của các đối thủ tiềm ẩn là rất lớn. Trong tương lai, các đối thủ tiềm ẩn này trở thành đối thủ mạnh thì khả năng cạnh tranh của Công ty khoá Minh Khai sẽ giảm. 2. Các yếu tố bên trong Công ty. 2.1. Nguồn lao động. Trong 3 yếu tố của quá trình sản xuất, lao động là yếu tố có tính chất quyết định đến việc tăng khối lượng sản phẩm, giảm cho phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. - Đội ngũ lao động của Công ty khoá Minh Khai được đào tạo có hệ thống có tay nghề khá cao đã góp phần tích cực trong việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, tiếp nhận và vận hành tốt các thiết bị tiên tiến, đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất từ đó nâng cao sức cạnh tranh của Công ty. - Đội ngũ cán bộ quản lý của Công ty có trình độ học vấn cao, có kinh nghiệm quản lý, năng động, nhiệt tình trong công tác đã giúp công ty ổn định được sản xuất và từng bước nâng cao mức thu nhập của cán bộ công nhân viên trong Công ty. Trong những năm gần đây, trước sự phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trường, để có thể đáp ứng tình hình sản xuất kinh doanh hiện nay, Công ty khoá Minh Khai đã tiến hành sắp xếp và bố trí lại đội ngũ lao động nhằm tạo ra một 58 đội ngũ lao động không những giỏi một nghề mà còn biết được nhiều nghề đồng thời tạo ra một sự thay đổi linh hoạt trong sản xuất kinh doanh có thể đáp ứng mọi yêu cầu của thị trường. Hơn nữa, với những người có tài và tâm huyết với nghề nghiệp được Công ty kịp thời phát hiện và cho đi đaò tạo thêm để trở thành cán bộ nòng cốt trong Công ty. Nhờ vậy, trong những năm qua, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã có những nét thay đổi tương đối rõ rệt. 2.2. Trang thiết bị kỹ thuật. Sự ảnh hưởng của trang thiết bị kỹ thuật tới khả năng cạnh tranh của Công ty đã được đề cập khá rõ ở phần trước. Để tránh lặp lại chúng ta có một số nét khái quát như sau: - Trang thiết bị kỹ thuật là yếu tố trực tiếp để nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. - Phần lớn máy móc thiết bị của Công ty đã quá cũ, lạc hậu và chưa đồng bộ. Ngoài những dây chuyền mới nhập mấy năm gần đây, trang bị máy móc còn lại đều cũ kỹ và lạc hậu, có trang thiết bị đưa vào sử dụng từ khi thành lập nhà máy đến nay vẫn chưa được thay thế. Do đó đã làm ảnh hưởng tới chất lượng khoá, không đáp ứng một số tiêu chuẩn đề ra. 2.3. Năng lực về vốn. Vốn là yếu tố vô cùng qua trọng không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh, có vốn doanh nghiệp mới có thể cải tiến, đổi mới bổ sung trang thiết bị kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Công ty khoá Minh Khai là một doanh nghiệp nhà nước được nhà nước cấp vốn hoạt động. Nguồn vốn của Công ty chủ yếu được hình thành từ nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận của Công ty. Để có thể khắc phục được những khó khăn về vốn, ban giám đốc Công ty đã quyết định sau khi trừ toàn bộ các khoản chi phí phục vụ cho sản xuất kinh doanh, phần lợi nhuận còn lại Công ty đưa vào đầu tư lại. Nhờ vậy, trong những năm qua Công ty đã có một phần nguồn vốn vay trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. 59 Biểu số 15: Một số chỉ tiêu về tình hình hạch toán kinh tế của Công ty khoá Minh Khai trong 3 năm vừa qua (Nguồn: số liệu do Phòng tài vụ cung cấp) Đơn vị tính: đồng STT Chỉ tiêu 1999 2000 2001 1 Nguyên giá TSCĐ hữu hình 5848673843 7439536885 7443846885 2 Giá trị còn lại 2569077956 4259505208 4263815208 3 Vốn lưu động 1227119655 1527119655 1890212124 4 Giá trị tổng sản lượng 12550731000 11883310000 12672135000 5 Tổng doanh thu 15121362994 14007441580 15574343130 6 Thuế doanh thu 257565390 211541689 247608052 iv. đánh giá chung về khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty. 1. Những kết quả đạt được: Tiêu thụ sản phẩm là một trong những khâu then chốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vì tiêu thu sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình chu chuyển vốn và để xác định hiệu quả kinh doanh sau một chu kỳ sản xuất. Sản phẩm hàng hoá chỉ được coi là tiêu thụ khi công ty đã nhận được tiền bán hàng do người mua trả hoặc khi sản phẩm hàng hoá đó được người mua chấp nhận thanh toán. Từ thực tế cho thấy, Công ty khoá Minh Khai làm ăn tương đối có hiệu quả. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công ty cũng như đa phần các công ty quốc doanh khác trong tình trạng suy thoái do thiết bị công nghệ lạc hậu, nguông nguyên liệu đầu vào thường xuyên không ổn định, thường xuyên phải chống đỡ cạnh tranh với các đối thủ khác và với hàng nhập ngoại. Nhưng công ty khoá Minh Khai đã luôn phấn đấu vượt mọi khó khăn để hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạc sản xuất kinh doanh (kế hoạch của công ty đề ra trong năm nay là tăng 10 đến 15% so với năm trưóc) . Trong thời gian qua, bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã mặt hàng, Công ty còn rất tích cực 60 trong khâu tổ chức tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy nhanh quá trình sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Đồng thời công ty đã thực hiện đầy đủ và vượt mức chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước. Doanh thu của Công ty trong những năm qua đều tăng dẫn tới mức thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên đảm bảo ổn định và tăng lên (lương bình quân hiện nay của cán bộ công nhân viên công ty là 576 nghìn đồng/người/tháng) . Sản phẩm của công ty khoá Minh Khai đã được người tiêu dùng biết đến, không phải do quảng cáo mà do chính chất lượng sản phẩm. Đây chính là uy tín sản phẩm của Công ty trong suốt những năm qua. Có được những lợi thế này là nhờ sự sáng tạo và nỗ lực của toàn thể ban lãnh đạo và các cán bộ công nhân viên trong công ty. Tới nay qua 27 năm liên tục xây dựng và phấn đấu, Công ty đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ, liên tục trong nhiều năm liền là đơn vị sản xuất giỏi của ngành. Hiện nay sản phẩm của Công ty đủ sức cạnh tranh và tiêu thụ tốt trên thị trường. Năm 1994, Công ty đã có 4 sản phẩm đạt huy chương vàng tại Hội chợ quốc tế hàng công nghiệp Việt nam, đó là khoá MK10, khoá treo MK10N, bản lề 100 và Cremon MK23A. 2. Tồn tại. Những mặt hạn chế có thể xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên xét dưới góc độ tổng quát thì Công ty khoá Minh Khai còn có những tồn tại sau: 2.1. Nghiên cứu và thiết kế sản phẩm: Mặc dù trong những năm qua, Công ty đã đưa ra nhiều chủng loại hàng hoá nhưng về số lượng chủng loại còn hạn chế. Việc đầu tư cho công tác nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới của Công ty vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Các sản phẩm của Công ty so với trước kia có phong phú và đa dạng hơn nhưng chủ yếu vẫn là các sản phẩm bình dân chưa có sản phẩm cao cấp. So với sản phẩm của một số Công ty khác thì sản phẩm của Công ty khoá Minh Khai còn nhiều hạn chế cả về mẫu mã lẫn chủng loại khoá. 61 2.2. Giá cả. Mặc dù trong những năm qua, Công ty khoá Minh Khai đa áp dụng nhiều biện pháp để hạ giá thành nhưng trên thực tế giá thành của Công ty vẫn cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Sở dĩ giá thành của Công ty cao hơn so với đối thủ cạnh tranh là do chất lượng sản phẩm cao hơn. Nếu Công ty không tìm các biện pháp để hạ giá thành sản phẩm thì khả năng cạnh tranh của Công ty trong việc tiêu thụ sản phẩm sẽ bị giả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của công ty khoá Minh Khai.pdf