Luận văn Định hướng xây dựng luật chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác

Tài liệu Luận văn Định hướng xây dựng luật chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác: mục lục danh mục các từ viết tắt................................................................................ phần mở đầu....................................................................................................... ....... Ch−ơng i: luật chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác 1. Vị trí, vai trò của Luật Chứng khoán trong hệ thống pháp luật Việt Nam .......................................................................................... ...... 1.1 Khái quát về Luật Chứng khoán .................................................... ...... 1.2 Vị trí của Luật Chứng khoán trong hệ thống pháp luật Việt Nam.......... ......................................................................................... ...... 1.3 Vai trò của Luật Chứng khoán........................................................ ...... 2. Luật Chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác................................................................

pdf108 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 895 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Định hướng xây dựng luật chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục lục danh mục các từ viết tắt................................................................................ phần mở đầu....................................................................................................... ....... Ch−ơng i: luật chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác 1. Vị trí, vai trò của Luật Chứng khoán trong hệ thống pháp luật Việt Nam .......................................................................................... ...... 1.1 Khái quát về Luật Chứng khoán .................................................... ...... 1.2 Vị trí của Luật Chứng khoán trong hệ thống pháp luật Việt Nam.......... ......................................................................................... ...... 1.3 Vai trò của Luật Chứng khoán........................................................ ...... 2. Luật Chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác......................................................................................................... 2.1 Những đặc tr−ng của Luật Chứng khoán....................................... ...... 2.1.1 Đối t−ợng điều chỉnh ...................................................................... ...... 2.1.2 Chủ thể ........................................................................................... ...... 2.1.3 Ph−ơng pháp điều chỉnh................................................................. ...... 2.1.4 Nguồn của Luật Chứng khoán ...................................................... ...... 2.2 Mối quan hệ giữa Luật Chứng khoán và các lĩnh vực pháp luật có liên quan ........................................................................................... ...... 3. Luật Chứng khoán trong định h−ớng phát triển và hoàn thiện thị tr−ờng chứng khoán - Kinh nghiệm quốc tế và tr−ờng hợp của Việt Nam................................................................................................... ...... 3.1 Kinh nghiệm quốc tế ........................................................................ ...... 3.1.1 Kinh nghiệm xây dựng Luật Chứng khoán của Nhật Bản.............. ...... 3.1.2 Kinh nghiệm xây dựng Luật Chứng khoán Hàn Quốc ................... ...... 3.1.3 Xây dựng Luật chứng khoán tại Trung Quốc......................................... 3.1.4 Kinh nghiệm xây dựng Luật chứng khoán tại Thái Lan........................ 3.1.5 Nhận xét chung qua nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng Luật chứng khoán của một số n−ớc .................................................................................. 3.2 Tr−ờng hợp của Việt Nam .............................................................. ...... ch−ơng ii. thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật về chứng khoán và các lĩnh vực pháp luật khác - những 4 5 7 7 9 11 13 13 14 14 17 17 17 21 21 21 24 27 34 37 38 1 khoán và các lĩnh vực pháp luật khác - những bất cập và xung đột 1. Pháp luật về Chứng khoán và pháp luật Kinh tế........................... ...... 1.1 Pháp luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà n−ớc, Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp nhà n−ớc thành công ty cổ phần, Luật Phá sản............................. ...... 1.1.1 Pháp luật về Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp................. ...... 1.1.2 Pháp luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp nhà n−ớc, Nghị định 187/2004/NĐ-CP............................................................ ...... 1.1.3 Pháp luật Chứng khoán và Luật Phá sản ................................. ...... 1.2 Pháp luật Chứng khoán và Luật Th−ơng mại............................... ...... 1.3 Pháp luật Chứng khoán và Luật tài chính tiền tệ .......................... ...... 1.3.1 Pháp luật Chứng khoán và Luật Các tổ chức tín dụng ............ ...... 1.3.2 Pháp luật Chứng khoán và Luật Kinh doanh bảo hiểm........... ...... 1.3.3 Pháp luật Chứng khoán và Luật Kế toán, Luật thuế ............... ...... 1.4 Pháp luật Chứng khoán và Luật Đầu t− n−ớc ngoài tại Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu t− trong n−ớc............................................ ...... 2. Pháp luật Chứng khoán và pháp luật dân sự ................................. ...... 2.1 Chứng khoán và một số nội dung liên quan khái niệm tài sản trong pháp luật dân sự...................................................................................... 2.2 Hợp đồng gửi giữ tài sản trong BLDS và vấn đề tập trung hoá và phi vật chất hoá chứng khoán tại Trung tâm l−u ký chứng khoán....................................................................................................... 2.3 Pháp luật về chứng khoán và yêu cầu hoàn thiện định chế pháp luật về hợp đồng............................................................................................. 2.4 Pháp luật chứng khoán và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật về tố tụng dân sự và th−ơng mại................................................................. 3. Pháp luật Chứng khoán với Pháp luật hành chính........................ ...... 4. Pháp luật chứng khoán và Pháp luật hình sự................................. ...... Ch−ơng III: định h−ớng và giải pháp xây dựng luật chứnG khoán đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp trong hệ thống pháp luật việt nam 1. Chủ tr−ơng của Đảng và Nhà n−ớc về phát triển thị tr−ờng chứng khoán và hoàn thiện hệ thống pháp luật về chứng khoán ............ ...... 43 43 43 49 51 53 54 54 57 58 60 64 64 65 66 67 70 74 78 2 2. Quan điểm chủ đạo định h−ớng việc xây dựng Luật Chứng khoán............ .................................................................................... ...... 3. Các nguyên tắc xây dựng Luật Chứng khoán để đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp trong hệ thống pháp luật Việt Nam ......................... ...... 3.1 Tính toàn diện ............................................................................. ...... 3.2 Tính đồng bộ ............................................................................... ...... 3.3 Tính phù hợp ............................................................................... ...... 4. Các giải pháp và kiến nghị xây dựng Luật Chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác....................................... ...... 4.1 Xác định phạm vi và đối t−ợng điều chỉnh của Luật Chứng khoán trong mối quan hệ thống nhất với các lĩnh vực pháp luật khác .... ...... 4.2 Xây dựng các nội dung cơ bản của Luật Chứng khoán đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp với các lĩnh vực pháp luật có liên quan ............ ...... 4.2.1 Hoạt động phát hành chứng khoán......................................... ...... 4.2.2 Các quy định về niêm yết chứng khoán .................................. ...... 4.2.3 Giao dịch chứng khoán ........................................................... ...... 4.2.4 Về mô hình SGDCK, TTGDCK ............................................... ...... 4.2.5 Hoạt động đăng ký, l−u ký, thanh toán bù trừ chứng khoán; hoạt động công bố thông tin............................................................ ...... 4.2.6 Các quy định về tổ chức kinh doanh chứng khoán ................. ...... 4.2.7 Sự tham gia của bên n−ớc ngoài vào TTTK Việt Nam và bên Việt Nam ra TTTK n−ớc ngoài ............................................... ...... 4.2.8 Quản lý nhà n−ớc về chứng khoán và TTTK; về xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và TTTK ..................................... ...... 4.3 Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các lĩnh vực pháp luật khác................ ...... 4.3.1 Pháp luật Kinh tế ........................................................................... ...... 4.3.2 Pháp luật Dân sự............................................................................ ...... 4.3.3 Pháp luật Hình sự........................................................................... ...... kết luận............................................................................................................... ....... tài liệu tham khảo....................................................................................... ....... 80 82 82 82 83 83 83 85 85 88 89 90 92 94 95 97 98 99 102 103 105 106 3 danh mục các từ viết tắt -ttck: Thị tr−ờng chứng khoán - UBCKNN: Uỷ ban Chứng khoán Nhà n−ớc - TTGDCK: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán - MoF: Bộ Tài chính (Ministry of Finance) - SEC: Uỷ ban Giao dịch Chứng khoán - SESC: Uỷ ban Giám sát Giao dịch Chứng khoán - KSE: Sở Giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc - MOFE: Bộ Tài chính và Kinh tế - FSC: Uỷ ban Giám sát Tài chính - FSS: Cục Giám sát Tài chính - KOFEX: Sở Giao dịch các Hợp đồng t−ơng lai Hàn Quốc - CSRC: Uỷ ban Giám quản Chứng khoán Trung Quốc - NPCSC: Uỷ ban Th−ờng vụ Quốc hội - FEC: Uỷ ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội - CLA: Uỷ ban các vấn đề luật pháp của Quốc hội - SCSSMO: Cơ quan quản lý và giám sát chứng khoán - SET: Sở Giao dịch Chứng khoán Thái lan 4 phần mở đầu Sự hình thành thị tr−ờng chứng khoán là một tất yếu của nền kinh tế thị tr−ờng nhằm huy động có hiệu quả nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu t− phát triển kinh tế - xã hội. Sau một thời gian vận hành, thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam đã phần nào thể hiện đ−ợc vai trò của mình. Đảng và Nhà n−ớc ta hết sức chú trọng trong việc xây dựng một thị tr−ờng chứng khoán phù hợp định h−ớng đổi mới và phát triển kinh tế đất n−ớc. Thực tế định h−ớng này đã đ−ợc khẳng định trong các Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII và tiếp tục đ−ợc khẳng định lại tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng là "thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng b−ớc hoàn thiện các loại thị tr−ờng theo định h−ớng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm đến các loại thị tr−ờng quan trọng nh−ng hiện ch−a có hoặc còn sơ khai nh−: thị tr−ờng lao động, thị tr−ờng chứng khoán.v.v." và " Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị tr−ờng, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà n−ớc. Phát triển thị tr−ờng vốn và tiền tệ, nhất là thị tr−ờng vốn trung và dài hạn. Tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị tr−ờng chứng khoán, thị tr−ờng bảo hiểm, từng b−ớc mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động kể cả việc thu hút vốn n−ớc ngoài". Để thị tr−ờng hoạt động có hiệu quả và đúng mục tiêu đã đề ra thì việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị tr−ờng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong những năm qua Chính phủ và các ban ngành liên quan đã hết sức nỗ lực trong việc tạo lập một khung pháp lý cho hoạt động của thị tr−ờng. Tuy nhiên, sau hơn bốn năm đi vào hoạt động, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán đã bộc lộ nhiều bất cập cần đ−ợc điều chỉnh. Văn bản pháp lý chuyên ngành điều chỉnh lĩnh vực chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán hiện nay còn ch−a bao quát, đầy đủ, hiệu lực pháp lý thấp và còn nhiều bất cập với các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan nh− Luật Kinh tế, Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Hành chính.v.v. Điều này, phần nào đã làm cản trở sự phát triển của thị tr−ờng. Yêu cầu đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách là liệu khung pháp lý thị tr−ờng chứng khoán hiện nay còn v−ớng mắc ở những nội dung nào? Cần sửa 5 đổi, bổ sung những vấn đề gì? Với các yếu tố đặc thù của TTCK có phải sửa đổi, bổ sung cả các lĩnh vực pháp luật có liên quan không?... Mục tiêu đặt ra đối với việc xây dựng khung pháp lý cho thị tr−ờng chứng khoán là phải "Ban hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thị tr−ờng chứng khoán theo h−ớng bao quát, toàn diện và phù hợp với thị tr−ờng..."1, đồng thời phải phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Để giải quyết những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu Đề tài khoa học ”Định h−ớng xây dựng Luật Chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác" là cần thiết. Thông qua sự nghiên cứu các lĩnh vực pháp luật có liên quan, bằng việc sử dụng ph−ơng pháp so sánh, đề tài chỉ ra mối quan hệ, những bất cập và xung đột của hệ thống pháp luật hiện hành với pháp luật về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán. Trên cơ sở đó, đ−a ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật về chứng khoán cũng nh− các văn bản pháp luật có liên quan nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế cũng nh− toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là những giải pháp kiến nghị đóng góp cho công tác xây dựng Luật Chứng khoán. 