Luận văn Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

Tài liệu Luận văn Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay: LUẬN VĂN: Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã, đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta, trong sự nghiệp CNH, HĐH, cuộc cách mạng KH&CN vừa tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đem lại nhiều thách thức lớn. Vì vậy, nếu đất nước ta biết tiếp thu có chọn lọc, ứng dụng kịp thời và phù hợp những thành tựu mới nhất của KH&CN vào thực tiễn sẽ tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không biết tiếp thu và ứng dụng kịp thời thì khoảng cách chênh lệch về trình độ giữa nước ta với các nước tiên tiến ngày một xa hơn, sự nghiệp xây dựng CNXH cũng khó khăn hơn nhiều. Nhận thức rõ vấn đề này, trong Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Phát...

pdf102 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1013 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã, đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta, trong sự nghiệp CNH, HĐH, cuộc cách mạng KH&CN vừa tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đem lại nhiều thách thức lớn. Vì vậy, nếu đất nước ta biết tiếp thu có chọn lọc, ứng dụng kịp thời và phù hợp những thành tựu mới nhất của KH&CN vào thực tiễn sẽ tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không biết tiếp thu và ứng dụng kịp thời thì khoảng cách chênh lệch về trình độ giữa nước ta với các nước tiên tiến ngày một xa hơn, sự nghiệp xây dựng CNXH cũng khó khăn hơn nhiều. Nhận thức rõ vấn đề này, trong Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [25, tr. 112]. Với tư cách là chủ thể chính sáng tạo ra tri thức khoa học, đội ngũ trí thức Việt Nam chính là lực lượng đi đầu trong việc xây dựng nền tảng KH&CN cho sự phát triển của đất nước. Cho nên, nước ta cần phải phát huy tối đa tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức, đặc biệt là đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội) là lực lượng nòng cốt của trí thức KH&CN Việt Nam, trong những năm qua đội ngũ này đã có những đóng góp to lớn vào đời sống chính trị, xã hội của đất nước: Tham gia chuẩn bị, góp ý kiến cho các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước; phổ biến kiến thức, khuyến khích đưa nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; Tư vấn, phản biện, giám định xã hội về khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội. Vì vậy, để tạo điều kiện cho đội ngũ này phát huy hơn nữa vai trò của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, ngày 11 - 11 - 1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 45 - CT/TW: Về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Sau bảy năm thực hiện Chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương Đảng, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đạt được nhiều thành tựu trong một số lĩnh vực quan trọng, góp phần tạo tiền đề để KH&CN Việt Nam tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội còn tồn tại một số hạn chế nhất định: Hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ này, chưa đáp ứng tốt những yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng và sự nghiệp xây dựng CNXH nói chung ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Để góp phần làm rõ vai trò, đặc điểm và nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tôi đã chọn đề tài : "Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay " làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đội ngũ trí thức với nhiều khía cạnh, quy mô khác nhau, trong đó có một số công trình khoa học đã đề cập đến các góc độ mà đề tài cần nghiên cứu tham khảo và kế thừa: - "Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước" (1995) - Đỗ Mười, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội : Tác phẩm tập hợp những bài phát biểu của Đỗ Mười về trí thức. Qua đó đã khẳng định quan điểm của Đảng ta về vai trò của trí thức và nhiệm vụ của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước. - "Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng" (1995) - Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội: Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí thức Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm hiện đại về "trí thức", trên cơ sở đó nghiên cứu đội ngũ trí thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử của thế kỷ 20. Từ việc nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ cấu... đến tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển đội ngũ trí thức nước ta hiện nay. - "Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa" (2001) - GS. Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội : Trên cơ sở nghiên cứu khái quát tình hình CNH, HĐH đất nước và một số yêu cầu đặt ra về nguồn lực trí tuệ; tác giả đã khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức trong CNH, HĐH, làm rõ ưu, nhược điểm của đội ngũ trí thức ở nước ta, từ đó đề xuất những định hướng trong hoạch định chính sách để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010. - "Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước" (1998) - PTS. Nguyễn Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch, Nxb Lao động, Hà Nội: Tác phẩm đã khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới, phân tích những hạn chế, ưu điểm của trí thức Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. - "Một số vấn đề về trí thức Việt Nam" (1998) - Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội: Tác giả đã đi sâu nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức nói chung đối với tiến bộ xã hội; làm rõ những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử và dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra những phương hướng đổi mới công tác quản lý và chính sách kinh tế - xã hội đối với đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn mới. Một số bài viết về trí thức như: "Quan điểm và chính sách của V.I. Lênin đối với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa" của Trịnh Quốc Tuấn, Nghiên cứu lý luận, số 4, 1995; "Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức', Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 4/1996; "Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2/2001; "Trí thức trong khối liên minh công - nông - trí vì sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay", Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999 "Bài học từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác về trí thức" trong cuốn "Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 của PGS.TS. Phan Thanh Khôi... Trong đó, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề: bản chất giai cấp của trí thức, chính sách sử dụng các chuyên gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, xây dựng khối liên minh công - nông - trí, các giải pháp phát huy vai trò của trí thức... Bên cạnh đó, có một số Luận án tiến sĩ đã nghiên cứu về vị trí, vai trò, đặc điểm, động lực sáng tạo của trí thức trong quá trình cách mạng Việt Nam như: "Vị trí và vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam" của Phạm Việt Dũng, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1988; "Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay " của Phan Thanh Khôi, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1992; "Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các trường Đại học ở nước ta hiện nay" của Phạm Văn Thanh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001; "Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới" của Trịnh Quang Cảnh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001; "Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Đình Minh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2003; "Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp CNH, HĐH" của Nguyễn Xuân Phương, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2004... Ngoài ra, còn có nhiều công trình khoa học, bài viết được đăng trên các Tạp chí liên quan ít nhiều đến trí thức, đến khoa học - công nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có một đề tài khoa học, một công trình nghiên cứu nào đề cập đến đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam dưới góc độ luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học. Do đó, đề tài nghiên cứu của tôi không trùng lắp với bất kỳ công trình khoa học nào trước đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ thực trạng chung của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Luận văn nêu lên những quan điểm và giải pháp để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: + Trình bày một cách khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, phân tích những đặc điểm cơ bản của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. + Phân tích thực trạng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, xu hướng vận động của đội ngũ này trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. + Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chung nhằm xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, nhất là đặc điểm, vai trò của đội ngũ này trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam ở Trung ương. Thời gian từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), và nhất là từ khi có Chỉ thị 45-CT/TW (1998) cho đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng ta về trí thức. Luận văn cũng kế thừa các nhân tố hợp lý của những thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn liên quan đến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử,... 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Làm rõ đặc điểm và vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. - Đề xuất một số quan điểm, giải pháp xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ này, đáp ứng yêu cầu của đổi mới và đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. 7. ý nghĩa của luận văn - Góp phần làm luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. - Làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề liên quan đến trí thức trong các môn lý luận chính trị Mác - Lênin. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật việt nam - một bộ phận của trí thức việt nam hiện nay 1.1. khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 1.1.1. Khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay Trí thức ở nước ta được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Một số được đào tạo từ trước cách mạng Tháng Tám, số lượng này đến nay không nhiều. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã cử một số cán bộ đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài để chuẩn bị cho công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước sau này. Còn lại, phần lớn trí thức nước ta được đào tạo ở các nước XHCN trước đây và trong công cuộc đổi mới của đất nước. Trong thời kỳ mở cửa hội nhập với quốc tế, cơ hội học tập và nghiên cứu tại các nước trên thế giới được mở rộng. Vì vậy số lượng sinh viên Việt Nam đi du học ngày càng nhiều, lực lượng này đã bổ sung và làm phong phú hơn nguồn đào tạo của đội ngũ trí thức Việt Nam. Hiện nay, nước ta có hơn 1,8 triệu người đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học, về cơ bản có thể xem đây là trí thức. Năm 2000 nước ta mới có 1,3 triệu trí thức, sau ba năm (từ năm 2000 đến năm 2003) số lượng trí thức tăng lên thành 1.870.315 người [70, tr. 149]. Điều đó cho thấy, ngành GD&ĐT nước ta đã có bước phát triển vượt bậc trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam. Ngoài ra, đội ngũ trí thức Việt Nam còn bổ sung từ những người tự học vươn lên để có học vấn tương đương và trong thực tế có những đóng góp nhất định cho khoa học nước ta. Bên cạnh đó, còn hơn 300.000 trí thức Việt Kiều - một bộ phận của trí thức dân tộc Việt Nam. Phần lớn họ đang sinh sống ở các nước phát triển, được tiếp cận với tri thức KH&CN hiện đại của thế giới. Trong đó, có nhiều người có trình độ cao, hiện đang làm việc tại các Viện nghiên cứu, các trường đại học lớn trên thế giới. Ngoài ra, nước ta có một số lượng khá đông sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học trên toàn quốc. Sinh viên chính là nguồn bổ sung vào lực lượng trí thức trong tương lai. Chính vì vậy, thông qua phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học, đã có một số lượng công trình của đội ngũ này được ứng dụng rộng rãi và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội không nhỏ. Số lượng trí thức tăng lên trong những năm qua là thành quả to lớn của sự nghiệp giáo dục và đào tạo Việt Nam trong điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, so với số dân hiện nay của nước ta với khoảng hơn 80 triệu người, tỷ lệ trí thức trong tổng số dân còn rất thấp, chiếm khoảng hơn 2% dân số của cả nước. Về trình độ, trong số 1,8 triệu người tốt nghiệp cao đẳng, đại học; có hơn 25.000 thạc sĩ, tiến sĩ; 5531 giáo sư, phó giáo sư và 519 tiến sĩ khoa học [70, tr. 149]. Trong ba năm (từ năm 2000 - 2003) trình độ của đội ngũ trí thức ở nước ta không ngừng được nâng cao. Năm 2000, nước ta mới chỉ có 10.000 thạc sĩ, 13.500 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, số người được phong hàm giáo sư là 927, phó giáo sư là 3.419 người [3, tr. 18]. Đội ngũ trí thức ở nước ta có tiềm năng trí tuệ và khả năng sáng tạo cao. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất thông qua sản phẩm tinh thần của đội ngũ này. Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học được bạn bè, đồng nghiệp quốc tế đánh giá cao và có nhiều công trình được ứng dụng đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước. Ngoài ra, số lượng các công trình đạt những giải thưởng lớn và có uy tín như Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ, Văn học và Nghệ thuật và gần đây là Giải thưởng sáng tạo KH&CN Việt Nam đã phần nào chứng minh chất lượng cũng như sức sáng tạo không nhỏ của đội ngũ trí thức nước ta. Đội ngũ trí thức nước ta có lòng yêu nước và gắn bó với nhân dân lao động, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Sự đóng góp to lớn của đội ngũ này vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thể hiện rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đội ngũ trí thức ngành khoa học xã hội đã góp phần bổ sung, lý giải và làm rõ thêm những quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Nhiều kết luận khoa học đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các nghị quyết, hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trong khoa học tự nhiên, các kết quả nghiên cứu của đội ngũ trí thức về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã góp phần cung cấp những luận cứ cho Đảng và Nhà nước đưa ra các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, đồng thời tạo cơ sở cho quá trình tiếp thu và làm chủ những công nghệ mới như chế tạo vật liệu, những tiến bộ về di truyền học, sinh học, khoa học thông tin... Đội ngũ trí thức khoa học công nghệ chủ yếu hướng hoạt động nghiên cứu của mình vào đổi mới công nghệ trong các ngành sản xuất, dịch vụ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả của sản xuất. Do đó, đã có nhiều thành tựu về khoa học công nghệ mới được ứng dụng góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đặc biệt trong nông nghiệp với việc ứng dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại, công nghệ sinh học, di truyền... đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Bên cạnh đó, đội ngũ trí thức khoa học công nghệ đã có những cống hiến to lớn cho nền công nghiệp Việt Nam: tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới vào Việt Nam đã tạo cơ sở để nền công nghiệp nước ta có bước phát triển mạnh, chuyển dần theo hướng hiện đại hóa. Đặc biệt có nhiều lĩnh vực đã bước đầu tiếp cận với công nghệ tiên tiến của thế giới như: công nghệ tự động hóa, công nghệ laser, công nghệ xây dựng cầu, chế tạo thiết bị bưu chính viễn thông, công nghệ gen, công nghệ sinh học... Như vậy, với những đóng góp của đội ngũ trí thức nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước đã thể hiện tiềm năng trí tuệ to lớn đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân và củng cố vững chắc hơn khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức. Tuy nhiên, Đội ngũ trí thức của nước ta còn có những hạn chế, trình độ của đội ngũ trí thức chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chủ yếu là tốt nghiệp cao đẳng, đại học. Đội ngũ trí thức có trình độ sau đại học ở nước ta hiện nay có khoảng hơn 30.000 người (chiếm hơn 1,6% tổng số trí thức Việt Nam). Về cơ cấu lứa tuổi, tuổi bình quân của cán bộ khoa học công nghệ nước ta hiện nay là 40,2 (nam: 42,7 tuổi, nữ: 37,0 tuổi). Số trí thức có trình độ sau đại học tuổi khá cao, cụ thể: tuổi bình quân của người có trình độ cao đẳng là 38,2 tuổi; đại học: 40,9 tuổi; thạc sĩ: 42,6 tuổi và tiến sĩ là 52,5 tuổi. Số cán bộ khoa học công nghệ ở độ tuổi dưới 25 chỉ chiếm 9,06%, trong khi số cán bộ này ở độ tuổi trên 55 lên tới 13,55% [3, tr.19]. Đặc biệt, số trí thức có trình độ cao như tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư và cán bộ đầu ngành có tuổi rất cao. Sự chênh lệch về độ tuổi giữa các trình độ là khá cao, phản ánh sự thiếu hụt lực lượng của đội ngũ trí thức trẻ có trình độ cao trong việc kế cận các thế hệ trí thức cha anh. Về cơ cấu ngành nghề của đội ngũ trí thức, trong số 23 ngành đào tạo, giáo viên chiếm vị trí hàng đầu trong tổng số trí thức KH&CN (34,6%), tiếp theo là ngành kinh doanh và quản lý (19,3%), thứ ba là ngành kỹ thuật (8,1%), ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm vị trí thứ bảy (4,41%), còn ngành chế tạo - chế biến ở vị trí thứ 17 (0,52%) [3, tr. 19]. Qua đó cho thấy, cơ cấu ngành của đội ngũ trí thức nước ta còn bất hợp lý, phần lớn là trí thức hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, các ngành thuộc khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ rất thấp. Chính vì vậy, nước ta đi lên xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh, nhưng với số lượng cán bộ có trình độ đại học thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chỉ có 4,41%. Do đó khó đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn. Để thực hiện CNH, HĐH thì cần tăng số lượng trí thức trong các ngành kỹ thuật, nhất là một số ngành công nghệ mới như: công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học… Mặt khác, nếu theo các cấp đào tạo thì một số ngành có số lượng trí thức ít nhưng trình độ của đội ngũ này lại cao hơn những ngành khác. Số người có trình độ sau đại học chủ yếu ở các ngành Kinh doanh và quản lý, Khoa học tự nhiên, Kỹ thuật, Y tế. (Xem bảng 1). Bảng 1.1: Cơ cấu cán bộ khoa học công nghệ và thứ tự xếp hạng các ngành đào tạo theo các cấp đào tạo đại học, thạc sĩ và tiến sĩ. STT Ngành đào tạo Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ Cơ cấu (%) Thứ hạng Cơ cấu (%) Thứ hạng Cơ cấu (%) Thứ hạng 1 Khoa học tự nhiên 2,6 10 6,4 7 15,9 1 2 Kỹ thuật 9,3 3 7,3 6 14,7 2 3 Kinhdoanh và quản lý 25,3 1 15,3 1 10,3 3 4 Nhân văn 6,1 5 11,9 3 10,2 4 5 Y tế 7,5 4 14,7 2 8,4 5 6 Nông, Lâm, Ngư nghiệp 5,9 7 4,8 8 7,6 6 7 Khoa học sự sống 0,5 21 2,3 11 7,0 7 8 Khoa học xã hội và Hành vi 4,3 8 9,8 4 6,0 8 9 Toán và thống kê 0,9 15 3,7 10 5,8 9 10 Xây dựng và Kiến trúc 6,0 6 4,5 9 3,9 10 11 Khoa học GD&ĐT 17,2 2 7,7 5 2,7 11 Nguồn :[3, tr. 21]. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng đồng bằng. Theo số liệu thống kê về tình hình lao động việc làm ở Việt Nam năm 2003, số trí thức tập trung nhiều nhất là đồng bằng sông Hồng (chiếm 33,95% tổng số người tốt nghiệp cao đẳng, đại học của cả nước), thứ hai là vùng Đông Nam Bộ (23,12%), tiếp theo là vùng Đồng bằng sông Cửu Long (10,55%), Đông Bắc (9,41%), Bắc Trung Bộ (8,19%), Duyên hải Nam Trung Bộ (9,18%), Tây Nguyên (3,83%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (1,77%) [70, tr. 135]. Sự phân bố trí thức không đồng đều giữa các vùng là một trong những yếu tố làm chậm quá trình thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo, trình độ phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước. Trong khi các vùng đồng bằng có điều kiện thuận lợi và tiềm năng trí tuệ lớn có tốc độ phát triển, thì ngược lại ở các vùng trung du, miền núi có điều kiện khó khăn thì lại càng ít cơ hội vươn lên phát triển do nguồn lực trí tuệ tập trung không nhiều. Nhìn chung, trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta còn khó khăn, sự phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam những năm qua là một thành quả đáng tự hào. Trước những yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở nước ta, cần phải khắc phục những hạn chế trên, nhất là về trình độ, số lượng, độ tuổi. Đồng thời cũng cần cân đối lại cơ cấu ngành nghề và sự phân bố đội ngũ trí thức giữa các vùng, miền của cả nước. 1.1.2. Trí thức Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Nước ta tiến hành xây dựng CNXH trong điều kiện thế giới có nhiều sự biến động. Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại một mặt tạo ra những thời cơ, tiền đề thuận lợi để đất nước ta phát triển, mặt khác nó cũng đem lại nhiều thách thức to lớn, nhất là trong điều kiện trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn lạc hậu. Chính vì vậy, CNH, HĐH đất nước được Đảng ta coi là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ này là chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đất nước. Nhằm cụ thể hóa tinh thần của Đại hội, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII) đã nêu rõ: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [19, tr. 65]. Như vậy, thực chất của quá trình CNH, HĐH đất nước là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao dựa trên nền tảng của KH&CN. Cũng chính tại Hội nghị này, Đảng ta đã nêu ra quan điểm chỉ đạo đối với quá trình CNH, HĐH như sau: - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với nước ngoài, kết hợp kinh tế với quốc phòng- an ninh. Xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. - CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo; được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. - Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. - Khoa học, công nghệ là nền tảng của CNH, HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định. - Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn. Trên cơ sở tổng kết mười năm đổi mới và năm năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII), trước bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng một lần nữa đã xác định: nước ta đang đứng trước thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và đã đề ra mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Tiếp tục khẳng định đường lối mà Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần có và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức [25, tr. 91]. Như vậy, chủ trương phát triển "rút ngắn" của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn có thể thực hiện được trong điều kiện lịch sử hiện nay. Với những thành tựu về KH&CN mà nhân loại đạt được đã mở ra cho chúng ta cơ hội thực hiện bước "nhảy vọt", để "đi tắt", đón đầu theo kịp với trình độ phát triển của các nước mà không cần tiến hành CNH, HĐH theo trình tự truyền thống mà các nước tư bản chủ nghĩa trước đây đã trải qua. Tuy nhiên, chúng ta đang đứng trước nhiều vấn đề nan giải về vốn, công nghệ, đặc biệt là trình độ của người lao động. Để thực hiện được những mục tiêu trên, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những chính sách hợp lý để phát triển KH&CN, GD&ĐT, trước hết là với đội ngũ trí thức trong lĩnh vực này. Đội ngũ trí thức có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cho nên, khi nghiên cứu lịch sử phát triển của loài người, C.Mác đã đánh giá cao vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự tiến bộ của xã hội. Kế thừa những tư tưởng của C.Mác về trí thức, trong quá trình xây dựng CNXH hiện thực, V.I. Lênin đã khẳng định: Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể chuyển lên chủ nghĩa xã hội được, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng để đi tới một năng