Những vấn đề chung về phân tích tài chính doanh nghiệp

Tài liệu Những vấn đề chung về phân tích tài chính doanh nghiệp: Phần thứ nhất Những vấn đề chung về phân tích tài chính doanh nghiệp I. Những vấn đề chung về tài chính doanh nghiệp 1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp là các mối liên hệ phát sinh trong các quá trình hình thành, phát triển và biến đổi vốn dưới hình thức có liên quan trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động này nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp : tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp hay mục tiêu tăng trưởng, phát triển. Để hình thành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải giải quyết một số vấn đề quan trọng sau: - Đầu tư vào đâu cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã chọn và còn phải biết đầu tư như thế nào? Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. - Nguồn vốn tài trợ cho đầu tư huy động từ đâu, vào thời điểm nào với một cơ cấu vốn tối ưu và chi phí thấp nhất? - Doanh n...

doc69 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 879 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Những vấn đề chung về phân tích tài chính doanh nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần thứ nhất Những vấn đề chung về phân tích tài chính doanh nghiệp I. Những vấn đề chung về tài chính doanh nghiệp 1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp là các mối liên hệ phát sinh trong các quá trình hình thành, phát triển và biến đổi vốn dưới hình thức có liên quan trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động này nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp : tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp hay mục tiêu tăng trưởng, phát triển. Để hình thành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải giải quyết một số vấn đề quan trọng sau: - Đầu tư vào đâu cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã chọn và còn phải biết đầu tư như thế nào? Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. - Nguồn vốn tài trợ cho đầu tư huy động từ đâu, vào thời điểm nào với một cơ cấu vốn tối ưu và chi phí thấp nhất? - Doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính như thế nào? Chẳng hạn: lợi nhuận được sử dụng như thế nào, phân tích, đánh giá, kiểm kê các hoạt động tài chính như thế nào để bảo đảm trạng thái cân bằng tài chính và quản lý hoạt động tài chính ngân hàng ra sao để đưa ra các quyết định thu chi phù hợp. Tuy ba vấn đề trên không phải là tất cả các khía cạnh của tài chính doanh nghiệp song đó là những vấn đề quan trọng và bức xúc nhất liên quan tới cách thức tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp. 2. Các mối quan hệ tài chính chủ yếu của doanh nghiệp 2.1 Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước Đó là những quan hệ về cấp phát vốn đối với Nhà nước, các khoản thuế, lệ phí nộp Nhà nước với mọi loại hình doanh nghiệp. Những quan hệ này được giới hạn trong khuôn khổ của luật định. 2.2 Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính Doanh nghiệp thực hiện quá trình trao đổi, mua bán sản phẩm tài chính nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn của mình. Đối với thị trường tiền tệ, thông qua thị trường liên ngân hàng các doanh nghiệp có thể tạo được nguồn vốn nhắn hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh. Đối với thị trường vốn, doanh nghiệp có thể tạo nguồn vốn dài hạn bằng cách phát hành các chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu hoặc tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. 2.3 Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường khác Doanh nghiệp quan hệ với các doanh nghiệp khác, các tổ chức kinh tế thông qua thị trường với tư cách là chủ thể hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp quan hệ với thị trường cung cấp đầu vào và thị trường phân phối tiêu thụ sản phẩm đầu ra (thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường sức lao động). Thông qua các thị trường này, doanh nghiệp có thể xác định nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ, cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch địnhnăng lực đầu tư tìm nguồn vốn tài trợ kế hoạch sản xuất, marketing nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường, không ngừng ổn định và phát triển doanh nghiệp. 2.4 Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp là sự luân chuyển vốn trong doanh nghiệp: quan hệ tài chính giữa các bộ phận sản xuất với nhau, giữa cổ đông với nhà quản lý, giữa cổ đông với chủ nợ, giữa quyền sử dụng vốn với quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thông qua hàng loạt các chính sách của doanh nghiệp như: chính sách phân phối thu nhập, chính sách đầu tư và cơ cấu đầu tư, chính sách cơ cấu vốn… II. Khái niệm và phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính doanh nghiệp là tổng thể các phương pháp và công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kinh tế, các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính và quyết định quản lý phù hợp. Mối quan tâm hàng đầu của phân tích tài chính là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính thông qua một hệ thống phương pháp, công cụ, kĩ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các giác độ khác nhau: vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp, khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp (trong quá khứ và hiện tại) để từ đó nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài chính, đầu tư và tài trợ phù hợp, phát huy điểm mạnh, hạn chế điểm yếu. 2. Sự cần thiết phải phân tích tài chính Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị quản lý kinh tế tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lý, các tổ chức công cộng. Đặc biệt, với sự phát triển của các doanh nghiệp, các ngân hàng và thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết trong nền kinh tế hiện nay: - Phân tích tài chính xem xét mức độ hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp và xác định nguyên nhân hoạt động kém hiệu qủa, góp phần cùng doanh nghiệp có biện pháp xử lý kịp thời các tình huống khó khăn về tài chính. Đây cũng là một yêu cầu đối với doanh nghiệp để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. - Phân tích tài chính thu thập thông tin về tài chính doanh nghiệp, góp phần xác định chính xác hơn thị giá của doanh nghiệp trong các hoạt động đầu tư tài chính và định hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai trên cơ sở đánh giá tương quan rủi ro, lợi nhuận và vị trí của doanh nghiệp trong toàn bộ hệ thống. - Phân tích tài chính xác định khả năng thanh toán của doanh nghiệp làm cơ sở để các bạn hàng của doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước kiểm soát được năng lực tài chính và khả năng kinh doanh thực tế của doanh nghiệp, góp phần bảo đảm tính an toàn trong kinh doanh. - Trên cơ sở phân tích thực trạng tài chính của doanh nghiệp có thể xây dựng kế hoạch tài chính và các kế hoạch khác, quyết định chính sách của doanh nghiệp như chính sách huy động vốn, chính sách cơ cấu tài chính, chính sách phân phối thu nhập của doanh nghiệp… 3. ý nghĩa của việc phân tích tài chính doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thuộc các thành phần sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động kinh doanh. Bởi vậy, tài chính doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều đối tượng khác nhau như: - Đối với chủ doanh nghiệp và nhà quản trị doanh nghiệp : Phân tích tài chính cung cấp cho họ những thông tin nhằm tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài ra, giá trị phân tích còn đưa đến nhiều mục tiêu khác như công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm với chi phí thấp nhất, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường…Tuy nhiên, một doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện được các mục tiêu này nếu đáp ứng được hai thử thách sống còn là kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. - Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng – những người đặc biệt quan tâm tới khả năng trả nợ để quyết định có nên tiếp tục cho doanh nghiệp vay vốn hay không? Do đó, họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khác nhau có thể chuyển đổi thành tiền nhanh, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Mặt khác, họ cũng rất quan tâm tới số lượng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp vì đó là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp rủi ro. - Phân tích tài chính giúp cho nhà cung cấp vật tư, hàng hóa, dịch vụ trong việc ra quyết định sắp tới có nên cho doanh nghiệp mua chịu hay không? Nhóm người này cần biết khả năng thanh toán hiện tại cũng như trong thời gian tới của doanh nghiệp thông qua những thông tin có được từ phân tích các chỉ số tài chính để làm tăng độ an toàn trong kinh doanh của họ. - Phân tích tài chính giúp cho các nhà đầu tư trong việc ta quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp hay không? Với những đối tượng này, mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn… Vì vậy, họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng phát triển doanh nghiệp. Đồng thời, các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý. Những điều đó đảm bảo an toàn và hiệu quả cho các nhà đầu tư. - Đối với các cơ quan Nhà nước có liên quan như các cơ quan cấp cao trực thuộc bộ, cơ quan thuế, thanh tra tài chính, thống kê… Các cơ quan này sử dụng các báo cáo tài chính do doanh nghiệp gửi lên để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp đó với mục tiêu kiểm tra, giám sát tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xem họ có thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước hay không, kinh doanh đúng luật không? Đồng thời, giám sát này còn giúp các cơ quan thẩm quyền có thể hoạch định chính sách một cách phù hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động một cách hiệu quả. Phân tích tài chính sẽ giúp cho nhóm người này chủ động hơn trong quan hệ với doanh nghiệp. - Đối với những người lao động hưởng lương trong doanh nghiệp : Tình hình tài chính của họ là những khoản lương, liên quan trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trước đây trong việc phân tích tài chính còn nghèo nàn, có nhiều hạn chế, thường chỉ giới hạn trong việc cung cấp thông tin tài chính cho người đầu tư, cho các ngân hàng, còn trong bản thân các doanh nghiệp chưa được chú trọng một cách hợp lý. Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp, các ngân hàng và đặc biệt là thị trường vốn càng cho thấy phân tích tài chính là có ích và hết sức cần thiết. Thông tin tài chính rất có giá trị đối với những ai quan tâm và muốn sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Trong mối quan hệ kinh tế với doanh nghiệp, chỉ trên cơ sở phân tích các chỉ số tài chính mới có thể phán đoán được các tình huống có thể xảy ra trong tương lai. Do đó, phân tích tài chính doanh nghiệp không những có ý nghĩa quyết định hiện tại mà ttong một tương lai gần nó vẫn giữ nguyên giá trị. 4. Trình tự tiến hành phân tích tài chính 4.1 Thu thập thông tin Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán tài chính. Nó bao gồm cả những thông tin kinh tế tài chính và thông tin phi kinh tế tài chính như thông tin chung về kinh tế, thuế, tiền tệ, ngành kinh doanh, môi trường quản lý, hình thức tổ chức doanh nghiệp, chất lượng nhân sự, trình độ chuyên môn… đặc biệt thông tin tài chính kế toán là nguồn thông tin cơ bản nhất cho việc đánh giá và phân tích tài chính. Trong hệ thống thông tin kế toán, tài liệu quan trọng nhất được sử dụng đó là các báo cáo tài chính ( bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bảng lưu chuyển tiền tệ ) 4.1.1 Bảng cân đối kế toán: Là báo cáo tổng hợp mô tả tình hình tài chính của đơn vị tại những thời điểm nhất định dưới hình thái tiền tệ. Nó được xác lập trên cơ sở những thứ mà doanh nghiệp có (tài sản) và những thứ mà doanh nghiệp nợ (nguồn vốn) theo nguyên tắc cân đối. Đây là một báo cáo có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu và kinh doanh vơí doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán gồm hai nội dung cơ bản là nguồn vốn và tài sản. - Nguồn vốn phản ánh toàn bộ công nợ và vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Về mặt pháp lý, nguồn vốn cho thấy trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã kinh doanh với Nhà nước, số tài sản đã hình thành bằng nguồn vốn vay ngân hàng, vốn vay đối tượng khác cũng như trách nhiệm phải thanh toán với người lao động, cổ đông, nhà cung cấp, trái chủ, ngân sách… Về mặt kinh tế, qua việc xem xét nguồn vốn, người sử dụng thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp. - Phần tài sản phản ánh qui mô, cơ cấu, năng lực và trình độ sử dụng các loại tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý, sử dụng của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, phần tài sản thêt hiẹn tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu dài, gắn với mục đích thu được các khoản lợi nhuận. Về mặt kinh tế, việc xem xét tài sản cho phép phán đoán được năng lực và trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng bậc nhất giúp cho nhà phân tích nghiên cứu, đánh giá một cách khái quát tình hình và kết quả kinh doanh, khả năng cân bằng tài chính, trình độ sử dụng vốn và các triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. 