1 Quyết định số 163/2003/QĐ-TTg của Thủ t−ớng Chính phủ phê duyệt Chiến l−ợc phát triển thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 6 Ch−ơng I Luật Chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác 1. Vị trí, vai trò của Luật Chứng khoán trong hệ thống pháp luật Việt Nam 1.1 Khái quát về Luật Chứng khoán ở Việt Nam, TTCK đã bắt đầu hình thành ngay từ khi Luật Công ty ra đời năm 1990 cho phép các công ty cổ phần đ−ợc phát hành cổ phiếu cùng với ch−ơng trình thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà n−ớc năm 1992. Tuy nhiên, hoạt động của thị tr−ờng giao dịch chứng khoán còn diễn ra một cách tự phát và ch−a có sự quản lý của Nhà n−ớc. Nhằm đ−a TTCK Việt Nam chính thức đi vào hoạt động d−ới sự quản lý của Nhà n−ớc, tạo ra một môi tr−ờng kinh doanh và đầu t− chứng khoán an toàn, công khai, hiệu quả và bình đẳng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán (nay đã đ−ợc thay thế bằng Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ) để điều chỉnh các hoạt động, quản lý và giám sát TTCK. Tiếp sau đó nhiều văn bản pháp luật khác về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán đã đ−ợc ban hành nh− Nghị định 161/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán, và các văn bản h−ớng dẫn thi hành Nghị định 144/CP nh− Quy chế về thành viên, giao dịch, Quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán... Các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán nói trên đã b−ớc đầu tạo ra một khuôn khổ pháp lý cho thị tr−ờng chứng khoán Việt nam phát triển trong thời gian qua. Sau gần 4 năm kể từ ngày 20/7/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (TTGDCK) chính thức khai tr−ơng và đi vào hoạt động, TTCK Việt Nam đã đ−ợc hình thành và phát triển với sự quản lý chặt chẽ của Nhà n−ớc. Tính đến 17/09/2004 đã có 200 loại chứng khoán niêm yết giao dịch, bao gồm 24 loại cổ phiếu, 173 loại trái phiếu chính phủ, 2 trái phiếu công ty và 1 loại trái phiếu chính quyền địa ph−ơng, đ−a 7 tổng giá trị niêm yết đạt 20,8 tỷ đồng (chiếm 3,44% GDP 2003). Một hệ thống các tổ chức trung gian tài chính trên thị tr−ờng với 13 công ty chứng khoán, 16 tổ chức hoạt động l−u ký cùng với công ty quản lý quỹ, ngân hàng chỉ định thanh toán đã thực hiện tốt các nghiệp vụ về kinh doanh, dịch vụ chứng khoán. Tuy nhiên trải qua hơn 4 năm hoạt động, so với tiềm năng phát triển của nền kinh tế, xu h−ớng hội nhập quốc tế thì quy mô của thị tr−ờng chứng khoán Việt nam còn quá nhỏ bé, ch−a đáp ứng đ−ợc kỳ vọng của Chính phủ là trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Diễn biến của thị tr−ờng còn có nhiều phức tạp, công tác tạo hàng còn gặp nhiều khó khăn, số l−ợng các công ty niêm yết trên thị tr−ờng còn hạn chế cả về số l−ợng và chất l−ợng. Nguyên nhân của việc này là do các yếu tố: thị tr−ờng còn ít các nhà đầu t− có tổ chức, chuyên nghiệp nên dễ bị ảnh h−ởng bởi yếu tố tâm lý; các doanh nghiệp còn trông chờ vào nguồn vốn bao cấp, nguồn vốn ngân hàng, không muốn bị kiểm toán và công bố thông tin; tiến trình cổ phần hoá còn ch−a gắn liền với việc niêm yết cổ phiếu trên thị tr−ờng... Ngoài ra, một trong những nguyên nhân rất quan trọng của việc thị tr−ờng ch−a thực sự phát triển đó là hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị tr−ờng còn thiếu đồng bộ, ch−a có Luật Chứng khoán để tạo môi tr−ờng pháp lý đầy đủ, ổn định điều chỉnh mọi hoạt động trên thị tr−ờng chứng khoán phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay và phù hợp với định h−ớng, chiến l−ợc phát triển thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam. Nhận thức đ−ợc vai trò, tầm quan trọng của thị tr−ờng chứng khoán trong nền kinh tế và tính cấp thiết của việc xây dựng Luật Chứng khoán trong điều kiện hiện nay, Đảng và Chính Phủ đã rất quan tâm đến việc phát triển thị tr−ờng chứng khoán và xây dựng Luật Chứng khoán. Việc xây dựng Luật Chứng khoán đã đ−ợc đ−a vào trong Ch−ơng trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007) đ−ợc Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 12/2002/QH11 ngày 16/12/2002. Để xúc tiến triển khai quá trình xây dựng luật, đầu năm 2004 Bộ tr−ởng Bộ Tài chính đã có Quyết định số 1771/BTC thành lập Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập Dự án Luật Chứng khoán với sự tham gia của nhiều chuyên gia trong các ngành, lĩnh vực có liên quan đến chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán. Theo dự kiến, dự thảo Luật Chứng khoán sẽ đ−ợc trình Chính phủ vào cuối năm 2005, xin ý kiến của Uỷ ban Th−ờng vụ Quốc hội vào 8 kỳ họp 1 tháng 5 năm 2006 và đ−ợc Quốc hội thông qua vào tháng 11 năm 2006. Trong khoa học pháp lý, sự hình thành của một bộ môn khoa học, vai trò và vị trí của nó là do nhu cầu của cuộc sống quyết định. Luật Chứng khoán đ−ợc hình thành là do nhu cầu của xã hội, của quốc gia đối với việc hình thành và phát triển một loại thị tr−ờng mới - thị tr−ờng chứng khoán, để trở thành một kênh huy động vốn có hiệu qủa cho đầu t− phát triển, phục vụ cho mục tiêu phát triển nền kinh tế đất n−ớc nói chung. Với tính cách là một khoa học, Luật Chứng khoán có đối t−ợng nghiên cứu riêng của nó. Đối t−ợng nghiên cứu của Luật Chứng khoán tr−ớc tiên là các quan hệ xã hội mà các quy phạm Luật Chứng khoán tác động đến. Luật Chứng khoán nghiên cứu, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể tham gia hoạt động trên thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam, những quyền và nghĩa vụ của các chủ thể phải gánh vác khi tham gia các quan hệ đó. Luật Chứng khoán nghiên cứu điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ các lĩnh vực khác nhau của thị tr−ờng chứng khoán nh−: các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động phát hành, niêm yết chứng khoán trên TTCK, các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động quản lý Nhà n−ớc về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán; thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trên thị tr−ờng chứng khoán và giải quyết tranh chấp phát sinh... Có thể nói một cách khái quát, Luật Chứng khoán là tổng hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình các chủ thể tham gia hoạt động trên thị tr−ờng chứng khoán trên cơ sở kết hợp các ph−ơng pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ thị tr−ờng hoạt động hiệu quả, ổn định, an toàn, công bằng, công khai, minh bạch của thị tr−ờng chứng khoán. 1.2 Vị trí của Luật Chứng khoán trong hệ thống pháp luật Việt Nam Luật Chứng khoán liệu có thể đ−ợc coi là một ngành luật độc lập hay là một lĩnh vực của Luật Kinh tế. Theo chúng tôi vấn đề này chỉ mang ý nghĩa lý 9 luận đối với việc phân định các ngành luật, tức là phân định giới hạn điều chỉnh của các quan hệ pháp luật theo những tiêu chuẩn truyền thống nh− đối t−ợng điều chỉnh, phạm vi áp dụng và ph−ơng pháp điều chỉnh. Đối với nhiều lĩnh vực hiện nay trong đó có Luật Chứng khoán thì việc phân định ranh giới giữa chúng rất khó thực hiện bởi giữa chúng có nhiều điểm giao thoa, vì vậy việc phân định chúng bằng các tiêu chí đó khó có thể thực hiện đ−ợc. Trong sự phát triển của nhiều ngành luật có sự tách bạch riêng của một hay một số định chế. Sự phát triển của các quan hệ xã hội đạt tới mức mà việc hạn chế chúng trong một định chế không còn có thể chấp nhận đ−ợc. Với Luật Chứng khoán, quan điểm coi Luật Chứng khoán là một bộ phận của pháp luật kinh tế có hạt nhân hợp lý của nó. Chúng ta đều biết lĩnh vực kinh tế là một lĩnh vực phức tạp nhất trong đời sống xã hội. Các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực kinh tế lại càng phức tạp. Mỗi loại quan hệ kinh tế đó đòi hỏi những quy phạm pháp luật phù hợp để điều chỉnh. Để quản lý nền kinh tế nhà n−ớc cần ban hành rất nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Tổng hợp tất cả các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến sự quản lý và vận hành của nền kinh tế đ−ợc gọi là pháp luật kinh tế. Pháp luật kinh tế bao gồm nhiều ngành luật nh− Luật ngân hàng, Luật các tổ chức tín dụng, Luật thuế... Việc xếp Luật Chứng khoán vào vị trí là một bộ phận của pháp luật kinh tế xuất phát từ những lý do sau: - Xuất phát từ đặc điểm và bản chất của thị tr−ờng chứng khoán. Thị tr−ờng chứng khoán thực chất là một thể chế tài chính bậc cao, một bộ phận cấu thành quan trọng của thị tr−ờng tài chính, là nơi trao đổi, mua bán các loại chứng khoán dài hạn và là kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế. - Xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ, có nhiều điểm giao thoa giữa Luật Chứng khoán và các luật khác trong lĩnh vực pháp luật về kinh tế nh− Luật ngân hàng, Luật thuế, Luật Tổ chức tín dụng, Luật Đầu t− n−ớc ngoài tại Việt Nam, 10 Luật Khuyến khích đầu t− trong n−ớc, Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà n−ớc... 1.3 Vai trò của Luật Chứng khoán 1.3.1 Luật Chứng khoán có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam Một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu của việc hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam hiện nay chính là xây dựng Luật Chứng khoán. Đây cũng là chủ tr−ơng của Đảng và Nhà n−ớc trong việc tăng c−ờng hoàn thiện hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán. Luật Chứng khoán với những −u thế rất lớn sẽ tạo ra một môi tr−ờng pháp lý ổn định, vững chắc, bảo vệ quyền, lợi ích của các chủ thể tham gia thị tr−ờng, góp phần xây dựng và phát triển thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam trở thành một kênh huy động vốn quan trọng và thiết yếu đáp ứng cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất n−ớc, cụ thể là: Thứ nhất, Luật Chứng khoán là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, cơ quan cao nhất của quyền lực Nhà n−ớc ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán. Đây là văn bản có giá trị pháp lý cao (chỉ sau Hiến pháp) nên việc ban hành Luật Chứng khoán sẽ tạo ra một môi tr−ờng pháp lý ổn định, bền vững, đảm bảo cho thị tr−ờng chứng khoán hoạt động an toàn, công khai. Thứ hai, với một quy trình xây dựng chặt chẽ có sự tham gia góp ý của nhiều tổ chức, cá nhân trong xã hội, Luật Chứng khoán đảm bảo thể hiện đ−ợc quyền tự do dân chủ, ý chí và nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân, vì vậy nó có tính ổn định cao. Hơn nữa, với sự tham gia góp ý của nhiều tổ chức, cá nhân, Luật Chứng khoán sẽ dễ dàng đi vào cuộc sống và đ−ợc mọi ng−ời tôn trọng, tự giác thực hiện. Thứ ba, với một phạm vi điều chỉnh rộng, Luật Chứng khoán bao gồm đầy đủ các quy phạm pháp luật điều chỉnh tất cả những lĩnh vực quan trọng nhất của thị tr−ờng chứng khoán. Luật Chứng khoán đ−ợc ban hành không những điều 11 chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hiện tại mà còn đảm bảo bao quát đ−ợc nhiều vấn đề phát sinh trong t−ơng lai. Thứ t−, lĩnh vực chứng khoán là một lĩnh vực phức tạp, ảnh h−ởng đến quyền, lợi ích của nhiều loại chủ thể trên thị tr−ờng, vì vậy, đòi hỏi phải có một văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Luật Chứng khoán để điều chỉnh mọi quan hệ phát sinh trên thị tr−ờng. Luật Chứng khoán đ−ợc ban hành có khả năng thiết lập một trật tự mà ở đó mọi chủ thể khi tham gia vào các quan hệ phải tôn trọng những cam kết và phải chịu trách nhiệm về những hậu qủa có thể xảy ra. Có Luật Chứng khoán bảo vệ quyền và lợi ích của mình, các tổ chức, cá nhân sẽ yên tâm và tin t−ởng khi tham gia kinh doanh, đầu t− trên thị tr−ờng chứng khoán, từ đó thu hút các tổ chức, cá nhân trong và ngoài n−ớc tham gia. Thứ năm, sự hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán chỉ có thể phát triển trong một môi tr−ờng chính trị, kinh tế, xã hội ổn định và có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Pháp luật là ph−ơng tiện có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi tr−ờng ổn định đó. Hiện nay, hầu hết các n−ớc có thị tr−ờng chứng khoán đều có Luật Chứng khoán điều chỉnh. Vì vậy, để hệ thống pháp luật về chứng khoán của Việt Nam có hiệu lực ngang tầm và phù hợp với luật pháp quốc tế, thông lệ quốc tế về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán, đảm bảo sự hội nhập của thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam với xu h−ớng phát triển chung của thị tr−ờng chứng khoán quốc tế và khu vực, Việt Nam cần phải ban hành Luật chứng khoán. Tóm lại, để hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán, tạo cơ sở pháp lý cho thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam phát triển ổn định, an toàn, lành mạnh và có hiệu quả, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà n−ớc đối với hoạt động chứng khoán, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế trong tiến trình hội nhập, việc nghiên cứu xây dựng Luật Chứng khoán là một đòi hỏi cần thiết. 