suất lao động cao hơn năng suất của chủ nghĩa tư bản đã đạt được [46, tr. 217]. Khi nói về vai trò của trí thức đối với cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: "Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc", "Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều" [62, tr. 235]. Trên thực tế, đội ngũ trí thức nước ta đã có những đóng góp hết sức to lớn, cùng với giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước những năm qua cũng có phần công sức không nhỏ của đội ngũ này. Đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay, đội ngũ trí thức của nước ta ngày càng giữ vai trò quan trọng, thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau: - Thứ nhất, trí thức là người góp phần nghiên cứu, đưa ra những luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [25, tr. 83]. Kiên định theo con đường XHCN, chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học, mà đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu lý luận, trí thức khoa học Mác-Lênin đã góp phần làm rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, cung cấp những luận cứ khoa học để Đảng và Nhà nước ta hoạch định các chủ trương, chính sách về CNH, HĐH không mắc phải sai lầm của việc vận dụng rập khuôn, máy móc. Hơn nữa, xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu, để thực hiện CNH, HĐH thành công, ngoài lý luận khoa học, Đảng và Nhà nước ta cần phải có các kết quả nghiên cứu về tình hình thực tế, đặc điểm của từng vùng, từng lĩnh vực, ngành nghề... làm căn cứ khách quan. Đây chính là nguồn tư liệu quý giá, phong phú giúp cho việc đưa ra các chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi thời kỳ đạt kết quả cao, không rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Với tư cách là nhà khoa học, trí thức nước ta đã tham mưu cho Đảng và Nhà nước những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn, vừa đảm bảo phát triển đúng định hướng XHCN, đồng thời đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. - Thứ hai, trí thức Việt Nam là lực lượng quan trọng trong việc tuyên truyền những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH đến nhân dân, đưa những chủ trương đó vào cuộc sống. Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn thể nhân dân lao động, nó phải được thực hiện thông qua hoạt động tự giác của đông đảo quần chúng có ý thức giác ngộ về CNXH và CNCS. Do đó, công tác giáo dục tư tưởng, tuyên truyền lý luận cách mạng phải đi trước một bước. Bản thân lý luận không thể làm biến đổi hiện thực, nhưng nó có thể trở thành "lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [57, tr. 580]. Trong quá trình CNH, HĐH của nước ta, để thành công thì những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cần được phổ biến sâu rộng, làm cho nhân dân nhận thức được sự cần thiết, lợi ích cũng như vai trò, nhiệm vụ của mình, từ đó thôi thúc mọi người dân tham gia một cách tự giác, tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Khi ấy, CNH, HĐH từ lý luận mới trở thành sức mạnh vật chất làm thay đổi sản xuất và đời sống xã hội. Với chức năng cơ bản là phổ biến, truyền bá kiến thức, trí thức Việt Nam, nhất là những người trực tiếp công tác trong ngành văn hóa, tư tưởng là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ này. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (báo viết, báo nói, báo hình) và các chương trình tập huấn, họ đã góp phần triển khai các nghị quyết, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước về CNH, HĐH nhanh chóng tuyên truyền đến mọi người dân, khắp các vùng miền của Tổ quốc. Trên cơ sở đó, giúp nhân dân hiểu, tích cực và chủ động tham gia vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ngoài ra, việc đưa những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước còn được đội ngũ trí thức thực hiện dưới nhiều hình thức khác như lồng ghép vào các chương trình giảng dạy của các môn khoa học Mác - Lênin trong các trường, các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên, v.v. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH, HĐH đất nước, công tác tuyên truyền phải không ngừng được nâng cao, kịp thời, phải phù hợp với từng đối tượng nhằm làm cho nhân dân hiểu rõ quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước. Ngoài việc đưa lý luận vào thực tiễn, công tác này nhằm ngăn chặn mọi sự xuyên tạc của kẻ thù hòng làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. - Thứ ba, với tư cách là chủ thể của quá trình CNH, HĐH, đội ngũ trí thức Việt Nam là nguồn lực tham gia trực tiếp thực hiện nội dung của sự nghiệp đó. Việt Nam quá độ đi lên xây dựng CNXH từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến có nền kinh tế lạc hậu, trình độ dân trí thấp. Vì vậy, bước chuyển từ lao động thủ công, lạc hậu sang lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại là một bước tiến lớn về trình độ của lực lượng sản xuất nhưng khó khăn và lâu dài. Nó không thể thực hiện được nhanh chóng nếu không có sự tham gia của các chuyên gia và nhà khoa học. Việc xây dựng nền tảng KH&CN cho quá trình CNH, HĐH là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân, trong đó đi đầu là đội ngũ trí thức. Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, đội ngũ này đã góp phần sáng tạo ra những tri thức mới, có giá trị thúc đẩy xã hội phát triển. Ngoài ra, họ còn có thể dự báo xu hướng vận động của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Những thông tin đó có thể làm căn cứ khách quan cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách khi xây dựng các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Do đặc thù trong lao động sáng tạo, trí thức luôn phải đi trước một bước để đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đã và đang tạo ra những điều kiện thuận lợi để các nước lạc hậu như nước ta có thể thực hiện bước phát triển "nhảy vọt" bằng cách tiếp thu hợp lý những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến nhất. Thực hiện nhiệm vụ này, trách nhiệm trước hết là của các chuyên gia, nhà khoa học - những người có trình độ chuyên môn và am hiểu sâu sắc về lĩnh vực này. Họ chính là những chiếc cầu nối đưa thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới vào Việt Nam. Nhờ đó, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta không ngừng được nâng cao nhanh chóng. Vì vậy, với tư cách là người đi tiên phong trong khoa học và công nghệ, đội ngũ trí thức Việt Nam cần phải phát huy hơn nữa vai trò của mình để thực hiện tốt các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho, đặc biệt trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới, góp phần cùng giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động tạo dựng nền tảng KH&CN vững chắc cho sự nghiệp CNH, HĐH nhanh chóng đi đến thắng lợi. - Thứ tư, đội ngũ trí thức Việt Nam góp phần chủ yếu đào tạo nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Muốn xây dựng CNXH trước hết cần phải có con người XHCN. Đó chính là những người "vừa hồng, vừa chuyên", sống có lý tưởng, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Vì vậy, sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay cần những con người có tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm đến hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về KH&CN..., những con người có năng lực sáng tạo, tiếp thu và ứng dụng những tri thức khoa học công nghệ mới vào phục vụ sản xuất và đời sống xã hội. Bởi đây là chính quá trình cải biến từ một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn minh cao hơn thể hiện không chỉ ở trình độ KH&CN tiên tiến, có nền kinh tế phát triển, xã hội được tổ chức khoa học và hợp lý mà còn ở đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội, ở sự phát triển con người, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Việc đào tạo con người đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước có thể được thực hiện với nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Để có con người toàn diện cần phải kết hợp giáo dục và tự giáo dục, cần có sự liên kết giữa gia đình - nhà trường - xã hội. Do chức năng đặc thù là truyền bá và phổ biến tri thức khoa học, đội ngũ trí thức, nhất là những người hoạt động trong khối hành chính sự nghiệp có vai trò quyết định đến nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Không có sự tham gia của trí thức, không thể đào tạo được nguồn lực con người đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Bằng chứng cho thấy mỗi năm đội ngũ trí thức trong lĩnh vực GD&ĐT đã góp phần đào tạo hàng nghìn chuyên gia, cử nhân, kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân lành nghề phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Năm 2003, số sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học là 163.960 người, tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề là 36.683 người [3, tr. 18]. - Thứ năm, trí thức Việt Nam có vai trò quan trọng trong tư vấn, phản biện và giám định xã hội về KH&CN nhằm giữ vững định hướng XHCN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tính đặc thù của quá trình CNH, HĐH ở nước ta chính là tính định hướng XHCN, điều đó quy định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nước ta đang tiến hành cách mạng KH&CN đồng thời cùng với cách mạng giải phóng con người và giải phóng xã hội, do vậy, con đường phát triển của Việt Nam hiện nay là xây dựng các yếu tố của XHCN trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, đề phòng sự chệch hướng XHCN diễn ra dưới mọi hình thức. Để làm được như vậy, Đảng và Nhà nước ta trước hết phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau: - Phát triển KH&CN là nhằm tạo ra động lực và tiền đề để tăng trưởng kinh tế đồng thời phải gắn với phát triển bền vững theo chiều sâu, triệt tiêu những hậu quả tiêu cực đối với môi trường, cả môi trường thiên nhiên, sinh thái và nhân văn. - Phân công lao động xã hội theo hướng tiến bộ, nghĩa là toàn bộ xã hội có công ăn việc làm, lao động có tay nghề, hàm lượng khoa học - công nghệ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lao động, đây là một trong những tiêu chí định hướng XHCN trong phát triển KH&CN. - Xuất phát từ trình độ KH&CN rất thấp, lại phân bố không đều và bị mất cân đối lớn giữa các ngành, vùng, lãnh thổ như hiện nay, để khắc phục chúng ta cần phải ứng dụng nhanh và có hiệu quả những tiến bộ KH&CN vào các ngành, vùng của nền kinh tế, trong thời gian trước mắt cần hướng vào khu vực nông nghiệp - nông thôn, nhằm thu hẹp sự chênh lệch giữa các vùng miền, nhất là giữa nông thôn và thành thị trong cả nước. - Mọi thành quả kinh tế - xã hội của việc phát triển, ứng dụng KH&CN vào thực tiễn phải vì mục tiêu phục vụ lợi ích cho toàn thể nhân dân lao động, cho sự nghiệp xây dựng CNXH, nó thể hiện chủ yếu trong việc phân phối công bằng những thành quả của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, trong quá trình phát triển KH&CN đòi hỏi phải quan tâm ngay từ đầu không chỉ hiệu quả kinh tế - kỹ thuật mà cả hiệu quả xã hội và nhân văn của nó. Để những mục tiêu trên được thực hiện, mọi chủ trương, đường lối, chính sách liên quan đến KH&CN phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, đồng thời việc đánh giá hiệu quả cũng cần đảm bảo tính độc lập, khách quan. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò vô cùng quan trọng, giúp cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược về KH&CN của Đảng và Nhà nước đảm bảo đúng định hướng XHCN. Những đóng góp của đội ngũ trí thức nước ta thông qua hoạt động này đã đem lại hiệu quả cao như: Công trình xây dựng thủy điện Sơn La, Đường Hồ Chí Minh (đoạn qua rừng quốc gia Cúc Phương), Dự án thay nước Hồ Tây, v.v... Với tư cách là người nghiên cứu khoa học, trí thức Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và đảm bảo đúng định hướng XHCN của các công trình, đề án kinh tế - xã hội. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, cùng với sự phát triển của KH&CN, đội ngũ trí thức Việt Nam cũng không ngừng tăng cao cả số lượng và chất lượng, ngày càng giữ vị trí quan trọng trong xã hội, cùng với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, họ chính là một lực lượng nòng cốt của qua trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới. 1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam 1.2.1. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam Đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam hoạt động rộng khắp trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do làm việc trong nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nên ít có điều kiện hợp tác, trao đổi học thuật và kinh nghiệm với những người cùng chuyên môn, ngành nghề, cùng lĩnh vực nghiên cứu. Đáp ứng nhu cầu này của trí thức, một số Hội chuyên ngành đã ra đời. Sớm nhất là Hội Luật gia Việt Nam (1955), Tổng hội Y - Dược học Việt Nam (1955) và Hội Y học cổ truyền Việt Nam (1957). Sau đó là hàng loạt các Hội Khoa học và Kỹ thuật khác được thành lập như: Hội Cơ học Việt Nam (1982), Hội Xây dựng Việt Nam (1982), Hội Lâm nghiệp Việt Nam và Hội các ngành sinh học Việt Nam (1982)... Qua một thời gian hoạt động, các Hội Khoa học và Kỹ thuật cùng nhiều nhà khoa học Việt Nam mong muốn có một tổ chức chung để đoàn kết, điều hòa và phối hợp các hoạt động phong phú và đa dạng, để nói lên tiếng nói thống nhất, đề đạt những nguyện vọng và kiến nghị chung với Đảng và Nhà nước, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã ra đời vào năm 1983 (26-3-1983) và chính thức trở thành tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN Việt Nam. Với vai trò của một tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội có chức năng cơ bản là tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN ở trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài; làm đầu mối giữa các hội thành viên với các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức khác nhằm giải quyết những vấn đề chung trong Liên hiệp Hội, đồng thời, đại diện, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các hội thành viên, của trí thức KH&CN Việt Nam. Mục đích của Liên hiệp Hội là phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung trên đã chi phối toàn bộ hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Nếu trong các tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác nội dung hoạt động chủ yếu là trao đổi học thuật, phối hợp nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và hiệu quả công việc cho hội viên của mình, thì mục tiêu của Liên hiệp Hội không chỉ dừng lại ở học thuật, quyền lợi của trí thức, mà cao hơn là đem lại lợi ích cho đất nước, góp phần thực hiện các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra và giao cho. Sự khác biệt này được thể hiện rõ nét nhất qua các cuộc hội thảo khoa học. ở đây ngoài mục đích tìm tòi, sáng tạo tri thức mới, tìm ra chân lý trong khoa học còn nhằm nghiên cứu ứng dụng những tri thức KH&CN hiện đại đó vào trong thực tiễn để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Bản thân khoa học không có tính chính trị, nhưng làm khoa học phục vụ mục tiêu phát triển đất nước là làm chính trị. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, mặc dù được tổ chức trong các Hội ngành Trung ương - hội mang tính chuyên môn, nghề nghiệp cao - nhưng hướng các hoạt động của mình phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước, cho sự nghiệp CNH, HĐH tức là hướng đến thực hiện những mục tiêu chính trị - xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra. Điều này cho thấy tính đặc thù của đội ngũ này so với trí thức hoạt động trong các tổ chức chỉ thuần túy mang tính xã hội - nghề nghiệp. Đồng thời, khác với các tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động hoàn toàn mang tính độc lập, không liên quan đến các cơ quan nhà nước, các đảng chính trị, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Đảng Đoàn của Liên hiệp Hội.Theo Chỉ thị số 45 - CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Đảng đoàn của Liên hiệp Hội chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị. Ban Khoa giáo Trung ương giúp Bộ Chính trị theo dõi, chỉ đạo hoạt động của Liên hiệp Hội, Ban Dân vận Trung ương và các ban khác của Đảng có trách nhiệm giúp đỡ hoạt động của Liên hiệp Hội. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ xã hội hóa các hoạt động KH&CN, GD&ĐT, chăm sóc sức khỏe nhân dân, với tính chất là tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội còn có nhiệm vụ vận động trí thức KH&CN phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần hợp tác, tính cộng đồng, tính trung thực và đạo đức nghề nghiệp. Nhằm thực hiện chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Liên hiệp Hội có nhiệm vụ vận động trí thức KH&CN người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp công sức, trí tuệ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những nhiệm vụ này đã được Liên hiệp Hội triển khai thực hiện và bước đầu mang lại hiệu quả nhất định, đặc biệt là việc thu hút trí thức Việt kiều về quê hương, một số người đã quyết định trở về định cư ở Việt Nam để được đóng góp trí tuệ cho sự nghiệp chung của đất nước. Với những chức năng và nhiệm vụ cơ bản trên, Liên hiệp Hội thực sự đã là một tổ chức chính trị - xã hội quan trọng và lớn nhất của trí thức KH&CN Việt Nam. Việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đội ngũ này còn thể hiện rõ nét thông qua hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội nhằm góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách, pháp luật, các chương trình, kế hoạch của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, KH&CN, GD&ĐT, bảo vệ môi trường, tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng; tham gia giám sát độc lập đối với các đề án, công trình quan trọng của đất nước. Điểm khác biệt trong việc thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội của các dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp dành cho mọi tổ chức và cá nhân có pháp nhân tư vấn, với một tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp Hội thể hiện ở chỗ: Một mặt, đây là nhiệm vụ đặt ra cho tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN. Bên cạnh việc tư vấn xã hội nó còn bao gồm cả phản biện xã hội và giám định xã hội. Ngoài những đề án được giao, Liên hiệp Hội cùng các Hội thành viên có điều kiện chủ động tự đề xuất nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với các đề án quan tâm, tổ chức thực hiện và đề xuất kiến nghị gửi tới các cơ quan có liên quan và các cấp có thẩm quyền xem xét. Mặt khác, Liên hiệp Hội thực hiện hoạt động này không vì mục tiêu lợi nhuận. Điều này cho thấy, Liên hiệp Hội đề cao mục tiêu chính trị - xã hội, thực hiện trước hết bởi trách nhiệm của một nhà khoa học và tâm huyết muốn cống hiến cho đất nước. Đây không chỉ là tôn chỉ mà Liên hiệp Hội đề ra, thực tế đã khẳng định tính phi lợi nhuận trong hoạt động này. Như công trình thủy điện Sơn La, nếu theo chi phí thuê các chuyên gia nước ngoài thì hết hàng trăm tỷ, nhưng trong mười năm thực hiện nghiên cứu tư vấn đề án tối ưu cho Chính phủ, với sự đóng góp công sức của hơn bốn mươi nhà khoa học, chi phí chi hết khoảng 500 đến 600 triệu đồng. Không những tích kiệm được chi phí cho Nhà nước, mà các phương án của các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội đưa ra còn mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao và giảm bớt chi phí khi thi công. Một ví dụ khác đó là việc trùng tu, bảo tồn khu di chỉ Hoàng thành Thăng Long - nơi Nhà nước đã có kế hoạch xây dựng công trình tòa nhà Quốc hội và Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam, trên cơ sở luận chứng khoa học các nhà nghiên cứu đã kiến nghị với Chính phủ tạm dừng thi công các công trình này và được Chính phủ chấp thuận. Đây là việc mà Liên hiệp Hội tự đề xuất, không phải nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho. Điều đó càng chứng tỏ tinh thần trách nhiệm cao của các nhà khoa học mà hoàn toàn không vì mục tiêu lợi nhuận. Do hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội của đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam, nên cũng đem lại những ưu thế nhất định: trí thức có điều kiện để nói lên tiếng nói thống nhất, bày tỏ những tâm tư hay đề đạt nguyện vọng đối với Đảng và Nhà nước. Không những thế Liên hiệp Hội còn là tổ chức đại diện, bảo vệ những quyền lợi, lợi ích hợp pháp của trí thức KH&CN Việt Nam. Ngoài ra khi tham gia Liên hiệp Hội trí thức còn có điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, như tham gia soạn thảo các văn kiện quan trọng, tham mưu cho Đảng và Nhà nước những vấn đề quốc kế dân sinh, cung cấp những luận cứ khoa học một cách có hệ thống giúp cho việc ban hành các chủ trương, chính sách có thêm cơ sở khách quan và đạt hiệu quả… Tuy nhiên, đây là một tổ chức mang tính tự nguyện có quy mô lớn nên việc quản lý, tập hợp hội viên để phối hợp hoạt động cũng có những khó khăn nhất định. Mặt khác, hiện nay còn tồn tại tâm lý chỉ muốn làm khoa học thuần túy mà không liên quan đến các nhiệm vụ chính trị, cho nên tính chất chính trị - xã hội của Liên hiệp Hôi cũng là một trong những lý do khiến một số trí thức chưa muốn tham gia. 1.2.2. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam là lực lượng trí thức chuyên ngành về khoa học và công nghệ lớn nhất Việt Nam hiện nay Trong các tổ chức KH&CN ở Việt Nam hiện nay, Liên hiệp Hội là tổ chức có tiềm năng chuyên gia lớn nhất với 54/56 Hội ngành Trung ương, nơi tập hợp trí thức chuyên ngành (không tính hai Hội tập hợp chủ yếu là nông dân là Hội Nuôi ong, Hội Làm vườn Việt Nam) thuộc các lĩnh vực: - Khoa học xã hội và nhân văn gồm 08 Hội đó là: Hội Luật gia Việt Nam, Tổng Hội Y - Dược học Việt Nam, Hội Đông y Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hội Khoa học Tâm lý giáo dục Việt Nam, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội Dân tộc học Việt Nam, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam. - Khoa học tự nhiên gồm 07 Hội: Hội Vật lý Việt Nam, Hội Toán học Việt Nam, Hội Địa lý Việt Nam, Hội Hóa học Việt Nam, Hội Khoa học Đất Việt Nam, Hội Địa Vật lý Việt Nam, Hội các ngành Sinh học Việt Nam. - 39 Hội và Tổng hội khoa học công nghệ, cụ thể: Hội Đúc - Luyện kim Việt Nam, Hội Khoa học công nghệ Mỏ Việt Nam, Tổng Hội Xây dựng Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Địa chất Việt Nam, Hội Cơ học Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Cơ khí Việt Nam, Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, Hội Tin học Việt Nam, Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ Viễn thám Việt Nam, Hội Điện lực Việt Nam, Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hội Thú y Việt Nam, Hội Bảo quản nông sản thực phẩm Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật nhiệt Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Biển Việt Nam, Hội Kế toán Việt Nam, Hội Khoa học - Công nghệ Tự động Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Phân tích Hóa, Lý và Sinh học Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Cầu đường Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật ăn mòn và bảo vệ kim loại Việt Nam, Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Mã số Mã vạch Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Không phá hủy, Hội Thông tin tư liệu KH&CN Việt Nam, Hội Sở hữu công nghiệp Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Đo lường Việt Nam, Hội Bảo vệ Thực vật Việt Nam, Hội Giống cây trồng Việt Nam, Hội Khoa học Kỹ thuật - An toàn thực phẩm Việt Nam, Hội Khoa học công nghệ Lương thực thực phẩm Việt Nam, Hội Vệ sinh an toàn lao động, Hội Các phòng thử nghiệm Việt Nam, Hội Thiết bị y tế Việt Nam, Hội Dược học Việt Nam, Hội Trí thức KH&CN trẻ Việt Nam, Hội Kỹ thuật Điện lạnh và Điều hòa không khí Việt Nam. Là những đơn vị mang tính chuyên ngành, các Hội trên tập hợp được nhiều chuyên gia hàng đầu của cả nước trong nhiều lĩnh vực quan trọng. Cơ cấu tổ chức rất đa dạng và phong phú với mức độ chuyên sâu và quy mô khác nhau, Có Hội hoạt động trong phạm vi chuyên ngành hẹp như: Hội Dân tộc học Việt Nam (01 đơn