Luận văn Giải pháp thúc đẩy triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập (qua thực tiễn một số cơ sở đào tạo đại học công lập)

Tài liệu Luận văn Giải pháp thúc đẩy triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập (qua thực tiễn một số cơ sở đào tạo đại học công lập): LUẬN VĂN: Giải pháp thúc đẩy triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập (qua thực tiễn một số cơ sở đào tạo đại học công lập Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nền kinh tế nước ta cũng đã trải qua những chặng đường nguy nan và nhiều năm khủng hoảng. Giáo dục và đào tạo luôn gắn với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, có lúc thuận chiều và có lúc cũng không. Có giai đoạn kinh tế khó khăn, đất nước chiến tranh nhưng giáo dục và đào tạo vẫn phát triển cả về quy mô và chất lượng như thời kỳ 1960 - 1964 (trong hoàn cảnh hòa bình) và thời kỳ 1964 - 1972 (trong điều kiện chiến tranh). Thời kỳ 1977 - 1985, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, tài chính thâm hụt, nợ nước ngoài đến kỳ phải trả, lạm phát tăng nhanh, đỉnh cao là 774,4% vào đầu năm 1986. Giáo dục và Đào tạo theo đó cũng xuống dốc, một bộ phận giáo viên bỏ trường ra ngoài vì đời sống quá khó khăn. Công cuộc đ...

pdf98 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1051 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp thúc đẩy triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập (qua thực tiễn một số cơ sở đào tạo đại học công lập), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải pháp thúc đẩy triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập (qua thực tiễn một số cơ sở đào tạo đại học công lập Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nền kinh tế nước ta cũng đã trải qua những chặng đường nguy nan và nhiều năm khủng hoảng. Giáo dục và đào tạo luôn gắn với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, có lúc thuận chiều và có lúc cũng không. Có giai đoạn kinh tế khó khăn, đất nước chiến tranh nhưng giáo dục và đào tạo vẫn phát triển cả về quy mô và chất lượng như thời kỳ 1960 - 1964 (trong hoàn cảnh hòa bình) và thời kỳ 1964 - 1972 (trong điều kiện chiến tranh). Thời kỳ 1977 - 1985, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, tài chính thâm hụt, nợ nước ngoài đến kỳ phải trả, lạm phát tăng nhanh, đỉnh cao là 774,4% vào đầu năm 1986. Giáo dục và Đào tạo theo đó cũng xuống dốc, một bộ phận giáo viên bỏ trường ra ngoài vì đời sống quá khó khăn. Công cuộc đổi mới năm 1986 của Đảng và Nhà nước đã đưa nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng, kinh tế phát triển, giáo dục và đào tạo cũng phát triển theo dòng thác đổi mới. Trong quá trình đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, xuyên suốt các nghị quyết của Đảng, đặc biệt từ Đại hội VII đến nay, Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là nền tảng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; giáo dục phải gắn với sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh; đa dạng hoá các hình thức đào tạo; xã hội hoá giáo dục và thực hiện công bằng trong giáo dục là những nguyên lý cơ bản về giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Hiện nay, ở nước ta có nhiều loại hình trường khác nhau, trong đó loại hình trường công lập luôn giữ vai trò nòng cốt. Cùng với quá trình cải cách nền hành chính nhà nước trong giai đoạn mới, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc đổi mới phương thức hoạt động và cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập là giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy hoạt động giáo dục đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, đảm bảo chất lượng dịch vụ đào tạo. Với chủ trương cải cách hành chính, Chính phủ đã phân biệt rõ cơ chế quản lý giữa các cơ quan hành chính với đơn vị sự nghiệp. Mục đích của việc phân định này nhằm xã hội hoá việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước. Để thực hiện mục đích này, Chính phủ và các bộ, ngành chức năng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao, phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội nhằm tăng nguồn thu, từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động. Luật Giáo dục 2005, Điều lệ nhà trường đã xác định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo công lập. Tiếp theo đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành nhằm trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập. Văn bản được ban hành mới nhất và đang có hiệu lực là Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập không ngừng tìm kiếm biện pháp mở rộng hoạt động dịch vụ, tăng nguồn thu, chi tiêu tiết kiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo công lập còn gặp phải một số vướng mắc nảy sinh làm hạn chế đến kết quả thực hiện. Đây là bài toán tương đối nan giải trong điều kiện thị trường luôn biến động; mặt khác, do đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập còn lúng túng khi sử dụng quyền được trao vì các đơn vị này quen cơ chế xin-cho mà chưa quen việc tự quyết định. Thêm vào đó là việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ sao cho đúng, đủ, chống lãng phí khi chưa ban hành văn bản quy định đủ các tiêu chuẩn, định mức. Hơn nữa trong thực tế, rất nhiều thủ trưởng đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập e ngại việc mở rộng hoạt động tài chính khác như việc huy động vốn góp hoặc vay tín dụng, vì sợ trách nhiệm. Để nền giáo dục nước ta nói chung, và giáo dục đào tạo đại học nói riêng có những bước đột phá, tiến kịp với nền giáo dục các nước tiên tiến, thì các cơ quan quản lý nhà nước cùng với các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập cần phối hợp chặt chẽ trong việc trao và thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nhưng không làm mất đi quyền lực thực thụ của cấp quản lý. Từ khi Nhà nước ban hành các văn bản thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp công lập, nhiều lãnh đạo các trường, các nhà giáo, nhà nghiên cứu quản lý giáo dục đã có những tranh luận, ý kiến về vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục công lập, nhất là các cơ sở giáo dục đại học công lập. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu, đánh giá, phân tích một cách toàn diện về vấn đề này, đặc biệt là việc triển khai có hiệu quả chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục đại học. Vì vậy, Đề tài luận văn tốt nghiệp cao học quản lý công: “Giải pháp thúc đẩy triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập (qua thực tiễn một số cơ sở đào tạo đại học công lập” sẽ nghiên cứu đề xuất những biện pháp thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập, đặc biệt là các cơ sở đào tạo đại học công lập triển khai thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm một cách có hiệu quả nhằm cung lập nguồn nhân lực có chất lượng cao cho xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở pháp lý của Nhà nước về việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập, cùng với việc phân tích phương thức hoạt động, quản lý của các trường đào tạo đại học công lập, luận văn sẽ đưa ra các giải pháp thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập, đặc biệt là các cơ sở đào tạo đại học công lập triển khai thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xã hội. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc triển khai thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các cơ sở đào tạo đại học công lập - một lĩnh vực cung cấp nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc cao cho xã hội. Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào những vấn đề cơ bản của quản lý nhà nước (phương thức hoạt động, quản lý) trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức nhân sự và tài chính ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập. - Nghiên cứu thực trạng triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các cơ sở đào tạo đại học công lập (qua thực tiễn ở một số trường đại học công lập). - Đề xuất giải pháp thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức nhân sự và tài chính trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập. Các phương pháp cụ thể được sử dụng: phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp đối chiếu… 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương, 12 tiết. Chương 1 Một số vấn đề Lý luận về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm Trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập 1.1. Khái quát về đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm 1.1.1. Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập Đơn vị sự nghiệp là đơn vị dịch vụ hoạt động chủ yếu không vì mục đích lợi nhuận. Những đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước để thực hiện các dịch vụ theo chức năng do nhà nước giao là đơn vị sự nghiệp công lập. Những đơn vị hoạt động bằng nguồn huy động ngoài Ngân sách Nhà nước là đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Các đơn vị sự nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có sở hữu khác nhau. Nếu sắp xếp theo tiêu chí sở hữu thì các đơn vị sự nghiệp ở nước ta được phân thành 2 loại đơn vị sự nghiệp: - Đơn vị sự nghiệp công lập; - Đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Nếu xét theo tiêu chí nguồn thu, thì các đơn vị sự nghiệp được chia 2 loại: - Đơn vị sự nghiệp có thu; - Đơn vị sự nghiệp không có thu. Như vậy, đơn vị sự nghiệp công lập là đơn vị thực hiện cung cấp dịch vụ cho xã hội theo chức năng do nhà nước giao, được nhà nước cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước. Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập chính là đơn vị sự nghiệp do Nhà nước thành lập gắn liền với chức năng cung ứng dịch vụ giáo dục đào tạo cho xã hội theo chỉ tiêu Nhà nước giao và được Nhà nước cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước. Các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập ở nước ta gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học. Hệ thống giáo dục đó bao gồm: - Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo; - Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; - Giáo dục chuyên nghiệp gồm có: . Giáo dục nghề; . Trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề; . Giáo dục đại học và sau đại học. Phương thức giáo dục bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy. Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm là các đơn vị do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập, thực hiện dự toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của Luật kế toán), hoạt động trong lĩnh vực sự nghiệp giáo dục-đào tạo và dạy nghề. 1.1.2. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập 1.1.2.1. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm - Khái niệm “cơ chế”: Có nhiều cách hiểu khác nhau về cơ chế. Cách hiểu chung nhất, cơ chế là quá trình chuyển động dây chuyền của các bộ phận cấu thành hệ thống, trong đó có bộ phận khởi động và chủ động, các bộ phận bị động trung gian (bộ phận chuyền dẫn) và bộ phận bị động cuối cùng (công, quả). Và cũng có nhiều loại cơ chế quản lý và điều hành như: cơ chế dân chủ; cơ chế tự chủ, tự quản; cơ chế tập trung; cơ chế phân cấp; cơ chế thị trường; cơ chế thị trường có sự điều tiết. Định nghĩa phân cấp quản lý trong giáo dục được xem như phù hợp ở nước ta: “Phân cấp là sự chuyển đổi quyền ra quyết định, trách nhiệm và nhiệm vụ từ cấp cao xuống cấp thấp hơn hoặc giữa các tổ chức”. Có 3 loại phân cấp cơ bản: Phân cấp nhiệm vụ; Uỷ quyền; Trao quyền. Trong đó, trao quyền là cấp độ cao nhất của tính độc lập trong việc quyết định. - Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm: Xét trên góc độ quản lý thì tự chủ là mối quan hệ giữa quyền và trách nhiệm của một bên là cấp quản lý và một bên là cấp bị quản lý. Trên cơ sở pháp luật, cấp quản lý trao quyền tự chủ cho các chủ thể bị quản lý. Khi được trao quyền tự chủ thực sự, được toàn quyền hành động trong khuôn khổ pháp luật, các chủ thể bị quản lý hành động sẽ tăng tính chủ động và năng động đối với những hoạt động của mình, đồng thời cũng chịu trách nhiệm hoàn toàn trước cấp quản lý về những hoạt động đó. Trọng tâm của tự chủ bao gồm: . Tự chủ về quản lý chuyên môn; . Tự chủ về quản lý nhân sự và bộ máy; . Tự chủ về quản lý tài chính. Đây là ba lĩnh vực rất quan trọng nhằm trao quyền “tự chủ toàn diện” cho các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, các cơ sở giáo dục công lập nói riêng. Như vậy, tự chủ là các chủ thể có quyền “tự quyết” thực sự, được quyền hành động trong khuôn khổ pháp luật, tăng tính chủ động và năng động của chủ thể hành động. Trên cơ sở này, Nhà nước trao quyền tự chủ cho các cơ sở bằng các hình thức của lý thuyết trao quyền và uỷ quyền, có thể thêm hình thức tư nhân hoá nhưng không làm giảm quyền lực thực thụ của Nhà nước trong công tác quản lý. Tự chịu trách nhiệm của một chủ thể là việc chủ thể đó tự đánh giá và tự giám sát việc thực hiện các quy định của cấp có thẩm quyền, sẵn sàng giải trình và công khai hoá các hoạt động của mình; đồng thời chịu trách nhiệm về kết quả của hoạt động đó. Trách nhiệm xã hội là trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học đối với nhà nước, bộ, giảng viên, sinh viên, phụ huynh, chính quyền địa phương và nhân dân trong vùng,… Trách nhiệm đó là đảm bảo định hướng quốc gia, đảm bảo chất lượng đào tạo, sử dụng có hiệu quả nguồn lực, đem lại sự thoả mãn cho học sinh, sinh viên và cộng đồng, quản trị minh bạch và thông tin trung thực trong các báo cáo giải trình,… 1.1.2.2. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập Nói đến tự chủ trong giáo dục là nói đến mối quan hệ trong quản lý giáo dục với một bên là sự can thiệp của hệ thống hành chính nhà nước (Chính phủ và chính quyền cấp dưới) và một bên là quyền và trách nhiệm của các chủ thể giáo dục. Các chủ thể giáo dục có thể gồm: các nhà giáo, học sinh, sinh viên cũng với các tổ chức hành động của họ là trường học và các bộ phận trong cơ sở giáo dục. Còn tự chủ trong các cơ sở giáo dục là tự chủ trong từng khoa, từng ngành học. Hiện nay, Nhà nước thực hiện chủ trương trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp công lập ngày càng nhiều hơn, trong đó có lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Việc trao quyền này chính là sự chuyển đổi quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương sang các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập trên các mặt: thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế, tài chính. Như vậy, các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập sẽ được toàn quyền hành động trong khuôn khổ pháp luật, tăng tính chủ động và năng động nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ giáo dục - đào tạo. Đồng thời, các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập này phải sẵn sàng giải trình công khai trước công chúng, Nhà nước và chịu trách nhiệm trước xã hội về kết quả hoạt động đó. Khi nói tới tự chủ đại học, người ta nhấn mạnh tới tự chủ tài chính, tự chủ chương trình, tự chủ tuyển sinh, tự chủ kiểm tra đánh giá chất lượng đào tạo; tự chủ quyết định hệ đào tạo, quyết định phương thức đào tạo; tự chủ cho giáo viên trong trường đó; tự chủ cho học sinh, sinh viên (trong việc chọn ngành học, môn học, thày dạy,…). Tự chủ đại học được đánh đổi bằng trách nhiệm xã hội, tức là trách nhiệm của trường đại học đối với sinh viên, cha mẹ sinh viên, người sử dụng, công chúng nói chung và Nhà nước. Trách nhiệm này bao gồm: Đảm bảo chất lượng đào tạo, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đem lại sự thoả mãn cho sinh viên và cộng đồng, thông tin minh bạch và báo cáo giải trình công khai với công chúng. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập thực sự phát huy có hiệu quả khi nó không làm giảm quyền lực thực thụ của Nhà nước trong công tác quản lý giáo dục - đào tạo. 1.1.3. Phân loại đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm Có nhiều cách để phân loại đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập dựa trên các căn cứ khác nhau như tiêu chí sở hữu, tiêu chí nguồn thu,... Việc phân loại các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm được dựa vào nguồn thu và mức tự đảm bảo kinh phí. + Căn cứ vào nguồn thu, các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập được phân loại thành: - Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm chi phí hoạt động); - Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên, phần còn lại được ngân sách nhà nước cấp (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động); - Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn vị không có nguồn thu, ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ). + Căn cứ vào mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên, các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm được phân loại như sau: - Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm chi phí hoạt động gồm: . Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên bằng hoặc lớn hơn 100%. . Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập đã tự bảo đảm chi phí hoạt động từ nguồn thu sự nghiệp, từ nguồn ngân sách nhà nước do cơ quan có thẩm quyền của nhà nước đặt hàng. - Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động là đơn vị sự nghiệp công lập có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên từ trên 10% đến dưới 100%. - Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động gồm: . Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên từ 10% trở xuống. . Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập không có nguồn thu. Mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên của đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập được tính như sau: Mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên của đơn vị (%) = Tổng số nguồn thu sự nghiệp x 100% Tổng số chi hoạt động thường xuyên Trong đó: - Tổng nguồn thu sự nghiệp, gồm: Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo quy định của Nhà nước; - Tổng số chi hoạt động thường xuyên, gồm: Tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp lương, các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo quy định hiện hành cho số lao động trực tiếp phục vụ công tác thu phí và lệ phí, các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định và các khoản chi khác theo chế độ quy định phục vụ cho công tác thu phí và lệ phí. 1.2. Cơ sở pháp lý để thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập Xã hội hoá giáo dục là chủ trương mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay nhằm huy động tối đa mọi cá nhân, tổ chức, mọi nguồn lực tham gia xây dựng giáo dục, đa dạng hoá các loại hình trường lớp, các loại hình học tập, xây dựng xã hội học tập, làm cho mọi người được đến trường, được hưởng thụ các thành quả của giáo dục dưới sự tổ chức chỉ đạo của Nhà nước. Để thực hiện được các mục tiêu trên và tuân thủ đúng nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để tổ chức thực hiện có hiệu quả, trong đó phải nói đến Luật Giáo dục 2005; Điều lệ nhà trường và các văn bản quy phạm pháp luật khác. “Trường trung cấp, trường cao đẳng, trường đại học được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật và theo điều lệ nhà trường trong các hoạt động sau đây: 1. Xây dựng chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy, học tập đối với các ngành nghề được phép đào tạo. 2. Xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh, tổ chức tuyển sinh, tổ chức quá trình đào tạo, công nhân tốt nghiệp và cấp văn bằng. 3. Tổ chức bộ máy nhà nước, tuyển dụng, quản lý, sử dụng, đãi ngộ nhà giáo, cán bộ, nhân viên. 4. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực. 5. Hợp tác với các tổ chức kinh tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao, y tế, nghiên cứu khoa học trong nước và ngoài nước theo quy định của Chính phủ” (Điều 60, Luật Giáo dục 2005). Trường đại học được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật và Điều lệ trường đại học về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà nước, tổ chức các hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế, tổ chức và nhân sự. (Điều 10, Điều lệ trường đại học). Tiếp đến là các Nghị định về tự chủ tài chính của Chính phủ và các Thông tư liên bộ quy định về việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cũng đã được ban hành. Văn bản mới nhất và còn hiệu lực hiện nay là Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ ban hành quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, là bước thực hiện tiếp theo của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP về khoán biên chế và chi phí hành chính và Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu. Đây là một văn bản quy phạm pháp luật quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm với phạm vi rộng, mức độ cao cho các cơ sở nhằm thúc đẩy quá trình xã hội hoá giáo dục đạt mục tiêu, kết quả đề ra. Từ năm 2006 đến nay, nhiều văn bản được các bộ, ngành ban hành nhằm hướng dẫn chi tiết chủ trương thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập, cụ thể: - Ngày 14 tháng 6 năm 2006, Bộ Tài chính có Công văn số 7325/BTC-HCSN gửi các bộ quản lý ngành, lĩnh vực có liên quan đề nghị hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập. - Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. - Ngày 31 tháng 8 năm 2006, Chính Phủ ban hành Quyết định số 202/2006/QĐ-TTg về quy chế quản lý tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập; - Thông tư số 81/2006/TT-BTC ngày 06 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. - Ngày 14 tháng 11 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 137/2006/NĐ-CP quy định việc phân cấp quản lý nhà nước đối với tài sản nhà nước tại cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước. - Ngày 24 tháng 9 năm 2007, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 113/2007/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Bộ Tài chính về trình tự chi thanh toán thu nhập tăng thêm nhằm tăng tính tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp. - Thông tư số 153/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính về sửa đổi một số điểm của Thông tư số 81/2006/TT-BTC ngày 06 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. - Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, giai đoạn 2006-2020. Đây là văn bản pháp lý có tính toàn diện, triệt để và sâu sắc nhất từ trước đến nay về đổi mới giáo dục đại học Việt Nam. Ngày 15/8/2007, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ban hành Quy chế đào tạo đại học, cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. Đây là quy chế khung, là cơ sở pháp lý quan trọng để các trường đại học, cao đẳng làm căn cứ triển khai xây dựng quy chế đào tạo theo hệ thống tín chỉ cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tế của từng trường. Tất cả những văn bản trên là cơ sở pháp lý giúp cho việc triển khai thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập nói riêng được thuận lợi hơn. 1.3. Mục tiêu, nguyên tắc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập - Mục tiêu: Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (Điều 2, Luật Giáo dục 2005). Để đạt được những điều đó, Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập phải thay đổi cơ bản cơ chế quản lý giáo dục hiện hành, có gốc rễ từ thời tập trung, bao cấp. Thay đổi theo hướng: quản lý để phát triển, phát huy năng lực sáng tạo của các nhà giáo, các nhà khoa học, phù hợp với cuộc cách mạng khoa học-công nghệ đang diễn ra với tốc độ chóng mặt hiện nay. Thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm sẽ: . Tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập chủ động trong tổ chức công việc, sắp xếp bộ máy tinh gọn, sử dụng lao động hợp lý và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao; . Phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội có chất lượng cao, tăng thu nhập cho giáo viên, cán bộ, công nhân viên; . Huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội nhằm phát triển các hoạt động giáo dục - đào tạo, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước. . Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng lao động, kinh phí quản lý hành chính. . Nhà nước vẫn quan tâm đầu tư nhằm phát triển hoạt động giáo dục theo đúng định hướng, hòa nhập với khu vực và thế giới. Nhà nước là người đặt hàng lớn nhất của các cơ sở đào tạo công lập. . Đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục, các đối tượng chính sách-xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được được tham gia học tập ngày càng tốt hơn như miễn giảm học phí, cấp học bổng; . Phân biệt rõ giữa cơ chế quản lý nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập và cơ chế quản lý nhà nước đối với cơ quan hành chính nhà nước. - Nguyên tắc: Để đạt được mục tiêu trên, các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cũng cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định: . Đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và cung cấp dịch vụ giáo dục-đào tạo phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, khả năng chuyên môn, tài chính của đơn vị; . Thực hiện công khai, dân chủ theo quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của giáo viên, cán bộ, công nhân viên. . Thực hiện quyền tự chủ đồng thời gắn với trách nhiệm xã hội của Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập và giáo viên, cán bộ, công nhân viên trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật; . Chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. . Bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. 1.4. Nội dung thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập 1.4.1. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm chung của đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập 1.4.1.1. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ - Chủ động quyết định các phương pháp giảng dạy, phương thức tổ chức học tập nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo. - Được quyền tổ chức các hoạt động khác phù hợp với chuyên môn giáo dục - đào tạo, khả năng của đơn vị và đúng pháp luật; phải tự chịu trách nhiệm trước xã hội, trước Nhà nước và trước cấp trên về kết quả các hoạt động đó. Đối với đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự đảm bảo chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động còn được quyền mua sắm tài sản, đầu tư cơ sở vật chất theo quy hoạch từ Quỹ phát triển sự nghiệp và vốn huy động, được sử dụng tài sản liên doanh, liên kết, đem góp vốn với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. So với Nghị định 10/2002/NĐ-CP và Thông tư số 25/2002/TT-BTC, đây là điểm mở rộng quyền hạn các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập trong việc thực thi nhiệm vụ. 1.4.1.2. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế và nhân sự - Về tổ chức bộ máy: Để thực hiện các hoạt động giáo dục - đào tạo do đơn vị tổ chức ngoài nhiệm vụ Nhà nước giao, Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập được quyền thành lập mới các tổ chức sự nghiệp, và quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể, quy chế hoạt động của các tổ chức này; đồng thời được quyền sáp nhập, giải thể các tổ chức trực thuộc nếu xét thấy tổ chức đó hoạt động không hữu hiệu. Đây là quy định mới so với Nghị định 10/2002/NĐ-CP và Thông tư số 25/2002/TT- BTC, giúp cho các đơn vị tự chủ trong tổ chức bộ máy nhằm thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả. - Về biên chế: + Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm chi phí hoạt động, được tự quyết định biên chế. + Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm một phần kinh phí hoạt động, đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao, nhu cầu giải quyết công việc thực tế, định mức chỉ tiêu biên chế và khả năng tài chính của đơn vị, Thủ trưởng đơn vị xây dựng kế hoạch biên chế hàng năm gửi cơ quan chủ quản trực tiếp. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP cho phép mở rộng quyền quyết định biên chế đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động. - Quản lý và sử dụng cán bộ, viên chức: Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập được giao các quyền: . Tuyển dụng cán bộ, viên chức; . Bổ nhiệm ngạch viên chức từ chuyên viên chính trở xuống; . Sắp xếp, bố trí và sử dụng cán bộ, viên chức . Điều động, biệt phái, nghỉ hưu, thôi việc, chấm dứt hợp đồng làm việc, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý theo quy định của pháp luật. . Nâng bậc lương đúng hạn, trước thời hạn trong cùng ngạch, tiếp nhận và nâng ngạch từ chuyên viên chính trở xuống. . Được quyết định cử viên chức của đơn vị đi công tác, học tập ở nước ngoài để nâng cao trình độ chuyên môn, được các cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục xuất, nhập cảnh theo quy định của pháp luật. . Được quyết định ký hợp đồng thuê, khoán công việc đối với những công việc không cần thiết bố trí biên chế thường xuyên, ký hợp đồng và các hình thức hợp tác khác với chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước để đáp ứng yêu cầu chuyên môn của đơn vị. 1.4.1.3. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính Cải cách tài chính công là một trong bốn trọng tâm cơ bản của cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, trong đó, cải cách cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp là bước đột phá. Do đó, ngày 16/01/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu nhằm thực hiện việc trao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị này. Tiếp đó, để mở rộng phạm vi, đối tượng thực hiện quyền tự chủ, ngày 25/4/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP về việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Trên cơ sở pháp lý này, quyền tự chủ về tài chính được mở rộng gắn với tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập ngày càng cao. - Mở tài khoản, nghĩa vụ: + Các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản kinh phí thuộc ngân sách nhà nước theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi của hoạt động giáo dục- đào tạo. + Các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách nhà nước; thực hiện việc lập dự toán, chấp hành dự toán, hạch toán kế toán và quyết toán thu, chi ngân sách nhà nước theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước, Luật Kế toán, các văn bản hướng dẫn Luật và các quy định hiện hành của Nhà nước. - Nguồn tài chính + Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm gồm có: . Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp; . Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp: Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo quy định của Nhà nước; thu từ hợp đồng đào tạo với các tổ chức trong và ngoài nước; thu từ các hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thực hành thực tập, sản phẩm thí nghiệm; thu từ các hợp đồng dịch vụ khoa học và công nghệ; và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, đối với những đơn vị tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động còn có thêm nguồn lãi được chia từ các hoạt động liên kết, lãi tiền gửi ngân hàng từ các hoạt động dịch vụ. . Nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng, cho (nếu có) theo quy định của pháp luật. . Nguồn thu khác như nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, liên kết theo quy định của pháp luật. + Tự chủ về mức thu: . Thu đúng, đủ theo quy định của Nhà nước; thực hiện miễn, giảm học phí cho các đối tượng chính sách- xã hội theo quy định của nhà nước. . Đơn vị thu theo dự toán được cơ quan tài chính cùng cấp thẩm định chấp thuận, nếu Nhà nước chưa quy định mức thu. . Căn cứ nhu cầu chi phục vụ cho hoạt động, khả năng đóng góp của xã hội, đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động quyết định mức thu cụ thể cho phù hợp nhưng không được vượt quá khung mức thu do cơ quan có thẩm quyền quy định. . Mức thu từ Hợp đồng đào tạo, liên kết đào tạo, được thực hiện theo nguyên tắc đảm bảo đủ bù đắp chi phí và có tích lũy. - Nguồn tài chính được giao để thực hiện chế độ tự chủ: + Các đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động, đơn vị do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động sẽ được cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp giao kinh phí hoạt động trên cơ sở dự toán hàng năm được cấp thẩm quyền phê duyệt. + Nội dung chi của nguồn kinh phí này bao gồm: . Các khoản chi thanh toán cho cá nhân: tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, các khoản đóng góp theo lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và các khoản thanh toán khác cho cá nhân theo quy định. . Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn: Đây là khoản chi mang tính đặc thù của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực sự nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng, hiệu quả dịch vụ công mà ngành, lĩnh vực đó cung cấp cho xã hội. Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn bao gồm: thanh toán dịch vụ công cộng, vật tư văn phòng, thông tin liên lạc, hội nghị, công tác phí, chi phí thuê mướn, mua sắm, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định,... . Các khoản chi có tính chất thường xuyên khác. + Tự chủ mức chi: Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động được quyết định chi đối với các khoản chi thường xuyên về mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ có thể cao hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, Thủ trưởng đơn vị chỉ được quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ nhưng tối đa không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập căn cứ vào tính chất công việc được quyết định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc; đồng thời, được quyết định đầu tư xây dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn tài sản theo quy định của pháp luật. - Nguồn tài chính được giao nhưng không thực hiện chế độ tự chủ: + Hàng năm, đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập còn được giao kinh phí để thực hiện một số nhiệm vụ theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền giao nhưng không thực hiện tự chủ: . Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ. . Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức; thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao; thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định (nếu có). . Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động giáo dục- đào tạo theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong phạm vi dự toán được giao hàng năm. . Các kinh phí thực hiện các nhiệm vụ không thường xuyên khác (nếu có). Ngoài ra, đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động còn được ngân sách nhà nước cấp kinh phí khi thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt hàng. + Nội dung chi và mức chi được thực hiện theo quy định của Nhà nước. - Tiền lương, tiền công và thu nhập Tiền lương, tiền công là khoản thu nhập mà người lao động nhận được do kết quả lao động mang lại. Vì vậy, nó có tác dụng tạo ra động lực khuyến khích người lao động nâng cao năng suất và chất lượng lao động. Cơ chế tự chủ tài chính của Nhà nước đã tạo ra quyền chủ động cho các đơn vị sự nghiệp có thu được phép xây dựng kế hoạch và quỹ tiền lương, phương án chi trả tiền lương theo kết quả hoạt động tài chính và kết quả lao động. Đây là bước đột phá quan trọng nhằm khắc phục quy định cứng nhắc của hệ thống thang bảng lương hành chính sự nghiệp. Tiền lương, tiền công của cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập được tính theo cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định. Ngoài ra, đối với đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động còn được trả lương cho cán bộ, viên chức theo đơn giá tiền lương hay chế độ tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước tuỳ theo từng hoạt động. Sau khi trích lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp (tối thiểu 25%), các đơn vị được quyền quyết định tổng mức thu nhập trong năm cho người lao động. Tuy nhiên, tổng mức thu nhập tối đa không quá 3 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm do nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động; còn đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, tổng mức chi trả thu nhập trong năm của đơn vị tối đa không quá 2 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định. Việc chi trả thu nhập cho người lao động trong đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập được thực hiện theo nguyên tắc: người nào có hiệu suất công tác cao, đóng góp nhiều cho việc tăng thu, tiết kiệm chi được trả nhiều hơn. Thủ trưởng đơn vị chi trả thu nhập theo Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. Tiền lương tăng thêm theo chế độ nhà nước quy định do đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm từ các khoản thu sự nghiệp và các khoản thu khác theo quy định của Chính phủ. Nếu thiếu, sẽ được ngân sách nhà nước xem xét, bổ sung để bảo đảm mức lương tối thiểu chung theo quy định của Chính phủ. Còn đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, Chính phủ sẽ bảo đảm mức lương tối thiểu chung theo quy định của Chính phủ. - Sử dụng kết quả hoạt động tài chính trong năm + Trích lập các quỹ: Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp được trích tối thiểu là 25%; Quỹ khen thương và Quỹ phúc lợi được trích tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền công và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm. Đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động còn được trích lập Quỹ dự phòng ổn định thu nhập. Mức trả thu nhập tăng thêm, trích lập các quỹ do Thủ trưởng đơn vị quyết định theo Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. Hàng năm, sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp khác theo quy định; phần kinh phí tiết kiệm chi, chênh lệch thu lớn hơn chi của hoạt động dịch vụ (nếu có), đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động được sử dụng theo trình tự: . Chi trả thu nhập tăng thêm cho người lao động; Chi khen thưởng cho tập thể, cá nhân trong và ngoài đơn vị theo hiệu quả công việc và thành tích đóng góp vào hoạt động của đơn vị; Chi phúc lợi, trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao động, kể cả trường hợp nghỉ hưu, nghỉ mất sức; Chi thêm cho người lao động trong biên chế thực hiện tinh giản biên chế. Mức chi cụ thể do Thủ trưởng đơn vị quyết định theo Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị; . Chi tăng cường cơ sở vật chất của đơn vị. . Những đơn vị xét thấy khả năng tiết kiệm kinh phí không ổn định, có thể lập Quỹ dự phòng ổn định thu nhập để bảo đảm thu nhập cho người lao động. Đơn vị không được chi trả thu nhập tăng thêm và trích lập các quỹ từ các nguồn kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức; thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt hàng; thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao; thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định (nếu có); từ vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắn trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động giáo dục- đào tạo theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong phạm vi dự toán được giao hàng năm và các kinh phí khác (nếu có). Và kinh phí của nhiệm vụ phải chuyển tiếp sang năm sau thực hiện. + Sử dụng các quỹ Việc sử dụng Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp do Thủ trưởng đơn vị quyết định theo Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. Quỹ dự phòng ổn định thu nhập để bảo đảm thu nhập cho người lao động. Quỹ khen thường dùng để thưởng định kỳ, đột xuất cho tập thể, cá nhân trong và ngoài đơn vị theo hiệu quả công việc và thành tích đóng góp vào hoạt động của đơn vị. Mức thưởng do Thủ trưởng đơn vị quyết định theo Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. Quỹ phúc lợi sử dụng để xây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi, chi cho các hoạt động phúc lợi tập thể của người lao động trong đơn vị; trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao động, kể cả trường hợp nghỉ hưu, nghỉ mất sức; chi thêm cho người lao động trong biên chế thực hiện tinh giản biên chế. Việc sử dụng Quỹ này do Thủ trưởng đơn vị quyết định theo Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. Như vậy, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính được đổi mới rất nhiều. Quyền tự chủ mở rộng hơn gắn với tự chịu trách nhiệm, nhất là nguồn tài chính và việc sử dụng kết quả hoạt động tài chính. Điều này thể hiện rõ quan điểm khuyến khích tăng thu, tiết kiệm chi của Nhà nước được thể hiện ở một số nội dung cơ bản: * Về tiền lương, tiền công: Đã phân biệt tiền lương, tiền công của bộ phận cán bộ, viên chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhà nước giao được tính theo cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định; còn tiền lương của cán bộ, nhân viên hoạt động dịch vụ nếu hạch toán riêng chi phí thì được tính theo chế độ tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước. * Về sử dụng kết quả hoạt động tài chính: Khi kết thúc năm, đơn vị được xác định chênh lệch thu chi của 3 hoạt động (hoạt động thường xuyên, hoạt động theo đơn đặt hàng, hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ), tuỳ thuộc chênh lệch thu lớn hơn chi mà xử lý: + Nếu kết quả tài chính lớn hơn 1 lần quỹ lương cấp bậc, chức vụ trong năm thì trích trước tối thiếu 25% để lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, kế tiếp là trả thu nhập tăng thêm cho người lao động theo mức tối đa không quá 2 lần quỹ lương cấp bậc, chức vụ đối với đơn vị tự bảo đảm một phần kinh phí hoạt động và không khống chế đối với đơn vị tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động. Số còn lại trích lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ ổn định thu nhập. Mức trích tối đa 2 quỹ (khen thưởng, phúc lợi) là 3 tháng lương và thu nhập tăng thêm bình quân trong năm. + Nếu kết quả tài chính nhỏ hơn 1 lần quỹ lương cấp bậc, chức vụ trong năm thì ưu tiên trả thu nhập tăng thêm theo quy định, số còn lại trích lập các quỹ. Riêng đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thì tiền lương, tiền công và thu nhập được xác định tổng mức chi trả thu nhập trong năm tối đa không quá 1 lần quỹ lương cấp bậc, chức vụ. Về kinh phí tiết kiệm, dùng để trả thu nhập tăng thêm, chi khen thưởng, chi phúc lợi, chi tăng cường cơ sở vật chất, lập quỹ ổn định thu nhập. 1.4.2. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cá nhân và từng đơn vị trực thuộc Trên là quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm chung của các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập với quyền và trách nhiệm chủ yếu của Thủ trưởng đơn vị. Còn cơ chế hoạt động của cá nhân và từng đơn vị trực thuộc trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập được thực hiện dưới sự quản lý và lãnh đạo của Ban Lãnh đạo, Đảng uỷ nhà trường, tuân thủ các quy định của pháp luật thể hiện trong Luật Giáo dục, Điều lệ nhà nước và các văn bản về tự chủ tài chính, gồm: - Cá nhân, đơn vị có quyền chủ động trong việc xây dựng chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động phù hợp với kế hoạch phát triển của nhà trường; chủ động tìm kiếm và được nhà nước tạo điều kiện, phương tiện nhằm thực hiện tốt các mục tiêu, kế hoạch đã đề ra. - Cá nhân, đơn vị được quyền chủ động lập kế hoạch kinh phí dựa trên nhu cầu hoạt động của mình. Nhà trường phân bổ kinh phí công khai, dựa trên hiệu quả hoạt động của các đơn vị. - Việc thanh quyết toán kinh phí được thực hiện theo quy định về tài chính đúng thời hạn. Phòng kế hoạch-tài chính có trách nhiệm soạn thảo quy trình thanh quyết toán, các hướng dẫn, các biểu mẫu kế toán để cung cấp cho các đơn vị và cá nhân, có các hỗ trợ tư vấn kịp thời. - Các đơn vị chịu trách nhiệm trước Lãnh đạo nhà trường, học sinh, sinh viên và xã hội về chất lượng hoạt động của mình. Nếu chất lượng hoạt động của đơn vị không được thị trường công nhận, dẫn đến sự hao tổn kinh phí cho nhà trường, cho Nhà nước và cá nhân người học thì đơn vị đó có trách nhiệm đền bù theo quy định. - Nếu các đơn vị, cá nhân hoạt động có chất lượng và hiệu quả thì sẽ được khen thưởng theo quy định của Quy chế chi tiêu nội bộ. - Các đơn vị được quyền chủ động ký kết các hợp đồng giảng dạy, nghiên cứu khoa học, biên soạn chương trình và tài liệu để giảm nhẹ công việc cho Ban Lãnh đạo. - Thủ tục hành chính phải gọn nhẹ, việc trả lời và hoàn thành các thủ tục cho cá nhân, đơn vị, ngưòi học và cán bộ trong, ngoài trường phải nhanh chóng, đúng thời hạn quy định, không được để lâu, không gây phiền hà, rắc rối. - Giao tiếp trong nhà trường phải cởi mở, lịch sự và nhẹ nhàng. - Các cán bộ, giáo viên được quyền tự do phát biểu ý kiến của mình mà không bị trù dập hay ác cảm. - Các đơn vị, cá nhân được lãnh đạo nhà trường phát huy tối đa mọi tiềm năng để cung cấp các dịch vụ tốt nhất và tạo được nhiều nguồn thu cho nhà trường. - Các đơn vị cá nhân, các bộ phận của nhà trường hoạt động hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, không được phép cạnh tranh nội bộ dưới bất kỳ hình thức nào. Đây chính là cách thức để giúp cá nhân, tổ chức trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập có điều kiện nâng cao ý thức trách nhiệm và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình. 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và các lĩnh vực thực hiện quyền tự chủ của các các cơ sở đào tạo đại học công lập 1.5.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các các cơ sở đào tạo đại học công lập 1.5.1.1. Vai trò của Nhà nước Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ trực tiếp định hướng cho giáo dục đại học, định ra chiến lược phát triển giáo dục đại học bằng những mục tiêu ưu tiên với những biện pháp thực hiện phù hợp nhằm chuyển hướng từ phát triển quy mô sang yếu tố chất lượng và coi chất lượng là sự sống còn của các trường đại học. 1.5.1.2. Vai trò của thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yếu tố thị trường sức lao động có tính chất quyết định đến hoạt động của các trường đại học. Thị trường lao động sẽ góp phần quan trọng đến sự phát triển nhanh, chậm, thậm chí đến sự tồn tại của một trường đại học thông qua sự đòi hỏi về tính phù hợp cả số lượng lẫn chất lượng đào tạo của từng trường đại học, buộc các trường phải luôn gắn kết mật thiết với nhu cầu và những biến đổi của thị trường lao động. 1.5.1.3. Xã hội hoá giáo dục Xã hội hoá giáo dục đại học là yếu tố quan trọng giúp giáo dục đại học phát triển. Sự tham gia của xã hội vào hoạt động của trường đại học giúp cho trường đại học gắn với những nhu cầu đòi hỏi của xã hội, tự kiểm định được toàn bộ hoạt động của mình, dựa vào việc khai thác nguồn lực tiềm năng đa phương từ các tổ chức, cá nhân trong xã hội để phát triển. 1.5.2. Các lĩnh vực thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các cơ sở đào tạo đại học công lập Trao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo đại học công lập có nghĩa là: - Trao cho cơ sở đào tạo đại học quyền tuyển chọn người học và số lượng người học, thời điểm tuyển chọn và cách thức tuyển chọn phù hợp tiêu chí của từng trường; - Cơ sở đào tạo đại học có quyền quyết định nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy để đạt được các mục tiêu, cách thức đánh giá kết quả học tập; quyết định ngành học phù hợp với khả năng của trường; - Cơ sở đào tạo đại học có quyền quyết định về nhân sự (tuyển chọn, bố trí) để hoàn thành mục tiêu của nhà trường; - Cơ sở đào tạo đại học có quyền quyết định việc thu- chi tài chính, tức là có quyền đề ra mức học phí và cách thức huy động tài chính cũng như chi trả lương và các khoản đầu tư khác; - Cơ sở đào tạo đại học còn có quyền “tự do về học thuật”. Đây chính là yếu tố quan trọng nhất của việc thực hiện quyền tự chủ đại học. Để thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trường đại học cần được thực hiện quyền tự chủ trên các lĩnh vực: - Tổ chức và biên chế; - Giảng viên đại học; - Tài chính; - Định hướng phát triển nhà trường; - Quan hệ quốc tế; - Chế độ trách nhiệm xã hội. 1.6. Kinh nghiệm thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong một số cơ sở đào tạo công lập ở nước ngoài Hầu hết các quốc gia đều coi giáo dục là một lĩnh vực công do Nhà nước đảm nhiệm, vì nó tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng quyết định sự phát triển của đất nước. ở Nhật, các trường quốc lập đều có tư cách pháp nhân nên họ được tự chủ hoàn toàn trong hoạt động giáo dục của trường về tổ chức nhân sự, phân bổ ngân sách, tổ chức giáo dục, nghiên cứu. Cán bộ, giáo viên của các trường không còn là công chức nhà nước. Các trường đại học tự quyết định nhân sự cán bộ, giáo viên và cán bộ hành chính cấp cao. Hiệu trưởng có quyền hạn và trách nhiệm rất lớn trong việc điều hành và quyết định các hoạt động giáo dục của trường. Các trường đều phải thể hiện tính minh bạch và công khai cao. Chính phủ Nhật Bản đã dùng WTO để gây áp lực cải cách giáo dục đại học trong nước. Những năm đầu của thập niên 90, các trường đại học ở Trung Quốc bắt đầu thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Quy định mở rộng quyền tự chủ đặt ra yêu cầu bắt buộc đối với các trường đại học, cao đẳng là phải đảm bảo chấp hành chính sách pháp lệnh, kế hoạch thống nhất của Nhà nước. Quy định cho phép trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các trường có quyền thực hiện liên kết giáo dục, chủ động tiến hành cải cách nội dung và phương pháp giảng dạy, tự tuyển lựa và biên soạn giáo trình,...; có quyền bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo từ Phó hiệu trưởng trở xuống, một số trường còn có quyền thẩm định tư cách giáo sư, phó giáo sư. Vào những năm này, ở Trung Quốc đã có 103 trường thực hiện chế độ trách nhiệm Hiệu trưởng, nhiều trường thực hiện rộng rãi chế độ trách nhiệm Chủ nhiệm khoa. Những cải cách này đã đột phá vào cục diện hạn chế của thể chế lãnh đạo của thời gian trước, khai thác tích cực và mở rộng quy mô liên kết ngang trong hệ thống để nâng cao hiệu quả nghiên cứu cũng như dạy và học. Một trong những nhiệm vụ được ưu tiên trong quá trình cải cách giáo dục ở Trung Quốc là xây dựng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, đề ra những chính sách động viên toàn diện khả năng của đội ngũ này. ở Singapo, các trường đều có quyền tự chủ để tăng khả năng cạnh tranh với quốc tế. Họ được tạo điều kiện để khẳng định uy tín, chất lượng, thương hiệu của trường. Giáo dục không đặt nặng việc truyền thụ kiến thức mà giúp người học am hiểu về giá trị thực sự của con người mình, phát huy tiềm năng của con người để thích ứng với nghề nghiệp và cuộc sống. Do được tự quyết định, các trường thu hút chất xám bằng cách thuê giáo sư, chuyên gia nước ngoài làm việc tại trường và trả bằng lương quốc tế, đào tạo cán bộ giảng dạy và nghiên cứu trong và ngoài nước để phát huy tính cạnh tranh. Mĩ quản lý giáo dục đào tạo theo mô hình tháp xuôi. Càng ở cấp thấp, càng có nhiều quyền tự chủ. Giáo viên có quyền lớn nhất trong việc quyết định dạy gì, dạy như thế nào. Chính phủ liên bang đứng trên chóp tháp, chỉ có tầm ảnh hưởng rất nhỏ. Chính phủ phân nhánh quản lý xuống từng bang, mỗi bang lại phân nhánh quản lý xuống từng trường. Mỗi trường có Hội đồng trường (hay còn gọi là Uỷ ban quản trị), đại diện cho quyền lợi của người dân. Hội đồng này có trách nhiệm yêu cầu hiệu trưởng đưa ra những chính sách để đáp ứng yêu cầu của cộng đồng địa phương. Hiệu trưởng lại cụ thể hoá những yêu cầu xuống các khoa. Khoa có quyền quyết định môn học, sách học. Giảng viên có quyền lựa chọn cách dạy cho phù hợp. Chỉ với một nền duy nhất là thông tin chung, từ đó mỗi trường tự quyết định dạy cái gì và dạy như thế nào. Trên cơ sở liên kết, tham khảo ý kiến của các doanh nghiệp về những vị trí cần đào tạo, cách thức đào tạo,... từ đó, các trường sẽ đề ra kế hoạch đào tạo. Đôi khi các doanh nghiệp này cũng tài trợ cho trường một khoản tiền vì số tiền Chính phủ cấp không đủ cho trường hoạt động. Có thể coi đây là một dạng “đặt hàng” của các doanh nghiệp. Như vậy, trường được quyền tự chủ trong liên kết với doanh nghiệp để đưa ra chương trình đào tạo phù hợp nhất với yêu cầu thực tế. Các đại học Mỹ được quyết định toàn bộ trong mọi việc, từ tuyển sinh, tuyển dụng, bổ nhiệm giáo sư, mở ngành đào tạo, định mức học phí. Tự chủ tài chính đã cho phép các trường thuê giảng viên hàng đầu để cung cấp đào tạo, nghiên cứu có chất lượng. Hầu hết các phát minh, sáng kiến đều từ kết quả nghiên cứu của các trường đại học và là nguồn thu đáng kể của nhà nước. Hơn 170 trường đại học có các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh và hàng chục các trường có quỹ đầu tư riêng. Cứ 10 năm một lần, các trường phải trải qua một kỳ kiểm tra chất lượng được tổ chức bởi một hội đồng độc lập, không phải thuộc Chính phủ hay thuộc bang. Điều duy nhất Chính phủ quản lý là chất lượng nguồn nhân lực mà trường đào tạo ra, còn đào tạo như thế nào là việc của trường, Chính phủ không can thiệp. Các đại học định hướng nghiên cứu có quyền tự chủ cao nhất, thấp nhất là ở các trường cao đẳng cộng đồng. Tuy nhiên, ở nhiều bang, Nhà nước vẫn đưa ra trần học phí. Mô hình Hội đồng quản trị của trường học ở New Zealand thường có từ 3 đến 7 người, gồm: - Chủ tịch Hội đồng (không phải là hiệu trưởng, cán bộ, giáo viên trường); - Hiệu trưởng nhà trường; - Đại diện cán bộ, giáo viên nhà trường; - Thành phần khác trong cộng đồng dân cư; - Đại diện học sinh (chỉ áp dụng với cấp trung học phổ thông). Các thành viên HĐQT đều phải qua lớp huấn luyện về quản lý trường học. Mỗi HĐQT đều có bản cam kết với Bộ Giáo dục về thực hiện các hoạt động giáo dục trong nhà trường theo đúng hướng dẫn. HĐQT có thể mời hiệu trưởng trường khác có kinh nghiệm hoặc hiệu trưởng đã nghỉ hưu tư vấn đánh giá công tác của hiệu trưởng đương nhiệm, trường hợp hiệu trưởng hay giáo viên, nhân viên không hoàn thành nhiệm vụ có thể bị sa thải. Tuy nhiên HĐQT phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình tuyển chọn, nếu sa thải không đúng có thể bị kiện ra toà. Trường hợp HĐQT không hoàn thành nhiệm vụ hoặc để xảy ra tình hình đe doạn sự an toàn của học sinh, sinh viên, ngay lập tức Bộ Giáo dục sẽ can thiệp giải tán HĐQT, Bộ Giáo dục cử đặc phái viên điều hành công việc của HĐQT lâm thời cho tới nhiệm kỳ bầu HĐQT mới hoặc khi tình hình ổn định, trường hợp chưa đến mức phải giải tán HĐQT, Bộ giáo dục có thể cử đặc phải viên tư vấn, hỗ trợ cho HĐQT. Mô hình quản lý của NewZealand sẽ có những thách thức đối với các hiệu trưởng. Vai trò của Hội đồng quản trị là hết sức to lớn nên khâu lựa chọn các thành viên, nhất là Chủ tịch Hội đồng quản trị được làm cẩn thận, chặt chẽ. Các thành viên của Hội đồng quản trị được đào tạo về nghiệp vụ quản lý trường học và thường xuyên cập nhật các chủ trương, chính sách của Chính phủ. HĐQT có quyền quyết định các vấn đề: Công tác tổ chức; Triết lý giáo dục và mục tiêu giáo dục không trái với quy định của bộ giáo dục; Nội dung, chương trình dạy-học và giáo dục trong nhà trường; Phê chuẩn báo cáo hàng năm của hiệu trưởng; Sử dụng ngân sách; Quyết định mức lương hiệu trưởng, lương cho nhân viên phục vụ và các khoản chi khác. HĐQT hoạt động theo nguyên tắc quyết định các vấn đề bằng biểu quyết theo đa số trong đó phiếu của Chủ tịch Hội đồng có giá trị bằng 2 phiếu của các thành viên khác, thành viên Hội đồng là học sinh được quyền tham gia ý kiến và các quyền khác nhưng không có quyền biểu quyết. Sự liên kết đào tạo nghiên cứu-sản xuất giữa doanh nghiệp và các cơ sở giáo dục đại học, một mặt nâng cao hiệu quả đào tạo, tạo ra hiệu quả kinh tế, nâng cao đời sống cho cán bộ, viên chức khu vực giáo dục đại học, mặt khác cũng góp phần giảm gánh nặng cho NSNN. Mô hình giáo dục ở Mỹ, New Zealand, quản lý theo mô hình tháp xuôi, càng ở cấp thấp, càng có nhiều quyền tự chủ. Giáo viên có quyền rất lớn trong việc quyết định dạy gì, dạy như thế nào. Cơ quan quản lý nhà nước (đặc biệt là Chính phủ) đứng trên chóp tháp, chỉ có tầm ảnh hưởng nhỏ, tức là, Nhà nước chỉ hoạch định các chính sách vĩ mô về giáo dục và đồng thời gián tiếp bằng chính sách đó trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm đạt được mục tiêu đã định của quốc gia theo các hình thức phân quyền phù hợp. Một nghiên cứu khảo sát gần đây về tự chủ đại học ở 20 nước trên thế giới đã đưa ra kết luận: Về thẩm quyền và thực tế, nhìn chung, mức độ can thiệp của Nhà nước có thể chia thành 3 nhóm: Nhiều nhất là ở các nước châu á (trừ một số trường hợp riêng ở Singapore và Malaysia gần đây), trung bình là ở các nước châu Âu, ít nhất là ở các nước hệ Anh-Mĩ. Điều đó có nghĩa là đại học ở các nước hệ Anh-Mĩ có quyền tự chủ cao nhất. Như vậy, định hướng thị trường dẫn đến sự thay đổi những thành phần của một chương trình cải cách như: thay đổi một số gánh nặng chi phí từ người đóng thuế sang cho phụ huynh, học sinh - người hưởng lợi cuối cùng của giáo dục đại hoc. Định hướng thị trường trong giáo dục đại học bao gồm: thu học phí, lệ phí, bán kết quả nghiên cứu khoa học và giáo dục thông qua khế ước, hợp đồng và đào tạo cho doanh nghiệp,... Hiện nay, giáo dục đại học được ưu tiên trong hệ thống giáo dục của nhiều nước. Do vậy xu hướng phát triển giáo dục đại học chung hiện nay ở hầu hết các nước đều phát triển theo định hướng thị trường. Để thực hiện quá trình phát triển giáo dục đại học theo định hướng thị trường, các nước phải tiến hành cải cách tài chính và quản lý trong khu vực giáo dục đại học. Tuy các nước có sự khác nhau về chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, nhưng nhìn chung vẫn có 3 đặc trưng nổi bật chung trong tiến trình cải cách là: - Bổ sung thu nhập công lập hoặc thu nhập của Chính phủ bằng thu nhập không phải của Chính phủ. - Cải cách tài chính khu vực công lập. - Thay đổi căn bản các trường đại học và các cơ sở giáo dục đại học khác khi Chính phủ chuyển gánh nặng chi phí đó sang cho học sinh. Hình thức phổ biến là: - Tăng học phí và trả đầy đủ lệ phí, chi phí cho giáo dục đại học mà từ trước đến nay vẫn được ngân sách nhà nước hỗ trợ là chủ yếu. - Giới thiệu những chương trình trợ cấp hoặc cho vay đối với học sinh và gia đình họ. - Khuyến khích giáo dục đại học tư nhân hỗ trợ chủ yếu thông qua học phí, lệ phí. - Khuyến khích các hoạt động doanh nghiệp như là 1 phần trong công việc của giáo dục hoặc của trường đại học. - Khuyến khích lòng từ thiện của các nhà hảo tâm hoặc của các tổ chức khác. Thực hiện chủ trương phân cấp và giao quyền tự chủ ngày càng nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo. Đây là chủ trương hết sức đúng đắn nhằm tạo động lực phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học. Qua nghiên cứu mô hình quản lý trường học ở một số nước, chúng ta có thể rút ra một số bài học khi triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập như sau: - Mô hình quản lý trường học ở nhiều nước đã đem lại sự tự chủ thực sự và toàn diện cho các nhà trường về tổ chức, kinh phí, cơ sở vật chất, mục tiêu, phương pháp giáo dục,... nhưng không đi chệch hướng đường lối, tuyên ngôn giáo dục của nhà nước. - Phát huy cao sự đóng góp của cộng đồng dân cư cho giáo dục không chỉ bằng tiền bạc mà cả tinh thần trách nhiệm đối với việc quản lý và công tác giảng dạy, giáo dục học sinh, sinh viên. - Khắc phục được sự chậm trễ về triển khai các chính sách giáo dục, kích thích sự sáng tạo và phong cách làm việc hiệu quả của đội ngũ các nhà quản lý giáo dục và giảng viên. - Chính phủ không phải là không can thiệp vào việc điều hành của các cơ sở giáo dục mà là “mức độ can thiệp" của Nhà nước. Trong các hoạt động của trường đại học, có những mặt vẫn cần có sự can thiệp nhất định của Nhà nước như “chuẩn mực học thuật”, “tài chính”,… nhưng cũng có những mặt nói chung không nên có sự can thiệp như “nhân sự, giảng viên”, “chương trình, giảng dạy”, "phương pháp giảng dạy, học tập",… Chương 2 Thực trạng triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các cơ sở đào tạo đại học công lập 2.1. Tình hình triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các cơ sở đào tạo đại học công lập 2.1.1. Sự hình thành và phát triển hệ thống cơ sở đào tạo đại học công lập Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học đã được mở ra nhằm đáp ứng yêu cầu công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Lúc đó, cả nước có 4 trường đại học và phân hiệu với 1.191 sinh viên dài hạn tập trung và 40 cán bộ giảng dạy. Sự phát triển nguồn nhân lực cao với các trường đại học, cao đẳng bắt đầu phát triển từ năm học 1956 -1957 và được thể hiện qua bảng số liệu sau: Năm học Số trường ĐH Số sinh viên Số giảng viên 1956 – 1957 6 3.639 254 1960 – 1961 9 8.223 1.260 1965 -1966 23 34.213 3.590 1970 - 1971 41 69.902 7.807 1974 - 1975 41 55.701 8.658 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thống kê giáo dục và đào tạo các năm học. Qua bảng số liệu trên, ta thấy: năm học 1974 - 1975 đã có số trường tăng 6,8 lần, số sinh viên tăng 11,8 lần và số giảng viên tăng 34 lần so với năm học 1956 - 1957. Như vậy, đội ngũ sinh viên, giảng viên đại học đã tăng lên nhanh chóng làm chuyển biến nguồn đào tạo nhân lực để phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngoài đào tạo đại học, cao đẳng trong nước, Nhà nước đã gửi sinh viên đi đào tạo ở các trường, viện nước ngoài. Sau ngày giải phóng miền Nam (1975), nhu cầu học tập ở các trường đại học, cao đẳng ngày càng cao. Để đáp ứng tăng quy mô đào tạo, nhà nước đã có chủ trương mở rộng hệ tại chức và phải đảm bảo chương trình học như dài hạn tập trung. Điều quan trọng là từ năm 1976, đào tạo trên đại học được hình thành, tạo điều kiện để nước ta tự đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học cấp cao. Tuy nhiên, sự phát triển quy mô và chất lượng giáo dục thời kỳ này đã gặp nhiều khó khăn do điều kiện đất nước có nhiều khó khăn về kinh tế, chiến tranh biên giới, Mĩ cấm vận và sự cắt giảm viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Các trường đại học, cao đẳng cũng gặp nhiều khó khăn về đời sống, cơ sở vật chất, quy mô đào tạo bị thu hẹp. Nhiều giảng viên đã phải chuyển nghề, chuyển cơ quan do đời sống khó khăn. Đại hội VI của Đảng, tháng 12 năm 1986 là mốc son đánh dấu sự nghiệp đổi mới và cũng là thời kỳ mở ra con đường phát triển của nền giáo dục nước nhà. Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng được điều chỉnh, tổ chức, sắp xếp lại. Hai đại học quốc gia và các trường đại học vùng được thành lập. Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập theo Nghị định số 97/CP ngày 10/12/1993 bao gồm Trường đại học Tổng hợp, Trường đại học Sư phạm Hà Nội I và Trường đại học Sư phạm Ngoại ngữ. Tiếp theo là Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập theo Nghị định số 16/CP ngày 27/01/1995 bao gồm Trường đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Trường đại học Sư phạm kỹ thuật Thủ Đức, Trường đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, Trường đại học Nông - Lâm, Trường đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường đại học Kiến trúc và Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Các trường đại học khu vực như đại học Huế, đại học Thái Nguyên, đại học Đà Nẵng cũng được thành lập. Hệ thống trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực, đại học cộng đồng và đại học chuyên ngành mở ra đa dạng. Hoạt động nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất trong các trường đại học đã thu được nhiều kết quả tốt trong việc kết hợp giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học, phục vụ sản xuất và đời sống. Tháng 12 năm 1996, Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII về giáo dục và đào tạo đã đưa ra những định hướng phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với việc đa dạng hoá các loại hình đào tạo, trên cơ sở nhà nước thống nhất quản lý, tạo cơ hội cho mọi người có thể lựa chọn cách học phù hợp với yêu cầu và hoàn cảnh của mình. Bảng 2.1: Số lượng giảng viên và sinh viên cao đẳng, đại học 1986-2006 Năm học Số trường Số giảng viên (nghìn người) Số sinh viên hệ dài hạn (nghìn sinh viên) Số sinh viên bình quân/vạn dân (người) 1986-1987 96 19,2 91,2 15 1987-1988 100 19,8 91,2 15 1988-1989 103 19,9 100,3 16 1989-1990 103 20,7 104,6 16 1990-1991 106 21,9 93,0 14 1991-1992 107 21,7 90,0 13 1992-1993 109 21,0 116,9 17 1993-1994 109 21,2 122,9 18 1994-1995 109 21,7 136,9 19 1995-1996 109 22,8 173,1 24 1996-1997 96 23,5 236,3 32 1997-1998 110 24,0 357,6 48 1998-1999 123 26,1 401,7 53 1999-2000 131 27,1 521,4 55 2000-2001 178 32,4 552,5 71 2001-2002 191 35,9 579,2 74 2002-2003 202 38,7 604,4 76 2003-2004 214 40,0 653,7 81 2004-2005 230 47,6 729,4 89 2005-2006 255 48,6 752,4 91 Nguồn: Tổng cục thống kê, Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển 1986-2005. Biểu đồ 2.1: Sự tăng quy mô giáo dục đại học Sè t r ­ ê ng ®¹ i hä c , c a o ®¼ng 96 1 00 10 3 10 3 10 6 10 7 10 9 10 9 10 9 10 9 96 11 0 12 3 13 1 17 8 19 1 20 2 21 4 23 0 25 5 0 50 100 150 200 250 300 19 86 -1 98 7 19 87 -1 98 8 19 88 -1 98 9 19 89 -1 99 0 19 90 -1 99 1 19 91 -1 99 2 19 92 -1 99 3 19 93 -1 99 4 19 94 -1 99 5 19 95 -1 99 6 19 96 -1 99 7 19 97 -1 99 8 19 98 -1 99 9 19 99 -2 00 0 20 00 -2 00 1 20 01 -2 00 2 20 02 -2 00 3 20 03 -2 00 4 20 04 -2 00 5 20 05 -2 00 6 19 .2 19 .8 19 .9 20 .7 21 .9 21 .7 21 .0 21 .2 21 .7 22 .8 23 .5 24 .0 26 .1 27 .1 32 .4 35 .9 38 .7 40 .0 47 .6 48 .6 91 .2 91 .2 10 0. 3 10 4. 6 93 .0 90 .0 11 6. 9 12 2. 9 13 6. 9 17 3. 1 2 36 .3 35 7. 6 40 1. 7 52 1. 4 55 2. 5 57 9. 2 60 4. 4 65 3. 7 72 9. 4 75 2. 4 0 100 200 300 400 500 600 700 800 19 86 -1 98 7 19 88 -1 98 9 19 90 -1 99 1 19 92 -1 99 3 19 94 -1 99 5 19 96 -1 99 7 19 98 -1 99 9 20 00 -2 00 1 20 02 -2 00 3 20 04 -2 00 5 Sè gi¶ng viªn (ngh×n ng- êi) Sè sinh viªn hÖ dµi h¹ n (ngh×n sinh viªn) Qua bảng số liệu trên, ta thấy số giảng viên đại học và cao đẳng năm học 2005-2006 là 48,6 nghìn người, so với năm học 1986-1987 là 19,2 nghìn người, tăng 2,5 lần, trong khi số Số giảng viên, sinh viên sinh viên tăng 8,25 lần; số trường đại học cũng tăng lên đáng kể, nhất là trong 2 năm trở lại đây, Chính phủ đã cho phép thành lập hàng loạt các trường đại học trên cơ sở nâng cấp từ các trường cao đẳng. Tính đến năm học 2007-2008, giảng viên đại học, cao đẳng có trình độ tiến sĩ là 5.882 người (tăng 877 người so với năm học 2006-2007) (Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kết quả 2,5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X). Như vậy, quy mô đào tạo đại học, cao đẳng đã tăng vượt bậc so với đội ngũ giảng viên tăng lên. Tốc độ tăng quy mô sinh viên là rất lớn, trong khi đội ngũ giảng viên đại học, nhất là đội ngũ giảng viên đầu đàn đang rất hẫng hụt vì số giảng viên cao tuổi, được đào tạo bài bản từ nước ngoài phần lớn đã nghỉ hưu, số trẻ mới đào tạo chưa đáp ứng về số lượng và chất lượng. Nền kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi giáo dục phải phát triển đa dạng, linh hoạt, trải rộng theo vùng, lãnh thổ. Để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước có chủ trương đa dạng hoá các loại hình đào tạo, từng bước mở ra các trường, lớp bán công, dân lập, tư thục, đào tạo từ xa,… đồng thời đổi mới cách quản lý, mở rộng dân chủ hoá nhà trường, tăng quyền tự chủ, phân cấp quản lý đối với các cơ sở giáo dục. 2.1.2. Hoạt động quản lý đối với hệ thống cơ sở đào tạo đại học công lập khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Những thành tựu của giáo dục đại học ở Việt Nam trong những năm 1960 đến 1980 cho thấy mô hình quản lý đó là có hiệu quả trong điều kiện nền giáo dục đại học còn non trẻ và số lượng các trường còn ít, với quy mô nhỏ. Từ những năm 1980 đến nay, số trường đại học ở Việt Nam đã tăng lên khá nhiều, do đó cần thay đổi mô hình quản lý và cách thức quản lý cho phù hợp với cơ chế mới. Giáo dục trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung gần như được bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường, ngân sách nhà nước có hạn mà nhu cầu đào tạo lại lớn. Trước thực trạng đó, nhiều giải pháp tình thế như: đa dạng hoá loại hình đào tạo, việc đóng học phí,... được đưa ra. Mở đầu là việc đổi mới tuyển sinh đại học, giao quyền chủ động cho các trường từ năm 1987, từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chỉ tiêu được giao theo kế hoạch cho các trường bằng hệ B (mở rộng) đóng học phí. Ngay từ năm học 1987-1988, đã có 30 trường thu học phí qua hệ đào tạo mở rộng. Mở rộng quy mô, một bộ phận học sinh, sinh viên đóng học phí là khởi đầu của ngành giáo dục hoà nhập vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Việc thành lập Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 1990 là sự đánh dấu về việc thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục, là sự đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển giáo dục. Giai đoạn này đã mở ra các hình thức đào tạo mới như đào tạo từ xa, mở rộng, bằng hai,… Năm học 1997-1998, sinh viên đại học bắt đầu đóng học phí, một bộ phận sinh viên diện chính sách, học giỏi, học khá được xét cấp học bổng. Cũng từ năm học này, hệ đào tạo bằng hai được mở ra để đáp ứng yêu cầu của người học và yêu cầu ngành nghề theo thực tế xã hội. Tháng 4/2001, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX được tiến hành trong trào lưu cách mạng của thiên niên kỷ mới của khoa học công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức và phát triển bền vững. Sự phát triển về quy mô, cơ cấu, chất lượng và hiệu quả giáo dục khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang bộc lộ rõ những mất cân đối cần phải chỉnh sửa. Nhằm đổi mới một bước phương thức quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo có thu, ngày 16/01/2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu nhằm thực hiện việc trao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị này trong việc tổ chức hoạt động, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính của đơn vị. Đây là một bước đổi mới quan trọng trong chính sách quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo có thu thuộc giai đoạn này và bước đầu đã góp phần tích cực trong việc tạo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp đào tạo có thu theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn trong phạm vi đơn vị quản lý; đồng thời, góp phần cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính công. Trong nhiều năm qua, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục ngày một tăng, từ 18% (năm 2006) lên gần 20% (năm 2007) tổng chi ngân sách nhà nước. Với nguồn kinh phí này, ngành giáo dục đã tăng cường được cơ sở vật chất cho nhà trường. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung năm 2008 tăng 8% so với năm 2007. Bảng 2.2: Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học, cao đẳng Năm Tổng chi NSNN cho giáo dục (tỷ đồng) Chi NSNN cho GDĐH, CĐ tỷ đồng % (so với tổng chi NSNN cho GD 2001 15.609 75.0 0,48 2002 20.624 80.0 0,39 2003 22.795 85.0 0,37 2004 32.730 90.0 0,27 2005 41.630 90.0 0,22 2006 55.300 105.0 0,19 2007 66.770 297.0 0,44 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo Giáo dục đại học là một lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao để cung cấp cho xã hội và được ưu tiên ở hầu hết các nước trên thế giới. Do đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, giai đoạn 2006-2020. Đây là văn bản pháp lý có tính toàn diện, triệt để và sâu sắc nhất từ trước đến nay về đổi mới giáo dục đại học Việt Nam. Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan cung cấp ngân sách, bổ nhiệm hiệu trưởng, quản lý chương trình khung, quy định chỉ tiêu tuyển sinh cho từng trường, xét và công nhận các bậc từ phó giáo sư đến giáo sư,... Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) đã hết sức coi trọng phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, coi đây là quyết sách hàng đầu và phải tập trung chỉ đạo quyết liệt việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập không ngừng tìm kiếm biện pháp mở rộng hoạt động dịch vụ, tăng nguồn thu, chi tiêu tiết kiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, ngày 25/4/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP về việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là văn bản pháp lý quan trọng, tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đào tạo công lập phát huy mọi tiềm năng, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.1.3. Tình hình thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các cơ sở đào tạo đại học công lập Hiện nay, cả nước có 311 trường đại học, cao đẳng, trong đó có 277 trường công lập và 34 trường ngoài công lập. Trong số các trường đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ trực tiếp quản lý 92 trường (chiếm 29,6%); các thành phố trực thuộc trung ương quản lý 100 (chiếm 32,2%); các bộ, ngành khác quản lý 119 trường (chiếm 38,2%). Tính đến nay, khoảng 90% cơ sở đào tạo đại học công lập triển khai việc thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy biên chế và tài chính theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Đại học Quốc gia Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 2 đại học lớn trực thuộc Chính phủ đã được trao quyền tự chủ rất lớn trong hoạt động giáo dục đào tạo. Trên cơ sở các văn bản pháp lý của Nhà nước, các trường đại học này đã xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ, Quy chế quản lý và sử dụng tài sản công cho đơn vị mình. Những Quy chế này đều được lấy ý kiến rộng rãi và thông qua cấp chủ quản theo đúng quy định. Tuy nhiên, cơ chế hoạt động và vấn đề chịu trách nhiệm về chất lượng của trường học trước xã hội vẫn chưa được chú ý nhiều. Quá trình thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các trường đại học công lập đang chịu sức ỳ rất lớn từ cả hai phía: Nhà nước và cơ sở đào tạo đại học. Hiện nay, nhiều trường đại học đang chịu sự giám sát quá chặt chẽ của nhiều tầng lớp quản lý trong sự chia nhỏ lẻ của các bộ chủ quản khác nhau; ngay các bộ chủ quản cũng can thiệp quá sâu vào hoạt động của từng trường từ phân bổ tài chính đến chỉ tiêu tuyển sinh, nội dung đào tạo, tuyển dụng nhân sự,... Từ đó, các trường bị hạn chế, mất chủ động trong các hoạt động, điều hành, quản lý, chuyên môn,... làm cho các trường không quan tâm đến trách nhiệm trước xã hội, chỉ quan tâm đối phó với những gì Nhà nước quản lý, còn những gì liên quan đến những người mang lại lợi ích cho nhà trường lại không được quan tâm. 2.2. Thực trạng triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong một số cơ sở đào tạo đại học công lập 2.2.1. Thực trạng thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) 2.2.1.1. Về thực hiện nhiệm vụ ĐHQGHN có một mô hình đặc biệt, có quy chế hoàn toàn khác với điều lệ trường đại học nói chung. ĐHQGHN trực thuộc Chính phủ, được Nhà nước trao quyền tự chủ cao hơn các trường đại học khác trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, tự chủ tài chính và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Đây là lợi thế lớn để ĐHQGHN có điều kiện phát triển ngang tầm khu vực và thế giới, có các trường thành viên đạt tiêu chuẩn quốc tế. Mục tiêu của ĐHQGHN là đến năm 2010, Đại học Quốc gia thuộc "top" đại học tiên tiến trong khu vực Đông Nam á, trong đó có 16 ngành đại học và 23 chuyên ngành đào tạo sau đại học đạt trình độ quốc tế; Đến năm 2020, toàn Đại học Quốc gia sẽ đạt trình độ tiên tiến ở Châu á, trong đó có một số trường đại học thành viên và nhiều ngành, chuyên ngành đạt trình độ quốc tế. ĐHQGHN được quyền thực hiện giảng dạy bất cứ chương trình đào tạo nào trong danh mục của Tổng cục Thống kê, đồng thời có quyền thí điểm cả những chương trình không có trong danh mục và sau một thời gian thí điểm, Đại học Quốc gia sẽ báo cáo để thuyết minh với Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hiện tại, ĐHQGHN đã thí điểm hàng chục chương trình và hầu hết đều đã được công nhận như: Hệ thống thông tin, Hải dương học, Khoa học biển, Kỹ thuật môi trường, Kiểm định chất lượng,… Đại học Quốc gia đã chủ động soạn thảo một giáo trình chuẩn cho các trường thành viên. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cấp tiền thuê Đại học Quốc gia Hà Nội biên soạn giáo trình 3 lĩnh vực: Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội và nhân văn, Ngoại ngữ để Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận, sử dụng cho các trường đại học trong cả nước. Đại học Quốc gia Hà Nội vẫn sử dụng quy chế chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhưng có chỉnh sửa yêu cầu cao hơn. Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định rất chặt chẽ trong việc sinh viên nghỉ học, nhưng thực tế là có nhiều sinh viên, vì hoàn cảnh công việc, tài chính, … có thể không đảm bảo được việc học liên tục, Đại học Quốc gia cho phép sinh viên có quyền nghỉ và bảo lưu kết quả nhiều nhất 3 năm. Hội đồng Đại học Quốc gia là hội đồng duy nhất trong giáo dục đại học Việt Nam có quyền lực như vậy. 2.2.1.2. Về tổ chức bộ máy, biên chế ĐHQGHN có cơ cấu tổ chức, trách nhiệm và quyền hạn riêng, không giống các đại học khác ở Việt Nam, thể hiện ở các điểm sau: - Là đại học đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, kết hợp chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu khoa học; - Có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao; - Được Nhà nước ưu tiên đầu tư. Các chức năng, nhiệm vụ của ĐHQGHN: - Là cơ quan sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu khoa học thuộc Chính phủ; Thực hiện một phần chức năng quản lý nhà nước cấp bộ, ngành trong phạm vi ĐHQGHN; - Thực hiện vai trò quản lý, điều phối các trường đại học thành viên và các đơn vị trực thuộc, đảm bảo tính liên thông và sử dụng chung nguồn nhân lực, tài lực, vật lực (đội ngũ cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, thư viện, nhà in, nhà xuất bản, ký túc xá,…). Vì vậy, các trường đại học thành viên hoạt động theo cơ chế mở, không khép kín dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo ĐHQGHN; - Trực tiếp thực hiện một số nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học cụ thể (như triển khai thực hiện các chương trình đào tạo thí điểm, đề tài nghiên cứu trọng điểm, đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, giải quyết các nhiệm vụ có tính liên thông giữa các ngành, chuyên ngành,…). ĐHQGHN cùng lúc thực hiện 3 chức năng: vừa có chức năng quản lý vĩ mô (như một bộ), chức năng điều phối các đơn vị thành viên, lại vừa có chức năng triển khai thực hiện các nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học đặc biệt. Do đó, Văn phòng và các Ban chức năng ĐHQGHN vừa làm nhiệm vụ tư vấn cho Giám đốc và Lãnh đạo ĐHQGHN trong chỉ đạo điều hành chung, vừa trực tiếp giải quyết một số nhiệm vụ cụ thể trong công tác quản lý, vừa kiểm tra giám sát, giúp đỡ, tư vấn và hướng dẫn các đơn vị thực hiện nhiệm vụ được giao. Vị trí Giám đốc, các Phó Giám đốc ĐHQGHN do Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ nhiệm. Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức và phân cấp quản lý của ĐHQGHN Hội đồng ĐHQG Hội đồng Khoa học, đào tạo và các hội đồng khoa học ngành, liên Giám đốc và các phó giám đốc Văn phòng và các Ban chức năng Nguồn: Quy chế tổ chức và hoạt động của ĐHQGHN. Với cơ cấu tổ chức bộ máy như trên cho thấy trong ĐHQGHN có một Hội đồng quốc gia. Đây là hội đồng quyền lực gần như được Thủ tướng uỷ quyền quyết định các vấn đề lớn do Giám đốc Đại học Quốc gia trình. Hội đồng có nhiệm vụ thông qua kế hoạch hàng năm, các chủ trương, phương hướng. Khi Giám đốc Đại học Quốc gia đề xuất những vẫn đề về chiến lược, về cơ cấu tổ chức, Hội đồng sẽ biểu quyết tập thể để quyết định nhưng vẫn phải đưa lên Thủ tướng ký. Tuy nhiên, Hội đồng chưa được uỷ quyền để quyết định về nhân sự. Thành phần Hội đồng Đại học Quốc gia gồm 16 người, trong đó có 11 người của Đại học Quốc gia: giám đốc, các phó giám đốc, bí thư đảng uỷ, lãnh đạo các đơn vị trực thuộc. Ngoài ra, Hội đồng còn bầu thêm khoảng 30% thành phần bên ngoài (như Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng Bộ Khoa học-Công nghệ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội, một số nhà khoa học nổi tiếng). Các trường đại học, đơn vị thành viên trực thuộc ĐHQGHN cũng thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Hiệu trưởng các trường đại học thành viên, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc chủ động các biện pháp để hoàn thành nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm trước Lãnh đạo ĐHQGHN, Hội đồng quốc gia. Tuy nhiên, khó khăn của ĐHQGHN cũng như các trường đại học công lập khi thực hiện quyền tự chủ về tổ chức, sắp xếp lao động, đó là: tính bất cập, lạc hậu của các quy định về tổ chức, định mức về chức trách cán bộ giảng dạy, NCKH, quy định về số lượng giảng viên/người học; chính sách và cơ chế cải cách tiền lương với việc dành 40% nguồn thu sự nghiệp để chi lương trong khi các quy định về học phí chưa được thay đổi. Mặt khác, kinh phí chi trả tiền lương, tiền công cho đào tạo sau đại học ngày càng tăng, ngân sách dành cho đào tạo sau đại học không thể đáp ứng được. Mặt khác, quyền tự chủ của từng cá nhân, giảng viên chưa được phát huy có hiệu quả. 2.2.1.3. Về tài chính Với tư cách là đơn vị dự toán cấp 1, ĐHQGHN được quyền tự chủ cao về hoạt động tài chính: - ĐHQGHN được nhận trực tiếp các chỉ tiêu kế hoạch và ngân sách từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính; Nhà nước ưu tiên, tập trung đầu tư, tỷ lệ tăng ngân sách của ĐHQGHN được ưu tiên tăng cao hơn mức tăng chung của ngành giáo dục - đào tạo; - ĐHQGHN được quản lý điều hành và phân bổ kinh phí cho các đơn vị trực thuộc phù hợp với mô hình của ĐHQGHN: cấp kinh phí cho các đơn vị đào tạo trực tiếp; đơn vị phục vụ (ký túc xá, thư viện); đơn vị quản lý (cơ quan ĐHQGHN); các đơn vị dịch vụ. Trước đây, ngân sách nhà nước (NSNN) cấp cho hoạt động thường xuyên của ĐHQGHN để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học (NCKH) do Chính phủ giao, trong đó NSNN cấp chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục-đào tạo dựa vào chỉ tiêu học sinh có ngân sách được giao hàng năm của ĐHQGHN. Căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch và dự toán NSNN giao, ĐHQGHN tiến hành phân bổ kinh phí cho các đơn vị trực thuộc dựa vào chỉ tiêu biên chế, chỉ tiêu học sinh, sinh viên có ngân sách và các nhiệm vụ đặc biệt khác. Phương thức phân bổ này không đảm bảo tính hiệu quả, không khuyến khích các đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Khi Nhà nước đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công, ĐHQHHN được giao quyền tự chủ cao. ĐHQGHN được coi là đơn vị dự toán ngân sách cấp 1 của Chính phủ và được Chính phủ giao ngân sách, do Quốc hội thông qua. ĐHQGHN được phép dự toán trước cho kế hoạch 3 năm đối với kinh phí chi thường xuyên (lương, chi phí đào tạo), còn kinh phí chi đột xuất như xây dựng cơ sở, mở thêm ngành,.. thì được cấp riêng. Trên cơ sở công tác lập kế hoạch, dự toán ngân sách của ĐHQGHN, Nhà nước có chính sách ưu tiên đối với ĐHQGHN, tạo nguồn lực tài chính hàng năm từ NSNN, cụ thể: - Tăng định mức chi NSNN trên đầu sinh viên có ngân sách của ĐHQGHN bằng 1,2 lần định mức chung đối với các trường đại học, cao đẳng; - Ưu tiên mức tăng ngân sách hàng năm cho ĐHQGHN cao hơn (7-8%) so với mức tăng chung hàng năm của ngành giáo dục-đào tạo (khoảng 1-2%); - Cấp bổ sung kinh phí cho kế hoạch phát triển về cơ cấu tổ chức và những nhiệm vụ quan trọng của ĐHQGHN. Ví dụ, cấp bổ sung kinh phí để triển khai dự án “đào tạo nguồn nhân lực tài năng”, cấp kinh phí hoạt động cho các đơn vị đào tạo, NCKH mới thành lập,… ĐHQGHN có 29 đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính ở ĐHQGHN, trong đó, 21 đơn vị đã xây dựng và công bố công khai chế độ quản lý tài chính và chế độ chi tiêu nội bộ của đơn vị nhằm tăng cường công tác quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy phát triển hoạt động sự nghiệp, khai thác nguồn thu, tăng thu, tiết kiệm chi. Nội dung quy chế chi tiêu nội bộ được bàn bạc thống nhất trong nội bộ đơn vị, tập trung vào các quy định về chế độ công tác phí, chi tiêu hội nghị, tiếp khách, sử dụng văn phòng phẩm, điện thoại, điện, ô tô, chi nghiệp vụ chuyên môn, mua sắm tài sản, chi trả thu nhập tăng thêm cho người lao động, trích lập và sử dụng các quỹ. Việc xây dựng và thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ đã khắc phục những bất cập của một số định mức chi trong hoạt động của các đơn vị, bước đầu giải quyết những khó khăn về tài chính, đáp ứng các nhiệm vụ được giao. Bảng 2.3: Các nguồn tài chính của ĐHQGHN Đơn vị: Triệu đồng TT Nội dung Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 I NSNN cấp 556.575 773.354 894.615 1 Chi đầu tư phát triển 350.315 425.724 514.055 - Chi giáo dục đào tạo 316.315 375.224 445.355 - Chi KHCN 34.000 50.500 68.700 2 Nguồn kinh phí thường xuyên 206.260 347.630 380.560 - Đào tạo 165.460 301.390 328.270 - NCKH 39.400 44.840 50.890 - Sự nghiệp kinh tế 400 400 400 …CTMT ngành giáo dục đào tạo 1.000 1.000 1.000 II Các nguồn thu sự nghiệp và thu khác 115.875 135.141 152.685 III Nguồn vốn nước ngoài 35.128 45.836 56.849 1 Thu viện trợ, tài trợ 7.820 9.150 11.060 2 Vốn vay dự án giáo dục đại học 27.308 36.686 45.789 Cộng (I, II, III) 707.578 954.331 1.101.149 Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính của ĐHQGHN (năm 2005, 2006, 2007). Qua bảng số liệu trên, ta thấy nguồn tài chính của ĐHQGHN tăng khi thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục của Nhà nước, ĐHQGHN đã tích cực tăng cường thu hút các nguồn tài chính từ hoạt động giáo dục, đào tạo, NCKH. Trong cơ cấu nguồn tài chính của ĐHQGHN, NSNN giữ vai trò chủ đạo và quyết định đối với các nguồn kinh phí khác, là nguồn tài chính chủ yếu cho đầu tư chiều sâu trang thiết bị, xây dựng cơ bản, các phòng học, phòng thí nghiệm của ĐHQGHN. Cùng với kinh phí từ NSNN, các nguồn thu khác của ĐHQGHN cũng tăng nhanh trong những năm qua. Tuy nhiên, nguồn thu từ học phí của ĐHQGHN chưa được khai thác hiệu quả, do ĐHQGHN chưa phát huy hết tiềm lực của mình thông qua việc mở rộng các loại hình, các bậc và phương thức đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, các lớp đào tạo ngắn hạn theo hợp đồng với các công ty, doanh nghiệp lớn. ĐHQGHN có đội ngũ lớn các nhà khoa học, các giáo sư đầu ngành trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng. Việc khai thác tiềm năng này để cung cấp cho xã hội các sản phẩm nghiên cứu, ứng dụng và triển khai các tiến bộ khoa học, công nghệ vào cuộc sống, bước đầu đã đem lại nguồn thu cho ĐHQGHN thông qua các hợp đồng NCKH, chuyển giao công nghệ, tham gia các đề án phát triển kinh tế xã hội của các địa phương, nhưng nguồn thu này còn chiếm tỷ lệ thấp và chưa tương xứng với tiềm năng. Mặt khác, do được tự chủ trong hợp tác quốc tế nên nguồn thu từ các khoản tài trợ, viện trợ, các khoản vốn vay từ các tổ chức tế, cá nhân… đã góp phần tăng cường các nguồn đầu tư cho ĐHQG. Từ đó, nguồn thu sự nghiệp của ĐHQGHN được khuyến khích tăng và tăng nhanh trong thời gian qua. Số liệu được phản ánh qua bảng sau: Bảng 2.4: Tình hình thu sự nghiệp và thu khác của ĐHQGHN Đơn vị: Triệu đồng TT Nội dung Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Học phí 92.240 111.600 127.329 2 Hợp đồng NCKH và chuyển giao công nghệ 3.800 4.200 4.500 3 Thu dịch vụ khác 19.835 19.341 20.856 Cộng (1, 2, 3) 115.875 135.141 152.685 Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính của ĐHQGHN (năm 2005, 2006, 2007). Qua bảng số liệu trên cho thấy, nguồn thu sự nghiệp của ĐHQGHN có tốc độ tăng nhanh. Tuy nhiên, nguồn thu chủ yếu là học phí lại có tốc độ tăng chậm do bị khống chế bởi khung định mức quy định tại Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Do vậy, ĐHQGHN nói riêng, các trường đại học công lập nói chung còn phụ thuộc rất lớn vào nguồn kinh phí từ NSNN, chịu ảnh hưởng của tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, chính sách, chủ trương đầu tư của Nhà nước cho giáo dục đào tạo,… Chính vì vậy, tính tự chủ đã không được thực hiện đầy đủ và hiệu quả. Điểm mới, mang tính sáng tạo đột phá trong cơ chế quản lý, sử dụng các nguồn tài chính của ĐHQGHN là phương thức giao tổng chỉ tiêu nhân lực, đặc biệt là nhân lực đào tạo đại học chính quy cho các đơn vị đào tạo, từ đó phân bổ kinh phí hoạt động thường xuyên cho các đơn vị. Nhân lực giảng dạy đại học chính quy của đơn vị đào tạo được tính theo tổng số giờ giảng (quy đổi) do đơn vị đào tạo đó thực hiện cho đơn vị mình cũng như cho các đơn vị đào tạo khác theo sự phân công thống nhất của ĐHQGHN. Nhân lực quản lý, phục vụ giảng dạy đại học chính quy của đơn vị đào tạo được tính theo tỉ lệ nhất định so với nhân lực giảng dạy đại học chính quy và được xác định cụ thể bằng 1/4 đối với khối Khoa học Xã hội và Nhân văn, bằng 1/3 đối với khối Khoa học Tự nhiên, Công nghệ. Nhân lực đào tạo tại chức, chuyên tu, liên kết quốc tế, đào tạo sau đại học, trung học phổ thông chuyên cũng như nhân lực hoạt động khoa học công nghệ và các hoạt động khác do đơn vị tự xác định, báo cáo ĐHQGHN phê chuẩn. Phân cấp trong việc quyết định các định mức thu, chi: - Các định mức thu, chi do Nhà nước thống nhất quản lý, thực hiện theo quy định của Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền. - Giám đốc ĐHQGHN quy định khung đối với các định mức thu, chi nghiệp vụ chuyên môn theo thẩm quyền để đảm bảo tính thống nhất trong toàn ĐHQGHN và phân cấp cho các Thủ trưởng đơn vị quy định các định mức thu, chi cụ thể trên cơ sở quy chế chi tiêu nội bộ được Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức thông qua. ĐHQGHN khuyến khích các đơn vị thực hiện theo hình thức khoán chi đối với các nội dung chi quản lý hành chính. ĐHQGHN thực hiện việc phân bổ ngân sách chi thường xuyên cho các đơn vị dựa trên kết quả phân loại đơn vị sự nghiệp có thu: + Các đơn vị sự nghiệp được cấp toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên từ NSNN gồm 3 đơn vị: Cơ quan ĐHQGHN; Tạp chí khoa học; Ban Quản lý các dự án xây dựng tại Hoà Lạc. + Các đơn vị có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên, gồm 17 đơn vị: trường đại học Khoa học Tự nhiên; trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; trường đại học Ngoại ngữ; trường đại học Công nghệ; Việtn Công nghệ Thông tin; Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển; trường đại học Kinh tế; Khoa Luật; Khoa Sư phạm; Khoa Sau đại học; trung tâm Đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị; trung tâm Thông tin Thư viện; trung tâm Nội trú sinh viên; trung tâm Giáo dục Quốc phòng; trung tâm Công nghệ sinh học; trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục; trung tâm Thực nghiệm, Giáo dục sinh thái và Môi trường Ba Vì. + Các đơn vị sự nghiệp có thu đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, gồm 9 đơn vị: Nhà Xuất bản; Nhà in; Khoa Quản trị kinh doanh; Khoa Quốc tế; trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và môi trường; trung tâm Hỗ trợ nghiên cứu Châu á; trung tâm nghiên cứu về Phụ nữ; trung tâm phát triển hệ thống; trung tâm công nghệ đào tạo và hệ thống việc làm. Bảng 2.5: Cơ cấu chi ngân sách của ĐHQGHN Đơn vị: Triệu đồng TT Nội dung Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Chi sự nghiệp giáo dục đào tạo (gồm cả chi của nguồn kinh phí khác) 266.086 399.174 450.268 2 Chi sự nghiệp khoa học công nghệ 41.145 47.845 55.213 3 Chi đầu tư xây dựng cơ bản 350.815 425.724 460.187 4 Chi chương trình mục tiêu quốc gia 854 1.000 1.300 Tổng chi 658.900 873.743 966.968 Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính của ĐHQGHN (năm 2005, 2006, 2007). Qua bảng cơ cấu chi ngân sách của ĐHQGHN, ta thấy: - Các khoản chi đều tăng, tuy nhiên tỷ lệ chi đầu tư cơ sở vật chất còn ở mức thấp, nguồn tài chính dành cho đầu tư chiều sâu trang thiết bị, tăng cường cơ sở vật chất ở ĐHQGHN còn chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, chưa có khoản đầu tư lớn từ nguồn kinh phí sự nghiệp để thực hiện mục tiêu này. - Chi thường xuyên cho hoạt động giáo dục đào tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi của ĐHQGHN. Đây là khoản chi chủ yếu của ĐHQGHN nhằm đáp ứng nhiệm vụ đào tạo được giao, cũng là nội dung chi được thực hiện tự chủ tài chính theo Nghị định 10 và tiếp theo là Nghị định 43 của Chính phủ. Trong những năm qua, chi thường xuyên của ĐHQGHN đã tăng nhanh, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của ĐHQGHN. Tuy nhiên, cơ cấu chi thường xuyên của ĐHQGHN còn chưa thực sự hợp lý, kinh phí dành cho chi tiền lương, chi hoạt động quản lý chiếm tỷ lệ cao đã ảnh hưởng đến việc dành kinh phí cho hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, chi đầu tư cơ sở vật chất. Đây cũng là khó khăn chung của ngành giáo dục đào tạo, là gánh nặng ngân sách chi cho ĐHQGHN, các trường đại học trực thuộc khi thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Bảng 2.6: Cơ cấu các khoản chi thường xuyên của ĐHQGHN Đơn vị: Triệu đồng TT Nội dung Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Thanh toán cá nhân 80.249 133.324 190.575 2 Chi nghiệp vụ chuyên môn 113.653 147.950 175.450 3 Mua sắm, sửa chữa lớn 51.311 82.780 95.690 4 Chi khác 20.873 35.120 43.235 Tổng cộng 266.086 399.174 504.950 Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính của ĐHQGHN (năm 2005, 2006, 2007). Cơ cấu chi đã có hướng điều chỉnh tích cực hơn khi thực hiện cơ chế tự chủ tài chính do ĐHQGHN đã chủ động đến việc tăng cường biên soạn khung chương trình, giáo trình, tăng cường nâng cấp các phòng thí nghiệm, phòng thực hành trong ĐHQGHN. Chi phí nghiệp vụ chuyên môn, chi đầu tư cơ sở vật chất đã tăng lên trong 2 năm qua. Tuy nhiên, với tỷ lệ kinh phí dành cho khoản chi nghiệp vụ chuyên môn, chi đầu tư cơ sở vật chất như hiện nay không thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chương trình đào tạo, chưa cải thiện được điều kiện giảng dạy, học tập, nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo ở ĐHQGHN. Chi trả thu nhập cho cán bộ, viên chức trong ĐHQGHN Để đảm bảo thống nhất trong ĐHQGHN, phát huy quyền chủ động của các đơn vị, ĐHQGHN thống nhất quản lý tổng quỹ tiền lương, tiền công (gọi tắt là quỹ tiền lương). ĐHQGHN giao Quỹ tiền lương, tiền công đào tạo đại học chính quy theo chỉ tiêu nhân lực đào tạo (giảng dạy, quản lý, phuc vụ), giao kinh phí đào tạo thường xuyên đại học chính quy theo đầu sinh viên, giao kinh phí đào tạo các loại hình khác cũng như kinh phí hoạt động khoa học công nghệ,… theo phương thức trọn gói (sau khi trừ kinh phí quản lý cấp ĐHQGHN và kinh phí phục vụ chung). Các đơn vị này căn cứ vào số nhân lực, quỹ tiền lương được giao, chủ động xây dựng quỹ tiền lương của đơn vị theo Thông tư số 25 và tiếp theo đó là Thông tư 71 của Bộ Tài chính, xác định phương án chi trả tiền lương cho từng người lao động dựa vào kết quả lao động và đóng góp cho việc tăng thu, tiết kiệm chi. Các đơn vị trong ĐHQGHN đã tăng nguồn thu, giảm chi để nâng cao chất lượng hoạt động giảng dạy, NCKH mà còn góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động. Theo báo cáo kết quả thực hiện Nghị định 10 và tiếp tục là Nghị định 43 của ĐHQGHN, năm 2006 mức thu nhập bình quân chung toàn ĐHQGHN so với năm 2005 tăng 8%, đến năm 2007 thu nhập bình quân chung toàn ĐHQGHN đã tăng hơn so với năm 2006 là 9%. Trong đó, các cơ sở đào tạo đã có mức tăng 10%. Kết quả cụ thể như sau: Bảng 2.7: Mức thu nhập trung bình tháng của CB,VC ĐHQGHN Đơn vị: Triệu đồng (1.000.000) TT Nội dung Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Mức thu nhập bình quân chung của ĐHQGHN 2,426 2,625 2,870 2 Mức thu nhập bình quân của 1 đơn vị đào tạo 3,250 3,400 3,750 3 Mức thu nhập bình quân của 1 đơn vị phục vụ, trung tâm 1,602 1,850 2,010 Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính của ĐHQGHN (năm 2005, 2006, 2007). Một trong những lý do dẫn đến tình trạng trên là tính lạc hậu, bất hợp lý của một số chế độ, tiêu chuẩn định mức chi cho quản lý hành chính như: hội nghị phí, công tác phí, định mức sử dụng xe ô tô,… Cơ chế tự chủ tài chính của Nhà nước đã tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị sự nghiệp khi được chủ động xây dựng các định mức chi quản lý hành chính tuỳ thuộc vào đặc điểm và điều kiện cho các đơn vị phát huy quyền tự chủ của mình. Nhằm tiết kiệm chi quản lý hành chính, ĐHQGHN đã phân cấp triệt để cho các đơn vị chủ động xây dựng định mức, tiêu chuẩn chỉ tiêu cho hoạt động quản lý hành chính, trong đó, khuyến khích các đơn vị thực hiện khoán chi hành chính (các nội dung: vật tư văn phòng, thông tin liên lạc, dịch vụ công cộng,…), mức khoán do Thủ trưởng đơn vị tự quy định trong phạm vi nguồn tài chính được sử dụng. Qua thực tiễn, hầu hết các đơn vị đều đã tiết kiệm được kinh phí từ các khoản chi cho quản lý hành chính, phần kinh phí tiết kiệm được một phần để chi bổ sung tiền lương tăng thêm cho người lao động. Kết quả cụ thể như sau: Bảng 2.8: Kết quả tiết kiệm chi quản lý hành chính TT Nội dung Năm 2006 Năm 2007 Triệu đồng % Triệu đồng % 1 Tiết kiệm từ chi quản lý hành chính 5.720 38,69 6.775 37,48 2 Kinh phí tăng lương từ tiết kiệm 3.645 24,65 4.505 24,92 chi quản lý hành chính 3 Tiết kiệm từ chi thường xuyên sự nghiệp giáo dục đào tạo 14.785 100,00 18.078 100,00 Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện Nghị định 10 và Nghị định 43 của ĐHQGHN. Trong những năm vừa qua, kinh phí tiết kiệm chi quản lý hành chính không ngừng được tăng lên, năm 2006 là 5.720 triệu đồng, chiếm 38,69% kinh phí tiết kiệm. Tuy nhiên, chi quản lý hành chính vẫn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu chi thường xuyên.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf93_1375.pdf
Tài liệu liên quan