1.3.2 Luật Chứng khoán giữ vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau đ−ợc phân định thành các chế định pháp luật, 12 các ngành luật, các lĩnh vực pháp luật và đ−ợc thể hiện trong các văn bản do nhà n−ớc ban hành theo những trình tự và hình thức nhất định. Có nhiều tiêu chuẩn để xác định mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật, trong đó "tính toàn diện" đ−ợc coi là tiêu chuẩn đầu tiên và là tiêu chuẩn để "định l−ợng" một hệ thống pháp luật, thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. ở cấp độ chung, tính toàn diện đòi hỏi hệ thống pháp luật phải có đủ các ngành luật, các văn bản quy phạm pháp luật, các chế định để điều chỉnh mọi quan hệ phát sinh trong cuộc sống. Do vậy, nếu thiếu đi các quy phạm pháp luật của Luật Chứng khoán, hệ thống pháp luật nói chung không thể đ−ợc coi là hoàn thiện. Việc ban hành Luật Chứng khoán để tạo ra một khung pháp lý hoàn thiện sẽ tạo đ−ợc sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán với các văn bản pháp luật khác có liên quan, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Luật Chứng khoán cần đ−ợc xây dựng song song, đồng thời với việc xem xét chỉnh sửa, bổ sung các văn bản pháp luật khác có liên quan nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ và hoàn chỉnh trong hệ thống pháp luật nói chung. Hệ thống này đ−ợc hoàn thiện sẽ tạo ra một môi tr−ờng pháp lý hết sức thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế, trong đó có sự phát triển của thị tr−ờng chứng khoán. 2. Luật Chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác 2.1 Những đặc tr−ng của Luật Chứng khoán Những đặc tr−ng của Luật Chứng khoán là những đặc điểm để phân biệt giữa Luật Chứng khoán và các luật khác, làm cho nó không lẫn đ−ợc với các luật khác. Các nét đặc tr−ng của Luật Chứng khoán thể hiện qua đối t−ợng điều chỉnh, chủ thể, ph−ơng pháp điều chỉnh và nguồn của Luật. 13 2.1.1 Đối t−ợng điều chỉnh Mỗi một lĩnh vực pháp luật đều có đối t−ợng điều chỉnh riêng của nó. Đối t−ợng điều chỉnh của Luật Chứng khoán chỉ là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Đây chính là cơ sở để phân biệt với đối t−ợng điều chỉnh của các lĩnh vực pháp luật khác nh− dân sự, hành chính, hình sự... Luật Chứng khoán điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng, phát hành chứng khoán ra n−ớc ngoài; niêm yết chứng khoán trên thị tr−ờng chứng khoán tập trung và thị tr−ờng chứng khoán n−ớc ngoài; giao dịch chứng khoán trên thị tr−ờng tập trung và phi tập trung; quy định về mô hình sở giao dịch chứng khoán; quy định về công bố thông tin trên thị tr−ờng chứng khoán; quản lý Nhà n−ớc về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán; thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trên thị tr−ờng chứng khoán, v.v. Các quan hệ xã hội mà quy phạm pháp Luật Chứng khoán điều chỉnh có thể đ−ợc phân loại theo các nhóm sau: - Các quan hệ giữa một bên là các cá nhân, tổ chức với một bên là Nhà n−ớc phát sinh từ hoạt động quản lý nhà n−ớc về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán (quan hệ phát sinh từ hoạt động cho phép đăng ký phát hành, cấp phép niêm yết, cấp phép hoạt động kinh doanh và dịch vụ chứng khoán; quan hệ phát sinh từ hoạt động thanh tra việc thực hiện pháp luật và chính sách về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán; phát sinh từ việc xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán) - Quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau phát sinh do ý chí của các bên (quan hệ phát sinh về giải quyết tranh chấp, bồi th−ờng thiệt hại, quan hệ phát sinh trong hợp đồng...). 2.1.2. Chủ thể Trong quá trình xây dựng Luật Chứng khoán, một vấn đề quan trọng đặt ra là ngoài việc phải xác định đối t−ợng điều chỉnh còn phải xác định cụ thể hệ thống chủ thể của Luật. Có xác định đ−ợc rõ vấn đề đó thì mới có đủ dấu hiệu 14 cơ bản để phân biệt Luật Chứng khoán với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Qua tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các n−ớc trên thế giới và nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế, Luật Chứng khoán khẳng định 3 chủ thể của quan hệ pháp luật về chứng khoán và TTCK. Đó là cá nhân, pháp nhân và một loại chủ thể đặc biệt khác không phải là cả hai loại chủ thể trên. - Cá nhân: Cá nhân là chủ thể của mọi quan hệ xã hội. Tuy nhiên, không phải mọi cá nhân đều là chủ thể của Luật Chứng khoán mà chỉ có các cá nhân tham gia hoạt động trên thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam mới là chủ thể của Luật Chứng khoán. Để tham gia quan hệ chứng khoán và TTCK, điều quan trọng hàng đầu là cá nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Các cá nhân tham gia trên TTCK chủ yếu là trong các quan hệ giao dịch, mua bán chứng khoán. Các quyền và nghĩa vụ của cá nhân với t− cách là chủ thể của Luật Chứng khoán đ−ợc quy định cụ thể trong Luật. Ng−ời n−ớc ngoài có thể trở thành chủ thể của Luật, tuy nhiên năng lực chủ thể của ng−ời n−ớc ngoài bị hạn chế trong một số lĩnh vực nhất định. - Pháp nhân: Pháp nhân là chủ thể phổ biến của quan hệ pháp luật chứng khoán và TTCK. Tổ chức và hoạt động của các loại pháp nhân hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK tr−ớc hết đều phải chịu sự chi phối của các quy định chung trong luật gốc là Bộ luật Dân sự. Các pháp nhân này hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, do đó, đ−ơng nhiên phải chịu sự điều chỉnh của Luật Chứng khoán, tiếp đó là các văn bản pháp luật chuyên sâu khác nh− Luật Doanh nghiệp, Luật đầu t− n−ớc ngoài tại Việt Nam... Luật Chứng khoán quy định các loại pháp nhân hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK bao gồm: + Cơ quan nhà n−ớc: Uỷ ban Chứng khoán Nhà n−ớc do cơ quan nhà n−ớc có thẩm quyền thành lập để thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà n−ớc về chứng khoán và TTCK nh− tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động của các thị tr−ờng giao dịch chứng khoán có tổ chức; quản lý, giám sát các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán của các tổ chức, cá nhân 15 tham gia thị tr−ờng; thực hiện việc cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép, giấy chứng nhận liên quan đến các hoạt động về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán theo quy định của pháp luật; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán ... Các cơ quan nhà n−ớc khác (các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban Nhân dân các cấp) trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Chứng khoán Nhà n−ớc thực hiện các chức năng quản lý nhà n−ớc về chứng khoán và TTCK. + Tổ chức xã hội - nghề nghiệp: Các tổ chức, cá nhân tham gia một hoặc một số hoạt động trên thị tr−ờng chứng khoán, có thể thành lập Hiệp hội chứng khoán phù hợp với lĩnh vực hoạt động. Việc thành lập Hiệp hội chứng khoán phải đ−ợc UBCKNN chấp thuận về mặt nguyên tắc tr−ớc khi trình cơ quan nhà n−ớc có thẩm quyền cấp phép thành lập. Hiệp hội chứng khoán là một pháp nhân, hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, tự nguyện, tự chủ về tài chính và không vì mục đích lợi nhuận. Hiệp hội chứng khoán phải đăng ký hoạt động và chịu sự quản lý của cơ quan quản lý nhà n−ớc về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán. Trong t−ơng lai, Hiệp hội chứng khoán không chỉ có Hiệp hội các công ty chứng khoán mà còn có thể có Hiệp hội các nhà quản lý quỹ, Hiệp hội các nhà phân tích chứng khoán ... + Tổ chức kinh tế: bao gồm các chủ thể là tổ chức phát hành chứng khoán; tổ chức niêm yết chứng khoán trên TTCK; Sở giao dịch chứng khoán; Trung tâm giao dịch chứng khoán; Trung tâm l−u ký; các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán nh− công ty chứng khoán, các tổ chức định mức tín nhiệm, công ty tài chính chứng khoán, tổ chức kiểm toán độc lập, công ty quản lý quỹ đầu t− chứng khoán; ngân hàng thanh toán, ngân hàng giám sát ... Các tổ chức này đều hoạt động theo mô hình công ty cổ phần hay TNHH quy định tại Luật Doanh nghiệp. - Chủ thể đặc biệt: Quỹ đầu t− chứng khoán là chủ thể đặc biệt của Luật Chứng khoán. Quỹ đầu t− chứng khoán là một tổ chức trong đó số đông các nhà 16 đầu t− riêng lẻ góp vốn để hình thành quỹ sau đó uỷ thác cho các nhà quản lý đầu t− chuyên nghiệp tiến hành đầu t− nhằm thu lợi nhuận cao và số lợi nhuận thu đ−ợc từ hoạt động của quỹ đ−ợc phân chia cho các nhà đầu t− riêng lẻ theo tỷ lệ số vốn đã đóng góp. Quỹ đầu t− chứng khoán ở Việt Nam là quỹ đầu t− dạng hợp đồng. Theo mô hình hợp đồng, Quỹ đầu t− là pháp nhân không đầy đủ, quyền sở hữu đối với quỹ đầu t− không đ−ợc xác lập hoàn toàn. 2.1.3 Ph−ơng pháp điều chỉnh Ph−ơng pháp điều chỉnh của Luật Chứng khoán là những biện pháp cách thức của Nhà n−ớc áp dụng để tác động vào các quan hệ do Luật Chứng khoán điều chỉnh. Luật Chứng khoán vừa điều chỉnh quan hệ quản lý nhà n−ớc về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán giữa các chủ thể không bình đẳng vừa điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng nên Luật Chứng khoán sử dụng phối hợp nhiều ph−ơng pháp tác động khác nhau, kết hợp cả ph−ơng pháp mệnh lệnh và ph−ơng pháp thoả thuận. Ph−ơng pháp mệnh lệnh đ−ợc cụ thể bằng việc quy định trong Luật cách thức xử sự của những cá nhân, tổ chức tham gia trên thị tr−ờng, tức là ấn định các quyền và nghĩa vụ buộc họ phải tuân thủ thực hiện, quy định phạm vi và hình thức chế tài đ−ợc áp dụng trong tr−ờng hợp có vi phạm Luật Chứng khoán. Ph−ơng pháp thoả thuận đ−ợc thể hiện bởi các quy định mang tính tự do ý chí của các tổ chức, cá nhân tham gia thị tr−ờng. 2.1.4 Nguồn của Luật Chứng khoán Nguồn của Luật Chứng khoán bao gồm: Hiến pháp, Nghị quyết của Quốc hội, các luật, văn bản d−ới Luật khác và các Điều −ớc quốc tế có liên quan đến lĩnh vực chứng khoán và TTCK. 2.2 Mối quan hệ giữa Luật Chứng khoán và các lĩnh vực pháp luật có liên quan Xem xét khái niệm Luật Kinh tế hiện đại "Luật kinh tế trong nền kinh tế thị tr−ờng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà n−ớc ban hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế của nhà n−ớc và trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp 17 với nhau"2 có thể thấy rõ giữa Luật Chứng khoán và Luật Kinh tế có nhiều điểm t−ơng đồng về đối t−ợng điều chỉnh bởi thực chất các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK cũng chính là các quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức và quản lý thị tr−ờng chứng khoán của nhà n−ớc và các quan hệ phát sinh trong quá trình kinh doanh, dịch vụ chứng khoán của các cá nhân, tổ chức. Cũng giống nh− Luật Kinh tế, Luật Chứng khoán sử dụng nhiều ph−ơng pháp điều chỉnh, kết hợp ph−ơng pháp mệnh lệnh với ph−ơng pháp thoả thuận để tác động đến các hành vi của các chủ thể là các cá nhân và pháp nhân tham gia vào các quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của luật. Các thể nhân muốn trở thành chủ thể của Luật kinh tế thì phải có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đây là một điểm khác biệt so với Luật Chứng khoán. Luật Chứng khoán và Luật Hành chính cũng có những điểm giống và khác nhau căn bản. Hai lĩnh vực pháp luật này đều có đối t−ợng điều chỉnh là những quan hệ quản lý và cùng áp dụng ph−ơng pháp điều chỉnh là mệnh lệnh nh−ng đặc điểm của đối t−ợng và ph−ơng pháp điều chỉnh của mỗi ngành luật lại khác nhau. Trong khi quan hệ quản lý đ−ợc điều chỉnh bởi pháp luật hành chính là các quan hệ đ−ợc hình thành trong quá trình các cơ quan hành chính nhà n−ớc thực hiện chức năng chấp hành, điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì các quan hệ quản lý do Luật Chứng khoán điều chỉnh là các quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà n−ớc với các chủ thể kinh doanh. Những quan hệ này có mục đích cuối cùng là phục vụ kinh doanh. Chính vì vậy, ph−ơng pháp mệnh lệnh của Luật Chứng khoán mang tính chất mềm dẻo hơn ph−ơng pháp mệnh lệnh của Luật Hành chính. Việc phân biệt giữa Luật Chứng khoán và pháp luật Dân sự có những khó khăn nhất định vì cả hai đều có đối t−ợng điều chỉnh là những nhóm quan hệ xã hội tính chất giống nhau, quan hệ tài sản mang tính chất bình đẳng và ph−ơng pháp điều chỉnh nh− nhau - ph−ơng pháp thoả thuận. Tuy nhiên cũng không phải không có cơ sở để phân biệt hai lĩnh vực pháp luật này. Ngoài quan hệ quản lý, Luật Chứng khoán còn điều chỉnh nhóm quan hệ tài sản giữa chủ thể 2 Hỏi đáp về Luật Kinh tế, NXB Thống Kê, trang 10 18 kinh doanh độc lập và nhằm mục đích kinh doanh còn Luật Dân sự chỉ điều chỉnh quan hệ tài sản có mục đích tiêu dùng và sinh hoạt. Có thể nói rằng, trong các lĩnh vực pháp luật thì pháp luật hình sự là một lĩnh vực có ít điểm t−ơng đồng nhất với các lĩnh vực pháp luật khác nói chung và với Luật Chứng khoán nói riêng bởi pháp luật hình sự chỉ điều chỉnh các quan hệ hình sự với việc sử dụng các ph−ơng pháp điều chỉnh đặc thù là mệnh lệnh mang tính c−ỡng chế nhà n−ớc. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau vì cơ sở của việc quy trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK lại đ−ợc căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự. Luật Chứng khoán và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan nh− pháp luật kinh tế, pháp luật dân sự, pháp luật hình sự và pháp luật hành chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thậm chí còn có nhiều điểm giao thoa với nhau. Hoạt động của các chủ thể trên thị tr−ờng chứng khoán không chỉ chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật về chứng khoán mà còn chịu sự điều chỉnh trực tiếp hoặc gián tiếp của nhiều văn bản pháp lý khác thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nh− Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu t− n−ớc ngoài tại Việt Nam, Luật Phá sản doanh nghiệp... Cụ thể nh−: - Bộ luật dân sự ban hành ngày 9/11/1995 liên quan đến Luật Chứng khoán ở các nội dung về tài sản, quyền sở hữu tài sản, chuyển nh−ợng quyền sở hữu tài sản, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, các nguyên tắc xác định mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra (Ch−ơng V, phần thứ ba Bộ luật Dân sự),v.v. - Luật Chứng khoán có mối quan hệ với Luật Doanh nghiệp ban hành ngày 12/6/1999 ở các quy định về thành lập, đăng ký kinh doanh, hoạt động, quyền và nghĩa vụ của công ty TNHH (Ch−ơng III, từ Điều 26 - Điều 50 Luật Doanh nghiệp); công ty cổ phần (Ch−ơng IV, từ Điều 51 - Điều 94); quy định các vấn đề về quyền phát hành trái phiếu của công ty TNHH (Điều 26, Điều 46), phát hành chứng khoán của công ty cổ phần (Điều 51); quy định về chào bán chuyển nh−ợng cổ phiếu (Điều 61); các loại cổ phần và quyền của chủ sở 19 hữu các loại cổ phần đó (Điều 52 - Điều 57); quy định về phát hành trái phiếu (Điều 62); việc mua lại cổ phiếu (Điều 64, Điều 65). - Luật Đầu t− n−ớc ngoài tại Việt Nam ban hành ngày 12/11/1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu t− n−ớc ngoài tại Việt Nam ngày 9/6/2000 quy định hình thức doanh nghiệp liên doanh, là cơ sở để tổ chức và quản trị công ty chứng khoán liên doanh và công ty liên doanh quản lý quỹ đầu t− chứng khoán tại Việt Nam. - Luật Các tổ chức tín dụng đ−ợc Quốc hội thông qua năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng quy định về nghiệp vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý của tổ chức tín dụng có liên quan đến quyền làm đại lý phát hành chứng khoán của tổ chức tín dụng; quy định về giới hạn góp vốn mua cổ phần của tổ chức tín dụng. - Luật Kinh doanh bảo hiểm đ−ợc Quốc hội thông qua năm 2000 quy định về quyền đầu t− vốn mua trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của doanh nghiệp bảo hiểm. - Luật Doanh nghiệp Nhà n−ớc đ−ợc Quốc hội thông qua năm 2003 quy định quyền huy động vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua phát hành chứng khoán. - Bộ luật Hình sự hiện nay ch−a có một chế tài nào điều chỉnh cụ thể các hành vi vi phạm pháp Luật Chứng khoán mà chỉ có một số điều điều chỉnh các hành vi t−ơng tự đ−ợc quy định tại ch−ơng XVI về “Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” nh− tội kinh doanh trái phép (Điều 159); tội đầu cơ (Điều 160); tội lừa dối khách hàng (Điều 162); tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế (Điều 167). Tuy nhiên tính chất mức độ nguy hiểm của các hành vi này trong lĩnh vực chứng khoán, Bộ luật Hình sự cần quy định khung hình phạt phù hợp. - Luật hành chính: Luật hành chính là cơ sở để quy định trong Luật Chứng khoán các nội dung về quản lý nhà n−ớc về chứng khoán và thị tr−ờng chứng 20 khoán, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán... Các hoạt động về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán phải tuân theo các quy định của Luật Chứng khoán và các quy định pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên, do Luật Chứng khoán là luật chuyên ngành, vì vậy, trong quá trình thực thi, nếu có sự không thống nhất hoặc xung đột giữa các quy định trong Luật Chứng khoán và các quy định trong các văn bản pháp luật khác có liên quan thì các quy định trong Luật Chứng khoán đ−ợc −u tiên áp dụng. Nh− vậy, với việc ban hành Luật Chứng khoán hiệu lực pháp lý của các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán sẽ đ−ợc nâng cao, giải quyết đ−ợc một cách triệt để mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán, đồng thời đảm bảo đ−ợc tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật kinh tế và góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, tạo môi tr−ờng pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế trong đó có sự phát triển của thị tr−ờng chứng khoán. 3. Luật Chứng khoán trong định h−ớng phát triển và hoàn thiện thị tr−ờng chứng khoán - kinh nghiệm quốc tế và tr−ờng hợp của Việt Nam 3.1 Kinh nghiệm quốc tế 3.1.1 Kinh nghiệm xây dựng Luật Chứng khoán của Nhật Bản Nền tảng của hệ thống pháp luật Nhật Bản tr−ớc chiến tranh thế giới thứ 2 liên quan đến chứng khoán là Luật Giao dịch năm 1893 (phạm vi điều chỉnh của luật bao gồm cả các loại hàng hoá và chứng khoán, cho phép thành lập sở giao dịch d−ới hình thức công ty cổ phần và hình thức thành viên, cho phép sử dụng các giao dịch bằng tiền mặt và giao dịch kỳ hạn và yêu cầu các thành viên sở giao dịch phải có giấy phép hoạt động từ cơ quan quản lý). Luật Chứng khoán không có điều khoản nào điều chỉnh thị tr−ờng các chứng khoán mới phát hành và chỉ điều chỉnh thị tr−ờng giao dịch cổ phiếu. Luật Giao dịch Chứng khoán Nhật bản đ−ợc thông qua vào thời gian chiến tranh (1943) tách 21 một phần của Luật Giao dịch có liên quan đến chứng khoán thành một luật độc lập nhằm mục đích tăng c−ờng các chức năng của sở giao dịch cho phù hợp với các chính sách thời chiến. Vào năm 1947, Chính phủ Nhật bản ban hành Luật Giao dịch và Chứng khoán theo nội dung đ−ợc đề nghị bởi Tổng hành dinh của Tổng T− lệnh các Lực l−ợng Đồng minh (SCAP). Tuy nhiên, bởi vì luật vẫn còn bao gồm nhiều những tập quán th−ơng mại của Nhật nên luật đã đ−ợc sửa đổi rất nhiều vào năm 1948 và Luật Giao dịch và Chứng khoán Nhật năm 1948 đã đ−ợc xây dựng theo mô hình Luật Chứng khoán 1933 và Luật Giao dịch Chứng khoán năm 1934 của Mỹ. Không giống nh− Luật Chứng khoán tr−ớc chiến tranh, luật lần này chỉ điều chỉnh lĩnh vực chứng khoán, bao gồm cả thị tr−ờng các chứng khoán mới phát hành và thị tr−ờng giao dịch, và áp dụng với tất cả các nhà môi giới và tự doanh. Trong phần nói về mục tiêu của Luật Chứng khoán đã làm rõ mối quan hệ giữa nền kinh tế quốc gia và thị tr−ờng chứng khoán, và thiết lập một hệ thống công bố thông tin cho các tổ chức phát hành chứng khoán nh− là nghĩa vụ theo quy định của luật pháp để bảo vệ các nhà đầu t−. Cấu trúc cơ bản này vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Trong phần sửa đổi luật vào năm 1953, hệ thống đăng ký chứng khoán đã đ−ợc đơn giản hoá (các trái phiếu đ−ợc bảo đảm và các trái phiếu dịch vụ công cộng đã đ−ợc miễn không phải đăng ký), hệ thống đăng ký của các sở giao dịch đã đ−ợc thay đổi sang hình thức cấp giấy phép, và quyền lực của cơ quan quản lý trong việc huỷ bỏ đăng ký của các công ty chứng khoán đã đ−ợc tăng c−ờng. Theo sửa đổi đ−ợc thực hiện sau thời kỳ suy thoái của thị tr−ờng chứng khoán vào năm 1965, việc giám sát các công ty chứng khoán đ−ợc thiết chặt hơn thông qua việc thay đổi hệ thống đăng ký sang hệ thống cấp giấy phép và qua việc yêu cầu tất cả các nhân viên của các công ty chứng khoán phải đăng ký “đại diện đ−ợc đăng ký”. Theo sửa đổi vào năm 1971, hệ thống công bố thông tin đ−ợc thiết chặt bằng cách yêu cầu các tổ chức phát hành chứng khoán công bố thông tin về công ty mình chi tiết hơn trong các báo cáo chứng khoán của họ. Phần sửa đổi luật năm 1981 mở rộng phạm vi kinh doanh liên quan đến trái phiếu đại chúng cho các tổ chức ngân hàng, và các sửa đổi tiếp theo vào năm 1985 bổ sung phần giao dịch các hợp đồng t−ơng lai, năm 1988 bổ sung phần giao dịch quyền chọn và các điều khoản giới hạn việc giao dịch nội gián. Do số 22 chứng khoán vốn tăng rất nhiều trong và sau giai đoạn kinh tế bong bóng, một hệ thống yêu cầu những ng−ời nắm giữ nhiều cổ phiếu phải công bố số cổ phiếu nắm giữ của họ (quy tắc 5%) và hệ thống chào mua chứng khoán đã đ−ợc áp dụng vào năm 1990. Vào năm 1991 một loạt các vụ bê bối liên quan đến các tổ chức ngân hàng và công ty chứng khoán bị phát hiện, và Chính phủ đã sửa đổi luật, cấm các công ty chứng khoán gửi các khoản tiền bồi th−ờng cho các khách hàng bù đắp cho những thua lỗ trong giao dịch của họ. Vào năm 1992, Luật Cải cách Thể chế đ−ợc ban hành, và những tranh luận xảy ra sau đó về một sự cải cách mạnh mẽ thị tr−ờng tài chính đã dẫn đến việc thông qua Luật Cải cách hệ thống tài chính vào năm 1998. Sau những thay đổi nói trên, Luật Chứng khoán và Giao dịch năm 1948- đã đ−ợc xây dựng dựa trên những luật chứng khoán của Mỹ- đã mang những nét đặc tr−ng của Nhật bản và thị tr−ờng hiện đang phát triển rất nhanh để đáp ứng đ−ợc sự cạnh tranh trên thị tr−ờng thế giới. Đối với cơ quan quản lý thị tr−ờng, vào tr−ớc chiến tranh chính phủ coi trọng các giao dịch hàng hoá và đã chỉ định Bộ Th−ơng mại và Công nghiệp có trách nhiệm giám sát thị tr−ờng chứng khoán và hàng hoá. Ngay sau khi chiến tranh xảy ra, việc quản lý thị tr−ờng chứng khoán đã đ−ợc tách biệt khỏi việc quản lý hàng hoá và đ−ợc trao cho Cục Giám sát của Bộ Tài chính (MoF). Vào năm 1943 công việc này đ−ợc chuyển cho Cục Tài chính của MoF - là một phần nằm trong động thái thiết lập sự kiểm soát thời chiến đối với thị tr−ờng tài chính. Theo Luật Giao dịch và Chứng khoán năm 1948, Uỷ ban Giao dịch và Chứng khoán theo mô hình SEC của Mỹ đã đ−ợc thành lập nh−ng sau thời gian chiếm đóng của các Lực l−ợng Đồng minh tại Nhật, trách nhiệm của Uỷ ban đã đ−ợc chuyển sang Phòng Chứng khoán thuộc Cục Tài chính của MoF. Theo sửa đổi luật vào năm 1965, Cục Chứng khoán thuộc MoF đã đ−ợc thành lập để quản lý thị tr−ờng và đóng vai trò chủ đạo trong việc thiết lập hệ thống cấp giấy phép cho các công ty chứng khoán. Trong gần 30 năm, Cục Chứng khoán đã thực hiện tốt chức năng quản lý thị tr−ờng và giá trị vốn hoá của thị tr−ờng đã đạt đến quy mô tầm cỡ thế giới vào đỉnh điểm của giai đoạn kinh tế bong bóng. Trong khi đó, ngày càng có nhiều chỉ trích cho rằng bản chất khép kín của thị tr−ờng là nguyên nhân gây ra một loạt các vụ bê bối. Sau một loạt các vụ bê bối liên quan đến các ngân hàng và công ty chứng khoán, Chính phủ đã thực hiện 23 các biện pháp cải cách thị tr−ờng chứng khoán, trong đó có việc tăng c−ờng việc giám sát các giao dịch không công bằng. Vì MoF có quyền hành lớn trong việc cấp giấy phép cho các công ty chứng khoán, đã có nhiều tranh luận liên quan đến việc cơ quan nào có trách nhiệm trong việc giám sát hoạt động thị tr−ờng và chính phủ đã quyết định thành lập Uỷ ban Giám sát Giao dịch và Chứng khoán (SESC) vào năm 1992. Vào năm 1998 chức năng giám sát và thanh tra cuả Cục Chứng khoán và Cục Ngân hàng của MoF đã đ−ợc chuyển sang Cơ quan Giám sát Tài chính - một cơ quan cấp bộ đặc biệt gắn liền với Văn phòng Thủ t−ớng. Những chức năng soạn thảo chính sách và kế hoạch tài chính vẫn do MoF đảm nhận và SESC đ−ợc hợp nhất vào Cơ quan Giám sát Tài chính - cơ quan chịu trách nhiệm quản lý thị tr−ờng chứng khoán. Hiện nay, Uỷ ban Tái thiết Tài chính, đ−ợc thành lập vào tháng 12 năm 1998 sau cuộc khủng hoảng hệ thống tài chính, có trách nhiệm cao nhất đối với việc quản lý các tổ chức ngân hàng và công ty chứng khoán. Uỷ ban này phải xin ý kiến hoặc thông báo cho Bộ tr−ởng MoF về một số vấn đề quan trọng. Trong thực tế, Uỷ ban có thể uỷ thác một phần lớn quyền hạn cho tổng giám đốc của Cơ quan Giám sát Tài chính hoặc giám đốc của các văn phòng tài chính địa ph−ơng. Tên của Uỷ ban này đã đ−ợc đổi thành Cơ quan Dịch vụ Tài chính vào tháng 1 năm 2001. 