vị thành viên), Hội Bảo vệ thực vật Việt Nam (01 đơn vị thành viên), Hội Khoa học - Kỹ thuật ăn mòn và bảo vệ kim loại Việt Nam (10 đơn vị thành viên), Hội Vệ sinh an toàn lao động Việt Nam (03 đơn vị thành viên)… Bên cạnh đó có nhiều Hội hoạt động trong phạm vi rất rộng như Hội Khoa học Kỹ thuật Mã số Mã Vạch Việt Nam (670 đơn vị thành viên), Hội Kế toán Việt Nam (130 đơn vị thành viên),Tổng hội Y - Dược học Việt Nam (với 96 đơn vị thành viên), Hội Luật gia Việt Nam (86 đơn vị thành viên), Hội Đông y Việt Nam (70 đơn vị thành viên), Tổng Hội Xây dựng Việt Nam (47 đơn vị thành viên),… [55, tr. 14- 16]. Đội ngũ trí thức thuộc các Liên hiệp Hội được tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau (từ các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp hay những người hoạt động tự do, không thuộc cơ quan, tổ chức đơn vị nào của Nhà nước, những người đã nghỉ hưu hoặc nghỉ theo các chế độ lao động), trong số họ không ít người đã và đang nắm giữ những vị trí quan trọng tại các Viện Nghiên cứu khoa học, các Bộ, ngành quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, khi gia nhập Liên hiệp Hội, họ hoạt động với tư cách là những nhà khoa học theo đúng chuyên môn của mình. Tính chuyên ngành của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thể hiện ở chỗ các Hội trên chỉ tập hợp những trí thức thuộc cùng chuyên môn, lĩnh vực nhất định: Hội Toán học Việt Nam là nơi tập hợp những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu về Toán học; Hội kế toán Việt Nam chỉ tập hợp những người thuộc chuyên ngành tài chính, kế toán, kiểm toán... Không những thế, một số Hội còn chia thành nhiều Phân hội thể hiện tính chuyên môn hóa sâu sắc. Tiêu biểu như Hội các ngành Sinh học Việt Nam có 16 Phân hội (2001) là: Động vật học, Thực vật học, Vi sinh vật học, Di chuyền học, Hóa sinh, Lý sinh, Côn trùng học, Ký sinh trùng, Công nghệ sinh học, Sinh lý người và động vật, Sinh lý thực vật, Sinh thái học, Sinh thái đất, Khoa học và công nghệ thực phẩm, Hội Sinh học phân tử và Bệnh lý thực vật, Hội những người giảng dạy Sinh học; Hội Địa chất Việt Nam gồm 10 Phân hội cụ thể là Cổ sinh - Địa tầng, Kiến tạo, Đệ tứ địa mạo, Trầm tích, Địa hóa, Khoáng học, Địa chất kinh tế, Địa chất công trình, Địa chất thủy văn, và Phân hội Công nghệ khoa,… Trong thực tế hiện nay tại một số cơ quan, đơn vị, tổ chức cũng có sự phân ngành như trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu của Nhà nước... Nhưng với tính chất là tập hợp đội ngũ trí thức chuyên ngành thì các Hội ngành Trung ương thuộc Liên hiệp Hội là nơi tập hợp được đông đảo nhất, có quy mô lớn nhất nước ta hiện nay. Toàn Liên hiệp Hội tập hợp được hơn 40 vạn trí thức KH&CN Việt Nam. Riêng các Hội ngành Trung ương tập hợp được hơn 20 vạn trí thức chuyên ngành, trong đó tiêu biểu là Hội Đông y Việt Nam (50.000 hội viên), Tổng hội Y dược học Việt Nam (hơn 10.000), Hội Luật gia Việt Nam (hơn 16.000). Với lực lượng "chất xám" chuyên ngành có quy mô và chất lượng lớn nhất nước ta hiện nay, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội là lực lượng nòng cốt của trí thức KH&CN Việt Nam. Do tập hợp trí thức cùng chuyên môn, cùng lĩnh vực nghiên cứu và hoạt động nên rất thuận tiện trong việc phát huy nguồn lực trí tuệ để giải quyết những vấn đề mang tính chuyên sâu mà thực tiễn đặt ra. Sự phối hợp của nhiều nhà khoa học trong cùng lĩnh vực nghiên cứu sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn mà ngoài các Hội ngành này, các cơ quan, tổ chức khác khó có thể có được. Ngoài ra, Liên hiệp Hội có ưu thế về liên kết các ngành khoa học, khi cần có thể huy động được lực lượng đông đảo trí thức liên ngành đáp ứng được yêu cầu của những vấn đề đòi hỏi tri thức tổng hợp, toàn diện cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học và công nghệ. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi KH&CN phát triển mạnh thì sự phân công lao động xã hội ngày càng có tính chất chuyên môn hóa cao. Nó đòi hỏi người lao động không chỉ hiểu sâu sắc, vận dụng hiệu quả những tri thức khoa học của lĩnh vực mà mình tham gia, mà nó cần ở người lao động một lượng kiến thức tổng hợp, sâu rộng, phong phú. Tuy nhiên ngoài những lợi thế trên, đội ngũ này cũng gặp phải một số hạn chế nhất định như: do không quản lý về mặt hành chính như các cơ quan, đơn vị kinh tế - xã hội, nên cùng lúc trí thức có thể đảm nhiệm nhiều công việc, vừa tham gia sinh hoạt Hội vừa phải hoàn thành nhiệm vụ nơi công tác nên không đầu tư đúng mức cho công việc của Liên hiệp Hội. Hơn nữa, phần lớn kinh phí hoạt động không được Nhà nước cấp nên số lượng trí thức mặc dù đông nhưng không có đủ điều kiện phát huy hết năng lực của mình. Nếu khắc phục được những bất cập trên để trí thức có thể tập trung nhiều hơn cho công việc chuyên môn của Liên hiệp Hội thì sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đặt nước. Kết luận chương 1 Đội ngũ trí thức nước ta là một lực lượng quan trọng trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức. Cùng với sự phát triển của KH&CN, số lượng và chất lượng của đội ngũ này không ngừng tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức còn nhiều bất cập trong cơ cấu và phân bố không đều, nhưng những đóng góp quan trọng cho thành công của công cuộc đổi mới đã ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của đội ngũ này đối với sự phát triển của đất nước. Trong quá trình CNH, HĐH, đội ngũ trí thức vừa cung cấp những luận cứ khoa học, vừa là người góp phần to lớn đưa những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. Với vai trò chủ thể, họ chính là lực lượng trực tiếp và đi đầu trong việc thực hiện nội dung của quá trình CNH, HĐH. Thông qua chức năng cơ bản là phổ biến, truyền bá tri thức khoa học- kỹ thuật, trí thức còn giữ vai trò chính trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Là một bộ phận của đội ngũ trí thức Việt Nam, ngoài những đặc điểm chung, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam có những đặc thù riêng, đó là hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội, là lực lượng "chất xám" chuyên ngành lớn nhất ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, đội ngũ trí thức trong Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã, đang tạo nên ưu thế nhất định trong việc kết hợp nghiên cứu khoa học chuyên sâu với các hoạt động mang tính liên ngành phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Chương 2 Thực trạng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 2.1. Khái quát về số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam 2.1.1. Số lượng Thực hiện Chỉ thị số 45 CT/TW (1998) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về việc đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, trong những năm qua, Liên hiệp Hội không ngừng củng cố và phát triển tổ chức, thu hút ngày càng đông đảo trí thức KH&CN tham gia. Trong tổng số hơn 40 vạn trí thức, ước tính có hơn 20 vạn hội viên thuộc các Hội ngành Trung ương, số còn lại hoạt động trong các đơn vị khác. Theo số liệu báo cáo của Hội đồng Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (5/2004) Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, trong 45/56 Hội ngành đã tập hợp được 179.246 người. Trong đó có 17.690 người hoạt động trong lĩnh vực khoa học tự nhiên (chiếm 9,9%), 30.500 người hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (chiếm 17,0%) và 131.056 người hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ (chiếm 73,1%). Những năm qua số lượng trí thức tham gia Liên hiệp Hội không ngừng gia tăng thể hiện ở sự ra đời một số Hội ngành, từ 40 hội năm 1998 lên tổng số 56 hội năm 2005 (tăng 39%). Ngoài ra nhiều Hội có thêm hội viên mới, tiêu biểu như Hội Đông y Việt Nam tăng hơn 50% (từ 24.552 người năm 1998 lên 50.000 người năm 2004), Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường năm 2001 chỉ có 200 hội viên, năm 2004 lên 3.200 (tăng 3.000 người), Hội Kế toán trong ba năm (2001 - 2004) kết nạp được 1.950 hội viên. Tương tự cùng thời gian này các Hội Thú y Việt Nam là 4.300 người, Hội Địa chất Việt Nam 1.500 người, Hội Cơ khí Việt Nam là 500 người...Tuy vậy cũng có một vài Hội không tăng, thậm chí số lượng giảm nhưng không đáng kể như Hội Khoa học kỹ thuật Nhiệt Việt Nam, Hội Địa lý Việt Nam, v.v... So với các cơ quan, đơn vị, tổ chức khác ở nước ta, hiện nay Liên hiệp Hội vẫn là nơi tập trung nhiều nhất trí thức KH&CN Việt Nam, chỉ tính riêng các Hội ngành đã chiếm hơn 10%. Nhưng với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội thì số lượng đội ngũ trí thức trên chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của Liên hiệp Hội. Hiện nay vẫn còn một lượng lớn trí thức ở trong nước và hơn 300.000 trí thức Việt kiều chưa tham gia Liên hiệp Hội. Vì vậy, trước yêu cầu ngày càng cao của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Liên hiệp Hội cần phải thu hút được đông đảo hơn nữa trí thức KH&CN, đặc biệt là trí thức trẻ và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. 2.1.2. Về chất lượng Liên hiệp Hội là nơi tập hợp những chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành về KH&CN Việt Nam. Nhiều người trong số họ đã từng nắm giữ những vị trí chủ chốt tại các cơ quan bộ, ngành, Viện nghiên cứu của Nhà nước, có bề dày về kinh nghiệm quản lý và chuyên môn. Về trình độ chuyên môn, hầu hết trí thức thuộc Liên hiệp Hội tốt nghiệp từ cao đẳng, đại học hoặc tương đương trở lên. Nhiều Hội ngành phần lớn hội viên là những người đã tốt nghiệp đại học trở lên, tiêu biểu là Hội Luật gia Việt Nam (70% có trình độ đại học và trên đại học), Hội Toán học Việt Nam, Hội Kế toán Việt Nam... Có Hội chỉ kết nạp những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các Viện Nghiên cứu và các trường Đại học có từ 3 năm kinh nghiệm trở lên. Điều đó cho thấy, trình độ chung của lực lượng trí thức thuộc Liên hiệp Hội là tương đối cao so với mặt bằng chung của trí thức Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, số lượng những người được phong hàm giáo sư, phó giáo sư và học vị tiến sĩ cũng là một nhân tố phản ánh một phần quan trọng về trình độ chuyên môn của mỗi Hội. Chẳng hạn như Tổng Hội địa chất Việt Nam hiện nay (2004) có hơn 5000 hội viên, trong đó có 42 giáo sư, 103 phó giáo sư, hàng trăm tiến sĩ, thạc sĩ và hàng ngàn kỹ thuật viên. Theo báo cáo năm 2002 của Liên hiệp Hội về kết quả điều tra trình độ của trí thức thuộc cơ quan lãnh đạo các hội ngành Trung ương, hầu hết có trình độ từ đại học và sau đại học trở lên (xem bảng) Bảng 2.1: Trình độ của trí thức thuộc cơ quan lãnh đạo các Hội ngành Trung ương Trình độ (%) Cơ quan lãnh đạo Sau đại học Đại học Trình độ khác Ban Chấp hành 56,9% 40,7% 2,4% Ban Thường vụ 64,9% 30,5% 4,6% Văn phòng 27,2% 61,8% 11,0% Nguồn: [49, tr. 45]. Thông qua kết quả của các công trình khoa học cũng có thể đánh giá về trình độ, năng lực của người trí thức. Ngoài hàng trăm công trình được nhận giải thưởng KH&CN Việt Nam, gần đây nhất (năm 2000) còn có 07 công trình và cụm công trình đã được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN, bao gồm: "Chọn tạo các giống lúa mới cho một số vùng sinh thái" của GS.TSKH Vũ Tuyên Hoàng; "Những hệ sinh thái rừng nhiệt đới Việt Nam" - GS.TSKH Thái Văn Trừng; "Điều tra phân loại, lập bản đồ đất Việt Nam" của nhóm tác giả GS.TS Lê Duy Thước, GS.TS Cao Liêm, GS.TS Vũ Cao Thái, TS. Trần Khải và một số nhà khoa học khác; "Dao động phi tuyến tính của các hệ động lực" của GS.TSKH Nguyễn Văn Đạo; "Vacxin phòng bại liệt" - PGS.TSKH Hoàng Thủy Nguyên thực hiện và "Nghiên cứu chiết suất Artemisinnin từ cây thanh hao hoa vàng Việt Nam và chuyển hóa thành các dẫn chất có hoạt tính mạnh hơn để chữa sốt rét kháng thuốc" của GS. Bác sĩ Phạm Song và nhóm đồng tác giả Bộ Y tế, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia, cùng với Bộ Quốc phòng thực hiện. Với những kết quả tiêu biểu trên đã phản ánh khái quát nhất trình độ, chất lượng của đội ngũ các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội. Về phẩm chất chính trị, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội giàu lòng yêu nước, có niềm tin sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, mong muốn được cống hiến nhiều cho Tổ quốc. Phẩm chất đó không chỉ thể hiện trong công cuộc đổi mới mà còn bộc lộ rõ nét thông qua hoạt động như xây dựng pháp luật, đóng góp ý kiến cho các văn kiện quan trọng của Đảng, triển khai thực hiện đường lối, nghị quyết mà Đảng đề ra… Sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước đã củng cố hơn nữa niềm tin của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội với Đảng. Trong những năm gần đây, nhiều trí thức tự nguyện gia nhập hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong sáu năm (từ 1999 đến 2005), Liên hiệp Hội đã kết nạp thêm 96 đảng viên (tăng 82,05%), nâng tổng số đảng viên lên 213 người. Cùng với sự phát triển này, quy mô của Đảng bộ Liên hiệp Hội cũng ngày càng mở rộng, từ 11 chi bộ (1999), đến nay có 25 chi bộ. Cùng với các hoạt động cụ thể khác, sự gia tăng số lượng đảng viên và chi bộ đã cho thấy sự trung thành và ủng hộ con đường cách mạng do Đảng ta lãnh đạo của đội ngũ này. Nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, hàng năm Liên hiệp Hội và các hội thành viên thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho hội viên. Do đó, chất lượng của đội ngũ này ngày càng được nâng cao. So với mặt bằng chung của trí thức KH&CN trong cả nước, thì đây là đội ngũ có chất lượng cao, tập trung nhiều nhất các chuyên gia đầu ngành về KH&CN của cả nước. Thực tế chứng minh qua những nhiệm vụ quan trọng, những công trình và đề án lớn của đất nước đã được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao cho đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Tuy nhiên, trình độ của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới còn một khoảng cách khá xa, trừ một số nhà khoa học đầu đàn có thể trao đổi chuyên môn ngang tầm với các nhà khoa học của các nước phát triển. Sự chênh lệch đó là một trong những thách thức đối với đội ngũ này trong quá trình hội nhập. Qua khảo sát một số Hội và cơ quan lãnh đạo của các Hội ngành, những trí thức có trình độ sau đại học không nhiều, và đa số họ là những người đã hơn 40 tuổi. Những trí thức này phần lớn được học ở các nước XHCN trước đây, kiến thức cơ bản vững vàng nhưng do tuổi tác nên khả năng thích ứng, tiếp thu những thành tựu KH&CN hiện tại bị hạn chế. Những năm gần đây, số lượng đảng viên không ngừng tăng lên, nhưng so với số lượng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thì tỷ lệ này còn rất thấp (213 đảng viên/ hơn 40 vạn trí thức) chiếm 0.05%. Điều này cho thấy công tác chính trị - tư tưởng và phát triển đảng viên vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Nhìn chung chất lượng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội chưa đáp ứng đủ yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay. Để thực hiện tốt vai trò là lực lượng nòng cốt của trí thức KH&CN Việt Nam, Liên hiệp Hội và các Hội thành viên cần phải không ngừng nâng cao chất lượng hội viên, ngoài việc bồi dưỡng chuyên môn, cần nâng cao ý thức chính trị, học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển một cách toàn diện. 2.1.3. Về cơ cấu Liên hiệp Hội là một tổ chức tập hợp các hội chuyên ngành thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, cơ cấu của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội rất đa dạng và phong phú. Về lĩnh vực khoa học, trong tổng số 179.246 trí thức thuộc 45 Hội ngành Trung ương, có 73,1% hoạt động trong các Hội về khoa học công nghệ, chỉ có 9,9% hoạt động trong 07 Hội thuộc khoa học tự nhiên, 17,0% hoạt động trong 08 Hội thuộc khoa học xã hội và nhân văn. Qua đó cho thấy tỷ lệ chênh lệch giữa 3 lĩnh vực này là rất lớn, chủ yếu trí thức thuộc Liên hiệp Hội là trí thức khoa học công nghệ. Về độ tuổi, trí thức thuộc Liên hiệp Hội phần lớn từ 40 tuổi trở lên, số trí thức trẻ (dưới 40 tuổi) rất ít. Theo kết quả điều tra của Liên hiệp Hội về cơ quan lãnh đạo các Hội ngành Trung ương, phần lớn là từ 40 đến 60 tuổi, số người trên 60 đến 70 tuổi có nhưng không nhiều. Cụ thể độ tuổi của trí thức tham gia các cơ quan này như sau: Bảng 2.2: Cơ cấu trí thức thuộc cơ quan lãnh đạo các Hội ngành Trung ương Tên cơ quan lãnh đạo các Hội ngành Trung ương Giới tính Dưới 40 tuổi % 40-60 tuổi % Trên 60 tuổi % Ghi chú Nam Nữ Ban Chấp hành 92,1% 7,9% 4,0% 72,0% 24,0% Ban Thường vụ 94,3% 5,7% 0,2% 53,0% 46,8% Văn phòng - - 30,0% 35,0% 35,0% Nguồn: [49, tr. 3]. Kết quả điều tra trên cho thấy, trong các cơ quan lãnh đạo của các Hội ngành Trung ương đại đa số là nam giới, tỷ lệ nữ giới chiếm rất ít (dưới 10%). Con số này phần nào phản ánh đúng thực trạng cơ cấu giới tính của trí thức KH&CN ở nước ta hiện nay. Nhìn chung, cơ cấu của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thể hiện sự đa dạng, phong phú, song cũng còn sự mất cân đối về nghề nghiệp, lĩnh vực hoạt động, độ tuổi và giới tính. Phần đông trí thức thuộc Liên hiệp Hội hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ, trong số họ có rất ít người là nữ và trẻ tuổi. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự mất cân đối về tỷ lệ nam và nữ, cơ bản là do quan niệm lạc hậu về giới tính với nghề nghiệp. Nhiều người cho rằng nữ nên hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội, lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ là dành cho nam giới. Vì vậy, ngay từ khi xác định nghề nghiệp, nhiều người đã định hướng cho con cái mình theo quan niệm đó. Kết quả là các trường đại học đào tạo các chuyên ngành khoa học kỹ thuật rất ít sinh viên nữ, vì vậy, nguồn bổ sung trí thức nữ hàng năm cho lĩnh vực này rất hạn chế. Mặt khác, sự phân bố không đều giữa các lĩnh vực khoa học phản ánh sự thiếu hụt một lực lượng trí thức khoa học cơ bản. Phần lớn hội viên thuộc các Hội ngành khoa học công nghệ, còn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn thì số lượng không đáng kể. Đặc biệt, trong Liên hiệp Hội không có trí thức chuyên ngành về lý luận chính trị. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động của đội ngũ này nhất là trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao cho. Một trong những hạn chế lớn nhất hiện nay là khó thu hút trí thức trẻ (dưới 40 tuổi) tham gia Liên hiệp Hội, đây là lực lượng giàu tiềm năng, với ưu thế được tiếp thu tri thức KH&CN hiện đại, rất năng động và giàu tính sáng tạo, có khả năng nhạy bén và tiếp thu cái mới. Sở dĩ Liên hiệp Hội chưa thu hút được đội ngũ này là do chưa tạo ra được cơ chế thuận lợi, nhiều hội ngành quy định tiêu chuẩn để kết nạp hội viên còn cao so với khả năng đáp ứng của trí thức trẻ hiện nay. Tâm lý coi trọng kinh nghiệm còn tồn tại ở một số Hội thành viên. Mặc dù thâm niên lao động, bề dày kinh nghiệm cũng là một yếu tố rất quan trọng, nhưng trước sự phát triển như vũ bão của KH&CN như hiện nay, trí thức trẻ cần phải được đánh giá đúng và tạo điều kiện để khai thác, phát huy tối đa những ưu thế của lực lượng này phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển đất nước theo định hướng XHCN. ở một số nước phát triển, họ rất trọng dụng lực lượng vừa tốt nghiệp các trường đại học, còn ở nước ta đội ngũ này chưa được bồi dưỡng và đánh giá đúng, do đó hiện tượng lãng phí "chất xám" còn xảy ra nhiều nơi. Với vai trò là một tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội cần phải có chiến lược trong việc tập hợp, đoàn kết trí thức thuộc nhiều lĩnh vực, độ tuổi khác nhau để không những tăng sức mạnh trí tuệ, mà còn hướng tới sự toàn diện trong các hoạt động của mình phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thực trạng về số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội cho thấy đây là một đội ngũ giàu tiềm năng và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong việc tập hợp, đoàn kết một lực lượng khá đông đảo những chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành của Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, nhất là trong việc thu hút trí thức trẻ và những trí thức Việt kiều - một nguồn lực dồi dào đang rất cần được khai thác. Để thực hiện tốt vai trò là lực lượng nòng cốt, trong thời gian tới đội ngũ này phải không ngừng củng cố tổ chức, nâng cao cả chất lượng và số lượng, khắc phục những khó khăn, yếu kém đang tồn tại đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu của công cuộc xây dựng CNXH. 2.2. kết quả thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 2.2.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng nền tảng cho qua trình CNH, HĐH đất nước, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội luôn coi trọng công tác nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Những năm qua, nhiều dự án, đề tài thuộc các lĩnh vực và các cấp quản lý khác nhau đã được trí thức thuộc Liên hiệp Hội triển khai thành công, trong đó có những công trình phát huy hiệu quả lớn trong thực tiễn. Tiêu biểu là một số công trình nghiên cứu: Định hướng chiến lược phát triển năng lượng đến 2020; Tổng hợp chiến lược và chính sách phát triển năng lượng bền vững quốc gia; Hoàn thiện công nghệ thiết kế, chế tạo và thi công kè thảm bê tông tự chèn lưới thép P.D.TAC-M bảo vệ bờ sông khỏi sạt lở; Nghiên cứu đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản năng lượng và bảo vệ môi trường v.v... (xem phụ lục 1). Đặc biệt, Liên hiệp Hội có chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước về Xây dựng chiến lược, chính sách phát triển, năng lượng bền vững được triển khai trong giai đoạn 1990 - 2000 và đã được tổng kết vào tháng 12/2001, kết quả nghiên cứu của chương trình được đánh giá xuất sắc, đặt cơ sở khoa học đáng tin cậy cho việc hoạch định chính sách năng lượng quốc gia giai đoạn 2010 - 2020. Những kết quả trên đây cho thấy, Liên hiệp Hội đã góp phần to lớn cho chiến lược phát triển công nghệ cao ở Việt Nam, đồng thời tạo tiền đề quan trọng để phát triển những ngành này trong thời gian tới. Bên cạnh một số ít đề tài thuộc các lĩnh vực công nghệ cao, phần lớn các đề tài của Liên hiệp Hội phục vụ công tác quản lý nhà nước về môi trường. Các đề tài này tập trung chủ yếu vào việc đánh giá tác động môi trường, ứng dụng các công nghệ xử lý môi trường, giáo dục và truyền thông bảo vệ môi trường. Trong đó một số công trình tiêu biểu như: Xây dựng Atlas điện tử môi trường vùng đồng bằng Bắc Bộ; Nghiên cứu cơ sở phân vùng địa lý phục vụ phổ biến thông tin về phát triển bền vững kinh tế - xã hội và truyền thông, vận động bảo vệ môi trường nông thôn đồng bằng sông Hồng; Kỹ thuật dự báo cháy rừng bằng ảnh viễn thám; Quy hoạch môi trường khu vực Hàm Rồng (Thanh Hóa); Công nghệ xử lý nước thải làng nghề; Công nghệ xử lý và chôn lấp rác thải; Công nghệ phân hủy thuốc bảo vệ thực vật.v.v... (xem phụ lục 2). Ngoài ra, Liên hiệp Hội còn có một số lượng đáng kể các đề tài phục vụ cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, cải tạo và sử dụng đất, bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, xử lý nước sinh hoạt, chăm sóc sức khỏe nhân dân, y tế dự phòng... Trong số này, nổi bật là đề tài "Xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Việc ứng dụng kết quả nghiên cứu của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho sản xuất nông nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, đồng thời củng cố vững chắc hơn khối liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức. Theo dự thảo Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW của Liên hiệp Hội, trong 5 năm (1998-2003) số lượng các đề tài, dự án cấp Nhà nước giao cho các nhà khoa học của Liên hiệp Hội không ngừng tăng. Cụ thể năm 1998: 15 đề tài/ dự án, năm 2000:18 đề tài/ dự án, năm 2001: 30 đề tài/ dự án, năm 2002: 35 đề tài/dự án, năm 2003: 55 đề tài/ dự án. Nhưng thành tựu nổi bật nhất là các công trình được nhận những giải thưởng có uy tín như Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN&CN, Giải thưởng KH&CN Việt Nam cho những đề tài về các ngành công nghệ cao: Công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ cơ khí và tự động hóa. Ngoài