4.1.2 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Báo cáo kết quả kinh doanh là một tập hợp thông tin rất quan trọng đối với hoạt động phân tích tài chính. Báo cáo này cho biết sự dịch chuyển của tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó cho phép doanh nghiệp dự tính được khả năng hoạt động của mình trong tương lai. Báo cáo thu nhập cũng giúp cho các nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá và dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp có thể xác định được kết quả kinh doanh trong năm : lãi hay lỗ. Báo cáo gồm ba phần : - Phần I : Báo cáo lỗ lãi - Phần II : Tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước ( thuế và các khoản phải nộp khác). - Phần III : Thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm. 4.1.3 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời những câu hỏi có liên quan đến luồng tiền vào ra trong doanh nghiệp, tình hình trả nợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp những thông tin về các dòng tiền tệ lưu chuyển (outflow- inflow) và các khoản coi như tiền – những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng và sẵn sàng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước, ít chịu rủi ro về giá trị do những thay đổi về lãi suất. Những luồng vào ra của tiền và những khoản coi như tiền được tổng hợp thành ba nhóm : Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và theo phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp. Các báo cáo tài chính trong doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết với nhau, mỗi sự thay đổi chỉ tiêu trong các báo cáo này hoặc trực tiếp, gián tiếp làm ảnh hưởng đến các báo cáo kia, trình tự đọc hiểu và kiểm tra các báo cáo tài chính phải được bắt đầu từ báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ kết hợp với bảng cân đối kế toán kỳ trước để đọc và kiểm tra bảng cân đối kỳ này. Để phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp các nhà phân tích cần đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó họ nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp với mục tiêu phân tích của họ. Có thể nói, thông tin kinh tế là những thông tin nền tảng nhất cho người nghiên cứu, tìm hiểu phương pháp phân tích tài chính của doanh nghiệp. 4.2 Xử lý thông tin Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý đã thu thập được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên cứu, ứng dụng khác nhau có những phương pháp sử lý khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra. Xử lý thông tin có thể coi là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự toán và quyết định. 4.3 Dự toán và quyết định Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị tiền đề và điều kiện cần thiết để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra các quyết định tài chính. Đối với chủ doanh nghiệp phân tích tài chính nhằm đưa ra các quyết định cần thiết chính xác kịp thời để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của doanh nghiệp : tăng trưởng phát triển, tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Đối với các tổ chức tài chính và các cá nhân ngoài doanh nghiệp quyết định phương hướng và qui mô đầu tư, khả năng hợp tác liên doanh, cho vay, thu hồi vốn… Đối với các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý Nhà nước sẽ đánh giá, kiểm tra, phân tích hoạt độngkd, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp theo đúng chế độ chính sách, luật pháp. 5. Các phương pháp phân tích tài chính 5.1 Khái niệm các phương pháp phân tích tài chính Các phương pháp phân tích tài chính là một cách thức hoặc một kĩ thuật dùng để : - Đo lường hiệu quả về mặt tài chính của các hoạt động đã qua, chẳng hạn như : khả năng sinh lời của một doanh nghiệp có thể biểu hiện bằng các tỷ suất lợi nhuận… - Đánh giá mức độ hoàn hảo về tài chính : tỷ lệ sinh lời hiện tại là cao hay thấp, cơ cấu nợ và tài sản đã hợp lý chưa… - Giúp cho việc ra quyết định thông qua việc tạo điều kiện đánh giá các tác động của các quyết định tương lai của doanh nghiệp. - Đánh giá tình hình tài chính. Các phương pháp phân tích tài chính được hướng vào tương lai, trong khi đó, các phương pháp phân tích kế toán nhằm để hiểu biết quá khứ. 5.2 Các phương pháp phân tích tài chính Có rất nhiều phương pháp và kĩ thuật khác nhau được sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính. Nhưng trong đó có 3 phương pháp phân tích tài chính chủ yếu được sử dụng đó là : 5.2.1 Phương pháp tỷ lệ Nguồn thông tin kinh tế và tài chính là cơ sở cho việc đánh giá các tỷ lệ của doanh nghiệp. Phương pháp phân tích này cho phép nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt các tỷ lệ theo một trình tự nhất định. Lợi thế của phương pháp này còn ở việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ. Về nguyên tắc, phương pháp phân tích tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức, để nhận xét đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở đó so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp so với các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính thường được phân tích thành bốn nhóm chính : - Tỷ lệ về khả năng thanh toán - Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn - Tỷ lệ về khả năng hoạt động - Tỷ lệ về khả năng sinh lãi Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp các tỷ lệ được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Tuỳ theo từng hoạt động phân tích, người ta sẽ lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích của mình. 5.2.2 Phương pháp so sánh Nếu có được sự thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán của các chỉ tiêu tài chính và theo mục đích phân tích thì mới xác định gốc so sánh. Đây cũng chính là điều kiện để áp dụng phương pháp so sánh. Gốc so sánh được chọn phải là gốc về mặt thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc lỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh bao gồm : so sánh giữa số hiện thực kỳ này với số hiện thực kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính cuả doanh nghiệp, đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. So sánh giữa số hiện thực với số kế hoạch để thấy rõ mức độ đi lên của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành và của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu. So sánh theo chiều dọc để xem xét theo tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang với nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. 5.2.3 Phương pháp phân tích tài chính Dupont Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng các mối quan hệ tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính chủ yếu để phân tích các chỉ số tài chính, vì vậy phương pháp này còn có tên là phương pháp phân tích tài chính Dupont. Theo phương pháp này, trước hết chúng ta xem xét các mối quan hệ tương tác giữa hệ số sinh lợi doanh thu với hiệu suất sử dụng tổng tài sản (Rr) Khi phân tích Rr cho phép xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó nhà quản trị đưa ra các giải pháp nhằm tăng tiêu thụ và tiết kiệm chi phí. Tiếp theo, chúng ta xem xét tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp được tạo thành bởi các mối quan hệ giữa tỷ số tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu với Rr (Re). Từ công thức trên ta có thể biểu diễn hệ thống phân tích tài chính bằng phương pháp Dupont theo sơ đồ sau : Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần Doanh thu thuần Tổng tài sản Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu III . Các nội dung phân tích tài chính 1. Phân tích khái quát hoạt động tài chính của doanh nghiệp 1.1 Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp Việc phân tích này cho chúng ta thấy được sự thay đổi của tài sản và nguồn vốn, nó cho biết trong kỳ kinh doanh nguồn vốn tăng (giảm) bao nhiêu? tình hình sử dụng vốn như thế nào? những chỉ tiêu nào là chủ yếu ảnh hưởng tới sự tăng giảm nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp?. Từ đó có các giải pháp khai thác các nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp, qua đó công ty có thể thấy được điều chỉnh những khoản mục nào thì có thể cải thiện được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Trong quá trình phân tích này những người phân tích tài chính cần phải xây dựng bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn. Bảng này giúp cho việc xác định rõ nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng các nguồn vốn. So sánh sự thay đổi các khoản mục trong một thời kỳ giữa hai thời điểm trong từng chỉ tiêu của bảng cân đối kế toán. Sự so sánh này sẽ cho thấy hai chỉ tiêu sử dụng vốn và nguồn vốn với nguyên tắc : - Nếu tăng tài sản hoặc giảm nguồn vốn thì ghi vào cột sử dụng vốn. - Nếu giảm tài sản hoặc tăng nguồn vốn thì ghi vào cột nguồn vốn. - Tổng số tăng của cột sử dụng vốn và nguồn vốn luôn bằng nhau thể hiện sự biến động về vốn của chu kỳ kinh doanh đó. Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng 1. Sử dụng vốn ………………… Cộng sử dụng vốn 2. Nguồn vốn ………………… Cộng nguồn vốn Sau khi thiết lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn, bảng này sẽ làm cơ sở để tiến hành phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn. Quá trình phân tích sẽ cho thấy tăng giảm nguồn vốn trong một thời kỳ, tình hình sử dụng vốn, những chỉ tiêu ảnh hưởng tới sự tăng giảm nguồn vốn, từ đó cho thấy những khoản đầu tư vốn và nguồn vốn chủ yếu được hình thành để tài trợ cho những đầu tư đó. Và doanh nghiệp cũng sẽ có những giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. 1.2 Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh Mục đích của việc phân tích này cho thấy tình hình tài chính có sự lành mạnh và ổn định hay không? tài sản cố định có được đảm bảo bằng nguồn vốn dài hạn không? nguồn vốn dài hạn và ngắn hạn có bị mất cân đối không?… Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có : tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Để hình thành hai loại tài sản này phải có các nguồn vốn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong khoảng thời gian dưới một năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm: nợ ngắn hạn, nợ nhà cung cấp và nợ phải trả ngắn hạn khác. Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt động kinh doanh gồm nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay nợ trung, dài hạn…nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành tài sản cố định, phần dư của nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được hình thành tài sản lưu động. Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn với tài sản cố định hay giữa tài sản lưu động và nguồn vốn ngắn hạn gọi là vốn lưu động thường xuyên. Mức độ an toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc mức độ của vốn lưu động thường xuyên. Ta có công thức : Vốn lưu động thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn - Tài sản cố định Vốn lưu động thường xuyên = Tài sản lưu động - Nguồn vốn ngắn hạn - Khi vốn lưu động thường xuyên < 0 (nguồn vốn dài hạn < tài sản cố định, tài sản lưu động < nguồn vốn ngắn hạn) Điều này cho thấy nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho tài sản cố định. Doanh nghiệp phải đầu tư vào tài sản cố định một phần nguồn vốn ngắn hạn. Tài sản lưu động không đủ nhu cầu đáp ứng thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng. Khi đó giải pháp của doanh nghiệp là tăng cường huy động vốn ngắn hạn hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn hoặc thực hiện đồng thời hai giải pháp đó. - Khi vốn lưu động thường xuyên > 0 Nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào tài sản cố định. Khi đó khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt, tài sản lưu động đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, tình hình tài chính là lành mạnh. - Khi vốn lưu động thường xuyên = 0 Nguồn vốn dài hạn vừa đủ để thanh toán cho tài sản cố định và tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn. Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu rất quan trọng. Chỉ tiêu này cho biết hai điều : - Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không? - Tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn hay không? Ngoài ra nhằm mục đích nghiên cứu tình hình đảm bảo vốn cho hoạt đông kinh doanh người ta còn sử dụng chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên (là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho 1 phần tài sản lưu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu) để phân tích: Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = Tồn kho và các khoản phải thu – Nợ ngắn hạn - Nếu nhu cầu của vốn lưu động >0 tức là tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn. Việc sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch. Giải pháp trong trường hợp này là : doanh nghiệp phải nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho và giảm các khoản phải thu ở khách hàng. - Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên <0 thì các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoải đã dư thừa để tài trợ các sử dụng nhắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn dể tài trợ cho chu kỳ kinh doanh. 1.3 Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán Mục đích của phân tích này là xem tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp có được phân bố hợp lý hay không ? Tài sản cố định có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn hay không? … Để thực hiện quá trình này dựa vào bảng cân đối kế toán sẽ cho thấy một bảng phân tích kết cấu nguồn vốn và tài sản như sau : Bảng phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn Chỉ tiêu Đầu kỳ (đầu năm) Cuối kỳ (cuối năm) Cuối kỳ so với đầu kỳ Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng I. Tài sản II. Nguồn vốn Ngoài việc so sánh cuối thời điểm với đầu thời điểm trong một thời kỳ về lượng và tỷ trọng, ta còn phải so sánh đánh giá tỷ trọng từng loại tài sản và nguồn vốn chiếm trong tổng số và xu hướng biến động của chúng. Các nhà phân tích phải tiến hành phân tích, đánh giá, tín toán thực trạng về nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định. Tài sản cố định Tỷ suất đầu tư = ------------------------ Tổng tài sản Chỉ tiêu trên cho biết mức độ đầu tư vào tài sản cố định. Nếu tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn cao thì doanh nghiệp có khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với chủ nợ cao. Ngược lại nếu nợ phải trả chiếm chủ yếu trong tổng nguồn vốn thì khả năng đảm bảo về mặt tài chính là thấp. Điều này được thể hiện qua tỷ suất tài trợ : Nguồn vốn chủ sở hữu Tỷ suất tài trợ = ------------------------------- Tổng nguồn vốn 1.4 Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong bảng báo cáo kết quả kinh doanh Mục tiêu của phương pháp này là xác định, phân tích mối liên hệ và đặc điểm các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả kinh doanh, đồng thời so sánh chúng qua một số niên độ kế toán liên tiếp kết hợp với số liệu trung bình ngành (nếu có) để đánh giá xu hướng thay đổi từng chỉ tiêu và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp so với doanh nghiệp khác. Các chỉ tiêu đã được chuẩn hoá trong mẫu bảng phân tích kết quả kinh doanh như sau : Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Chỉ tiêu Năm N-1 Năm N Năm N so với năm N-1 Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng 1. Doanh thu thuần 2. Giá vốn hàng bán 3. Lãi gộp 4.Chi phí bán hàng và quản lý 5. Lãi trước thuế và lợi tức vay 6. Lãi trước thuế 7. Lãi sau thuế 8. Lãi không chia 2. Phân tích các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính chủ yếu 2.1 Nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong mỗi giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. - Hệ số thanh toán ngắn hạn Tài sản lưu động Hệ số thanh toán ngắn hạn = ------------------------- Nợ ngắn hạn Hệ số này cho biết các khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Nếu hệ số này lớn hơn hoặc bằng một thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Thông thường hệ số này xấp xỉ bằng 2 được đa số các chủ nợ chấp nhận. - Hệ số thanh toán nhanh Tài sản lưu động + Hàng tồn kho Hệ thanh toán nhanh = --------------------------------------------- Nợ ngắn hạn Mức trung bình ngành thường là lớn hơn hoặc bằng 1 là tốt, nếu hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp nhỏ hơn mức này thì có thể thấy doanh nghiệp đang rất gặp khó khăn. Từ đó cho thấy tình hình tài chính của doanh nghiệp không thể đáp ứng ngay được các khoản nợ ngắn hạn khi có yêu cầu. Hệ số này cho thấy khả năng chuyển đổi thành tiền của các tài sản quay vòng nhanh. Các tài sản quay vòng nhanh bao gồm tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu… - Hệ số thanh toán tức thời Vốn bằng tiền Hệ số thanh toán tức thời = ------------------------- Nợ đến hạn ( Nợ đến hạn ở đây bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn (nợ phải trả) đến hạn trả tiền) Thực tế nếu tỷ số này quá cao lại không tốt, bởi lúc đó vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. 2.2 Nhóm chỉ số về năng lực hoạt động Các chỉ tiêu này được thiết lập dựa trên doanh thu và nhằm mục đích xác định tốc độ quay của một số đại lượng cần thiết cho quản lý tài chính ngắn hạn. Các tỷ lệ này cho ta những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân bằng tài chính và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. - Vòng quay hàng tồn kho Doanh thu thuần Vòng quay hàng tồn kho = ----------------------- Hàng tồn kho Đây là chỉ số phản ánh trình độ quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Có thể hình dung, nếu chỉ số này từ 9 trở lên là một dấu hiệu tốt về tình hình tiêu thụ và dự trữ. Tỷ số này có giá trị cao sẽ ủng hộ lòng tin của khách hàng vào khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nếu tỷ số thấp sẽ cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh trì trệ và kém năng động của doanh nghiệp đó. Nhưng cũng có thể doanh nghiệp tăng mức dự trữ nguyên vật liệu khi dự đoán trước giá sản phẩm sẽ tăng hoặc do có sự gián đoạn trong khâu cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất. Bởi vậy khi so sánh cần có thêm những thông tin về dự trữ nhằm đảm bảo tính chuẩn xác. - Vòng quay tiền Doanh thu thuần Vòng quay tiền = ------------------------------ Vốn bằng tiền Chỉ số này cho biết sốvòng quay của tiền trong một năm và được tính bằng cách chia doanh thu thuần trong năm cho tổng số tiền mặt và các loại tài sản tương đương tiền (chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng. - Hiệu suất sử dụng vốn lưu động Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng vốn lưu động = ------------------------------ Vốn lưu động (TSLĐ) Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động làm ra mấy đồng doanh thu thuần hay lãi gộp trong kỳ, vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng trong kỳ. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hệ số này càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp đã đầu tư và sử dụng hợp lý các tài sản vò hoạt động sản xuất kinh doanh được hiệu quả cao, tăng sức cạnh tranh và uy tín trên thương trường. - Hiệu suất sử dụng vốn cố định Doanh thu thuần (+ Chi phí XDDD) Hiệu suất sử dụng vốn cố định = --------------------------------------------- Tài sản cố định (Vốn cố định ở đây được tính theo giá trị còn lại của TSCĐ tại thời điểm tính toán. Ngoài ra, có thể tính thêm giá trị các chi phí XDDD dở dang nếu có) Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra mấy đồng doanh thu trong một năm. Chỉ tiêu này muốn phân tích một cách rõ ràng phải đi sâu vào cơ cấu các loại tài sản cố định. Điều đó có thể gợi ý cho các doanh nghiệp có thể cân nhắc hơn trước khi đầu tư vào tài sản cố định mới hoặc xem xét mức khâú hao của tài sản cố định cũ đã hợp lý hay chưa. Chỉ số này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định càng tốt. - Hiệu suất sử dụng tổng tài sản Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = ---------------------- Tổng tài sản Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, nó cho biết một đồng vốn được huy động vào sản xuất kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng doanh thu. Nó cũng thể hiện số vòng quay trung bình toàn bộ vốn của doanh nghiệp trong thời kỳ báo cáo. Hệ số này đã làm rõ khả năng tận dụng vốn triệt để vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng vòng quay này lên là yếu tố quan trọng làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp đồng thời với khả năng cạnh tranh, uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. - Kỳ thu tiền bình quân Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = ----------------------------------- Doanh thu bình quân ngày Trong đó: Doanh thu năm Doanh thu bình quân ngày = ---------------------- 360 Chỉ tiêu này có giá trị cao đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã bị chiếm dụng vốn, gây ứa đọng vốn trong khâu thanh toán, khả năng thu hồi vốn trong thanh toán chậm (Thông thường 20 ngày là một chu kỳ thu tiền là chấp nhận được đương nhiên số ngày này còn phải xem xét gắn với giá vốn và chính sách bán chịu của doanh nghiệp). Nhưng chính sách bán chịu của doanh nghiệp có thẻ tạo ra lợi nhuận bổ sung do việc hàng bán gia tăng. Nếu chấp nhận tăng thời gian bán chịu thì đó là dấu hiệu xấu. Ngược lại thời hạn thanh toán nợ giảm chứng tỏ doanh nghiệp đã có sự cải thiện trong hệ thống quản lý bán hàng, có sự thay đổi trong chính sách bán chịu hay đã có các biện pháp thu hồi nợ gắt gao hơn…. 2.3 Nhóm chỉ số về khả năng sinh lời Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận càng cao doanh nghiệp càng tự khẳng định vị trí và sự tồn tại của mình trên thương trường. Nhưng nếu chỉ thông qua điều đó thì không thể đánh giá được chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tốt hay xâú mà nó còn phải xem xét trong mối quan hệ với chi phí và tài sản doanh nghiệp đã sử dụng, vì vậy các nhà phân tích thường bổ sung thêm những chỉ tiêu tương đối để đánh giá về mức doanh lợi của doanh nghiệp. - Hệ số sinh lợi doanh thu Đây là thước đo chỉ rõ năng lực hoạt động của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận và năng lực cạnh tranh. Nó cho biết một đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số này được đánh giá là tốt nếu nó đạt từ 5% trở nên nhưng phải xem xét tới số vòng quay của vốn để sao cho chỉ số lợi nhuận trên vốn là tốt nhất. Lợi nhuận sau thuế Hệ số sinh lợi doanh thu = --------------------------- Doanh thu thuần Một mức lợi nhuận đầy đủ sẽ giúp doanh nghiệp điều chỉnh giá bán hàng. Chỉ tiêu này thường được dùng để so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau, ngoài ra còn chỉ tiêu khác như : Lợi nhuận gộp từ hoạt động kinh doanh Tỷ số lợi nhuận gộp kinh doanh = ---------------------------------------------- Doanh thu thuần Chỉ tiêu này đo lường mức độ hiệu quả trong khâu sản xuất và lưu thông hàng hoá cũng như năng lực tạo vốn bằng tiền của doanh nghiệp. Thông qua việc so sánh các giá trị của chỉ tiêu này qua các thời kỳ, những người phân tích tài chính có thể đánh giá tình hình doanh nghiệp là tốt hay chưa tốt. - Hệ số doanh lợi vốn Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của vốn đầu tư. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp (doanh nghiệp sử dụng nợ trong kinh doanh và doanh nghiệp chỉ sử dụng vốn tự có) được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn lợi nhuận sau thuế và lãi hoặc lợi nhuận sau thuế để so sánh với tổng tài sản. Tổng vốn hiện nay doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng chủ yếu được hình thành từ hai nguồn : nguồn vốn chủ sở hữu va nguồn vốn đi vay. Vì vậy kết quả hoạ động sản xuất kinh doanh cũng phải chia làm hai phần. trước tiên, phải hoàn trả phần lãi vay và phần còn lại sẽ mang lại cho chủ sở hữu một khoản thu nhập nhất định. Mối quan hệ giữa thu nhập của chủ sỡ hữu và người cho vay từ kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với tổng vốn được đưa vào sử dụng được gọi là hệ số doanh lợi vốn. Chỉ tiêu này giúp so sánh hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp với các cách thức sử dụng vốn ở bên ngoài cũng như mức độ mạo hiểm trong kinh doanh. Lợi nhuận sau thuế (+ Lãi phải trả) Hệ số doanh lợi vốn (tài sản) = ---------------------------------------- Tổng vốn (tài sản) Bằng việc cộng tiền lãi phải trả vào lợi nhuận, chúng ta sẽ có được kết quả sản xuất kinh doanh trước khi phân chia cho chủ sở hữu và người cho vay (vì mẫu số gồm nguồn vốn do cả người cho vay và chủ sở hữu cung cấp nên tài sản cũng phải gồm số hoàn vốn cả hai) - Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu Hệ số này đo mức lợi nhuận đạt được trên mức đầu tư của vốn chủ sở hữu doanh nghiệp. Các nhà đầu tư rất quan tâm đến chỉ tiêu này vì nó thể hiện khả năng thu nhập mà họ có thể nhận được nếu họ quyết định đầu tư vốn vào doanh nghiệp. So với người cho vay thì việc bỏ vốn vào hoạt động kinh doanh của chủ sở hữu mang tính mạo hiểm hơn nhưng lại có nhiều cơ hội đem lại lợi nhuận cao hơn. Họ thường dùng chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu làm thước đo mức doanh lợi trên mức đầu tư của mình. Ta có công thức: Nếu gọi vốn vay là VV vốn chủ sở hữu là VC (VC = V- VV) hệ số nợ là H ( H = VV /V) Doanh lợi vốn chủ sở hữu là P(VC) = P/V trong đó P là lợi nhuận sau thuế và V là tổng vốn P P P/V P(V) P(V) P(VC) = ---- = ------- = ------ = ------------ = -------- VC V- VV V- VV 1- (VV/V) 1-H Song tỷ lệ sinh lời cao chưa phải đã tốt như việc vốn chủ sở hữu quá nhỏ sẽ cho thấy mức độ mạo hiểm trong kinh doanh là quá cao. Bên cạnh đó khi phân tích cần gắn với các chế độ chính sách tài chính mà doanh nghiệp đang áp dụng để tránh hiện tượng đánh giá cục bộ và sai lệch về thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.4 Nhóm hệ số về cơ cấu vốn, hệ số nợ, cơ cấu tài sản Nhóm hệ số này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. 2.4.1 Hệ số nợ Chỉ tiêu này dùng để đo lường số vốn vay của doanh nghiệp so với tổng số vốn. (Nó cho biết 1 đồng vốn đảm bảo bao nhiêu đồng nợ) Tổng nợ Hệ số nợ = ---------------------- Tổng vốn (tài sản) Tổng số nợ ngắn hạn Tỷ số nợ ngắn hạn = ----------------------------- Tổng số vốn Tổng số nợ dài hạn Tỷ số nợ dài hạn = --------------------------- Tổng số vốn Về mặt lý thuyết, chỉ số này thuộc (0,1) nhưng thông thường có dao động quanh giá trị 0,5. Chủ nợ rất ưa thích một tỷ số nợ vừa phải, tỷ số nợ càng thấp hệ số an toàn càng cao, món nợ của họ càng được đảm bảo và họ có cơ sở để tin tưởng vào sự đáo nợ đúng hạn của con nợ. Nếu tỷ lệ nợ quá cao tức là chủ doanh nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trên tổng số vốn, thỉ sự rủi ro trong kinh doanh được chuyển sang chủ nợ gánh chịu một phần. Đồng thời khi tỷ số nợ cao thì chủ doanh nghiệp càng có lợi rõ rệt vì khi đó họ chỉ bỏ ra một lượng vốn nhỏ nhưng lại được sử dụng một lượng tài sản lớn, khi đó doanh lợi vốn lớn hơn lãi suất tiền vay thì phần lợi nhuận của họ gia tăng rất nhanh. Mặt khác, khi tỷ số nợ cao thì mức độ an toàn trong kinh doanh càng kém, vì một khoản nợ tới hạn không trả được sẽ rất dễ làm cho cán cân thanh toán mất thăng bằng, xuất hiện nguy cơ phá sản. (Hệ số nợ cao tuy gây bất lợi với chủ nợ nhưng lại có lợi cho các chủ sở hữu nếu đồng vốn được sử dụng có khả năng sinh lời cao). 2.4.2 Hệ số cơ cấu tài sản Để đánh giá trình độ sử dụng tào sản của doanh nghiệp các nhà phân tích còn nghiên cứu về bố trí cơ cấu tài sản. Nó trả lời câu hỏi trong một đồng vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng có bao nhiêu đồng đầu tư vào tài sản lưu động, bao nhiêu đồng đầu tư vào tài sản cố định ? Tuỳ theo từng loại hình sản xuất kinh doanh mà hệ số này đòi hỏi mức độ cao thấp khác nhau. Nhưng bố trí cơ cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao bấy nhiêu. Cơ cấu cho từng loại tài sản được tính như sau : Tài sản cố định x100 Tỷ trọng tài sản cố định = ----------------------------- Tổng tài sản Tài sản lưu độngx100 Tỷ trọng tài sản lưu động = ------------------------------ Tổng tài sản Thông thường các nhà tài chính cho rằng tỷ lệ này = 50% là hợp lý, tuy vậy còn tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp. 2.4.3 Hệ số cơ cấu nguồn vốn Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn nợ và vốn chủ sở hữu. Nguồn gốc và sự cấu thành hai loại vốn này xác định sự ổn định tài chính và khả năng thanh toán dài hạn của doanh nghiệp ở một mức độ đáng chú ý. - Hệ số vốn chủ sở hữu trên tổng vốn nợ Quan hệ giữa vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản nợ là một thước đo quan trọng về cấu trúc vốn của một doanh nghiệp. Khi vốn chủ sở hữu tăng trong tương quan với tổng tài sản nợ thì số dư phải bảo hộ so với của ngươì cấp tín dụng tăng, còn mọi điều khác đều không thay đổi . Công ty ít có khả năng bị thương tổn và suy sụp trong kinh doanh, chi phí cho số nợ hiện có giảm và công ty có khả năng thực hiện dễ dàng hơn nghĩa vụ của mình. Vốn chủ sở hữu Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng vốn = ----------------------- Tổng vốn Tỷ lệ này cho biết tỷ lệ tài sản của công ty do công ty cung cấp, tỷ lệ này là mộ thước đo sức mạnh hay sự yếu kém tài chính của công ty. Nếu tỷ lệ này nhỏ thì công ty có thể bị nhìn nhận là yếu kém về tài chính. Tỷ lệ này càng cao càng chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của công ty bởi hầu hết tài sản mà doanh nghiệp hiện có đều được đầu tư bằng vốn của mình. - Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu Tồng vốn nợ Tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu = ------------------------ Vốn chủ sở hữu Là số nghịch đảo của tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên nợ. Nó cho thấy số lượng những lần mà vốn chủ sở hữu được bẩy lên khi sử dụng nợ. Một công ty có tỷ lệ này cao hàm ý một sự sử dụng nợ là chủ yếu và hạn chế sử dụng vốn chủ sở hữu. Nhìn chung thì tổng số nợ tương đối trong cơ cấu vốn của một công ty càng cao thì sự ổn định của thu nhập thuần tuý càng lớn. Tóm lại, trên đây là 4 nhóm chỉ tiêu hiệu quả tài chính cơ bản, khái quát toàn bộ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu với ngành nào đã có hệ số trung bình ngành ta sẽ dễ dàng nhận biết được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có triển vọng hay kém hiệu quả. Nhưng thực trạng ở nước ta hiện nay chưa xây dựng được một hệ thống các chỉ tiêu tham chiếu nên ta sẽ nhìn vào hoạt động của doanh nghiệp trong một chuỗi thời gian liên tục để biết được quá trình phát triển của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra nguyên nhân xác thực nhất, giải pháp hữu hiệu nhất cho doanh nghiệp thông qua đánh giá, nhận xét (chủ yếu thông qua so sánh giữa các năm với nhau). Để phấn đấu đạt tới sự lành mạnh trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể so sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp mình với các chỉ tiêu của doanh nghiệp cùng ngành có tình hình tài chính lành mạnh được coi là chuẩn mực và cố gắng phấn đấu đạt tới các giá trị trung bình của các chỉ tiêu đó. 3. Phân tích điểm hoà vốn Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó mức doanh thu vừa đủ trang trải mọi phí tổn. Phân tích điểm hoà vốn sẽ cung cấp những thông tin về lượng sản phẩm cần tiêu thụ, doanh thu cần đạt được khi biết sản phẩm và doanh thu hoà vốn. Phân tích điểm hoà vốn còn chỉ ra ngưỡng doanh nghiệp không bị lỗ, xác định quy mô đầu tư, quy mô sản xuất nhằm đạt lợi nhuận mong muốn. Để xác định điểm hoà vốn cần chia chi phí ra làm hai loại : chi phí cố định và chi phí biến đổi: - Chi phí cố định là những chi phí không thay đổi so với số lượng công việc hoàn thành như chi phí khấu hao tài sản cố định, tiền thuê nhà cửa, máy móc, thiết bị bà phương tiện kinh doanh, chi phí bảo hiểm tài sản, bảo hiểm kinh doanh, chi phí tu bổ bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cố định, tiền lương và tiền trích bảo hiểm xã hội của cán bộ nhân viên quản lý doanh nghiệp (trừ tiền thưởng cho cán bộ quản lý khi kết quả kinh doanh vượt mức)… - Chi phí biến đổi (biến phí) lại có khả năng thay đổi tỷ lệ thuận theo quy mô, khối lượng công iệc hoàn thành chẳng hạn: chi phí về nguyên vật liệu, tiền lương công nhân sản xuất … Phân tích điểm hoà vốn có hai phương pháp : phương pháp thông qua các công cụ toán học hoặc phương pháp thông qua đổ thị. Nhưng ở đây ta chỉ nói đến phương pháp thông qua các công cụ toán học: Gọi R là doanh thu bán hàng F là tổng chi phí cố dịnh V là chi phí biến đổi một đơn vị sản phẩm X là lượng sản phẩm tiêu thụ P là giá bán đơn vị sản phẩm C là tổng chi phí trong kỳ Ta có : R = P*X C = F+ (V*X) Sản lượng hoà vốn R = C Û P*X = F+(V*X)ị X = F/(P-V) Doanh thu hoà vốn X = F/(P-V) ị R = ((F*P)/P)/((P-V)/P) = F/(1-(V/P)) Thời gian hoà vốn là thời gian có mức doanh thu vừa đủ bù đắp chi phí sản suất T = (Doanh thu hàng bán / Tổng doanh thu)* 12 tháng Tóm lại : Công tác phân tích tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong doanh nghiệp. Nó giúp cho doanh nghiệp đặt ra các kế hoạch trong tương lai gần và các chiến lược kinh doanh lâu dài từ đó doanh nghiệp có thể ra các quyết định tài chính như đầu tư hoặc nhận tài trợ… sao cho phù hợp nhất với tình hình tài chính của doanh nghiệp. Song công tác phân tích tài chính không chỉ dừng lại ở những người tham gia quản lý mà nó còn giúp cho các chủ ngân hàng, những người quan tâm đến hoạt động của công ty nói chung có được những nhận xét đúng đắn về hoạt động của công ty đó. phần thứ hai Tình hình phân tích tài chính của Công ty xây dựng 34 những năm qua (1999 – 2001 I. Quá trình hình thành và phát triển Công ty xây dựng 34 Tiền thân của Công ty xây dựng 34 là xí nghiệp xây dựng số 34 thuộc Công ty xây dựng 3 được thành lập ngày 01/04/1982. Nhiệm vụ của xí nghiệp là chuyên sửa chữa và cải tạo các công trình cho đại sứ quán các nước ở Việt Nam, phục vụ cho việc ngoại giao. Ngày 01/04/1983 theo quyết định số 442 BXD-TCLĐ xí nghiệp xây dựng số 4 chính thức được tách thành xí nghiệp xây dựng số 34 trực thuộc Tổng công ty xây dựng Hà Nội – Bộ xây dựng. Trong quá trình hoạt động, do thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, ngày 03/01/1991 theo quýet định số 14/BXD-TCLĐ xí nghiệp xây dựng số 34 được đổi tên thành Công ty xây dựng 34. Căn cứ quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước số 140A/ BXD-TCLĐ ngày 26/03/1993 của Bộ Xây Dựng. Theo quyết định số 22/BXĐ-TCLĐ ngày 24/04/1993 BXD đã cấp giấy phép kinh doanh cho Công ty xây dựng 34 –số đăng ký kinh doanh 10807. Tên giao dịch quốc tế : The Contruction Company No 34, trụ sở : Phường Thanh Xuân Bắc – Quận Thanh Xuân – Hà Nội. Khi đó địa bàn thi công của công ty được BXD cho phép hoạt động từ tỉnh Thanh Hoá trở ra miền Bắc. Đến năm 1994, địa bàn thi công được phép mở rộng từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở ta. Từ khi thành lập đến nay với phương châm hoạt động : tiến độ nhanh, chất lượng, an toàn, hiệu quả, Công ty xây dựng 34 đã tiến hành thi công và bàn giao nhiều công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp với chất lượng cao, bàn giao đúng tiến độ, giá cả hợp lý nên đã tạo được uy tín với khách hàng trên thị trương. Theo chứng chỉ hành nghề số 108 ngày 01/07/1994 địa bàn hoạt động của công ty là trên phạm vi cả nước và có khả năng đảm nhận mọi công trình. Cùng với đà phân tích toàn diện của công cuộc đổi mới trên cả nước, Công ty xây dựng 34 đã có những chuyển biến tích cực trong công việc đổi mới phương thức lãnh đạo, điều hành sản xuất tạo ta những nếp làm việc mới, có bài bản đáp ứng với sự phân tích của công ty, sản xuất kinh doanh có hiệu quả trên thị trường. Năm 1996 Công ty xây dựng 34 đã thành lập được điều lệ tổ chức hoạt động của công ty, ra quyết định ban hành quy ché công tác quản lý kinh tế. Thành lập thêm một xí nghiêpj xây lắp và hai đội xây dựng số 1 và số 2 trực thuộc xí nghiệp xây lắp, bổ xung thêm 3 đội xây dựng số 6,7,8 trực thuộc công ty. Từ năm 1998, công ty đã có năng lực đảm nhận được mọi loại công việc với khối lượng lớn, phức tạp, yêu cầu công nghệ thi công và kĩ thuật cao. Tập hợp một đội ngũ cán bộ kỹ sư, công nhân lành nghề – giỏi chuyên môn có kình nghiệm làm việc nhiều năm trong XDCB. Bên cạnh đó công ty đang đầu tư mới một số thiết bị công nghệ hiện đại như dây chuyền thi công đuường bộ của Nhật, các thiết bị thi công cầu cảng.. Hiện nay công ty đang mở rộng thị trường hoạt động của mình ở Thái Nguyên và Bắc Giang.Công ty xây dựng 34 thuộc thành phần kinh tế nhà nước, được phép tiến hành sản xuất kinh doanh độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân, hoạt động theo điều lệ Tổng công ty xây dựng Hà Nội thuộc Bộ Xây Dựng và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động trong kinh doanh, được quyền sử dụng tài sản và vốn do Tổng công ty giao, được mở tài khoản giao dịch với khách hàng tại ngân hàng. II. Một số đặc điểm chính ảnh hưởng tới tình hình phân tích tài chính của Công ty xây dựng 34 1. Mô hình tổ chức và quản lý của Công ty 1.1 Đặc điểm về bộ máy quản lý của công ty Cơ cấu quản lý của công ty theo kiểu trực tuyến chức năng và theo chế độ một thủ trưởng. Theo phương thức tổ chức này thì các phòng ban có sự tác động qua lại tương hỗ lẫn nhau đồng thời tuân theo mệnh lệnh của giám đốc. Cách tổ chức như vậy sẽ đảm bảo cho mọi hoạt động của các phòng ban, phân xưởng được thống nhất, nhanh gọn, có hiệu quả và có ảnh hưởng tích cực tới hoạt động kinh doanh chung của cả công ty. Đối với bộ máy kế toán – tài chính thì phòng tài chính kế toán chịu sự quản lý trực tiếp từ giámđốc. Điều này giúp cho việc truyền thông tin về tình hình tài chính lên tới giám đốc được nhanh chóng và không bị sai lệch do phải trải qua nhiều khâu. Đồng thời việc chuyển các quyết định từ giám đốc xuống phòng tài chính cũng nhanh chóng và chính xác. Điều này giúp cho công ty tận dụng những cơ hội tốt để ổn định ngân quỹ, tình hình sử dụng vốn chiếm lĩnh tị trương và có đối sách thích hợp với đối thủ cạnh tranh.. và có ảnh hưởng đến các chỉ số tài chính như vòng quay tiền, doanh lợi vốn chủ sở hữu. Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty xây dựng 34 Giám đốc Kế toán trưởng Phó giám đốc hành chính kiêm chủ tịch công đoàn Phó giám đốc chịu trách nhiệm về vật tư kĩ thuật Phó giám đốc chịu trách nhiệm về kinh tế Các ban chủ nhiệm Phòng tài chính kế toán Phòng tổ chức lao động hành chính Phòng kĩ thuật vật tư Phòng kinh tế, kế hoạch tiếp thị Đội XD9 Đội XD8 Đội XD7 Đội XD6 Đội XD5 Đội XD4 Đội XD3 Đội XD2 Đội XD số 1 Xí nghiệp xây lắp số 1 Đội XD số 2 Hơn nữa, phòng tài chính có sự phối hợp với các phòng ban khác chẳng hạn như qua phòng kinh tế kế hoạch tiếp thị có thể biết được tình hình các công trình xây dựng, hàng tồn kho, khoản phải thu như thế nào, phòng tổ chức sẽ lập hay sửa đổi kế hoạch để các công trình hoàn thành đúng thời hạn và nhanh chóng thu hồi các khoản nợ, sau đó phòng tài chính sẽ cấp phát vốn hay tạm ứng cần thiết. Chức năng, nhiệm vụ của ban giám đốc và các phòng ban như sau : Ban giám đốc : lãnh đạo Công ty, thực hiện quyền hạn và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Giám đốc là ngưòi quản lý và chỉ đạo chung toàn Công ty, lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ của Tổng công ty và Nhà nước giao. Phó giám đốc phụ trách kinh tế, kế hoạch, tiếp thụ Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật, vật tư. Phó giám đốc phụ trách về lĩnh vực hành chính kiêm chủ tịch Công đoàn. Các phòng ban chức năng: Phòng tổ chức lao động hành chính : Tham mưu cho ban lãnh đạo về mặt tổ chức, công tác tuyển dụng cán bộ lao động và hướng dẫn kiểm tra các đơn vị cơ sở trong lĩnh vực tuyể dụng lao động. Tham mưu cho lãnh đạo công ty, quyết định đề bạt, bổ nhiêm cán bộ, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, nhân viên. Tiếp nhận thông tin từ bên ngoài, truyền đạt mệnh lệnh, thông tin đến từng bộ phận của công ty, thực hiện nhiệm vụ bảo quản, quản lý khai thác sử dụng toàn bộ tài sản hành chính, văn phòng (cả các đơn vị cơ sở). 1.1.1 Phòng kinh tế, kế hoạch, tiếp thị Tham mưu cho giám đốc về lập phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh trong phạm vi toàn công ty theo định kỳ hàng tháng, hàng năm, hàng quý và định hướng trong những kỳ tiếp theo. Thực hiện chức năng tiếp thị, tìm kiếm việc làm trước mắt cũng như chiến lược lâu dài của công ty. Tiếp xúc thị thu thập và xử lý thông tin, tiếp xúc khách hàng đàm phán, tính toán các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật để lập hồ sơ dự thầu. Phối hợp với phòng kế toán-tài chính –thống kê, phòng kinh tế kỹ thuật hoàn thiện hồ sơ dự thầu. 1.1.2 Phòng kỹ thuật, vật tư Kiểm tra thẩm định và quản lý công trình về mặt kỹ thuật, phối hợp với các đơn vị cơ sở hoặc trực tiếp làm công tác nghiệm thu kỹ thuật. Tính toán các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật để lập hồ sơ dự thầu. Mua bán vật tư cho công ty. 1.1.3 Phòng kinh tế-tài chính-thống kê - Phối hợp cùng các đơn vị cơ sở, phòng, ban lập phương án xây dựng kế hoạch về mặt tài chính, tổng hợp lập báo cáo tài chính trình ban giám đốc cũng như các cơ quan hữu quan. - Lập phương án kế hoạch quản lý và chỉ đạo thật tốt chức năng giám đốc đồng tiền. Bằng mọi phương pháp tạo nguồn vốn bảo đảm cho các đơn vị thực hiện sản xuất kinh doanh. Giám sát việc sử dụng vốn vay và cho vay đối với các đơn vị cơ sở. Giám sát, kiểm tra việc thể hiện các thể chế, quy định về Kế toán-Tài chính – Thống kê của nhà nước, của ngành ở công ty và các đơn vị cơ sở. - Cấp phát, quản lý, thu hồi, bảo toàn và phát triển vốn. - Thực hiện các công việc kế toán trong công ty. 1.2 Đặc điểm về nguồn nhân lực Với tổng số cán bộ công nhân viên của công ty là 277 người (nhân viên quản lý là 60 người) chưa kể lao động nhắn hạn, trong đó : - Cán bộ khoa học kĩ thuật 70 người + Trình độ đại học 50 người + Trình độ trung cấp 18 người + Trình độ trên đại học 2 người - Công nhân kĩ thuật 207 người Ta nhận thấy công ty có đội ngũ công nhân đã đuợc đào tạo căn bản về nghề nghiệp, có tay nghề cao, có kỹ thuật tốt, có khả năng sáng tạo, nắm chắc quy trình công nghệ và có hiểu biết về quản lý chất lượng sản phẩm, góp phần tăng năng suất lao động và nâng cao công trình xây dựng của công ty. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý công ty đều có trình độ đại học. Đây là những người được trang bị những kiến thức cơ bản về lĩnh vực chuyên môn và đã trải qua một thời kỳ hoạt động trong cơ chế thị trường nên có tác phong và phương pháp làm việc khoa học, sáng tạo, có hiệu quả các nhiệm vụ được giao, góp phần hoàn thành mục tiêu kinh doanh của công ty. Nhìn chung, công ty đã nhận thức được vai trò quan trọng của vấn đề phát triển nhân lực thông qua đào tạo, nâng cao trình độ năng lực lao động. Ngoài ra, công ty còn tổ chức khảo sát, theo dõi xây dựng định mức lao động cho từng công việc, từng vị trí sản xuất, có những biện pháp xử lý vi phạm kỷ luật nghiêm minh.. Vì vậy, đội ngũ lao động của công ty đã trưởng thành mọi mặt, đáp ứng các yêu cầu sản xuất kinh doanh. Đội ngũ lao động nhiệt tình và năng động này đã đóng góp rất to lớn vào sự phát triển công ty. Tăng hay giảm doanh thu, lợi nhuận; thực hiện có đúng tiến độ các hợp đồng kinh tế hay không là do họ quyết định. Kết quả là đội ngũ lao động này có ảnh hưởng tiêu cực cũng như tích cực đến tình hình tài chính của công ty. Ví dụ như trình độ tay nghề, thái độ của công nhân sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp tới tiến độ thi công các công trình xây dựng, qua đó ảnh hưởng gián tiếp tới uy tín của công ty, tới thái độ khách hàng.. ảnh hưởng đến doanh thu của công ty. Còn nhân viên quản lý tài chính thì năng lực và kinh nghiệm của họ có ảnh hưởng trực tiếp tới các vấn đề như cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn, tính toán hiệu quả, tổng hợp số liệu.. cuối cùng ảnh hưởng trực tiếp tới việc lập các báo cáo tài chính, kế hoạch tài chính và ảnh hưởng đến tình hình tài chính của công ty. 1.3 Đặc điểm về cơ sở vật chất trang thiết bị Hệ thống trang thiết bị ở đây là các thiết bị có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh như cốt pha dàn giáo, máy xúc, máy ủi, xe ô tô vận tải và nhiều trang thiết bị khác. Trình độ hệ thống trang thiết bị kỹ thuật của công ty là sự kết hợp giữa đầu tư mới toàn bộ và cải tiến, đổi mới từng bộ phận, các loại máy móc tương đối hiện đại phù hợp với yêu cầu của sản xuất nhưng chưa đồng bộ và khả năng chuyên dùng chưa tốt - đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến tình hình tài chính của công ty như : hệ số sinh lời tài sản, hiệu suất sử dụng tài sản cố định, hiệu suất sử dụng tổng tài sản... Vì vậy, hiện nay công ty đang nỗ lực đầu tư thêm các máy móc thiết bị hiện đại hơn để tránh tụt hậu so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nhưng trong quá trình đầu tư cần phải tính toán để tỷ trọng các loại tài sản trong tổng tài sản là hợp lý vì nếu đầu tư quá nhiều vào tài sản cố định thì máy móc này chưa thể phát huy hết công suất trong năm đầu tư nên sẽ làm giảm hiệu suất sử dụng tài sản cố định từ đó có thể ảnh hưởng tới chất lượng công trình thi công và tình hình tài chính của doanh nghiệp. (Một số trang thiết bị công ty đầu tư thêm trong năm 2002 – xem bảng 1) 1.4 Đặc điểm về công nghệ sản xuất của công ty Như chúng ta đã biết sản phẩm xây dựng là những công trình, nhà cửa xây dựng và sử dụng tại chỗ, sản phẩm mang tính đơn chiếc có kích thước và chi phí lớn, thời gian xây dựng lâu dài. Xuất phát từ đặc điểm đó nên quá trình sản xuất các loại sản phẩm chủ yếu của Công ty xây dựng 34 nói riêng và các công ty xây dựng nói chung có đăc điểm là sản xuất liên tục, phức tạp. trải qua nhiều giai đoạn khác nhau (điểm dừng kĩ thuật) mỗi công trình đều có dự toán thiết kế riêng và phân bổ rải rác ở các địa điểm khác nhau.Tuy nhiên hầu hết tất cả các công trình đều phải tuân thủ theo một quy trình sản xuất công nghệ như sau: - Nhận thầu công trình thông qua đấu thầu hoặc giao thầu trực tiếp - Ký hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư công trình - Trên cơ sở hồ sơ thiết kế và hợp đồng để tạo ra sản phẩm : Giải quyết mặt bằng thi công, tổ chức lao động, bố trí máy móc thiết bị thi công,, tổ chức cung ứng vật tư, tiến hành xây dựng và hoàn thiện. - Công trình được hoàn thành dưới sự giám sát của chủ đầu tư công trình về mặt kỹ thuật và tiến độ thi công. - Bàn giao công trình và thanh quyết toán hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư. Nếu tuân thủ được các quy định trên thì mọi công trình của công ty đều có thể hoàn thành đúng thơì hạn, tạo uy tín với bạn hàng từ đó sẽ làm tăng vòng quay của vốn công ty đồng thời nó cũng ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình tài chính của công ty. Sản phẩm xây dựng của công ty chủ yếu là các công trình xây dựng dân dụng, các công trình kĩ thuật hạ tầng như thi công cầu, đường giao thông, khu dân cư, san lấp mặt bằng..ở khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước. III. phân tích Thực trạng tình hình tài chính của Công ty xây dựng 34 giai đoạn 1999-2001 Các nguồn tài liệu sử dụng trong phân tích tài chính là Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh (xem ở bảng 4và phụ lục) 1. Phân tích khái quát hoạt động tài chính của công ty 1.1 Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của công ty Nhìn vào bảng 2 ta thấy trong năm 2000 so với năm 1999, nguồn vốn và sử dụng vốn tăng 19 577 244 429 đồng, xét về mục tiêu tăng trưởng và phát triển thì kết quả này là khả quan. Trong đó, sử dụng vốn chủ yếu nằm trong tài sản lưu động khác (69,53% chủ yếu là khoản tạm ứng tăng 70,23%) và khoản phải thu (10,83%). Còn nguồn vốn huy động cho việc sử dụng vốn chủ yếu là do công ty đi vay ngắn hạn là chủ yếu, nó chiếm tới 70,23% trong tổng nguồn vốn. Tình hình trên cho thấy công ty đã bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn, giải pháp cho công ty trong trường hợp này là phải giảm khoản phải thu, nợ ngắn hạn ( chủ yếu là giảm vay ngắn hạn), tăng nợ dài hạn. Trong năm 2001, nguồn vốn và sử dụng vốn giảm 15 909 040 255 đồng hay giảm 81,26% so với năm 2000 Trong đó, sử dụng vốn giảm chủ yếu là giảm khoản phải thu (23,12%), giảm các tài sản lưu động khác (chủ yếu là giảm khoản chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, các khoản thế chấp), giảm nợ ngắn hạn. Như vậy công ty đã thực hiện được giải pháp đề ra là tăng cường vay dài hạn (37,715% trong việc sử dụng vốn), giảm vay ngắn hạn. Bên cạnh đó, nguồn vốn của công ty huy động được từ vay dài hạn, quỹ quản lý cấp trên cấp và nó được sử dụng chủ yếu là để trả nợ ngắn hạn và đầu tư vào tài sản cố định (đầu tư tăng tài sản cố định đó là phương hướng đúng cho mục tiêu phát triển của doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay). Qua tình hình phân tích trên cho thấy tình hình tài chính của công ty năm 2001 là rất tốt do công ty đi chiếm dụng được vốn từ các doanh nghiệp khác và sử dụng nó có hiệu quả, đem lại lợi nhuận tăng hơn so với năm 2000 (dù tỷ trọng của nó chiếm trong tổng vốn là giảm dần nhưng vê số tuyệt đối lại tăng là do tốc độ tăng giá vốn hàng bán lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu). 1.2 Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Biểu1: Vốn lưu động thường xuyên: Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1.TSCĐ 1.548.425.221 2.893.303.585 4.364.394.116 2.Vốn chủ sở hữu 3.356.238.299 3.332.822.356 7.364.992.113 3. Nợ dài hạn 6.000.000.000 VLĐ TX = (3+2)-1 1.807.813.078 439.518.771 9.000.597.997 Biểu 2: Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên: Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Khoản phải thu 21.017.207.708 23.138.043.568 17.788.454.820 2. Hàng tồn kho 2.078.510.262 3.610.854.729 5.834.172.747 3. Nợ ngắn hạn 24.347.865.960 43.925.110.389 31.710.478.683 Nhu cầuVLĐTX =(1+2)-3 -1.252.147.990 -17.176.212.092 -8.087.851.116 Biểu 3: Nhu cầu vốn bằng tiền: Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. VLĐ TX 1.807.813.078 439.518.771 9.00.597.997 2. Nhu cầu VLĐTX -1.252.147.990 17.176.212.092 -8.087.851.116 Nhu cầu vốn bằng tiền (1-2) 3.059.961.068 17.615.730.863 11.088.449.113 Nhìn vào biểu 1 ta thấy được tài sản cố định của công ty chủ yếu được đẩu tư bằng nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Mặc dù, vốn lưu động thường thường xuỷên của cả 3 năm đều dương nhưng với tốc độ ngày càng tăng của tài sản cố định (từ 5,67% năm 1999 lên đến 9,75% năm 2001) thì vốn chủ sở hữu sẽ không thể đáp ứng được dù năm 2001 công ty đã vay dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định và được quỹ quản lý cấp trên cấp. Như vậy tài sản cố định của công ty không được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn. Giải pháp cho trường hợp này là công ty nên huy động nguồn vốn từ nguồn khác để đầu tư cho tài sản cố định phục vụ cho thi công một cách có hiệu quả hơn và thu được một tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu cao hơn. Bên cạnh đó, tài sản lưu động đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của công ty tương đối thăng bằng. Cũng như vậy, ta thấy nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của công ty đều âm điều này cho thấy công ty không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho một chu kỳ kinh doanh, hạn chế được vay ngắn hạn từ bên ngoài hay nói cách khác vốn lưu động (90,25% trên tổng vốn) từ bên ngoài thừa sức trang trải các sử dụng ngắn hạn (83,66% trên tổng vốn). Nhìn biểu 3 ta thấy nhu cầu vốn bằng tiền lớn hơn vốn lưu động thường xuyên, từ đó xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn, vì thế mà công ty đã giảm khoản nợ ngắn hạn xuống và tăng khoản nợ dài hạn lên. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tình hình tài chính của doanh nghiệp như vậy là tương đối khả quan. 1.3 Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp Nhìn vào bảng cân đối kế toán giai đoạn 1999 – 2001 (xem phụ lục) ta thấy: Tổng tài sản, tổng nguồn vốn của công ty cuối năm 2000 so với tổng tài sản và tổng nguồn vốn cuối năm 1999 tăng thêm 70.5% tương ứng với số tiền là 19.553.828.000đ, cho thấy quy mô mặt tài sản của công ty đã được tăng lên, công ty cũng đã huy động thêm vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tổng tài sản, tổng nguồn vốn năm 2001 lại giảm so năm 2000 một lượng là 2.182.462.000đ (hay 4.61%). Phần tài sản: * Từ bảng 3 ta nhận thấy TSLĐ và đầu tư ngắn hạn của công ty chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng tài sản và giảm đều qua các năm. - Tại thời điểm cuối năm 2000 so với năm 1999 tăng 69,52% tương ứng với số tuyệt đối là 18 168 775 123 đồng là do: Các khoản phải thu, hàng tồn kho, tài sản lưu động khác chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng tài sản nên sự biến động của các khoản mục này ảnh hưởng rất lớn đến tài sản lưu động cũng như tổng tài sản của công ty. Cuối năm 2000, sự tăng lên của khoản phải thu là 10,09% (2 120 835 860 đồng) so với năm 1999 nhưng tỷ trọng của nó trong tổng tài sản có xu hướng giảm dần từ 75,86% năm 1999 đ xuống còn 48,96% là do phải thu khách hàng giảm từ 60,6% xuống 42,6% (dù lượng là tăng), trả trước cho người bán giảm mạnh từ 15,4% xuống 1,49% tương ứng với số tuyệt đối là 3 558 744 358 đồng. Hàng tồn kho của công ty năm 2000 so với năm 1999 tăng lên 73,72% (1 532 344 467 đồng) là do chi phí sản xuất dở dang tăng từ 7,18% lên 7,48%. Bên cạnh đó, TSLĐ khác tăng với một tốc độ rất nhanh là 606,41% tương ứng với một số tuyệt đối là 13 611 126 772 đồng chủ yếu do khoản tạm ứng tăng 13 750 818 368 đồng (18803,16%). - Sang đến năm 2001 TSLĐ và ĐTNH giảm so với năm 2000 một lượng tuyệt đối 362 352 479 đồng tương ứng với một số tương đối là 8,18% do tiền mặt giảm 103 785 352 đồng (6,11%), khoản phải thu giảm 5 349 588 748 đồng (23,12%). Trong khi đó, hàng tồn kho tăng lên 61,57% chủ yếu vì công ty là đại lý cho hãng xi măng Nghi Sơn nên cuối năm 2001 công ty nhập hàng vào kho (với một lượng tiền là 3 015 280 191 đồng) để phục vụ kịp thời cho thị trường thương mại năm sau, bên cạnh đó, để phục vụ cho thi công các công trình năm 2002 của công ty. * Cũng như với TSLĐ, TSCĐ và ĐTDH của công ty tăng đều qua các năm, cuối năm 2000 so với năm 1999 tăng với một tỷ lệ khá cao là 88,25% tương ứng với số tuyệt đối là 1 385 053 364 đồng là do TSCĐ hữu hình tăng 86,85% (1 344 878 364 đồng). Năm 2001, TSCĐ và ĐTDH của công ty tăng với tốc độ chậm hơn so với năm 2000 là 48,78% (1 441 090 531 đồng) nhưng về số tuyệt đối lại tăng lớn hơn năm 2000 là 56 037 167 đồng. Một phần cũng do năm 2001 công ty đầu tư thêm một số máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động thương mại nên tỷ trọng TSCĐ trên tổng tài sản đã tăng từ 5,67% năm 1999 lên 9,75% năm 2001. Năm 2000, đầu tư dài hạn của công ty chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ (0,11%) do công ty đem một lượng tài sản của mình đầu tư vào chứng khoán dài hạn. Năm 2001, khoản này đã được thu hồi vì thế hạng mục đầu tư dài hạn còn chiếm 0,05%. Phần nguồn vốn: * Nhìn vào bảng 4 ta thấy nợ phải trả thuờng xuyên chiếm tỷ trọng cao 87,9% (cuối năm 1999); 92,9% (cuối năm 2000); 83,7% (cuối năm 2001) trong tổng nguồn vốn do công ty hoạt động phần lớn bằng vốn tín dụng (là các khoản vốn mà doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn khi nhu cầu vốn lưu động gia tăng hoặc vay dài hạn từ các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính trung gian..) và nguồn vốn trong thành toán (là nguồn vốn được hình thanh từ các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp. Có thể nói, công ty đảm bảo hoạt động của mình chính bằng khoản nợ ngắn hạn, tỷ trọng nợ ngắn hạn trên tổng nguồn vốn khá cao 87,9% (cuối năm 1999); 92,9% (cuối năm 2000); 83,7% (cuối năm 2001). Để điều chỉnh vấn đề này, trong năm 2001 công ty đã tăng cường nợ dài hạn là 6 tỷ đồng ( chiếm 13.3% trong tổng nguồn vốn) để đầu tư vào mua sắm TSCĐ. Nguồn vốn tự có : nguồn vốn này của công ty chiếm khoảng 12.11% (cuối năm1999); 7.05% (cuối năm 2000); 16.3% (cuối năm 2001) trong tổng nguồn vốn. Cuối năm 2001, công ty được Tổng công ty cấp cho một nguồn kinh phí là 4 tỷ (chiếm 8,87% trong tổng nguồn vốn) nên nguồn vốn chủ sở hữu của công ty tăng với tốc độ rất nhanh là 120,9% tương ứng với một số tuyệt đối 4 032 169 757 đồng (việc tăng vốn tự có làm tăng uy thế của công ty trong việc tìm nguồn tài trợ). Bên cạnh đó quỹ đầu tư phát triển ngày càng giảm mạnh: cuối năm 2000 so với năm 1999 giảm 33.6% và sang năm 2001 giảm 100% so với năm 2000, lợi nhuận chưa phân phối giảm 50.15% vào cuối năm 2000 và 58.65% vào cuối năm 2001, quỹ khen thưởng phúc lợi năm 2000 so 1999 tăng 157.1% nhưng lại giảm mạnh vào năm 2001 là 100%. Điều đó chứng tỏ lợi nhuận sau thuế của công ty thấp như vậy là chấp nhận được (năm 2000 so năm 1999 giảm 41.99% nhưng đến năm 2001 tăng nhẹ 9.81%). Trong khi đó tỷ suất tài trợ của công ty năm 2000 giảm so với năm 1999 là 4.21% sang năm 2001 lại tăng lên 132.87% từ đó cho thấy công ty đã có biện pháp nâng cao nguồn vốn chủ sở hữu để tránh phải bù đắp bằng các khoản nợ. Để biết được năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp ta phải tính đến chỉ tiêu tỷ suất đầu tư : năm 1999 là 0.006 và năm 2000 là 0.0614, năm 2001 là 0.097 từ đó công ty phải tăng cường đầu tư cho TSCĐ vì theo các nhà phân tích thì chỉ tiêu ngành đối với ngành xây dựng nên đạt 0.2 trong tổng tài sản của doanh nghiệp. 1.4 Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong bảng báo cáo kết quả kinh doanh. Nhìn vào bảng 5 kết quả hoạt động kinh doanh giai đoạn 1999-2001 ta thấy: Tổng doanh thu năm 2000 so với năm 1999 tăng 3 161 779 728 đồng, tỷ trọng tăng là 7,69%. Nguyên nhân của sự gia tăng này là: do các khoản giảm trừ (chiết khấu, giảm giá đối với việc các khoản nợ thanh toán trước và đúng hạn) giảm 80,69% làm cho mức doanh thu thuần tăng 4 096 628 170 đồng (10,26%), trong khi đó, giá vốn hàng bán của công ty lại tăng với tốc độ lớn hơn tốc độ tăng doanh thu thuần là 13,23% (4965 930 623 đồng) do chi phí nguyên vật liệu tăng, thêm vào đó phương thức đấu thầu bản chất đã mang tính cạnh tranh cao nên chi phí cho công ty tham gia đấu thầu các công trình thường lớn. Từ đó làm cho lợi nhuận gộp của công ty giảm đi 869 302 453 đồng (giảm 36.36%). Cộng thêm chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 36,22% (do ngay từ đầu năm công ty đã tiến hành kiện toàn lại bộ máy và hạn chế tối đa các khoản chi tiêu không hợp lý) nên lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh giảm 135 160 024 đồng (giảm 37.19%) làm tổng lợi nhuận trước thuế giảm 178 075 910 đồng (giảm 41.19%), dẫn tới lợi tức sau thuế giảm 133 556 933 đồng (giảm 41.19%). Sang đến năm 2001, việc đẩy mạnh sản xuất và xây dựng làm tăng doanh thu thuần kéo theo giá vốn hàng bán tăng. Nếu năm 2000 giá vốn hàng bán là 42 509 377 375 đồng thì năm 2001 chỉ tiêu này là 52 932 472 929 đồng tức đã tăng 10 423 095 554 đồng (tăng 24,52%). Nhưng về số tuyệt đối tăng của giá vốn hàng bán nhỏ hơn số tuyết đối của tăng doanh thu thuần là 298 332 491 đồng (10 721 428 045 – 10 423 095 554), bên cạnh đó, cuối năm 2000 công ty có đầu tư thêm vào tài sản cố định nên chi phí khấu hao tài sản cố định tăng nên tổng lợi nhuận gộp không giảm đi mà còn tăng lên một lượng là 298 332 491 đồng (tăng 19.61%). Thêm vào đó, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 1.19% nên làm cho lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh tăng 1.44%. Từ đó, nó làm cho làm tổng lợi nhuận trước thuế tăng 9.81% dẫn tới lợi tức sau thuế tăng 9.81%. Như vậy cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh của công ty là tương đối khả quan. 2. Phân tích các chỉ tiêu tài chính và tỷ lệ tài chính chủ yếu 2.1 Nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán Phân tích khả năng thanh toán là đánh giá tính hợp lý về sự biến động của các khoản phải thu, phải trả, tìm nguyên nhân đẫn tới sự đình trệ trong thanh toán nhằm giúp doanh nghiệp làm chủ tình hình tài chính, đảm bảo sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Xem bảng 6 nhóm chỉ số về khả năng thanh toán - Hệ số khả năng thanh toán hiện hành cho biết 1đ nợ ngắn hạn đảm bảo bởi 1.07đ tài sản lưu động vào năm 1999, 1.008đ tài sản lưu động vào năm 2000 và 1.283 đ tài sản lưu động vào năm 2001. Như vậy các tỷ số này đều lớn hơn 1 nhưng lại thấp hơn mức chuẩn là 2 cho thấy công ty có khả năng bù đắp cho sự giảm giá trị tài sản lưu động. Hệ số thanh toán hiện hành của công ty năm 2000 giảm so với năm 1999 là 2.88% là do tài sản lưu động và nợ ngắn hạn cùng tăng nhưng tài sản lưu động tăng 69.5% nhỏ hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn là 80.2%. Tài sản lưu động tăng là do tiền tăng 113.86% và tài sản lưu động khác tăng 606.4% chứng tỏ ngân quỹ của công ty rất ổn định. Nợ ngắn hạn tăng là do phải trả người bán tăng 49.84%, phải trả công nhân viên tăng 4033.2% và thuế cùng các khoản phải nộp tăng 40.97%). Như vậy, tình hình thanh toán của công ty năm 2000 là không mấy khả quan. Nhưng năm 2001 tăng so với năm 2000 là 26.73% là do tài sản lưu động giảm 8.18% nhỏ hơn tốc độ giảm của nợ ngắn hạn là 14.14%. Tài sản lưu động giảm là do hàng tồn kho tăng 61.57% do công ty kinh doanh thêm các loại nguyên vật liệu, tiền giảm 6.11%. Nợ ngắn hạn giảm do phải trả người bán giảm 71.7%, phải trả công nhân viên giảm 62.27%, thuế và các khản phải nộp giảm 45.91%. Điều đó cho thấy tình hình thanh toán của công ty trong năm 2001 cũng đã tương đối khả quan. - Hệ số thanh toán nhanh cho biết 1đ nợ ngắn hạn đảm bảo bởi 0.98đ tài sản quay vòng nhanh năm 1999, 0.93đ tài sản quay vòng nhanh năm 2000, 1.1đ tài sản quay vòng nhanh năm 2001. Các hệ số này đều xấp xỉ bằng 1 hoặc lớn hơn 1 cho thấy công ty có đủ khả năng để hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn dù có hơi thấp. Hệ số thanh toán nhanh năm 2000 so với năm 1999 giảm 6.06% vì tài sản lưu động tăng 69.5% nhỏ hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn là 80.2% nhưng sang năm 2001 thì hệ số naỳ lại tăng 18.27% là do tài sản lưu động giảm 8.18% nhỏ hơn tốc độ giảm của nợ ngắn hạn là 14.14%. Đó là xu hướng tốt hay chứng tỏ khả năng chuyển thành tiền của các tài sản lưu động để thanh toán các khoản nợ là tốt. - Hệ số thanh toán tức thời cho biết 1đ nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi 0.03đ tiền mặt năm 1999, 0.04đ tiền mặt năm 2000 và 0.05đ tiền mặt năm 2001. Hệ số thanh toán tức thời năm 2000 tăng so với năm 1999 là 33.3% là do tốc độ tăng của tiền 113.8% nhanh hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn là 80.2% thể hiện tính chủ động về tài chính của công ty tăng lên. Năm 2001 tăng so năm 2000 là 25% là do tốc độ giảm của tiền là 6.11% nhỏ hơn tốc độ giảm của nợ ngắn hạn là 14.14% về lâu dài là rất tốt song công ty cũng nên giữ một số vốn cần thiết bằng tiền để có thể thanh toán tức thời đồng thời nên gia hạn một số khoản nợ tới hạn thanh toán để không gây tình trạng căng thẳng trong thanh toán. 2.2 Nhóm chỉ số về khả năng sinh lời Nhìn vào bảng 7 ta thấy: Hệ số sinh lợi doanh thu cho biết trong 1000đ doanh thu có 0.0079đ lợi nhuận năm 1999, 0.0042đ lợi nhuận năm 2000, 0.0037đ lợi nhuận năm 2001. Để xem xét nguyên nhân thay đổi lợi nhuận công ty ta có biểu tỷ trọng chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng, giá vốn hàng bán trên tổng doanh thu: Biểu 4: Tỷ trọng của chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng và giá vốn hàng bán so với tổng doanh thu Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1.Chi phí quản lý doanh nghiệp 4.93% 2.92% 2.3% 2. Chi phí bán hàng 0.58% 3. Giá vốn hàng bán 91.36% 96.06% 96% Như vậy, trong ba năm liền giá vốn hàng bán luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu (trên 90%), chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp i chiếm tỷ lệ rất thấp trên tổng doanh thu (năm 2001 do công ty thực hiện thêm kinh doanh thương mại mặt hàng nguyên vật liệu đó là xi măng nên chi phí bán hàng chiếm 0.58% trong tổng doanh thu). Trong khi đó, tốc độ tăng của doanh thu thuần lại nhỏ hơn tốc độ tăng của giá vốn hàng bán là 2,97% năm 2000 (so với năm 1999), 0,17% năm 2001 (so với năm 2000), do vậy, tỷ trọng lợi nhuận sau thuế so với tổng doanh thu của doanh nghiệp giảm dần: năm 1999 là 0,77%, năm 2000 là 0,42%, năm 2001 là 0,37% (dù năm này tăng lên về số tuyệt đối là 18 097 365 đồng (tăng 9,81% so với năm 2000)). Hệ số sinh lợi vốn (tài sản) là một chỉ tiêu tổng hợp nhất để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư. Cứ một đồng vốn tạo ra được 0,0115 đồng lợi nhuận năm 1999, 0,0039 đồng năm 2000 và 0,0044 đồng năm 2001. Điều đó cho thây, năm 2000 doanh lợi vốn giảm 66.06% là do tốc độ giảm của lợi nhuận sau thuế là 41.99% nhỏ hơn tốc độ tăng của tài sản 70.58% chứng tỏ đồng vốn của doanh nghiệp năm này sử dụng không có hiệu quả bằng năm 1999. Sang năm 2001 doanh lợi vốn tăng 12.82% là do tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế là 9.81% trong khi đó tài sản của doanh nghiệp giảm 4.62%, điều đó cho thấy đồng vốn của doanh nghiệp trong năm 2001 sử dụng là có hiệu quả hơn. Doanh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào công ty. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng thuộc một trong số các mục tiêu quan trọng của hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Hệ số này ngày càng giảm theo các năm (năm 1999 là 0,095, năm 2000 là 0,055, năm 2001 là 0,028). Nguyên nhân là do năm 2000 lợi nhuận sau thuế giảm với tốc độ là 41,99% trong khi đó vốn chủ sở hữu giảm với một tốc độ (0,7%) nhỏ hơn tốc độ giảm của lợi nhuận sau thuế là 41,29%. Sang năm 2001, tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế tuy có tăng nhưng lại tăng với tốc độ (9,81%) chậm hơn tốc độ tăng cuả vốn chủ sở hữu (120,98%) là 111, 17%. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả (chủ yếu là doanh nghiệp phải huy động vốn từ bên ngoài như phải trả người bán , phải trả ngân hàng, phải trả khác…). Nhưng doanh nghiệp vấn thiếu tài sản cố định để hoạt động nên năm 2001 dù vốn chủ sở hữu tăng rất cao nhưng chủ yếu dùng nhiều vào việc đi thuê tài sản với một chi phí thuê cao lại không được chủ động về mặt thời gian, từ đó làm cho nhiều công trình hoàn thành không đúng thời hạn. Tỷ lệ lợi nhuận gộp kinh doanh của công ty cũng đang có xu hướng giảm do tốc độ tăng của giá vốn hàng bán lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu thuần là 2,97% năm 2000 so với năm 1999; 0,17% năm 2001 so với năm 2000. 2.3 Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động của doanh nghiệp - Nhìn vào bảng 8 ta thấy vốn bằng tiền chiếm một tỷ trọng nhỏ nhất trong khoản tài sản lưu động, năm 1999 là 2.87%, năm 2000 là 3.59%, năm 2001 là 3.54%. Nguyên nhân tăng mạnh về vốn bằng tiền của công ty năm 2000 so với năm 1999 là do công ty đẩy nhanh tiến độ thi công, nhiều công trình hoàn thành và bàn giao. Do đó, chỉ trong vòng 20 ngày cuối năm lượng tiền công ty tăng 904 468 013 đồng (tăng 113.86%). Trong đó số tiền gửi vào ngân hàng tăng là 880 486 064 đồng (tăng 120,67%), còn lại, số tiền tăng 23 981 659 đồng (37,10%) công ty giữ lại quỹ để chi trả một số việc khác. Từ đó, làm cho vòng quay vốn bằng tiền giảm 24,35 vòng (giảm 48,4%). Năm 2001 vốn bằng tiền giảm 103 785 352 đồng (giảm 6.11%), trong đó, tiền mặt tại quỹ tăng là do công ty dự tính trả nợ vay ngắn hạn ngân hàng do công tác kế toán dồn nhiều vào cuối năm nên công ty chưa kịp thanh toán các khoản nợ đến hạn với ngân hàng. Đó là một dấu hiệu tốt vì công ty đã linh hoạt, nhanh chóng hơn trong việc giải quyết nợ ngắn hạn bằng cách tận dụng tối đa tiền vốn quỹ. Do vậy, vòng quay tiền của công ty năm 2001 tăng so với năm 2000 là 8,41 vòng (tăng 32.45%). Vì vậy, vay ngân hàng của công ty đến cuối năm 2001 còn 26 289 451 683 đồng (58,32%) giảm được 1 864 492 630 đồng (giảm 6,62%). Theo ý kiến của các nhà quản lý và kế toán trưởng của công ty thì nhu cầu vốn bằng tiền thường dao động từ 950 000 000 đồng đến 1 200 000 000 đồng, như vậy, lượng vốn bằng tiền của công ty như hiện nay đã lãng phí ít nhất là 395 019 667 đồng nằm nhàn rỗi trong quỹ và trong tài khoản ngân hàng. Tiền mặt là một loại tiền linh động nhất dễ dàng dùng nó để thoả mãn mọi nhu cầu trong quá trình kinh doanh nhưng tiền mặt hầu như không đem lại một khoản thu nhập nào nên cũng dễ hiểu nếu công ty giảm thiểu khoản này đến mức có thể. Nhưng cũng không phải các khoản này càng nhỏ hoặc bằng không thì tốt mà nó phải đảm bảo ở một mức naò đó phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, tiền giảm có nghĩa là tính chủ động tài chính trong việc mở rộng quy mô, chớp lấy thời cơ kinh doanh thuận lợi, có thể bị giảm sút. Điều này đòi hỏi công ty phải điều chỉnh lượng tiền một cách hợp lý. Như vậy, qua tỷ lệ vòng quay tiền cho thấy công ty có nhiều cố gắng trong việc sử dụng tiền, đưa tiền vào quay vòng nhiều hơn, với số tiền ít hơn nhưng doanh thu vẫn tăng. - Vòng quay hàng tồn kho Hàng tồn kho của công ty xây dựng gồm: nguyên vật liệu – công cụ dụng cụ, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang thuộc hàng hoá tồn kho. Khoản mục hàng tồn kho chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng tài sản lưu động (1999 là 7.95%; 2000 là 8.15%; 2001 là 14.34%). Công ty phần lớn chỉ thi công những công trình nhận thầu hay theo đơn đặt hàng, vì thế công ty không có thành phẩm tồn kho mà chủ yếu chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và hàng hoá tồn kho. Khoản mục này chiếm 95.71% tổng lượng hàng tồn kho 1999 và 97.58% tổng lượng hàng tồn kho 2000 và 98.53% tổng lượng hàng tồn kho 2001. Hệ số vòng quay kho của công ty ngày càng giảm từ 18.06 vòng năm 1999 xuống còn 11.77 vòng năm 2000, 9.07 vòng năm 2001. Điều đó là do giá cả nguyên vật liệu trên thị trường biến động nên vào cuối năm 2001 công ty tăng mức dự trữ nguyên vật liệu để có thể tiết kiệm được vốn, cung cấp được kịp thời nguyên vật liệu cho các công trình xây dựng. - Kỳ thu tiền bình quân của công ty ngày càng có xu hướng giảm, vốn của công ty ít bị chiếm dụng và không gây ứ đọng trong khâu thanh toán, khả năng thu hồi vốn của công ty cũng tăng lên . Từ đó công ty có thêm nhiều cơ hội trong kinh doanh ứng với số vốn thu hồi đó. Năm 1999 và 2000 kỳ thu tiền bình quân vẫn giữ nguyên, sang năm 2001 giảm38.62% là do tốc độ khoản phải thu giảm 23.12% trong khi doanh thu thuần tăng 24.35% điều đó cho thấy công ty đã có những tiến bộ trong cộng tác quản lý các khoản phải thu và có quan hệ tốt với các bạn hàng. - Khoản phải thu là giá trị tài sản của doanh nghiệp bị các đơn vị khác chiếm dụng hợp pháp hoặc không hợp pháp. Khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động năm 1999 là 80.42%, giảm 52.23% năm 2000, giảm 23.1% năm 2001. Giảm khoản phải thu do chính sách thắt chặt tín dụng như phạt 5% đối với những khoản nợ tới hạn mà chưa kịp thanh toán trong vòng 15 ngày… từ đấy nhằm góp phần tăng doanh số của công ty. Năm 1999 tỷ trọng phải thu khách hàng chiếm 79.7% năm 1999, 86.9% năm 2000, 97.1% năm 2001 trong tổng số khoản phải th, từ đó, cho thấy vốn công ty đang bị chiếm dụng nhiều. Bên cạnh đó thì công ty lại chiếm dụng của người bán ngày càng tăng : tỷ trọng của nó chiếm 20,27% năm 1999, 3% năm 2000, 0,24% năm 2001 trên khoản phải thu Trong khi đó tốc độ giảm của phải trả người bán lớn hơn so với tốc độ tăng của phải thu khách hàng (năm 2000 so với năm 1999) và tốc độ giảm của khoản phải thu khách hàng năm 2001 nhỏ hơn tốc độ giảm của phải trả người bán. Như vậy, tình hình tài chính của công ty là tương đối khả quan. 2.4 Nhóm hệ số cơ cấu vốn, hệ số nợ, cơ cấu tài sản - Hệ số nợ được đo bằng tổng nợ chia cho tổng nguồn vốn, nó cho biết một đồng vốn đảm bảo thanh toán được cho mấy đồng nợ. Nhìn vào bảng 9, ta thấy hệ số nợ cả 3 năm đều lớn hơn 0.8 (năm 1999: 0,878, năm 2000: 0,929, năm 2001: 0,836%) chứng tỏ công ty đã rất cố gắng trong việc chiếm dụng vốn của nhà cung cấp và tình hình nợ của công ty là khá an toàn (vì một đồng vốn đảm bảo thanh toán được cho 0,8 đồng nợ). Điều đó còn được chứng minh qua hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu giảm dần qua các năm : 0,0095 năm 1999; 0,055 năm 2000; 0,0028 năm 2001. Nhưng về tỷ trọng cơ cấu nợ của công ty chưa thật hợp lý vì nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao hơn rất nhiều so với nợ dài hạn (năm 2001 nợ ngắn hạn chiếm 83,66% thì nợ dài hạn chiếm 13,31%). Hệ số cơ cấu tài sản cho biết 100 đ tài sản công ty năm 1999 có 0.056đ tài sản cố định và 0.94đ tài sản lưu động, năm 2000 có 0.061đ tài sản cố định và 0.937đ tài sản lưu động , năm 2001 có 0,096đ tài sản cố định và 0,9đtài sản lưu động. Như vậy năm 2000và 2001 sự chênh lệch theo xu hướng ngáy càng tăng đối với tài sản cố định và ngày càng giảm đối với tài sản lưu động. Điều này về trước mắt thì tốt nhưng về lâu dài thì không tốt. Do đó công ty phải chú ý phát huy và nâng cao được công suất của tài sản cố định để đáp ứng được nhu cầu xây dựng ngày càng tăng của thị trường thêm vào đó lại vừa tạo ra được một thế cân đối tài sản hợp lý. Hệ số cơ cấu nguồn vốn : thông thường các nhà tài chính cho rằng tỷ lệ này 50% là hợp lý. Nhưng với Công ty thì năm 2000 so với năm 1999 tỷ lệ này giảm 42,1% do tốc độ giảm của nguồn vốn chủ sở hữu là 0,7% nhỏ hơn tốc độ tăng của tổng nguồn vốn là 70,58%. Năm 2001 so với năm 2000 tỷ lệ này tăng 132,87% do tốc độ tăng của nguồn vốn chủ sở hữu là 120,98% lớn hơn tốc độ giảm của tổng nguồn vốn 4,62%. Như vậy, thể hiện mức độ tự chủ về tài chính của công ty là không hợp lý vì phần tài sản tài trợ bằng vốn đi vay lớn hơn là phần tài sản được tài trợ bằng vốn tự có của mình. Nhưng hầu hết đây đều là điều hết sức phổ biến ở mọi doanh nghiệp xây dựng đặc biệt đối với công ty thuộc doanh nghiệp nhà nước nếu chỉ dựa vào vốn chủ sở hữu của mình thì không đủ mà phải tích cực đi vay, hơn nữa nhiều doanh nghiệp thích dùng nợ để kinh doanh hơn vốn tự có vì nguồn vốn này sẽ thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn, tự giác hơn. Nhưng công ty nên cần có khoản vốn dự phòng để có thể chủ động hơn về tài chính trường hợp thời hạn thanh toán các khoản nợ quá gần nhau. 3. Phân tích điểm hoà vốn Do điều kiện không có của bài viết, hoạt động này sẽ không được đề cập đến phân tích điểm hoà vốn, song những khái niệm chủ yếu đã được đề cập đến ở phần thứ nhất. Nếu có điều kiện nghiên cứu kỹ phần này sẽ cho biết doanh thu và sản phẩm cần đạt được khi biết được điểm hoà vốn, cho ta thấy được kỹ lưỡng hơn về dòng tiền, khả năng thanh toán, chi trả của chúng tôi trong thời kỳ ngắn hơn (tháng, quý). Trong giới hạn bài viết chỉ xin nêu các vấn đề liên quan đến tài chính trong thời kỳ dài hơn, cụ thể là trong từng năm. III. Đánh giá hiệu quả phân tích tài chính của công ty xây dựng số 34 giai đoạn 1999 – 2001. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác phân tích tài chính, nhưng do những hạn chế nhất định nên hoạt động phân tích tài chính tại Công ty xây dựng 34 trong thời gian qua vẫn còn nhiều điểm cần khắc phục. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận những ưu điểm mà Công ty đã có được và luôn mong muốn hoàn thiện mình. 1. Những kết quả đạt được 1.1 Nhân sự phục vụ trong công tác phân tích tài chính Bộ máy kế toán của Công ty hoạt động dưới sự chỉ đạo của kế toán trương. Công ty đã có sự phân công tách biệt giữa các kế toán tổng hợp thực hiện công việc tông hợp càc số liệu từ kế toán phần hành và các nhân viên thực hiện công tác phân tích tài chính, có sự chỉ đạo trực tiếp của kết toán trưởng. Công tác phân tích thực hiện được thuận lợi là nhờ vào các cán bộ kế toán luôn thu thập và xử lý thông tin một cách kịp thời, chính xác. Các cán bộ phân tích thực hiện công tác phân tích được thuận lợi là nhờ có vai trò của các cán bộ kế toán trong phòng tài chính kế toán. Họ luôn thu nhận, xủ lý và tổng kết kịp thời, chính xác các thông tin kế toán. Họ còn trực tiếp giúp đỡ các cán bộ phân tích nếu trong quá trình phân tích có những khúc mắc liên quan đến chuyên môn hay phạm vi mình phụ trách. 1.2 Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính Như đã nói ở trên, các kế toán viên trong Công ty đã thực hiện tốt công việc của mình nên các thông tin kế toán được xử lý qua việc kiểm tra, đối chiếu tính hiện thực và tính pháp lý với các văn bản tài chính. Có thể khẳng định, hoạt động kiểm tra kế toán được coi như là hoạt động kiểm toán tuân thủ tong Công ty. Thong tin được tổng kết phục vụ cho yêu cầu quả lý là thông tin “sạch:. Các báo cáo tài chính do đó mà có tính đầy đủ và chính xác, được lập kịp thời, đúng tiến độ, vì thế không gây khó khăn cho việc phân tích. Không chỉ dừng lại ở các thông tin bên trong. Công ty còn thu thập rất nhiều thông tin bên ngoài. Những người tham gia công tác phân tích tài chính tại Công ty rất chú ý đến nền kinh tế thế giới và khu vực. Tình hình kinh tế trên thế giới và trong nước có rất nhiều biến động, do đó Công ty sẽ có được thuận lợi trong các quyết định tài chính của mình. Các cán bộ phân tích tài chính còn quan tâm đến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách nghiêm túc. Các thông tin nội bộ được thu thập một cách đầy đủ chính xác, kịp thời, đúng tiến độ, vì thế không gây khó khăn cho công tác phân tích. 1.3 Phương pháp phân tích tài chính Công ty có sử dụng kết hợp hai phương pháp phân tích tài chính là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ, trong đó phương pháp tỷ lệ là chủ yếu. Sự kết hợp này đã làm cho Công ty thấy được bản chất vấn đề theo cả định tính lẫn định lượng. Việc sử dụng phương pháp tỷ lệ được coi là phương pháp truyền thống giúp cho Công ty ít gặp khó khăn hơn trong phân tích, trong vấn đề kinh nghiệm, vì đã có nhiều doanh nghiệp áp dụng. 1.4 Nội dung phân tích tài chính Nội dung công tác phân tích tài chính tại Công ty có ưu điểm là cho thấy rõ được hoạt động sản xuất kinh doanh qua các năm. Thấy rõ tình tình tăng giảm các tài sản và nguồn vốn của Công ty. 2. Hạn chế và nguyên nhân 2.1 Nhân sự phục vụ công tác phân tích tài chính Nhân sự phục vụ cho công tác phân tích tài chính của Công ty còn có những hạn chế. Hạn chế cơ bản nhất trong hoạt động này là bộ phận thực hiện công tác phân tích tài chính chưa tách rời khỏi bộ phận thực hiện công việc kế toán. Trên thế giới, phần lớn các doanh nghiệp đề tách rời công tác kế toán và công tác phân tích tài chính, song cũng như phần lớn các doanh nghiệp trong nước, Công ty cũng chưa thực hiện được điều này. Vấn đề này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của công tác phân tích tài chính do không có sự chuyên môn hoá, các cán bộ phân tích tài chính vẫn chưa thực sự được coi trọng, do các cán bộ phân tích tài chính vẫn chưa nhận thức đầy đủ được vấn đề này. 2.2 Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính Các báo cáo tài chính được Công ty lập ra đã giúp ích rất nhiều cho công tác phân tích nhưng việc chưa lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ hàng năm ít nhiều làm cho người phân tích khó đánh giá được khả năng tạo ra luồng tiền trong tương lai, khả năng tài trợ, đầu tư trong ngắn hạn cụ thể như thế nào. Bên cạnh đó như đã trình bày ở phần lý thuyết thì thông tin về các tỷ lệ, chỉ tiêu trung bình ngành là rất quan trọng và cần thiết cho hoạt động phân tích. Tuy nhiên, các thông tin này chưa được sử dụng cho việc phân tích tài chính tại Công ty nên ảnh hưởng đến tính chính xác của kết quả phân tích. Nguyên nhân một phần là do hiện nay ở Việt Nam chưa có các Công ty chuyên tư vấn về tài chính, thống kê và tính toán hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành, phần nữa là do cán bộ phân tích chưa chú ý đến những thông tin này. 2.3 Phương pháp phân tích tài chính Việc phân tích được tiến hành không theo một trình tự quy trình cụ thể. Công tác phân tích còn mang tính chắp vá, đơn điệu. Mặc dù công ty sử dụng các phương pháp tỷ lệ và so sánh, song lại có tính chấp dập khuôn, không phù hợp với hoạt động và mục tiêu sản xuất của Công ty. Công ty không sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont, trong khi đó, phương pháp này ngày nay được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia là một bằng chứng cụ thể cho tính thiết thực của nó. Cho dù ở Việt Nam nó ít được áp dụng nhưng thực ra việc tổ chức và vận dụng phương pháp này không có gì phức tạp, mặt khác sẽ cho biết những kết quả, nhận xét ngắn gọn nhưng cần thiết về nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận, ảnh hưởng của hệ số nợ đến lợi nhuận của Công ty như thế nào… Bên cạnh đó, trong quy chế hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty còn thiếu những quy định về công tác phân tích tài chính 2.4 Nội dung phân tích tài chính Thực trạng công tác tài chính tại công ty xây dựng 34 là chưa thể hiện được đầy đủ các nội dung cần phân tích. Việc đánh giá, nhận xét còn mang tính khái quát, chưa thực sự chuẩn xác. Công ty chưa nói rõ được tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào. Do đó, Công ty chưa thể hiện được hết sự thay đổi của nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng như công ty mới chỉ đặt ra được các kế hoạch cần thực hiện trong thời gian tới mà chưa tìm ra được biện pháp nào để cho kế hoạch đó có tính khả thi và đạt hiệu quả tốt nhất. Quá trình phân tích tài chính của Công ty không cho thấy tăng giảm nguồn vốn, tình hình sử dụng vốn trong một quý hoặc một tháng, những chỉ tiêu ảnh hưởng tới sự tăng giảm nguồn vốn, không cho thấy những khoản đầu tư vốn và nguồn vốn chủ yếu được hình thành để tài trợ cho những đầu tư đó. Và từ đó, Công ty cũng sẽ không thấy được những giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Như công ty tuy đã cố gắng đầu tư cho tài sản cố định để phục vụ cho thi công các công trình một cách tốt nhất thì công ty lại phải sử dụng nguồn vốn đi vay dài hạn để đầu tư trong khi đó công ty có thể có nhiều phương án khác tốt hơn như thuê tài chính hoặc huy động từ các nguồn vốn mà công ty có khả năng chiếm dụng mà vẫn đảm bảo an toàn cho tình hình tài chính của mình. Bên cạnh đo, các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính cũng không được phân tích đầy đủ. Cũng vì thế mà các kết quả phân tích chưa thực sự đầy đủ, do đó các phương án hoạt động của Công ty được đưa ra cũng chưa thật sát với thực tế. Việc phân tích để có được sự đánh giá đúng đắn về tình hình và khả năng thanh toán của Công ty cần phải thông qua các chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán, do đó cần tính toán, đánh giá cụ thể và đầy đủ các tỷ lệ có liên quan. Các hệ số về cơ cấu tài chính trong bảng thuyết minh báo cáo tài chính của Công ty cũng chưa thật đầy đủ để có thể nhận xét cơ cấu tài chính của Công ty như thế nào là hợp lý, trong hiện tại và tương lai. Đối với Công ty thì những hệ số này còn gắn với kinh nghiệm thực tế nên nhiều khi chỉ cần tính một số hệ số thì Công ty cũng có thể có được những nhận xét đúng đắn. Tuy vậy, điều chỉnh cơ cấu tài chính là rất quan trọng bởi có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cơ cấu tài chính cũng như tính quyết định của nó đối với hoạt động kinh doanh của Công ty. Công ty cũng chưa phân tích nhiều về khả năng hoạt động và sinh lãi. Điều này cho biết việc sử dụng vốn lưu động, tài sản cố định hay tổng tài sản của Công ty hiệu quả như thế nào, khả năng tạo lợi nhuận cao hay thấp…. Công ty cũng không phân tích đến điểm hoà vốn, phân tích điểm hoà vốn sẽ cung cấp những thông tin về lượng sản phẩm cần tiêu thụ, doanh thu cần đạt được khi biết sản phẩm và doanh thu hoà vốn. Phân tích điểm hoà vốn còn chỉ ra ngưỡng doanh nghiệp không bị lỗ, xác định quy mô đầu tư, quy mô sản xuất nhằm đạt lợi nhuận mong muốn. Trên đây chưa phải là toàn bộ các ưu điểm, hạn chế, cũng như các nguyên nhân của công tác phân tích tài chính tại Công ty xây dựng 34. Cũng như đa phần các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, công tác phân tích tài chính đang gặp phải những khó khăn không nhỏ. Công việc nghiên cứu đêt chỉ ra các ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân để từ đó tìm ra được các giải pháp, nâng cao hiệu quả của công tác phân tích tài chính tại công ty xây dựng 34 sẽ được đề cập chi tiết hơn ở phần thứ ba. Phần thứ ba Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác phân tích tài chính ở doanh nghiệp xây dựng số 34 I. Sử dụng phương pháp Dupont làm cơ sở cải thiện công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp xây dựng số 34 Mục tiêu của các công ty hoạt động kinh doanh suy cho cùng là lợi nhuận. Tuy vậy, cần lưu ý rằng không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau vì : - Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. - Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện giao thông, vận chuyển hàng, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ có khác nhau thường làm cho số lợi nhuận giữa các doanh nghiệp cũng không giống nhau. - Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được sẽ khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý lại tốt hơn. Cho nên để đánh giá, so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp có quy mô khác nhau hay của bản thân Công ty qua các thời kỳ khác nhau với những thay đổi về quy mô tài sản, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải dùng chỉ tiêu tương đối là tỷ suất doanh lợi vốn (hay tỷ số lợi nhuận trên vốn). Đây là chỉ tiêu quan trọng thiết lập mối quan hệ giữa cái thu về được từ một khối lượng tài sản nào đó. Dupont – tên một nhà quản trị tài chính người Pháp tham gia kinh doanh ở Mỹ đã làm cho ý nghĩa của chỉ tiêu doanh lợi vốn chưa dừng lại ở đó. Ông đã trình bày chỉ số doanh lợi vốn một cách rõ ràng hơn trong mối quan hệ với chỉ tiêu doanh lợi doanh thu và vòng quay vốn : Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần -------------------- = ------------------------ x ------------------ Tổng vốn Doanh thu thuần Tổng vốn Nhờ có chỉ số Dupont này, các nhà quản trị tài chính có một bức tranh tổng hợp để đưa ra các quyết định tài chính hữu hiệu. * Phân tích chỉ số doanh lợi vốn Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần --------------------- = --------------------- x ------------------ Tổng vốn Doanh thu thuần Tổng vốn Tỷ số doanh lợi vốn phụ thuộc vào hai yếu tố sau : - Thu nhập của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu là bao nhiêu – tức phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. - Một đồng vốn tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu (vòng quay của tổng vốn) – tức phụ thuộc vào năng lực hoạt động. Sự phân tích này cho phép xác định chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp. Biểu 5: Các nhân tố tác động đến chỉ tiêu doanh lợi vốn : Chỉ tiêu Đơn vị Kỳ trước Kỳ này Vòng quay vốn Lần L0 L1 Doanh lợi doanh thu % P0(DT) P1(DT) Doanh lợi tổng vốn % P0(V) P1(V) ảnh hưởng của doanh lợi doanh thu đến doanh lợi vốn : d1 = (L1-L0)*P0 ảnh hưởng của doanh lợi tổng vốn đến doanh lợi vốn : d2= (P1-P0)*L1 tổng hợp ảnh hưởng của hai nhân tố trên : d = d1 + d2 * Phân tích chỉ số doanh lợi vốn chủ sở hữu Lợi nhuận thuần Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần Tổng vốn -------------------- = ------------------ x ------------------- x --------------- Vốn chủ sở hữu Doanh thu thuần Tổng vốn Vốn chủ sở hữu Trong đó: Tổng vốn ------------- Tổng vốn Tổng vốn Tổng vốn 1 ------------------ = ------------------ ---- = ----------------------- = ------------- Vốn chủ sở hữu Tổng vốn - vốn vay Tổng vốn - vốn vay 1-Hệ số nợ --------------------- Tổng vốn Vậy ta có: Lợi nhuận thuần Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần 1 ------------------- = --------------------- x --------------------- x ------------- Vốn chủ sở hữu Doanh thu thuần Tổng vốn 1- hệ số nợ Sự phân tích các thành phần của doanh lợi vốn chủ sở hữu cho thấy khi hệ số nợ chung tăng lên thì doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng cao hơn vì khi đó tỷ số 1/ 1- (hệ số nợ ) sẽ tăng. Do đó, khi tỷ lệ nợ cao sẽ dẫn tới một hệ quả với lợi nhuận là : Nếu doanh nghiệp có lợi nhuận thì lợi nhuận sẽ rất cao và ngược lại, nếu lợi nhuận thua lỗ thì sẽ thua lỗ rất nặng. Sử dụng phương pháp Dupont cho thấy mối quan hệ và hiệu quả của sự kết hợp giữa hai phương pháp so sánh và tỷ lệ cho phép người phân tích nhìn nhận các chỉ số tài chính một cách có hệ thống hơn. Biểu 6: Các nhân tố tác động đến chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu Đơn vị Kỳ trước Kỳ này Vòng quay vốn Lần L0 L1 Doanh lợi doanh thu % P0(DT) P1(DT) Hệ số n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24107.DOC
Tài liệu liên quan