3.1.2 Kinh nghiệm xây dựng Luật Chứng khoán Hàn quốc Thị tr−ờng chứng khoán Hàn quốc chủ yếu điều chỉnh bởi Luật Giao dịch và Chứng khoán. Luật này cũng điều chỉnh việc giám sát tất cả các tổ chức có liên quan đến chứng khoán. Mục đích chính của Luật này là: đảm bảo rằng các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán đ−ợc thực hiện một cách công bằng; tạo điều kiện cho việc giao dịch chứng khoán đ−ợc dễ dàng hơn; bảo vệ các nhà đầu t−; và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Luật này liên quan đến các lĩnh vực sau: bảo vệ nhà đầu t−, công bố thông tin một cách kịp thời, việc đăng ký của các tổ chức phát hành, phát hành ra công chúng, phân phối tại thị tr−ờng thứ cấp, chào mua chứng khoán, giao dịch nội gián và quản lý các công ty chứng khoán và các nhà t− vấn đầu t−. 24 Vào tháng 1 năm 1962, Nghị viện Hàn quốc đã thông qua Luật Giao dịch và Chứng khoán - một tập hợp toàn diện đầu tiên tất cả những quy định của Hàn quốc về ngành chứng khoán. Luật bắt đầu đ−ợc thực hiện bằng cách tổ chức lại Sở giao dịch chứng khoán Daehan thành một công ty cổ phần. Tuy nhiên, sự tổ chức lại Sở giao dịch và việc quản lý ch−a đầy đủ đã dẫn đến những xung đột trên thị tr−ờng. Tiếp sau đó, Luật đã đ−ợc sửa đổi vào tháng 4 năm 1963 nhằm áp dụng các quy định chặt chẽ hơn đối với hoạt động của thị tr−ờng chứng khoán và cải tổ Sở giao dịch thành một công ty hoạt động theo hình thức phi lợi nhuận, do Chính phủ sở hữu với tên gọi mới là “Sở Giao dịch Chứng khoán Hàn quốc” (KSE). KSE cuối cùng đã đ−ợc t− nhân hoá thành một công ty hoạt động theo mô hình thành viên, phi lợi nhuận vào năm 1988. Kể từ khi đ−ợc thông qua vào tháng 1 năm 1962, Luật Chứng khoán đã có một số lần sửa đổi cơ bản. Những thay đổi này đ−ợc thực hiện nhằm mục đích bảo vệ nhà đầu t− tốt hơn, mở rộng phạm vi điều chỉnh và tăng c−ờng sự giám sát hiệu quả thị tr−ờng chứng khoán. Các sửa đổi bắt đầu vào những năm 1970 khi sự tăng tr−ởng nhanh của nền kinh tế kéo theo sự phát triển của thị tr−ờng chứng khoán. Tr−ớc khi có sự sửa đổi Luật vào năm 1976, Bộ Tài chính (MoF), tiền thân của Bộ Kinh tế và Tài chính (MOFE), là cơ quan có quyền hành cao nhất đối với những vấn đề liên quan đến thị tr−ờng chứng khoán. Nh−ng khi thị tr−ờng ngày càng phát triển nhanh, Chính phủ nhận thấy rằng hệ thống quản lý thị tr−ờng hiện hành không thể hoạt động cũng nh− quản lý thị tr−ờng một cách hiệu quả. Vào tháng 2 năm 1977, tiếp sau những sửa đổi đối với Luật, Uỷ ban Giao dịch và Chứng khoán (SEC) đ−ợc thành lập nh− một cơ quan quản lý độc lập để giám sát hoạt động thị tr−ờng hàng ngày và các công ty có liên quan. SEC ban hành các quy định và văn bản h−ớng dẫn có liên quan đến hoạt động của thị tr−ờng. Là một cơ quan thuộc MoF, nhiệm vụ của cơ quan này là quản lý toàn bộ việc phát hành chứng khoán, duy trì một thị tr−ờng công bằng, bao gồm cả việc giám sát các tổ chức kinh doanh có liên quan đến chứng khoán và nhân sự của họ. Vào những năm 1990, nhiều thay đổi diễn ra sau khi MOFE công bố kế hoạch chi tiết tự do hoá thị tr−ờng chứng khoán. Luật đã đ−ợc sửa đổi một số lần để thích ứng một cách hiệu quả hơn với môi tr−ờng thay đổi của thị tr−ờng 25 vốn và những thách thức liên quan đến tính cạnh tranh quốc tế. Những thay đổi đó là: đ−a ra quy định các cổ đông không đồng ý với các quyết định của công ty đ−ợc quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phiếu của họ, cho phép các công ty niêm yết đ−ợc mua cổ phiếu quỹ, quy định cơ sở pháp lý cho việc giới thiệu thị tr−ờng các hợp đồng t−ơng lai chỉ số chứng khoán,v.v. Những sửa đổi sau cuộc khủng hoảng tập trung vào việc tự do hoá thị tr−ờng và thúc đẩy việc tái cơ cấu các công ty và lĩnh vực tài chính. Một sửa đổi mới Luật vào tháng 2 năm 1998 đã giải thể SEC và chuyển quyền hành quản lý sang Uỷ ban giám sát tài chính (FSC). Để cố gắng làm giảm sự xáo trộn gây ra bởi việc chuyển giao quyền lực, các cơ quan giám sát hiện hành của các ngành ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm, cùng với Quỹ Quản lý Tín dụng, tiếp tục trách nhiệm của mình d−ới sự quản lý của FSC. Vào tháng 1 năm 1999, bốn tổ chức này đã đ−ợc hợp nhất thành Cục Giám sát Tài chính (FSS), cơ quan thừa hành của FSC. FSC là cơ quan giám sát tài chính hợp nhất đối với các lĩnh vực khác nhau liên quan đến chứng khoán: ngân hàng, bảo hiểm và các quỹ quản lý tín dụng. FSC chịu trách nhiệm thực hiện và sửa đổi các quy định giám sát, việc cấp phép các hoạt động kinh doanh và giám sát hoạt động của các tổ chức tài chính tại Hàn quốc. Bên cạnh đó, Uỷ ban Hợp đồng t−ơng lai và Chứng khoán đ−ợc thành lập thuộc FSC để giám sát thị tr−ờng chứng khoán và thị tr−ờng các hợp đồng t−ơng lai. Một trong những công việc quan trọng của năm 2003 là việc chuẩn bị cho việc hợp nhất 3 sở giao dịch chứng khoán. Nhằm mục đích tăng c−ờng tính cạnh tranh của thị tr−ờng chứng khoán Hàn quốc và tăng sự thuận tiện cho các thành viên tham gia thị tr−ờng, Chính phủ Hàn quốc đã thông báo quyết định hợp nhất 3 sở giao dịch chứng khoán hiện hành: KSE, KOSDAQ và KOFEX (Sở giao dịch các Hợp đồng t−ơng lai Hàn Quốc) thành một sở giao dịch hợp nhất. Để tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc thành lập sở giao dịch chứng khoán hợp nhất, Quốc hội Hàn quốc đã sửa đổi Luật Giao dịch và Chứng khoán và thông qua “Luật Giao dịch các Hợp đồng t−ơng lai và Chứng khoán Hàn quốc” vào tháng 1 năm 2004. Sự sửa đổi luật là rất cần thiết để thống nhất các quy định riêng rẽ hiện hành điều chỉnh hoạt động của các sở giao dịch khác 26 nhau, loại bỏ những điều mâu thuẫn và chồng chéo trong các quy định hiện hành. Do luật về hợp nhất sở giao dịch quy định rằng tất cả các thủ tục cần thiết để khai tr−ơng sở giao dịch chứng khoán hợp nhất phải đ−ợc thực hiện trong vòng một năm kể từ ngày đ−ợc ban hành nên sở giao dịch hợp nhất sẽ đ−ợc khai tr−ơng vào nửa cuối năm 2004. Các hoạt động ban đầu đã đ−ợc thực hiện là chuyển thị tr−ờng quyền chọn và hợp đồng t−ơng lai KOSPI 200 đến KOFEX tại Busan vào cuối năm 2003 và chuyển phòng quyền chọn và hợp đồng t−ơng lai của KSE đến KOFEX để điều hành thị tr−ờng. Sở giao dịch mới sẽ gồm có 3 phần thị tr−ờng: thị tr−ờng chính, thị tr−ờng các doanh nghiệp đang phát triển, và thị tr−ờng các công cụ phái sinh. Sở giao dịch sẽ có một uỷ ban giám sát thị tr−ờng và trung tâm hỗ trợ quản lý. Uỷ ban giám sát thị tr−ờng sẽ chịu trách nhiệm đối với việc điều tra và giám sát thị tr−ờng, giám sát các công ty chứng khoán thành viên, và đ−a ra các biện pháp kỷ luật. 3.1.3 Xây dựng Luật Chứng khoán tại Trung Quốc Luật Chứng khoán của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có thể đ−ợc coi là văn bản pháp luật quan trọng nhất điều chỉnh hoạt động thị tr−ờng chứng khoán Trung quốc. Cho đến tr−ớc thời điểm có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm 1999, thị tr−ờng chứng khoán đ−ợc điều chỉnh bởi các biện pháp của Hội đồng Nhà n−ớc, các quy định ban hành bởi Uỷ ban Giám quản Chứng khoán Trung Quốc (CSRC), các quy định ban hành bởi các chính quyền thành phố và các quy định của Sở giao dịch chứng khoán. Các văn bản này có tính hiệu quả và hợp pháp khác nhau. Luật chứng khoán đã nâng mức văn bản điều chỉnh hoạt động của thị tr−ờng lên mức văn bản luật, đ−a ra nhiều quy định có tính bao quát đối với các hoạt động phát hành, giao dịch, thanh toán và quản lý chứng khoán, cũng nh− các mức hình phạt đối với việc vi phạm luật. Vào tháng 8 năm 1992, Uỷ ban Th−ờng vụ Quốc hội (NPCSC) đã đ−a ra đề nghị chính thức soạn thảo Luật Giao dịch Chứng khoán. Vào tháng 3 năm 1993, phiên họp toàn thể của Quốc hội đã chính thức bổ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội (FEC) làm cơ quan có trách nhiệm soạn thảo chính 27 và đồng ý với đề nghị của FEC đổi tên luật thành Luật Chứng khoán để cho phép luật điều chỉnh đ−ợc các vấn đề khác bên cạnh việc giao dịch chứng khoán. Tháng 8 năm 1993, FEC đã hoàn thành dự thảo luật lần thứ nhất. Đây là một dự thảo cấp tiến, giống với sách trắng về chính sách hơn là một số các quy định nhằm mục đích điều chỉnh thị tr−ờng hiện tại. Dự thảo bao gồm một kế hoạch tái cơ cấu đối với việc thiết lập các quy định cũng nh− một loạt các đề xuất phục vụ cho thị tr−ờng đ−ợc đ−a ra nhằm hạn chế khả năng của Chính phủ trong việc kiểm soát và can thiệp vào thị tr−ờng chứng khoán. Cụ thể nh− sau: Về cơ quan quản lý thị tr−ờng: FEC phê phán vị thế ban đầu của CSRC. Vì CSRC không phải là một cơ quan thuộc Chính phủ nên không đ−ợc quyền ban hành các quy định quản lý hoặc xử phạt tiền - những thẩm quyền mà cơ quan quản lý thị tr−ờng cần phải có. Chính vì vậy trong dự thảo FEC đã đ−a ra hệ thống quản lý dựa theo mô hình của Uỷ ban Giao dịch và Chứng khoán Mỹ và đề xuất thành lập Uỷ ban Quản lý Chứng khoán Nhà n−ớc (SSMC) - cơ quan cấp thành viên Hội đồng Nhà n−ớc có trách nhiệm duy nhất hoạch định chính sách và quản lý thị tr−ờng chứng khoán. Điều này t−ơng phản với các tổ chức mới đ−ợc Hội đồng Nhà n−ớc tạo ra - một Uỷ ban chứng khoán cấp bộ (trong thực tế chỉ là một ph−ơng thức họp không định kỳ của các thứ tr−ởng) và một cơ quan hành chính (CSRC). CSRC chỉ là một cơ quan dịch vụ công và vì thế không phải là một cơ quan của bộ máy chính phủ chính thức, ở vị thế thấp hơn các thành viên của Hội đồng Nhà n−ớc. Những ng−ời trong ban soạn thảo của FEC cho rằng vị thế chính quyền thấp của CSRC làm cho tổ chức này bị bất lợi khi có sự bất đồng ý kiến với các cơ quan Chính phủ khác, nhất là Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và các chính quyền tỉnh. Nhóm soạn thảo cố gắng làm giảm quyền hành của các chính quyền tỉnh trong việc quản lý thị tr−ờng chứng khoán. Dự thảo cấm các chính quyền thành phố và các tỉnh thành lập các văn phòng chứng khoán và cho phép SSMC thành lập các văn phòng địa ph−ơng của mình. Từ đầu những năm 1990 đến năm 1997, các văn phòng chứng khoán địa ph−ơng do chính quyền các tỉnh quản lý quyết định việc công ty nào có thể phát hành cổ phiếu ra công chúng và điều này đã dẫn đến việc nhiều công ty nhà n−ớc tái cơ cấu phát hành cổ phiếu vì những lý do giả mạo. 28 Quản lý sở giao dịch và giao dịch cổ phiếu: dự thảo cũng bảo đảm rằng các sở giao dịch chứng khoán sẽ có vị thế là các tổ chức tự quản (SROs). Sở giao dịch sẽ chỉ phải báo cáo, chứ không phải cần đến sự chấp thuận đối với các biện pháp kỷ luật. Hơn nữa, những thay đổi đối với hội đồng quản trị và uỷ ban giám sát của sở giao dịch sẽ do các thành viên quyết định và sẽ chỉ phải báo cáo với cơ quan quản lý. Dự thảo cũng đề cập nhiều đến Hiệp hội Ngành Chứng khoán (SIA), cho phép hiệp hội quản lý việc giao dịch chứng khoán ngoài sở giao dịch chứng khoán. Những ng−ời soạn thảo ủng hộ sự phát triển của thị tr−ờng giao dịch OTC, đặc biệt là dành cho trái phiếu, và sự phát triển của các trung tâm giao dịch chứng khoán. Họ tin t−ởng rằng đây là cách duy nhất để loại trừ thị tr−ờng đen của các cổ phiếu, cung cấp vốn đầu t− cho các công ty nhỏ và bảo đảm sự đối xử bình đẳng cho các nhà đầu t− ngoài Th−ợng Hải và Thẩm Quyến. Sự quản lý hành chính của Chính phủ trung −ơng: Dự thảo không đề cập đến các loại cổ phiếu của pháp nhân, nhà n−ớc và t− nhân vừa mới đ−ợc Hội đồng Nhà n−ớc phân loại- giúp bảo đảm sự sở hữu nhà n−ớc trong các công ty niêm yết và điều này đã gây ra nhiều vấn đề quản trị doanh nghiệp tại các công ty. Các thành viên của FEC cũng muốn thúc đẩy việc niêm yết của các công ty t− nhân (bắt đầu vào năm 1998 nh−ng còn rất ít), và cho phép ngân hàng cho các công ty chứng khoán vay tiền- bắt đầu đ−ợc thực hiện ở quy mô nhỏ vào cuối những năm 1990. Nhiều vấn đề chính sách do FEC đ−a ra và ủng hộ cho đến nay đã đ−ợc chấp thuận nh−ng vào thời điểm đó đ−ợc coi là cấp tiến và không chấp nhận đ−ợc. Những đề xuất đ−ợc FEC đ−a ra theo họ là rất cần thiết để giảm sự can thiệp hành chính vào thị tr−ờng chứng khoán và bảo vệ nhà đầu t− một cách hiệu quả hơn. Sau khi trình ra NPCSC, dự thảo đ−ợc chuyển tới Uỷ ban các vấn đề luật pháp của Quốc hội (CLA). Từ tháng 8 năm 1993 trở về sau này, CLA chịu trách nhiệm chính thức đối với việc soạn thảo luật chứng khoán. Nhóm soạn thảo của FEC chính thức giải thể vào thời điểm này nh−ng vẫn tiếp tục họp mặt và vận động hành lang cho dự thảo của họ. 29 CLA thành lập một nhóm soạn thảo riêng và công việc của nhóm này là không phải sửa đổi dự thảo của FEC mà viết lại hoàn toàn dự luật này. Trên nhiều ph−ơng diện dự thảo của CLA cố gắng phản ánh hiện trạng thể chế của thị tr−ờng hơn là ủng hộ những thay đổi cấp tiến. Bên cạnh việc bỏ những điều khoản liên quan đến phát hành cổ phiếu (do Luật Công ty do CLA soạn thảo đã bao gồm những điều khoản này) và sửa tên luật thành Luật Giao dịch Chứng khoán, CLA đã bỏ nhiều những đề xuất phục vụ cho thị tr−ờng trong dự thảo của FEC. Cụ thể nh− sau: Cơ quan quản lý thị tr−ờng: dự thảo của CLA hoàn toàn tái cơ cấu lại thể chế quản lý thị tr−ờng chứng khoán. Cho rằng thị tr−ờng còn ch−a đủ chín muồi để thành lập một cơ quan quản lý thị tr−ờng cấp thành viên Hội đồng Nhà n−ớc, CLA đã bỏ hầu hết các điều khoản liên quan đến SSMC, cho rằng những quyền này nên để cho Hội đồng Nhà n−ớc quyết định. Thứ hai, CLA đề xuất hệ thống quản lý kép đối với các văn phòng chứng khoán địa ph−ơng: Chính phủ trung −ơng thực hiện chính sách quản lý thị tr−ờng nói chung và phê chuẩn việc niêm yết chứng khoán; còn văn phòng địa ph−ơng, d−ới sự quản lý chung của chính quyền trung −ơng và chính quyền địa ph−ơng, sẽ có quyền điều tra các hành vi bất hợp pháp, kiểm tra việc công bố thông tin của các công ty, xử phạt các hành vi bất hợp pháp và hoà giải các tranh chấp. Điều này hoàn toàn trái ng−ợc với dự thảo của FEC hoàn toàn cấm việc tham gia của địa ph−ơng vào việc quản lý thị tr−ờng nh−ng lại phù hợp với thực tế thời điểm đó. Quản lý sở giao dịch và giao dịch cổ phiếu: dự thảo của CLA đã bỏ nhiều quyền hành tổ chức tự quản của sở giao dịch chứng khoán, chuyển quyền cấp phép niêm yết sang cho cơ quan quản lý của chính phủ và cho phép cơ quan quản lý đ−ợc quy định các loại phí và đ−ợc quyền chấp thuận mọi thay đổi đối với các quy định kinh doanh của sở giao dịch. Dự thảo của CLA cũng ủng hộ việc giao dịch chứng khoán ngoài 2 sở giao dịch Th−ợng Hải và Thẩm Quyến và việc phát triển các trung tâm giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên Hiệp hội ngành Chứng khoán không đ−ợc nhắc đến và dự thảo của CLA cấm việc cho vay đối với khách hàng, các công ty chứng khoán và việc giao dịch thoả thuận 30 của các công ty chứng khoán, những vấn đề đ−ợc Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBoC) ủng hộ vào thời điểm đó. Sự quản lý hành chính của chính phủ trung −ơng: CLA cũng đ−a ra nhiều thay đổi trong dự thảo nhằm tăng c−ờng việc quản lý hành chính và kìm lại sự phát triển của thị tr−ờng. Dự thảo giới hạn phạm vi chứng khoán điều chỉnh bởi luật là chứng khoán vốn và nợ, loại trừ quỹ đầu t−, hợp đồng t−ơng lai và quyền chọn. Dự thảo khuyến nghị việc tách bạch hoạt động giữa ngân hàng và công ty chứng khoán, tuy nhiên không đề cập đến việc phân loại các cổ phiếu. Tóm lại, nếu nh− dự thảo của FEC là một văn bản cấp tiến khó có khả năng thực hiện thì dự thảo của CLA lại có quan điểm bảo thủ và thực tế. Để biện minh cho rất nhiều những sửa đổi của mình, CLA cho rằng dự thảo của FEC là “lý t−ởng” và không phù hợp thực tế chính sách hiện hành. Dự thảo của CLA đã dẫn đến việc Hội đồng Nhà n−ớc phải đ−a ra nhiều quyết định quan trọng đối với nhiều vấn đề, trong đó bao gồm cả cơ cấu của cơ quản lý thị tr−ờng. Vào tháng 4 năm 1994, Uỷ ban th−ờng vụ Quốc hội (NPCSC) đã tổ chức một cuộc họp cho FEC và CLA với mục đích soạn thảo một dự thảo thống nhất để đ−a ra thông qua vào kỳ họp kế tiếp của NPCSC. Hai bên đã không đạt đ−ợc sự thống nhất về những vấn đề chính, tuy nhiên CLA vẫn soạn thảo ra một dự thảo mới với quan điểm cũ. Dự thảo này đã đ−ợc Uỷ ban Luật pháp (LC) trình lên kỳ họp toàn thể của NPCSC vào tháng 6 năm 1994. Hội đồng Nhà n−ớc đã có báo cáo đánh giá về dự thảo này trong đó nói rằng dự thảo vẫn còn nhiều vấn đề và không nên cho phép đ−ợc thông qua, chính vì vậy Thủ t−ớng Chính phủ đã ra quyết định tạm ngừng việc soạn thảo luật lại. Trong giai đoạn từ bắt đầu năm 1996 đến tháng 8 năm 1998, sự bất đồng giữa CLA và FEC đã làm tê liệt quá trình soạn thảo dự Luật Chứng khoán và để đáp ứng nhu cầu xây dựng khuôn khổ pháp luật quản lý thị tr−ờng, Hội đồng Nhà n−ớc đã giao trách nhiệm soạn thảo luật chứng khoán cho CSRC. CSRC tận dụng cơ hội này để soạn thảo lại những phần chính của luật theo chính sách của mình: soạn thảo lại toàn bộ và mở rộng phần phát hành cổ phiếu - theo 31 quan điểm của FEC hơn là CLA, soạn thảo những ch−ơng mới về đăng ký và thanh toán chứng khoán, về quyền hành của SSMC- bao gồm những điều khoản về quyền thanh tra. Quá trình soạn thảo này rất quan trọng khi công việc soạn thảo của Quốc hội bắt đầu trở lại vào năm 1998 và NPCSC đã yêu cầu luật chứng khoán phải đ−ợc thông qua vào tháng 12 năm 1998. Cuối tháng 9 năm 1998, Nhóm Lãnh đạo Kinh tế và Tài chính (FELG) nhóm họp và thảo luận tất cả những vấn đề quan trọng nhất của luật: phạm vi điều chỉnh, các thủ tục phát hành cổ phiếu, cơ cấu quản lý, việc liệu các công ty chứng khoán có đ−ợc phép tham gia giao dịch thoả thuận hay không, cho vay, các quy định về thâu tóm và sáp nhập, vấn đề quản trị của sở giao dịch và các hàng hoá nh− hợp đồng t−ơng lai. Kết quả là những phần quan trọng của dự luật cần đ−ợc soạn thảo lại và không có sự phản đối từ CLA hoặc FEC. CLA chấp nhận những phần của luật do CSRC soạn thảo về phát hành, cơ cấu quản lý và đăng ký chứng khoán. Về cơ cấu quản lý thị tr−ờng, dự thảo của CSRC đ−a ra những trách nhiệm và quyền hạn của Cơ quan Quản lý và Giám sát Chứng khoán Hội đồng Nhà n−ớc (SCSSMO) - là CSRC tuy nhiên CSRC không bao giờ đ−ợc gọi một cách chính thức nh− vậy. SCSSMO có trách nhiệm quản lý duy nhất trong lĩnh vực chứng khoán và có quyền thành lập các văn phòng chứng khoán địa ph−ơng chịu sự quản lý của mình. Tổ chức này có quyền thanh tra các hành vi trái pháp luật, phong toả tài khoản ngân hàng và tổ chức các buổi chất vấn tr−ớc khi xét xử và tổ chức việc xét xử các đối t−ợng tình nghi. Dự thảo cũng cho phép SCSSMO có quyền tiếp cận các tài liệu, bao gồm hồ sơ các giao dịch, các tài khoản chứng khoán và ngân hàng. Dự thảo chỉ điều chỉnh cổ phiếu, không quy định đối với quỹ đầu t− và các công cụ hợp đồng t−ơng lai và không cho phép sở giao dịch hoạt động nh− là tổ chức tự quản. Tháng 10 năm 1998, CLA tổ chức các cuộc họp soạn thảo với FEC trong đó CLA đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng dự thảo. Dự thảo sau đó đ−ợc chuyển đến CSRC và các cơ quan Chính phủ khác để lấy ý kiến. Tháng 11 năm 1998, NPCSC tổ chức 2 cuộc họp lấy ý kiến về dự luật. Sau khi các công ty chứng khoán trình bày về những khó khăn về mặt tài chính, một điều khoản đ−ợc dự thảo theo đó cấm việc rót tiền "bất hợp pháp" của các ngân 32 hàng vào thị tr−ờng chứng khoán, và yêu cầu các công ty chứng khoán chỉ đ−ợc sử dụng tiền của mình và những khoản tiền "đ−ợc huy động phù hợp với pháp luật", vấn đề thế nào là hợp pháp đ−ợc để cho Hội đồng Nhà n−ớc quyết định. Vấn đề cấp thiết nhất lúc đó đối với NPCSC là phân định quyền hạn của SCSSMO đối với thẩm quyền cho phép phát hành chứng khoán và thực hiện điều tra, cũng nh− vấn đề liệu SCSSMO có bị kiểm toán hay không. Thành công lớn nhất của NPCSC trong lĩnh vực này là lập ra Uỷ ban xem xét niêm yết và phát hành chứng khoán ra công chúng (POLRC). Uỷ ban này sẽ quyết định việc công ty nộp đơn xin phép có đ−ợc phát hành cổ phiếu hay không sau khi các yêu cầu kỹ thuật và việc công bố thông tin đã đ−ợc Vụ Phát hành của CSRC kiểm tra. Uỷ ban này đ−ợc tạo ra nhằm mục đích giảm sự can thiệp hành chính vào quá trình phát hành chứng khoán. Một số đại biểu NPCSC đề nghị rằng POLRC cần phải độc lập với cơ quan quản lý thị tr−ờng và thành phần của cơ quan này là các chuyên gia không thuộc CSRC. CSRC phản đối sự độc lập hoàn toàn của uỷ ban này và cuối cùng đã đạt đ−ợc một sự thoả hiệp: uỷ ban sẽ do CSRC thành lập và thuộc CSRC nh−ng hầu hết các thành viên của uỷ ban sẽ là các chuyên gia của ngành và giới học thuật. NPCSC quyết định thêm một số biện pháp với mục đích kiềm chế và giám sát hoạt động của CSRC. Chẳng hạn nh− dự thảo đ−ợc sửa đổi để mở rộng quyền hành của Văn phòng Kiểm toán Nhà n−ớc đ−ợc giám sát tình hình tài chính của tất cả các công ty chứng khoán, 2 sở giao dịch chứng khoán và cơ quan quản lý thị tr−ờng. NPCSC đã bỏ quyền hạn của cơ quan quản lý đ−ợc thực hiện việc chất vấn tr−ớc khi xét xử và tổ chức phiên toà xét xử hành chính các đối t−ợng tình nghi- những quyền hạn mà CSRC đã quy định vào dự thảo trong giai đoạn 1996-1997. Quan điểm của NPCSC là chỉ có Cơ quan an ninh công và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao mới đ−ợc thực hiện các hoạt động này. NPCSC cũng ủng hộ việc áp dụng một số cơ chế tự quản cho các sở giao dịch chứng khoán: dự thảo luật đã đ−ợc điều chỉnh cho phép cơ quan quản lý trao quyền chấp thuận niêm yết cổ phiếu và trái phiếu, cũng nh− quyền đình chỉ và huỷ bỏ niêm yết cho Ban giám đốc của sở giao dịch. Tuy nhiên thời điểm nào trao những quyền đó thì đ−ợc dành cho SCSSMO quyết định. 33 Vào ngày 25 và 26 tháng 12, LC tổ chức cuộc họp với FEC và cơ quan chính phủ khác để hoàn thành các quy định chi tiết về POLRC. Ngày 29 tháng 12 năm 1998, NPCSC đã họp và thông qua dự Luật Chứng khoán với 12 ch−ơng và 214 điều, dự luật chính thức có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm 1999. 3.1.4 Kinh nghiệm xây dựng Luật chứng khoán tại Thái Lan Mặc dù Sở giao dịch chứng khoán Thái lan (SET) đ−ợc thành lập theo Luật Giao dịch chứng khoán Thái lan năm 1974, nh−ng rất nhiều các quy định tại các văn bản pháp luật khác đã làm cho hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán không phát triển đ−ợc trong một số năm đầu tiên hoạt động. Chẳng hạn nh− Luật Công ty đại chúng và những sửa đổi đối với Luật Th−ơng mại và Dân sự năm 1973 không cho phép các công ty phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO). Các công ty đại chúng cũng không đ−ợc phép phát hành trái phiếu không có bảo đảm ra công chúng. Các cổ phiếu mới tr−ớc hết phải đ−ợc phát hành cho các cổ đông hiện hành. Các điều khoản này đã cản trở rất nhiều việc huy động vốn ở thị tr−ờng sơ cấp và cũng ảnh h−ởng xấu đến thị tr−ờng thứ cấp. Bên cạnh đó, Luật Giao dịch Chứng khoán Thái Lan năm 1974 đ−ợc ban hành chủ yếu là để quản lý giao dịch chứng khoán tại thị tr−ờng thứ cấp hơn là thị tr−ờng sơ cấp. Trong thực tế không có khuôn khổ pháp lý nào giám sát thị tr−ờng sơ cấp và có quá nhiều cơ quan giám sát các lĩnh vực khác nhau của ngành chứng khoán. Chính vì vậy Luật Giao dịch và Chứng khoán Thái Lan đã đ−ợc sửa đổi thành Luật Giao dịch và Chứng khoán (Luật SEC) và đ−ợc Nghị viện thông qua vào tháng 3 năm 1992. Luật này không chỉ giúp làm sáng tỏ những rắc rối về mặt luật pháp và sửa đổi những mặt hạn chế của luật cũ, mà còn giúp tiếp thêm sinh lực cho thị tr−ờng vốn trong n−ớc sao cho không phải dựa quá nhiều vào thị tr−ờng tiền tệ. Nói cách khác Luật SEC khuyến khích việc thị tr−ờng chứng khoán trở thành một ph−ơng tiện tăng c−ờng tính cạnh tranh trên thị tr−ờng tài chính. Việc ban hành Luật SEC đã dẫn đến nhiều thay đổi tại các thị tr−ờng sơ cấp và thứ cấp, việc giám sát các thị tr−ờng này và việc phát triển các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Những mục tiêu chính của việc ban hành Luật SEC là phát triển các công cụ tài chính mới, tăng c−ờng sự bảo vệ các nhà đầu t−, tăng 34 c−ờng sự giám sát thị tr−ờng vốn và phát triển các tổ chức kinh doanh và hoạt động của SET. Tr−ớc khi ban hành Luật SEC, hoạt động giám sát các thị tr−ờng sơ cấp và thứ cấp và các tổ chức kinh doanh chứng khoán đ−ợc phân chia một cách chồng chéo giữa các cơ quan khác nhau bao gồm SET, Bộ Tài chính (MoF), Ngân hàng Trung −ơng Thái Lan (BoT) và Bộ Th−ơng Mại (MoC). Theo Luật SEC, tất cả mọi quyền hạn tập trung vào một cơ quan duy nhất-SEC. Đây là cơ quan giám sát duy nhất đối với các hoạt động phát hành và chào bán chứng khoán ra công chúng, thị tr−ờng vốn, các tổ chức kinh doanh chứng khoán và các dịch vụ liên quan, mua chứng khoán để thâu tóm doanh nghiệp và các hoạt động giao dịch không công bằng (giao dịch nội gián và thao túng thị tr−ờng). SEC có quyền hành cao nhất đối với việc giám sát, c−ỡng chế thực thi, hoạch định chính sách và ban hành các quy định và quy tắc. Hơn nữa, SEC có quyền phê chuẩn các quy định ban hành bởi các tổ chức tự quản (SROs) đ−ợc thành lập theo Luật SEC. Ngoài SEC, Luật thành lập một cơ quan khác, Văn phòng của Uỷ ban Giao dịch và Chứng khoán (Văn phòng). Văn phòng đóng vai trò nh− là một văn phòng th− ký và chịu trách nhiệm thực hiện các chính sách và biện pháp của SEC. Đây là một cơ quan độc lập với vị thế pháp lý riêng. Thành viên của SEC là Bộ tr−ởng Bộ Tài chính (đồng thời là Chủ tịch của SEC), Thống đốc của BoT, th− ký th−ờng trực của các Bộ Tài chính và Th−ơng mại, Tổng th− ký của Văn phòng và từ 4 đến 6 ng−ời có trình độ chuyên môn cao do Hội đồng Nội các bổ nhiệm. SEC hoạt động nh− là một ban giám đốc và họp th−ờng xuyên. Tuy nhiên, các thành viên của SEC làm việc theo chế độ bán thời gian khác với Văn phòng ngoại trừ Tổng th− ký. Theo Luật SEC các công ty cổ phần đ−ợc chào bán cả chứng khoán vốn và chứng khoán nợ ra công chúng. Các công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ đ−ợc phát hành chứng khoán nợ (không chuyển đổi). Các quy định này đã khắc phục đ−ợc những hạn chế của quy định tr−ớc đây cấm các công ty phát hành chứng khoán nợ. Luật SEC cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc chào bán liên tục các chứng khoán nợ ngắn hạn: các công ty không cần thiết phải nộp báo cáo đăng 35 ký mới và bản cáo bạch dự thảo mỗi lần chào bán chứng khoán mới, thay vào đó họ chỉ cần phải thông báo cho Văn phòng nếu có sự thay đổi đối với những thông tin của hồ sơ lần tr−ớc. Với việc ban hành Luật SEC, SET đã trở thành một tổ chức tự quản thực sự và các hoạt động của SET nằm d−ới sự giám sát của SEC. Hội đồng quản trị của SET chịu trách nhiệm đối với các vấn đề liên quan đến giao dịch chứng khoán còn những vấn đề liên quan đến thị tr−ờng sơ cấp thuộc phạm vi trách nhiệm của SEC và Văn phòng. Tuy nhiên bất kỳ công ty nào muốn niêm yết tại SET phải có đ−ợc sự chấp thuận của hội đồng quản trị sau khi đã nhận đ−ợc sự chấp thuận của Văn phòng. Hội đồng quản trị có quyền đ−a ra các quy định đối với việc niêm yết chứng khoán, chấp thuận các công ty môi giới, giao dịch chứng khoán và các biện pháp kỷ luật. Những quy định này phải đ−ợc SEC chấp thuận. Luật SEC cũng quy định việc thành lập các trung tâm OTC cho các chứng khoán ch−a niêm yết. Một trung tâm OTC có thể đ−ợc thành lập bởi 15 công ty chứng khoán sau khi đã nhận đ−ợc giấy phép của SEC. Giống nh− SET, trung tâm OTC là một SRO và các quy định ban hành bởi hội đồng quản trị của trung tâm OTC cần phải có sự chấp thuận của SEC. Năm 1998, Trung tâm giao dịch trái phiếu Thái Lan đã đ−ợc SEC cấp giấy phép để thúc đẩy hoạt động giao dịch các công cụ nợ. Luật SEC cũng quy định hoạt động quản lý quỹ t− nhân là một hoạt động kinh doanh mới của các công ty chứng khoán. Các hoạt động kinh doanh chứng khoán giờ đây bao gồm môi giới, giao dịch chứng khoán, t− vấn đầu t−, bảo lãnh phát hành, quản lý quỹ t−ơng hỗ, quản lý quỹ t− nhân và vay và cho vay chứng khoán. Mỗi loại hình kinh doanh chứng khoán cần phải xin giấy phép của MoF, SEC chỉ đ−a ra đề nghị đối với việc cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán. Theo Luật SEC, một quỹ t−ơng hỗ đ−ợc chấp thuận thành lập sẽ đ−ợc coi là một pháp nhân Thái Lan và cần phải đ−ợc độc lập với công ty chứng khoán thành lập quỹ. Luật SEC bảo vệ các nhà đầu t− quỹ t−ơng hỗ bằng cách yêu cầu 36 phải chỉ định một tổ chức giám sát quỹ t−ơng hỗ. Tổ chức giám sát có trách nhiệm bảo đảm rằng ng−ời quản lý quỹ tuân thủ các nghĩa vụ đối với ng−ời đầu t−. Chỉ có các ngân hàng và các tổ chức tài chính đáp ứng đ−ợc các điều kiện do Văn phòng quy định mới có thể làm tổ chức giám sát. Luật SEC đặt nền móng cho một số tổ chức phụ trợ bao gồm công ty thanh toán bù trừ, trung tâm l−u ký chứng khoán và tổ chức đăng ký chứng khoán. Những tổ chức này cần phải đ−ợc SEC cấp giấy phép trừ phi những công việc này do SET thực hiện. SEC cũng cho phép việc thành lập hiệp hội kinh doanh chứng khoán với giấy phép do Văn phòng cấp. Những tổ chức này đều là SROs. Bên cạnh đó, một tổ chức định mức tín nhiệm cũng đ−ợc thành lập để gắn kết các nhà đầu t− với những công ty đi vay trên thị tr−ờng vốn về hoạt động công bố thông tin và việc đánh giá các thông tin tài chính thích hợp. 3.1.5 Nhận xét chung qua nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng Luật Chứng khoán của một số n−ớc. Qua việc nghiên cứu kinh nghiệm của một số n−ớc trong việc xây dựng luật chứng khoán có thể thấy rằng dù điều kiện đặc thù của mỗi n−ớc về hệ thống chính trị, điều kiện kinh tế xã hội, tập quán, cơ chế quản lý, trình độ phát triển nền kinh tế và thị tr−ờng chứng khoán còn khác nhau thì việc xây dựng Luật Chứng khoán ở các n−ớc đều là công việc hết sức cần thiết. Các n−ớc trong quá trình xây dựng và phát triển thị tr−ờng chứng khoán đều chú trọng đến việc xây dựng khuôn khổ pháp lý có hiệu lực cao để điều chỉnh các hoạt động của thị tr−ờng chứng khoán. Về vị thế của cơ quan quản lý thị tr−ờng, các n−ớc sau một thời gian phát triển thị tr−ờng chứng khoán, giao việc quản lý thị tr−ờng cho nhiều cơ quan khác nhau thuộc Chính phủ, nói chung đều nhận thức đ−ợc sự cần thiết của việc thành lập một cơ quan quản lý độc lập, có chức năng duy nhất trong việc quản lý, giám sát, hoạch định và thực thi chính sách đối với thị tr−ờng chứng khoán (Cơ quan giám sát tài chính của Nhật bản, CRSC của Trung Quốc, FSC của Hàn Quốc, SEC của Thái Lan). Điều này làm tăng c−ờng tính hiệu quả của công tác quản lý, giám sát thị tr−ờng, giúp đ−a ra đ−ợc những biện pháp kịp thời, cần 37 thiết đối với những giai đoạn phát triển của thị tr−ờng, tránh đ−ợc sự chồng chéo trách nhiệm giữa các cơ quan trong việc quản lý các lĩnh vực khác nhau của thị tr−ờng chứng khoán. Một điểm chung dễ nhận thấy nữa là các n−ớc khi xây dựng Luật Chứng khoán đều muốn tăng c−ờng vai trò tổ chức tự quản cho các sở giao dịch chứng khoán, giảm sự can thiệp hành chính vào thị tr−ờng. Các sở giao dịch chứng khoán đ−ợc quyền chấp thuận đối với việc xin niêm yết; có quyền đình chỉ và huỷ niêm yết; đ−ợc đ−a ra các quy định về niêm yết, giao dịch chứng khoán, biện pháp kỷ luật, chấp thuận các công ty môi giới. Các tổ chức tự quản, tổ chức hỗ trợ thị tr−ờng khác cũng đ−ợc chú trọng phát triển nh− trung tâm l−u ký, đăng ký chứng khoán , công ty thanh toán bù trừ, hiệp hội kinh doanh chứng khoán, công ty định mức tín nhiệm... Các n−ớc đều khuyến khích sự phát triển của thị tr−ờng giao dịch OTC dành cho các cổ phiếu không đủ điều kiện niêm yết, giúp cho các công ty nhỏ và mới thành lập có điều kiện huy động vốn, góp phần loại trừ thị tr−ờng không đ−ợc quản lý giao dịch các loại chứng khoán. Để duy trì một thị tr−ờng phát triển lành mạnh, ổn định, hiệu quả, bảo vệ lợi ích của các nhà đầu t−, các n−ớc trong quá trình xây dựng luật cũng đều rất chú trọng đến công tác giám sát, thanh tra thị tr−ờng chứng khoán. Các cơ quan quản lý th−ờng đ−ợc giao thẩm quyền khá lớn trong việc c−ỡng chế thực thi, thanh tra các hành vi trái pháp luật, đ−ợc tiếp cận các hồ sơ, tài liệu, xử phạt tiền và ở một số n−ớc còn đ−ợc chất vấn các đối t−ợng tình nghi, thanh tra nơi ở của các đối t−ợng tình nghi và tịch thu các tài liệu sổ sách. Tại các n−ớc Luật chứng khoán và các quy định khác th−ờng đ−ợc sửa đổi một cách kịp thời, cần thiết phù hợp với các giai đoạn phát triển của thị tr−ờng nhằm đ−a ra biện pháp ngăn chặn các hành vi giao dịch không công bằng, tăng c−ờng hiệu quả của công việc quản lý nhà n−ớc đối với thị tr−ờng, giúp thị tr−ờng phát triển ổn định và hiệu quả, bảo vệ lợi ích nhà đầu t−, phù hợp với xu h−ớng phát triển thị tr−ờng vốn trên thế giới. 3.2 Tr−ờng hợp của Việt Nam 38 Xây dựng hệ thống pháp lý về chứng khoán và TTCK là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình triển khai thị tr−ờng chứng khoán tại Việt Nam. Đối với các n−ớc đã có thị tr−ờng chứng khoán lâu đời nh− Mỹ, Nhật, Hàn Quốc v.v. các nguyên tắc trong quá trình hoạt động của thị tr−ờng chứng khoán đã trở thành những tiêu chuẩn hợp lý mang tính quốc tế và hệ thống pháp lý đã hoàn chỉnh, đồng bộ, trở thành các chuẩn mực t−ơng đối ổn định. ở Việt Nam, thị tr−ờng chứng khoán mới đ−ợc hình thành và đang trong giai đoạn đầu của quá trình ổn định và phát triển. Vì vậy, việc có ngay một hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh điều chỉnh về lĩnh vực chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán là một điều khó có thể thực hiện đ−ợc. Chúng ta không thể áp dụng nguyên xi các tiêu chuẩn quốc tế, hệ thống các văn bản pháp luật của các n−ớc khác để điều chỉnh hoạt động trên thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam mà không tính đến các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các đặc thù của nền kinh tế - xã hội của Việt Nam. Các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán phải đ−ợc xây dựng, hoàn thiện trên cơ sở kế thừa các văn bản pháp luật hiện hành về chứng khoán, tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam và dựa trên cơ sở ứng dụng một cách khoa học của quá trình nghiên cứu kinh nghiệm về mặt lý thuyết cũng nh− thực tiễn của thế giới vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Giống nh− các loại thị tr−ờng khác, quá trình thiết lập và hoàn thiện thị tr−ờng chứng khoán là một quá trình động, thị tr−ờng chứng khoán mới ra đời phải trải qua một giai đoạn điều chỉnh và hoàn thiện dần dần nên các văn bản pháp luật liên quan cũng phải th−ờng xuyên đ−ợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị tr−ờng. Bởi vậy, hệ thống pháp lý ban đầu phải đạt đ−ợc cùng một lúc các mục tiêu, đó là: đảm bảo tính linh hoạt tối đa và có tính đến các b−ớc phát triển đồng bộ. Chính vì vậy trong giai đoạn đầu, khi Việt Nam ch−a có thực tế về hoạt động của thị tr−ờng chứng khoán, để điều chỉnh hoạt động của thị tr−ờng, Chính phủ đã ban hành Nghị định 48/1998/NĐ- CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán (nay đã đ−ợc thay thế bằng Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ). Nghị định này có thể coi là Nghị định khung điều chỉnh hoạt động của thị 39 tr−ờng chứng khoán Việt Nam, điều chỉnh các vấn đề chung nhất mang tính cố định. Việc ban hành Nghị định với −u điểm là không đòi hỏi nhiều thời gian để đạt đ−ợc sự nhất trí, thông qua, dễ sửa đổi, bổ sung hơn so với Luật hay Pháp lệnh, đảm bảo đ−ợc tính linh hoạt cần thiết đối với hệ thống pháp lý trong giai đoạn khởi đầu của thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam. Trên cơ sở đó, Chính phủ, Bộ Tài chính và Uỷ ban Chứng khoán Nhà n−ớc đã ban hành các văn bản h−ớng dẫn thi hành tạo ra một hệ thống pháp lý t−ơng đối đồng bộ cho hoạt động của thị tr−ờng, đ−a hoạt động chứng khoán vào nề nếp, có sự quản lý của Nhà n−ớc. Tuy nhiên, do sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam nói riêng, đến nay, hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán đã dần bộc lộ những điểm hạn chế nhất định làm cản trở sự phát triển của thị tr−ờng, ch−a bao quát và phù hợp với điều kiện thực tế cũng nh− định h−ớng chiến l−ợc phát triển thị tr−ờng chứng khoán. Cụ thể là: - Về phạm vi và đối t−ợng điều chỉnh: Phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 144/2003/NĐ-CP còn hẹp, chỉ điều chỉnh các hoạt động phát hành, niêm yết, kinh doanh, giao dịch chứng khoán và các hoạt động dịch vụ về chứng khoán trên lãnh thổ Việt Nam, ch−a điều chỉnh đến việc phát hành chứng khoán ra n−ớc ngoài; việc niêm yết chứng khoán của các tổ chức n−ớc ngoài trên TTCK Việt Nam,v.v. - Về phát hành chứng khoán: Nghị định số 144/2003/NĐ-CP mới chỉ dừng lại ở các quy định về phát hành chứng khoán trên TTCK tập trung, ch−a quy định về phát hành riêng lẻ, phát hành chứng khoán ra n−ớc ngoài. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng lại chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp lý khác nhau nh−: Luật doanh nghiệp Nhà n−ớc, Luật các tổ chức tín dụng, Nghị định của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp Nhà n−ớc thành công ty cổ phần,v.v tạo ra sự không thống nhất giữa các văn bản pháp luật cùng quy định về lĩnh vực này. - Về giao dịch chứng khoán: Nghị định 144/2003/NĐ-CP ch−a đặt ra cơ sở pháp lý điều chỉnh đối với hoạt động giao dịch trên TTCK phi tập trung, giao dịch các chứng khoán phái sinh nh− quyền lựa chọn và hợp đồng t−ơng lai. 40 - Mô hình SGDCK: Hiện nay, do quy mô của thị tr−ờng còn nhỏ nên trong giai đoạn hiện nay, mô hình TTGDCK với t− cách là một đơn vị sự nghiệp có thu, trực thuộc UBCKNN có chức năng quản lý, điều hành, giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán vẫn còn phù hợp. Tuy nhiên, trong t−ơng lai, mô hình này cần đ−ợc thay thế bằng SGDCK có t− cách pháp nhân, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. - Về TTCK phi tập trung: Các hoạt động giao dịch chứng khoán ch−a niêm yết trên TTCK tập trung với ph−ơng thức mua bán chủ yếu là trao tay, giá cả hình thành qua thoả thuận hiện đang diễn ra khá sôi động với những diễn biến phức tạp, ch−a có sự quản lý của Nhà n−ớc. Do vậy, cần quy định trong Luật Chứng khoán các nội dung về TTCK phi tập trung, các điều kiện giao dịch chứng khoán trên thị tr−ờng này. - Các tổ chức dịch vụ chứng khoán: Trong t−ơng lai, các tổ chức dịch vụ chứng khoán nh− tổ chức t− vấn đầu t− chứng khoán, tổ chức định mức tín nhiệm, tổ chức kiểm toán độc lập, công ty tài chính chứng khoán hay Quỹ đầu t− mạo hiểm,v.v. sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của TTCK, do vậy, rất cần đ−a vào điều chỉnh trong Luật mô hình tổ chức và hoạt động của các tổ chức này tại Việt Nam... 41 Ch−ơng II Thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật về chứng khoán và các lĩnh vực pháp luật khác những bất cập và xung đột Hình thành và phát triển thị tr−ờng chứng khoán là một tất yếu của nền kinh tế thị tr−ờng. Thị tr−ờng chứng khoán là một thể chế tài chính bậc cao hoạt động với những thiết chế phức tạp, với các quy luật chi phối khắc nghiệt và có ảnh h−ởng lớn đến thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất n−ớc. Trên thế giới, thị tr−ờng chứng khoán đã ra đời cách đây nhiều thế kỷ và đang phát triển mạnh mẽ ở một số quốc gia. ở n−ớc ta, thị tr−ờng chứng khoán vẫn còn là một lĩnh vực hết sức mới mẻ không chỉ về mặt lý luận mà cả về thực tiễn đối với các nhà quản lý cũng nh− đối với công chúng. Sau 4 năm đi vào hoạt động, thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam, tuy ch−a có kết quả nh− mong muốn nh−ng cũng đã đạt đ−ợc những thành tựu nhất định và đang chứng minh chủ tr−ơng đúng đắn của Đảng và Nhà n−ớc trong việc tạo một kênh huy động vốn dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n−ớc, góp phần thúc đẩy quá trình xã hội hoá vốn đầu t− phát triển. Để thống nhất trong quản lý hoạt động của thị tr−ờng chứng khoán, cơ quan Nhà n−ớc có thẩm quyền đã ban hành các chính sách, pháp luật điều chỉnh hoạt động chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán. Văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên điều chỉnh lĩnh vực chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán là Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 và các văn bản h−ớng dẫn thi hành. Việc ban hành Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2004 thay thế cho Nghị định 48/1998/NĐ-CP đã làm hoàn chỉnh hơn hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán. Tuy nhiên, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động chứng khoán và thị tr−ờng chứng khoán là một văn bản d−ới luật nên không thể bao quát điều chỉnh hết các hoạt động chứng khoán. Ngoài ra, hoạt động chứng khoán là một lĩnh vực liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp khác nhau nên còn chịu sự tác động, điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật khác. 42 1. Pháp luật về chứng khoán và Pháp luật Kinh tế 1.1 Pháp luật về chứng khoán và Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà n−ớc, Nghị định số 187/2004/NĐ-CP (thay thế Nghị định số 64/2002/NĐ-CP) của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp Nhà n−ớc thành công ty cổ phần, Luật phá sản doanh nghiệp,v.v. 1.1.1 Pháp luật về chứng khoán và Luật Doanh nghiệp Có thể nói, ở Việt Nam, thị tr−ờng chứng khoán đã manh nha hình thành ngay từ khi Luật Công ty đ−ợc ban hành năm 1990 với việc cho phép các công ty cổ phần đ−ợc phát hành cổ phiếu cùng với ch−ơng trình thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà n−ớc năm 1992. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu này, các yếu tố của thị tr−ờng chứng khoán ch−a đ−ợc hình thành một cách rõ rệt và đầy đủ. Ngày 12/6/1999 Quốc hội đã ban hành Luật Doanh nghiệp thay thế Luật Công ty năm 1990. Luật Doanh nghiệp đã có những quy định cụ thể, chi tiết hơn tạo ra một b−ớc đột phá mới trong cơ chế quản lý doanh nghiệp nói chung cũng nh− có tác động lớn đối với hoạt động chứng khoán. Quy định về thành lập và đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp và vấn đề thành lập, hoạt động của các tổ chức kinh doanh và dịch vụ chứng khoán Luật Doanh nghiệp và các văn bản h−ớng dẫn thi hành quy định về đăng ký kinh doanh, cơ chế tổ chức và quản trị công ty, về việc lập chi nhánh văn phòng đại diện, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể công ty. Đây là các cơ sở quan trọng để các tổ chức hoạt động kinh doanh và dịch vụ chứng khoán thành lập, đăng ký kinh doanh và thiết lập cơ cấu tổ chức, quản lý và thực hiện các hoạt động kinh doanh. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, việc thành lập doanh nghiệp gắn liền với hoạt động đăng ký kinh doanh, thời điểm doanh nghiệp đ−ợc cấp đăng ký kinh doanh cũng là thời điểm doanh nghiệp đ−ợc thành lập và hoạt động. Đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì Luật Doanh nghiệp ch−a quy định một cách cụ thể, chi tiết thủ tục, trình tự trong việc xin phép thành lập 43 doanh nghiệp, xin cấp giấy phép kinh doanh đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện đó khiến cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, v−ớng mắc. Theo quy định tại Nghị định 144, các tổ chức muốn hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán thì phải đ−ợc UBCKNN cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán. Theo quy định tại Điều 6 Quy chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 55/2004/QĐ-BTC ngày 17/6/2004 của Bộ tr−ởng Bộ Tài chính, sau khi đ−ợc Uỷ ban Chứng khoán Nhà n−ớc chấp thuận về mặt nguyên tắc việc cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán, công ty chứng khoán xin phép kinh doanh chứng khoán phải tiến hành đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Sau khi đã hoàn thành thủ tục đăng ký kinh doanh, Uỷ ban Chứng khoán Nhà n−ớc sẽ chính thức cấp giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán. Khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 1999 quy định: "Doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh kể từ ngày đ−ợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp đ−ợc quyền kinh doanh các ngành, nghề đó kể từ ngày đ−ợc cơ quan nhà n−ớc có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định". Nh− vậy theo quy định của Luật Doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ tiến hành đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp rồi sau đó mới tiến hành xin phép kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Hiện nay theo quy định tại một số văn bản quy phạm pháp luật nh− Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật các tổ chức tín dụng thì với các ngành nghề kinh doanh bảo hiểm, hoạt động ngân hàng,v.v. thì cơ quan chủ quản có quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với các doanh nghiệp xin cấp phép. Giấy phép thành lập và hoạt động đó đồng thời là giấy phép kinh doanh. Nh− vậy, theo quy định này, việc thành lập và đăng ký hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và hoạt động tín dụng không còn phải tiến hành theo hai b−ớc nh− Luật Doanh nghiệp quy định (b−ớc đăng ký kinh doanh và b−ớc xin cấp giấy phép hoạt động). Giấy phép hoạt động ngành nghề kinh doanh có điều kiện (một loại giấy phép con) theo đó đ−ợc loại bỏ đã giảm bớt 44 đ−ợc gánh nặng cho các doanh nghiệp. Theo chúng tôi, với quy định nh− trên chúng ta đã đạt đ−ợc một b−ớc cải tiến mới, tạo cơ chế thông thoáng trong thủ tục cấp giấy phép thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện. Với vai trò là luật chuyên ngành trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, Luật Chứng khoán phải đảm bảo xây dựng đ−ợc cơ chế thông thoáng trong thủ tục cấp giấy phép thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán. Việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp này phải tuân theo quy định của Luật Chứng khoán, theo đó Luật cần phải quy định rõ thẩm quyền của UBCKNN trong việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán, giấy phép này sẽ đồng thời là giấy đăng ký kinh doanh. Vấn đề quản trị doanh nghiệp và thông lệ quốc tế Qua nghiên cứu có thể thấy rằng các quy định về quản trị công ty trong Luật Doanh nghiệp có nhiều điểm không phù hợp với quản trị các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK nói riêng và với các thông lệ tốt nhất trong quản trị công ty nói chung. - Về Chủ tịch Hội đồng quản trị: Tại Điều 85, Khoản 1 Luật Doanh nghiệp quy định cho phép cùng một ng−ời lại có thể cùng đảm nhiệm chức vụ Tổng giám đốc điều hành và Chủ tịch Hội đồng quản trị. Thực tế đây là một thông lệ rất phổ biến tại Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề quản trị công ty mà Luật Doanh nghiệp đ−a ra là ch−a hoàn toàn phù hợp, không tách bạch rõ ràng trong tổ chức, quản lý công ty, gây ra tình trạng tập quyền, không đạt đ−ợc hiệu quả quản lý, kinh doanh. Theo H−ớng dẫn về thông lệ tốt nhất trong quản trị công ty tại Việt Nam thì các vị trí này cần do những ng−ời khác nhau nắm giữ. Trên cơ sở những khuyến nghị về thông lệ quốc tế trong quản trị công ty, ngày 19/11/2002 Bộ tr−ởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 07/2002/QĐ-VPCP về việc ban hành Mẫu Điều lệ áp dụng cho các công ty niêm yết (Điều lệ mẫu). Khoản 1, Điều 21 Điều lệ mẫu quy định: "... Trừ khi Đại hội đồng cổ đông quyết định khác, chủ tịch Hội đồng quản trị sẽ 45 không kiêm chức Tổng giám đốc điều hành công ty. Nếu các cổ đông chấp thuận rằng Chủ tịch có thể đồng thời là Tổng giám đốc điều hành, quyết định này cần phải đ−ợc khẳng định lại hàng năm vào kỳ Đại hội đồng cổ đông th−ờng niên." Theo chúng tôi, để thống nhất mặt bằng pháp lý về quản trị công ty thì nội dung này cần đ−ợc bổ sung vào Luật Doanh nghiệp. - Về quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát: Luật Doanh nghiệp hiện hành mới chỉ quy định chung nhất về việc thành lập, quyền hạn và trách nhiệm của Ban kiểm soát. Luật quy định việc thành lập Ban kiểm soát do Đại hội cổ đông quyết định, tuy nhiên, Luật ch−a đề cập đến quyền của các cổ đông trong việc lựa chọn và đề cử thành viên Ban kiểm soát. Nội dung này đã đ−ợc quy định khá chi tiết tại Điều 31.2 Điều lệ mẫu "mỗi cổ đông nắm giữ trên 10% cổ phần có quyền biểu quyết trong thời gian 6 tháng liên tiếp trở lên có quyền đề cử một ứng viên vào Ban kiểm soát" và "những cổ đông nắm giữ ít hơn 10% cổ phần có quyền biểu quyết trong khoảng thời gian 6 tháng liên tục trở lên thì có thể triệu tập phiếu bầu với nhau để đề cử các ứng viên vào Ban kiểm soát. Nếu tỷ lệ sở hữu cổ phần có quyền biểu quyết của họ nằm trong khoảng từ 10% đến d−ới 30% thì họ đ−ợc phép đề cử 01 ng−ời; nếu từ 30% đến d−ới 50% họ đ−ợc đề cử 02 ng−ời; từ 50% đến d−ới 70% đ−ợc đề cử 03 ng−ời và trên 70% đ−ợc đề cử 04 ng−ời". Trên cơ sở đó Đại hội đồng cổ đông sẽ lựa chọn và bầu ra thành viên Ban Kiểm soát. Quy định này tạo cơ chế công bằng, minh bạch trong việc bầu ra các đại diện quản lý, giám sát công ty. Theo quy định của Điều lệ mẫu thì Ban kiểm soát của công ty niêm yết có quyền hạn và trách nhiệm theo quy định tại Điều 88.2 Luật Doanh nghiệp và Điều lệ mẫu. Chúng tôi cho rằng việc cả Luật Doanh nghiệp và Điều lệ mẫu đều quy định Ban kiểm soát phải tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị tr−ớc khi trình các báo cáo, kết luận, kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông (Điều 88.2.c) là không cần thiết làm hạn chế quyền chủ động của Ban kiểm soát; thậm chí Ban kiểm soát có thể bị chi phối bởi các ý kiến trái ng−ợc của các thành viên Hội đồng quản trị. - Vai trò của th− ký công ty: Vai trò của một th− ký công ty rất quan trọng trong quản trị công ty. Th− ký công ty chịu trách nhiệm đảm bảo các thủ tục hoạt động của Hội đồng quản trị và các Đại hội cổ đông đ−ợc tuân thủ nghiêm 46 túc. Tại một số n−ớc, chẳng hạn nh− Anh quốc và Hồng Kông quy định cụ thể về vai trò, nhiệm vụ của th− ký công ty và một th− ký của công ty đại chúng cần phải có những bằng cấp đặc biệt. Tại Điều 27, Điều lệ mẫu đã quy định t−ơng đối cụ thể về việc bổ nhiệm, vai trò và nhiệm vụ của Th− ký công ty đặc biệt là trong việc tổ chức, t− vấn về thủ tục các cuộc họp của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Đại hội đồng cổ đông. Tuy nhiên, vai trò của vị trí này trong Luật Doanh nghiệp còn rất mờ nhạt, ch−a đ−ợc quy định chi tiết và cụ thể. Để tạo ra một mô hình quản trị công ty hoạt động phát huy tối đa đ−ợc hiệu quả thì việc bổ sung vào Luật Doanh nghiệp nội dung này là cần thiết. - Phân bổ lợi nhuận: Điều 67 Luật Doanh nghiệp mới chỉ quy mang tính nguyên tắc công ty

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf46991.pdf
Tài liệu liên quan