ra, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức và tham gia một số hội nghị, hội thảo khoa học trong nước và quốc tế như Hội nghị CAPEO của Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN, Hội thảo Sinh học quốc tế (2001), Hội thảo quốc tế về bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên (2002)... Bên cạnh đó những Hội thảo chuyên ngành và chuyên đề về khoa học - công nghệ mỏ, năng lượng, tài nguyên nước, kinh tế tri thức và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, công nghệ khí sinh học, môi trường và giáo dục môi trường... cũng đã được Liên hiệp Hội tổ chức (phụ lục 3). Thông qua các cuộc hội thảo này, trí thức thuộc Liên hiệp Hội có điều kiện tiếp thu những thành tựu về KH&CN mới nhất, được trao đổi kinh nghiệm với các nhà khoa học đến từ nhiều quốc gia để nâng cao trình độ, góp phần thúc đẩy KH&CN trong nước phát triển, tạo tiền đề đưa nhanh những tiến bộ khoa học vào sản xuất và đời sống, đồng thời thu hẹp khoảng cách chênh lệch về trình độ giữa các vùng, miền trong nước cũng như giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Bên cạnh những kết quả rất đáng khích lệ trên, hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của trí thức thuộc Liên hiệp Hội còn tồn tại một số hạn chế nhất định: Về phạm vi, quy mô hoạt động còn tản mạn chưa tương xứng với tiềm năng của Liên hiệp Hội. Nhìn chung các đề tài mà Liên hiệp Hội và các Hội ngành triển khai chưa tập trung nhiều vào khoa học cơ bản, chưa thu hút và phát huy tối đa số lượng hội viên tham gia và còn ít đề tài nghiên cứu mang tầm chiến lược, quy mô lớn, chủ yếu mới chỉ tập trung ở một số vấn đề trước mắt, trong phạm vi hẹp. Trước những yêu cầu của công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của trí thức thuộc Liên hiệp Hội cần phải có chiến lược lâu dài, đặt trọng tâm vào một số lĩnh vực cơ bản và quan trọng như các ngành công nghệ cao. Bên cạnh việc nghiên cứu ứng dụng, Liên hiệp Hội cần phải chú trọng đến nghiên cứu lý thuyết mang tính chuyên sâu. Trong số các Hội ngành Trung ương, còn có đơn vị hoạt động kém hiệu quả, tổ chức lỏng lẻo nên chất lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ chưa cao. Có Hội chỉ tổ chức được từ một đến bốn cuộc Hội thảo khoa học/1 năm. Bên cạnh đó còn tồn tại tâm lý thụ động, trông chờ cơ quan Liên hiệp Hội Trung ương giao đề tài, ít chủ động tìm kiếm trong khi thực tiễn còn rất nhiều vấn đề đang cần được các nhà khoa học nghiên cứu giải đáp. Khó khăn về kinh phí là một yếu tố tác động chính đến công tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cũng như các hoạt động khác của đội ngũ này. Mặc dù Đảng ta đã khẳng định vai trò của KH&CN cùng với GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, nhiều văn bản, chỉ thị của Đảng và Nhà nước khẳng định Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cùng với các đoàn thể chính trị khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, nhưng trong thực tế việc thực hiện và đầu tư cho đội ngũ này chưa tương xứng với vai trò mà Đảng và Nhà nước giao cho. Ngoài Tổng hội Y - Dược học Việt Nam, Hội Đông y Việt Nam và Hội Luật gia Việt Nam được Nhà nước hỗ trợ kinh phí, còn lại các Hội đều phải tự lo kinh phí hoạt động. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của nhiều Hội ngành Trung ương. Những thành quả lao động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã ngày càng khẳng định vai trò, tiềm năng của đội ngũ này. Để phát huy tối đa tiềm lực "chất xám" quý báu này, Liên hiệp Hội và các Hội ngành Trung ương cần khắc phục những hạn chế, yếu kém, chủ động và xây dựng chiến lược lâu dài về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trước hết cần tập trung nguồn nhân lực phục vụ, đáp ứng những yêu cầu đang đặt ra về KH&CN trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 2.2.2. Hoạt động chính trị - xã hội Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội có vai trò tích cực trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước. Những đóng góp của đội ngũ này trước hết thể hiện ở việc trực tiếp tham gia soạn thảo hoặc đóng góp ý kiến cho các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước, các dự luật và chiến lược phát triển, các dự án lớn về kinh tế - xã hội, KH&CN, GD&ĐT. Nhiều ý kiến của các nhà khoa học thông qua Liên hiệp Hội đã được lắng nghe và đánh giá cao. Trong số các văn kiện quan trọng mà các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội đã đóng góp ý kiến, tiêu biểu như Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội IX, Hiến pháp 1992 (sửa đổi), chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, các văn kiện Hội nghị Trung ương Đảng (khóa IX); đóng góp ý kiến với dự thảo văn kiện Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) về vai trò của trí thức trong liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức và các văn kiện quan trọng khác. Không chỉ tham gia đóng góp ý kiến trong những văn kiện quan trọng trên, ở lĩnh vực ngành, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thông qua hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội cũng có những đóng góp nhất định, làm cho quy trình ban hành quyết định của Nhà nước đúng đắn, chính xác hơn. Đội ngũ trí thức thuộc Hội Luật gia Việt Nam đã tham gia góp ý về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Dự án Tổng quan về vấn đề phòng chống tai nạn, thương tích cho trẻ em trong pháp luật Việt Nam, trí thức thuộc Hội Khoa học kỹ thuật xây dựng Việt Nam góp ý kiến cho Luật xây dựng, Luật khoa học công nghệ, Nghị định và Điều lệ đầu tư xây dựng, đấu thầu xây dựng, v.v... Những hoạt động chính trị - xã hội của đội ngũ này còn thể hiện rõ nét trong việc tham gia các hoạt động chuẩn bị và tổ chức bầu cử Quốc hội khóa IX, X, XI. Trong số những người ra ứng cử và được đề cử thông qua Liên hiệp Hội, hầu hết đều được bầu vào Quốc hội. Với vai trò là đại biểu Quốc hội, các nhà khoa học đã có những đóng góp trực tiếp vào các quyết sách quan trọng của đất nước cũng như các địa phương khác trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời việc nghiên cứu quán triệt và triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng được tổ chức thực hiện kịp thời và có sự tham gia tích cực của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, đặc biệt là những văn kiện liên quan đến KH&CN, GD&ĐT. Bên cạnh đó, Câu lạc bộ Thời sự - Khoa học được tổ chức thường xuyên với chương trình, nội dung phong phú giúp cho hội viên nắm bắt kịp thời những thông tin quan trọng về chính trị - xã hội của đất nước cũng như trong khu vực và trên thế giới. Những hoạt động này đã có ý nghĩa tích cực góp phần giáo dục tư tưởng chính trị cho đội ngũ trí thức. Thông qua Đảng đoàn của Liên hiệp Hội, với tinh thần và trách nhiệm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã phát huy tinh thần dân chủ, thẳng thắn phát biểu ý kiến về những vấn đề hệ trọng liên quan đến quốc kế, dân sinh, cũng như mạnh dạn đề đạt ý kiến của mình trong việc xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Điều đó không chỉ thể hiện trách nhiệm của nhà khoa học với đất nước mà đó còn là tình yêu, sự gắn bó sâu sắc với dân tộc - một yếu tố rất quan trọng và cần được phát huy tốt trong giai đoạn hiện nay, không chỉ với trí thức ở trong nước mà cả những trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài. Là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã hưởng ứng các hoạt động do Mặt trận phát động như đóng góp xây dựng "Quỹ Vì người nghèo", "Quỹ Phòng chống thiên tai", các hoạt động "Đền ơn đáp nghĩa", "Xây dựng nhà tình nghĩa"; khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho người thuộc diện chính sách, ở vùng sâu, vùng xa; tư vấn pháp lý miễn phí cho người nghèo... Những đóng góp này đã góp phần không nhỏ trong thực hiện các mục tiêu chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước, củng cố vững chắc hơn khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bên cạnh những kết quả trên, việc thực hiện nhiệm vụ này còn gặp một số khó khăn và bộc lộ một số yếu kém cần khắc phục. Việc bồi dưỡng, giáo dục tư tưởng chính trị cho đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội chưa thực sự được coi trọng đúng mức. Hội viên được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam là hình thức biểu hiện kết quả trưởng thành về ý thức chính trị, nhưng số này không nhiều, chỉ có 213 đảng viên trong tổng số hơn 40 vạn trí thức. Những hạn chế trên là do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan. Trước hết do nhận thức về tính chất chính trị - xã hội của tổ chức này thiếu sự thống nhất cần thiết, nhiều cơ quan, đơn vị còn coi Liên hiệp Hội như một tổ chức xã hội - nghề nghiệp chưa thực sự đối xử ngang bằng với các tổ chức như Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Mặt khác, bản thân đội ngũ này cũng chưa ý thức rõ nhiệm vụ của mình khi tham gia vào một tổ chức chính trị - xã hội, thậm chí còn có tâm lý coi đây giống như các tổ chức phi chính phủ của nước ngoài. Hạn chế của công tác này một phần còn do Đảng Đoàn của cơ quan Trung ương Liên hiệp Hội hoạt động kém hiệu quả nhất là công tác phát triển đảng. Việc nghiên cứu, tìm hiểu các môn khoa học Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh còn chưa được chú trọng trong Liên hiệp Hội. 2.2.3. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội Để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, điều kiện quan trọng và tiên quyết là mọi chủ trương, chính sách, kế hoạch, dự án phát triển đều phải được xây dựng và thực hiện trên cơ sở khoa học. Do vậy, việc tư vấn, phản biện và giám định xã hội là vô cùng quan trọng và cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà chúng ta không chỉ đưa đất nước phát triển một cách bền vững mà phải đảm bảo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa : Tư vấn là hoạt động trợ giúp về tri thức, kinh nghiệm, cung cấp các thông tin tư liệu cùng các ý kiến phân tích, đánh giá và kiến nghị trong việc đề xuất, xây dựng hoặc thẩm định, phê duyệt đề án. Phản biện là hoạt động cung cấp các thông tin, tư liệu cùng các ý kiến phân tích, đánh giá tính khả thi và các kiến nghị về sự phù hợp của nội dung đề án đối với mục tiêu và các điều kiện ràng buộc ban đầu hoặc thực trạng đặt ra. Giám định là hoạt động theo dõi việc thực hiện đề án, đưa ra các ý kiến phân tích, đánh giá và kiến nghị kịp thời về việc tổ chức thực hiện, mục tiêu, nội dung hoặc chất lượng đề án. Tư vấn, phản biện và giám định xã hội là cách diễn đạt vắn tắt của tư vấn xã hội, phản biện xã hội và giám định xã hội, tức là tư vấn, phản biện và giám định của các lực lượng xã hội, từ phía xã hội và mang tính chất độc lập. Các hoạt động đó nhằm mục đích cung cấp cho các cơ quan đặt yêu cầu tư vấn, phản biện và giám định xã hội có thêm cơ sở, luận cứ khoa học độc lập, khách quan trong việc đề xuất, xây dựng, thẩm định, phê duyệt hoặc thực hiện đề án. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tư vấn, phản biện và giám định xã hội, với niềm tin sâu sắc vào đội ngũ trí thức, Đảng và Nhà nước ta đã trao nhiệm vụ quan trọng này lên vai đội ngũ này, trong đó có trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Đó vừa là vinh dự vừa là trách nhiệm nặng nề, đòi hỏi sự nỗ lực lớn cả về trí tuệ và tâm sức của các nhà khoa học. Chỉ thị số 35-CT/TƯ (ngày 11-4-1988), Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) đã xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Liên hiệp Hội là "tư vấn về chính sách khoa học - kỹ thuật và kinh tế - xã hội cho Đảng và Nhà nước". Trên cơ sở sơ kết bốn năm thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TƯ, ngày 20-11-1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ra thông báo số 37-TB/TƯ về tổ chức và hoạt động của Liên hiệp Hội, trong đó chỉ rõ: "Trước mắt cần thể chế hóa chức năng tư vấn, phản biện và giám định xã hội về khoa học và kỹ thuật của các hội". Thông báo cùng đề ra yêu cầu "Nơi chưa có tổ chức thì xúc tiến việc thành lập hội; nơi đã có tổ chức cần chỉ đạo việc củng cố và hoạt động để phát huy vai trò của hội, trong đó có vai trò tư vấn, phản biện và giám định xã hội về KH&CN ở địa phương". Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, KH&CN có vị trí ngày càng quan trọng và được khẳng định là "quốc sách hàng đầu". Các luận cứ khoa học trở thành một trong những điều kiện và tiền đề không thể thiếu trong việc hoạch định đúng đắn các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các dự án đầu tư, các công trình xây dựng ngày càng đòi hỏi trình độ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến để giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội thì không thể không dựa trên những cơ sở của khoa học xã hội và nhân văn. Trong hoàn cảnh đó, vị trí, vai trò của trí thức thuộc Liên hiệp Hội ngày càng được khẳng định trong hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Chính vì vậy, ngày 11-11-1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) ra Chỉ thị số 45-CT/TƯ trong đó nêu rõ: Liên hiệp Hội là một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam, cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Bản Chỉ thị cũng yêu cầu Liên hiệp Hội cần đẩy mạnh "Tư vấn, phản biện và giám định xã hội trong hoạt động khoa học, công nghệ nhằm góp phần thiết thực của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [24]. Sau Chỉ thị số 14/2000/CT-TTg ngày 01-8-2002 về việc triển khai thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 22/2002/QĐ- TTg ngày 30-01-2002 về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp Hội. Những văn bản tiêu biểu trên đã khẳng định quan điểm nhất quán, trước sau như một của Đảng và Chính phủ về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp Hội và các hội thành viên. Theo tinh thần các văn kiện nêu trên thì đối tượng tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp Hội và các Hội thành viên là các chính sách, các chương trình dự án, đề án phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ và môi trường (gọi chung là đề án) có tính chất phức tạp, ưu tiên, trọng điểm hoặc đa ngành, do các cơ quan xây dựng, thực hiện hoặc trình cấp trên phê duyệt. Tư vấn, phản biện và giám định xã hội là chức năng đặc biệt quan trọng và ưu thế của Liên hiệp Hội. Mặc dù đây là nhiệm vụ mới mẻ và chưa có tiền lệ, còn gặp nhiều khó khăn trong bước đầu triển khai thực hiện, nhưng với trách nhiệm, tình yêu đối với đất nước, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đạt được một số thành tựu bước đầu góp phần đem lại nhiều lợi ích cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ngay từ đầu những năm 90, khi đất nước đứng trước hoàn cảnh rất khó khăn, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức đóng góp ý kiến cho một số dự thảo văn kiện của Đảng và Nhà nước. Tại cuộc gặp gỡ với các đồng chí lãnh đạo cấp cao do Liên hiệp Hội tham gia tổ chức (11-1991), các nhà khoa học đã nhất trí cao trong việc đánh giá tình hình đất nước trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khẳng định những thành quả về chính trị, kinh tế, xã hội của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Nhiều đại biểu của các hội thành viên đã đề xuất những ý kiến quý báu về việc khắc phục những khó khăn trước mắt và tiếp tục vững bước đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tiếp theo, việc đóng góp ý kiến của trí thức thuộc Liên hiệp Hội tập trung vào dự thảo các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước, như Pháp lệnh Kiểm soát phóng xạ (12-1993), Luật về hội (4-1995), Bộ luật Dân sự (4-1995), Báo cáo chính trị trình Đại hội VIII của Đảng (9-1995), Luật KH&CN (9-1996), Nghị quyết Hội nghị Trung ương hai (10-1996), Báo cáo chính trị trình Đại hội IX (10-2000), chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 (10-2000). Trong năm 1997, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức thẩm định và phản biện 09 bản quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng thời kỳ 1996- 2010: Vùng đồng bằng sông Hồng; vùng Tây Bắc; vùng Bắc Trung Bộ; vùng Đông Nam Bộ; vùng đồng bằng sông Cửu Long; vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Trung; vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Nam; vùng duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên. Trong năm 1999, đã có 9 trong số 11 dự thảo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng đến năm 2010 nhận được ý kiến thẩm định và phản biện của trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Đặc biệt, Liên hiệp Hội đã tổ chức tư vấn, phản biện và thẩm định hồ sơ của 15 dự án đầu tư phát triển quan trọng, trong đó lớn nhất là thủy điện Sơn La trên sông Đà, với những đóng góp quan trọng cho công trình này, ngày 02 tháng 01 năm 2004, Chủ tịch Hội đồng thẩm định Nhà nước Dự án thủy điện Sơn La đã ra quyết định số 04/QĐ/HĐTĐSL khen thưởng Liên hiệp Hội "đã có nhiều thành tích tham gia trong công tác thẩm định dự án thủy điện Sơn La từ năm 1998 đến năm 2003". Đó là sự ghi nhận và khẳng định vai trò, năng lực của trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Để từng bước đưa các văn kiện của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, trong năm 2001, 19 Hội đồng tư vấn chuyên ngành và Ban công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội thuộc Liên hiệp Hội đã được thành lập. Cũng trong năm 2001, trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tích cực tham gia góp ý kiến cho nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước, trong đó phải kể đến các văn kiện và nhân sự Đại hội IX của Đảng, Hiến pháp sửa đổi (5-2001), "Chiến lược phát triển KH&CN năm 2001-2010", "Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010", thẩm định Dự án "Đường Hồ Chí Minh đoạn đi qua vườn Quốc gia Cúc Phương... Đặc biệt, đội ngũ trí thức thuộc Hội Xây dựng Việt Nam cùng với các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức nhiều hội thảo góp ý kiến đối với biện pháp nâng cao chất lượng nước Hồ Tây thuộc Dự án "Xây dựng hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây", mà kết quả của nó đã giúp ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ra quyết định đình chỉ kịp thời tiểu dự án "Nâng cao chất lượng nước Hồ Tây" - một dự án không có cơ sở chắc chắn và tốn kém nhiều tiền của. Từ năm 2002 đến nay, nhiều dự án, văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước tiếp tục nhận được những ý kiến đóng góp từ phía các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội. Tính riêng trong năm 2003 và hai tháng đầu năm 2004, đã có 12 cuộc hội thảo đóng góp ý kiến về các vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, bảo tồn và phát huy di sản lịch sử, di chỉ Hoàng thành Thăng Long, quy chế giám sát đầu tư của công cộng, bảo vệ nguồn thực vật quý hiếm, bảo vệ động vật hoang dã, các biện pháp cứu chữa các giống gà gốc Việt Nam, công nghệ sinh học, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, chống sạt lở bờ sông, môi trường biển Hải Phòng, địa hóa với môi trường và đời sống. Trong số các công trình khoa học mà trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức để đóng góp ý kiến gần đây, đặc biệt phải kể đến việc bảo tồn di chỉ Hoàng thành Thăng Long. Theo dự kiến, Chính phủ sẽ xây dựng Bảo tàng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay thành Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam bên cạnh Cột cờ Hà Nội, trong khu vực thành Hà Nội. Để bảo tồn các công trình kiến trúc trên mặt đất và di chỉ dưới mặt đất - nơi có bề dày các tầng văn hóa trải qua mười ba thế kỷ, là duy nhất độc đáo trên thế giới, nơi còn chứa đựng nhiều di tích, di vật của Hoàng thành thời Lý, Trần, Lê - các nhà khoa học thuộc Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Viện Khoa học khảo cổ, Hội dân tộc học Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Hội kiến trúc sư Việt Nam, Hội Quy hoạch đô thị Việt Nam, Hội Khoa học lịch sử Hà Nội, Hội các ngành sinh học Việt Nam và Viện nghiên cứu và phát triển phương Đông đã nghiên cứu và kiến nghị không xây Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam phía sau Cột cờ và trước Đoan môn, gấp rút xây dựng quy hoạch tổng thể bảo tồn di tích Hoàng thành Thăng Long, thành Hà Nội kéo dài cho đến các di tích cách mạng và kháng chiến thời đại Hồ Chí Minh. Sự kiện này không phải các nhà khoa học thực hiện theo đề nghị từ phía Chính phủ, mà do các nhà khoa học chủ động kiến nghị. Điều này thể hiện sự tâm huyết, trách nhiệm đối với dân tộc, trách nhiệm của thế hệ này đối với thế hệ mai sau của các nhà khoa học trong Liên hiệp Hội. Những cổ vật còn nằm dưới mặt đất là tư liệu vô cùng quý giá đối với nhiều ngành khoa học, là cơ sở để khẳng định bề dầy, giá trị lịch sử và văn hóa của Thành Thăng Long nói riêng, của dân tộc ta nói chung. Những kiến nghị trên là cơ sở khoa học, là căn cứ khách quan đã có tác động đến việc xây dựng Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam, hiện nay dự án đó tạm thời ngừng triển khai. Mới đây nhất là những ý kiến đóng góp về "Một số biện pháp nhằm tiến tới cải cách triệt để và toàn diện nền giáo dục Việt Nam" (ngày 09 tháng 5 năm 2005) của trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Trên cơ sở đánh giá khái quát về thực trạng ngành giáo dục của nước ta hiện nay và chỉ ra những nguyên nhân của những tồn tại trong ngành giáo dục, các nhà khoa học đã kiến nghị sáu giải pháp trước mắt với mong muốn đưa sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước ta phát triển. Ngoài các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội mang tính liên ngành, thì hoạt động mang tính chuyên ngành của trí thức thuộc Liên hiệp Hội cũng có những đóng góp quan trọng. Tiêu biểu là trí thức của một số Hội ngành như: Hội Vô tuyến - Điện tử với dự án phóng vệ tinh nhân tạo VINASAT của Việt Nam; Hội Khoa học - Kỹ thuật nhiệt đới với các nhà máy nhiệt điện Hải Phòng, Cẩm Phả,Quảng Ninh; Hội Đúc - Luyện kim đối với chương trình nghiên cứu vật liệu luyện kim đen, sản xuất gang trong lò cao nhỏ; Hội Hóa học đối với đề án xây dựng nhà máy lọc dầu và phương hướng phát triển công nghiệp hóa dầu; Tổng hội y - Dược học đối với đề án về hành nghề y, dược tư nhân; Hội Luật gia đối với công tác xây dựng pháp luật và hoạt động tư pháp; Hội Khoa học lịch sử đối với việc đánh giá một số sự kiện và nhân vật lịch sử; Hội Quy hoạch và phát triển đô thị Việt Nam đã tham gia tư vấn, nghiên cứu thiết kế đề án quy hoạch chi tiết cho thành phố Hà Nội và các địa phương khác, 03 đề án nghiên cứu quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh 2001 - 2020; Hội khoa học kỹ thuật xây dựng Việt Nam những năm gần đây đã tham gia phản biện các vấn đề như: Dự án xa lộ Bắc - Nam; Dự án đường hầm qua đèo Hải Vân; Chiến lược phát triển giao thông của cả nước; Luật xây dựng... Những kết quả tiêu biểu trên của Liên hiệp Hội đã mang lại những lợi ích to lớn trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, khẳng định việc tư vấn, phản biện và giám định xã hội ngày càng trở thành hoạt động quan trọng. Một mặt, nó đã góp phần vào việc nâng cao chất lượng soạn thảo và thực hiện các chính sách, các chương trình, dự án, đề án về phát triển kinh tế - xã hội, GD&ĐT, khoa học, công nghệ và môi trường. Mặt khác, hoạt động này càng khẳng định rõ hơn vai trò của lý luận khoa học trong hoạt động thực tiễn, khẳng định vị trí quan trọng của tầng lớp trí thức trong CNH, HĐH đất nước nói riêng, xây dựng CNXH nói chung. Tuy vậy, những thành tựu trên mới chỉ là bước đầu, trước những yêu cầu của việc phát triển đất nước trong giai đoạn mới, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội cần phải nỗ lực hơn nữa trong hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Quá trình thực hiện nhiệm vụ này trong những năm qua của Liên hiệp Hội cũng đã bộc lộ một số hạn chế và khó khăn nhất định. Hạn chế trước hết là sự lúng túng của một số thành viên thuộc Liên hiệp Hội, do đây là hoạt động mới, chưa có tiền lệ ở nước ta. Bên cạnh đó, năng lực, kỹ năng thực tiễn của các chuyên gia thuộc Liên hiệp Hội nói chung

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan