Tài liệu Luận văn Chính sách tiền tệ: Chính sách lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở trong hệ thống chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay: Luận Văn 
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ 
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH 
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
 MỤC LỤC 
Lời nói đầu........................................................................................................ 1 
Phần I: Chính sách tiền tệ quốc gia ................................................................ 5 
I. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. .................................................... 5 
1. Quan điểm về chính sách tiền tệ quốc gia............................................... 5 
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ............................................................... 7 
II. Các công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia: ............................................10 
1. Cơ chế tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đến các biến số 
kinh tế vĩ mô. ............................................................................................11 
2. Các công cụ của chính sách tiền tệ. ........
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
41 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Chính sách tiền tệ: Chính sách lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở trong hệ thống chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn 
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ 
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH 
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
 MỤC LỤC 
Lời nói đầu........................................................................................................ 1 
Phần I: Chính sách tiền tệ quốc gia ................................................................ 5 
I. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. .................................................... 5 
1. Quan điểm về chính sách tiền tệ quốc gia............................................... 5 
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ............................................................... 7 
II. Các công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia: ............................................10 
1. Cơ chế tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đến các biến số 
kinh tế vĩ mô. ............................................................................................11 
2. Các công cụ của chính sách tiền tệ. .......................................................15 
Phần II. Chính sách lãi suất và hoạt động của thị trường mở ở Việt Nam 
thời gian qua ...................................................................................................19 
I. Điều hành chính sách lãi suất của NHNN thời gian qua. ............................19 
1. Cơ chế điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam. .................................19 
2. Kết quả của việc điều hành chính sách tiền tệ thông qua chính sách 
lãi suất, hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp. .......................................25 
II. Nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam. ......................................................30 
1. Thực tiễn hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở trong thời gian qua...30 
2. Khắc phục hạn chế của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở để nâng 
cao hiệu quả tác động của nghiệp vụ thị trường mở của chính sách tiền 
tệ. ..............................................................................................................33 
Kết luận ...........................................................................................................38 
Tài liệu tham khảo ..........................................................................................39 
ĐỀ TÀI 
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ 
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH 
SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
LỜI NÓI ĐẦU 
Nền kinh tế thế giới đang bước vào thế kỷ 21 thế kỷ của hội nhập, 
toàn cầu hoá và sự phát triển to lớn của kinh tế toàn cầu. Bất cứ một nền 
kinh tế quốc gia nào cũng đều không nằm ngoài xu thế kinh tế tất yếu đó. 
Đối với Việt Nam cũng vậy xu thế hội nhâpạ, phát triển là con đường duy 
nhất và có ý nghĩa quyết định trong công cuộc xây dựng CNXH và đi lên 
CNCS nếu không muốn bị tụt hậu và suy vong. Để bắt kịp xu thế của thời 
đại và chủ động hoà nhập để có những bước phát triển vững chắc về kinh tế 
đòi hỏi chúng ta phải có đường lối, chiến lược vững chắc và có những chính 
sách kinh tế vĩ mô thật sự có hiệu quả. 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định đường lối phát 
triển kinh tế là : “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền 
kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên 
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp 
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh 
thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh, 
có hiệu quả bền vững …”. Nền kinh tế thế giới với xu thế phát triển đi lên 
vượt bậc đã đem lại nhiều cơ hội cho đất nước ta đi lên vượt bậc đã đem lại 
nhiều cơ hội cho đất nước ta đi lên đuổi kịp các nước phát triển, đồng thời 
nó cũng luôn diễn biến phức tạp, thăng trầm tạo ra nhiều thách thức to lớn 
đối với đất nước. Để xây dựng được một nền kinh tế phát triển mạnh và ổn 
định đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách kinh tế đúng đắn, có hiệu 
quả, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. 
Nằm trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ quốc 
gia đóng một vai trò rất quan trọng mang tính chất quyết định đối với sự 
phát triển và ổn định của nền kinh tế. 
Để có được một chính sách tiền tệ đúng đắn thực sự có tác dụng tích 
cực, hiệu quả trong việc điều tiết nền kinh tế đói hỏi chúng ta phải nghiên 
cứu thật kỹ, đầy đủ, chính xác tình hình thực tiễn của đất nước để có thể đề 
ra được chính sách tiền tệ thích hợp và thực hiện tốt, có hiệu quả. 
Thực tế qua nhiều năm việc điều hành chính sách tiền tệ đã thực sự 
đem lại hiệu quả kinh tế tích cực to lớn cho nền kinh tế, tuy nhiên nó cũng 
còn có nhiều hạn chế và bất cập đòi hỏi tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, sáng 
tạo để có một chính sách tiền tệ hoàn thiện với hiệu quả cao nhất. 
Với vai trò quan trọng như trên của chính sách tiền tệ, thì việc nghiên 
cứu chính sách tiền tệ là hết sức cần thiết, đặc biệt đối với những sinh viên 
kinh tế, để nâng cao tầm hiểu biết của mình về các vấn đền kinh tế. 
PHẦN I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA 
I. MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA. 
1. Quan điểm về chính sách tiền tệ quốc gia. 
Đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, muốn cho đất nước phát 
triển đi lên, ổn định …. đều phải hoạch định đề ra và thực hiện các chính 
sách ở tầm vĩ mô. Mỗi một lĩnh vực: kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá … 
tồn tại một hệ thống chính sách để định hướng và vạch ra những đường lối 
chiến lược để phát triển lĩnh vực đó. Cũng như các lĩnh vực khác, kinh tế là 
một phần rất quan trọng đóng góp vào sự ổn định phát triển phồn vinh của 
một đất nước. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội (đang ở trong thời kỳ quá độ) 
thì việc xây dựng một nền kinh tế phát triển, phồn vinh, hiện đại, ổn định, có 
mức tăng trưởng cao, đời sống vật chất của nhân dân ở mức cao … là một 
đòi hỏi tất yếu mục tiêu quan trọng và là một vấn đề bức xúc hiện nay ở 
nước ta. 
Sau 15 năm đổi mới, từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế 
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nền kinh tế 
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn đáng kể. Những thành tựu này 
ngoài sự nổ lực to lớn của toàn dân cả nước thì việc hoạch định thực thi các 
chính sách kinh tế vĩ mô cũng có vai trò rất quan trọng đối với những thành 
tựu vượt bậc này. trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô thì chính sách tiền 
tệ quốc gia là một trong những chính sách trọng yếu góp phần quan trọng 
trong việc điều chỉnh nền kinh tế quốc dân tăng trưởng liên tục ở mức cao và 
tương đối ổn định. Vậy chính sách tiền tệ quốc gia được hiểu như thế nào? 
Nói chung, chính sách tiền tệ quốc gia là một chính sách vĩ mô của 
Nhà nước giao cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhằm một mục tiêu 
chung là tăng trưởng và ổn định nền kinh tế. Theo điều 2 của luật Ngân hàng 
Nhà nước Việt Nam thì: “chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách 
kinh tế tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm 
phát góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an 
ninh và nâng cao đời sống nhân dân”. 
Với chính sách này, Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động của 
Ngân hàng, động viên các nguồn lực trong nước, đồng thời tranh thủ các 
nguồn lực bên ngoài, tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó giữ 
vững định hướng XHCN, giữ vững chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác và 
hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xí nghiệp, góp phần 
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Chính sách tiền tệ là một chính sách nằm trong hệ thống chính sách vĩ 
mô nói chung, nó thống nhất và có quan hệ chặt chẽ với các chính sách vĩ 
mô khác về mặt quản lý thực hiện, tác động và đều nhàm mục tiêu chung là 
tăng trưởng ổn định để đi đến phát triển. 
Do vậy khi nghiên cứu chính sách tiền tệ quốc gia luôn phải đặt nó 
trong sự thống nhất với hệ thống chính sách vĩ mô khác và luôn liên hệ với 
các chính sách khác về việc thực hiện và mục tiêu chung. 
Khi nói đến chính sách tiền tệ quốc gia ta phải hiểu chính sách này 
được Nhà nước giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực thi chính sách 
này thay mặt Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nắm trong tay các 
công cụ tiền tệ sẽ thay mặt Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ nhằm các 
mục tiêu màNhà nước đã định hướng. 
Trong phạm vi bài nghiên cứu này tập trung vào việc nghiên cứu việc 
thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bằng các công 
cụ tiền tệ có trong tay của mình. 
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. 
Như định nghĩa của chính sách tiền tệ trong luật Ngân hàng Nhà nước 
Việt Nam đã chỉ ra ta thấy mục tiêu của chính sách tiền tệ là: “ổn định giá 
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, 
đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”. Qua định 
nghĩa này ta thấy được các mục tiêu cụ thể của chính sách tiền tệ như sau: 
a. Ổn định tiền tệ: 
Chính sách tiền tệ quốc gia phải đảm bảo sự ổn định tiền tệ trong 
nước, đồng tiền không bị mất giá một cách đột ngột, nghiêm trọng, kiểm 
soát được lượng tiền cung ứng để từ đó điều chỉnh lượng tiền cung ứng 
nhằm vào các mục tiêu khác. 
b. Ổn định giá cả: 
Lạm phát luôn là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường. Lạm 
phát làm cho mức giá cả chung tăng lên gây nên tình trạng bấp bênh của nền 
kinh tế, khi lạm phát ở mức cao thì việc lập kế hoạch trong tương lai khó 
khăn, việc ra các quyết định kinh tế rất khó khăn, chưa nhiều rủi ro, gây 
căng thẳng cho các quan hệ xã hội của đất nước… lạm phát có tác động rất 
sấu đến nền kinh tế khi nó ở mức cao. Vì thế một mục tiêu quan trọng của 
chính sách tiền tệ đó là kiềm chế lạm phát, giữ cho lạm phát ở mức thấp để 
có thể “kích thích” nền kinh tế tăng trưởng, tức là giữ cho mức giá chung ổn 
định và ở mức tăng nhẹ phù hợp với tình hình kinh tế hiện đại. 
c. Ổn định lãi suất: 
Lãi suất là biểu hiện quan trọng của sự cân đối giữa cung và cầu tiền 
tệ trong nền kinh tế. Khi cung và cầu tiền tệ (cầu hay cung trái phiếu) biến 
động sẽ làm cho mức lãi suất chung trong nền kinh tế thay đổi. Ta đã biết, 
lãi suất chính là chi phí cơ hội của việc giữ tiền, là chi phí của người đi vay, 
do đó khi lãi suất thay đổi sẽ làm cho chi phí cơ hội của việc giữ tiền thay 
đổi, chi phí của người vay biến động. Nếu sự biến động này lớn sẽ ảnh 
hưởng lớn đến các quyết định kinh tế (cho vay, đi vay, đầu tư, mua tài sản, 
tiêu dùng …) nền kinh tế không ổn định. Lãi suất còn tác động đến nhiều 
biến số kinh tế vĩ mô khác (tổng cầu, GDP…), do đó việc điều chỉnh cho lãi 
suất ở mức thích hợp, ổn định luôn là một mục tiêu quan trọng của chính 
sách tiền tệ quốc gia. 
d. Ổn định tỷ giá: 
Đối với nước ta hiện nay, nền kinh tế được mở cửa dần (từ 1986, khi 
thay đổi cơ chế kinh tế ), xu hướng giao lưu hội nhập kinh tế là tất yếu thì tỷ 
giá là một biến số rất quan trọng. Việc hội nhập kinh tế toàn cầu đã và đang 
đưa lại cho chúng ta nhiều cơ và thách thức lớn đối với việc tăng trưởng và 
phát triển kinh tế. tỷ giá có tác động đến kim ngạch xuất nhập khẩu, khả 
năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước đối với hàng hoá nước ngoài. Do 
vậy việc điều chỉnh chính sách tiền tệ với mục tiêu ổn định trên thị trường 
ngoại hối, ổn định tỷ giá ở mức độ sao cho có lợi nhất cho sự phát triển kinh 
tế đất nước để xu hướng hội nhập giao lưu với quốc tế thực sự có hiệu quả 
luôn là mục tiêu cần thiết và quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền 
tệ quốc gia nói riêng và các chính sách vĩ mô nói chung. 
e. Ổn định các thị trường tài chính: 
Thị trường tài chính là một thị trường hết sức quan trọng trong nền 
kinh tế quốc dân. thị trường tài chính ra các nguồn vốn để phát triển kinh tế. 
Khi thị trường tài chính không ổn định sẽ có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực 
(đầu tư, tiêu dùng, vốn, tăng trưởng…) và gây nên sự bất ổn cho nền kinh tế. 
Trong giai đoạn hiện nay, thị trường tài chính phát triển ở cấp độ cao, thị 
trường tài chính của mỗi quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường tài 
chính của các quốc gia khác và toàn thế giới. Sự biến động của thị trường tài 
chính quốc tế luôn tác động đến thị trường tài chính của mỗi quốc gia. Cuộc 
khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam Á đã lan ra cả khu vực 
rộng trên thế giới và nó cũng tác động sấu đến thị trường tài chính nước ta 
và nền kinh tế. (1997). 
Chính vì vậy, mục tiêu của chính sách tiền tệ còn là việc giữ ổn định 
thị trường tài chính. Mục tiêu này có quan hệ chặt chẽ với các mục tiêu 
khác như lãi suất, giá cả … 
f. Đảm bảo công ăn việc làm cao: 
Việc làm cao không những là một mục tiêu kinh tế mà còn là một mục 
tiêu xã hội đối với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác. Lao động 
là một nguồn lực quan trọng trong nền kinh tế xã hội. Công ăn việc làm càng 
cao tức là ta càng sử dụng được nhiều nguồn lực của xã hội, thu nhập của 
nền kinh tế tăng lên. Đặc biệt khi tỷ lệ làm việc cao tức là phần thất nghiệp 
giảm đi, những tệ nạn xã hội, tác động tiêu cực của thất nghiệp mang lại 
cũng giảm, đây là điều rất tốt cho mục tiêu xã hội. Đặc biệt, đối với nước ta 
chúng ta đang xây dựng XHCN để tiến lên CNCS thì việc đảm bảo làm sao 
cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, “ai cũng có cơm ăn 
áo mặc” là mục tiêu hàng đầu và lâu dài, nên công ăn việc làm đầy đủ góp 
phần thực hiện mục tiêu mang tính chất chiến lược trên. 
h. Tăng trưởng và phát triển kinh tế: 
Đây là mục tiêu chung, bao trùm lên các mục tiêu khác và là mục tiêu 
cốt lõi của chính sách kinh tế vĩ mô. Tất cả là làm sao cho nền kinh tế tăng 
trưởng nhanh, ổn định tránh được các cuộc khủng hoảng, suy thoái… từ đó 
để dần đưa nền kinh tế phát triển, góp phần xây dựng cơ sở vật chất cho 
CNXH. 
Ở đây ta cần quan tâm và phân biệt hai mục tiêu là tăng trưởng và 
phát triển. Mục tiêu tăng trưởng chỉ nói lên được phần lượng của phát triển, 
tăng trưởng phải đồng thời với ổn định nền kinh tế, nâng cao mức sống 
người dân, tỷ lệ thất nghiệp thấp, lạm phát được kiềm chế ở mức vừa phải… 
đó sẽ là mục tiêu phát triển. Chính sách tiền tệ quốc gia cần cân nhắc và 
hướng vào mục tiêu cốt lõi nhất là phát triển kinh tế. 
Các mục tiêu trên của chính sách tiền tệ có mối quan hệ chặt chẽ với 
nhau, chúng liên hệ bổ xung thúc đẩy nhau và cũng có khi tác động trái 
ngược nhau. Chẳng hạn lãi suất ổn định góp phần ổn định thị trường tài 
chính, việc làm cao thì tăng trưởng mạnh, tuy nhiên tăng trưởng mạnh có thể 
làm cho giá cả không ổn định tức lạm phát có thể cao. 
Chính vì vậy mà việc điều hành chính sách tiền tệ phải nhằm vào các 
mục tiêu cụ thể nào và luôn phải xem xét trên tất cả các mục tiêu khác để 
nhằm vào mục tiêu này mà không ảnh hưởng lớn và hạn chế đến mục tiêu 
khác và luôn phải hướng vào mục tiêu lâu dài cốt lõi. Luôn đặt chính sách 
tiền tệ đi liền và quan hệ chặt chẽ với chính sách vĩ mô khác để nhằm vào 
mục tiêu chung là phát triển nền kinh tế xã hội ở mức cao. 
II. CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA: 
Mục đích của chính sách tiền tệ là nhằm điều tiết lượng tiền lưu 
thông, sự điều tiết này thể hiện qua hai hướng: mở rộng tiền tệ và thắt chặt 
tiền tệ. Việc điều tiết lượng cung tiền như thế nào để cho nền kinh tế phát 
triển một cách nhịp nhàng luôn là vấn đề nan giải của các quốc gia, thiếu hay 
thừa tiền luôn có tác động tiêu cực của nó. Tuy nhiên trong thực tế điều hành 
chính sách tiền tệ tuỳ vào từng thời kỳ phát triển kinh tế, tuỳ voà hoàn cảnh 
cụ thể của nền kinh tế xã hội mà sử dụng chính sách thắt chặt hay mở rộng 
tiền tệ. Đây là vấn đề mang tính nhạy cảm của các nhà điều hành chính sách 
tiền tệ. 
Để làm được điều này Ngân hàng trung ương phải sử dụng hàng loạt 
các công cụ như: Dự trữ bắt buộc, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tái cấp vốn, 
nghiệp vụ thị trường mở. 
Trong phạm vi bài nghiên cứu này chỉ tập trung vào việc nghiên cứu 
hai công cụ chính đó là lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở. 
1. Cơ chế tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đến các biến 
số kinh tế vĩ mô. 
a. Cung cầu tiền tệ: 
* Mức cung tiền tệ là tổng số tiền có khả năng thanh toán. Mức cung 
tiền bao gồm: tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn tại 
các Ngân hàng thương mại. 
Mức cung tiền phụ thuộc vào các nhân tố sau: 
+ Lượng tiền cơ sở 
+ Tỷ lệ dự trữ của các Ngân hàng thương mại (phụ thuộc vào tỷ lệ dự 
trữ bắt buộc và tỷ lệ dự trữ dư thừa của các Ngân hàng thương mại) 
+ Tỷ lệ giữ tiền mặt của công chúng 
Ngân hàng Trung ương với các công cụ tiền tệ trong tay có thể tác 
động vào lượng tiền thông qua: 
+ Quản lý lượng tiền cơ sở (do NHTW nắm giữ quyền phát hành tiền) 
+ Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng thương mại 
(nó tác động đến số nhân tiền  tác động đến lượng tiền dự trữ và lượng 
tiền lưu thông NHTW sử dụng ba công cụ khác) 
1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc 
2. Lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu 
3. Nghiệp vụ thị trường 
* Cầu tiền là khối lượng tiền cần để chi tiêu thường xuyên, đều đặn 
cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân và kinh doanh sản xuất. 
Cầu tiền phụ thuộc: 
1. Thu nhập thực tế (tỷ lệ thuận) 
2. Lãi suất (tương quan nghich) 
* Cung và cầu tiền tệ cân bằng sẽ xác định mức lãi suất cân bằng và 
tổng lượng tiền cân bằng. 
Khi NHTW điều chỉnh các mức cung ứng tiền ở các mức độ khác 
nhau thì lãi suất danh nghĩa của nền kinh tế sẽ thay đổi. Khi lãi suất thay đổi 
sẽ tác động đếu tiêu dùng và đầu tư làm cho chúng thay đổi tiêu dùng và đầu 
tư là yếu tố của tổng cầu do đó tổng cầu thay đỏi làm GNP thay đổi. 
Ví dụ: Khi NHNN điều chỉnh tăng cung tiền  đường MS dịch phải 
làm lãi suất cân bằng giảm  giá trái phiếu tăng  giá trị hiện tại của thu 
nhập tương lại có giá hơn  tiêu dùng tăng lên ở mỗi mức thu nhập. 
MS i 
i0
MD 
M 
Điểm cân bằng thị trường tiền tệ 
Mặt khác: Lãi suất giảm  Chi phí cơ hội của việc giữ tiền giảm 
 Chi phí vay tiền giảm  
có nhiều dự án lớn được đầu tư 
Khi tiêu dùng tăng, đầu tư giảm  tổng cầu tăng  GDP giảm  giá 
tăng (lạm phát) 
Ngược lại: MS giảm  đường MS dịch phải  lãi suất tăng  tiêu 
dùng giảm, đầu tư tăng  tổng cầu giảm  giá giảm. 
b. Mô hình IS-LM 
* Đường IS là tập hợp các tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập 
phù hợp với sự cân bằng của thị trường hàng hoá. 
* Đường LM biểu thị những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu 
nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường tiền tệ. 
* Sự cân bằng của IS-LM 
 Điểm cân bằng của cả hai thị trường hàng hoá và tiền tệ i0 và Y0 là 
mức lãi suất và thu nhập cân bằng cả hai thị trường hàng hoá và tiền tệ. 
- Chính sách thị trường tác động đến MS làm cho LM dịch chuyển và 
thay đổi lãi suất và thu nhập của nền kinh tế. 
* Chính sách tiền tệ mở rộng. 
E0 
i 
i0
ML 
Y Y 
Khi NHTW điều chỉnh tăng lượng tiền MS làm đường LM dịch 
chuyển sang phải, thị trường cân bằng ở mức lãi suất mới i1,i0, thu nhập 
quốc dân Y1 > Y0. 
* Chính sách tiền tệ thu hẹp 
Khi NHNN điều chỉnh giảm lượng tiền lưu thông (nền kinh tế rơi vào 
tình trạng quá nóng) làm MS giảm, đường LM dịch trái làm điểm cân bằng 
mới của nền kinh tế ở điểm E1 với i1>i0, Y1 <Y0  lạm phát tăng,twang 
GDP 
i 
i0 
i1 
E0 
LM0 
LM1 
E1 
IS 
Y0 Y1 Y 
i 
i0 
i1 
E0 
LM0 
LM1 
E1 
IS 
Y0 Y1 Y 
2. Các công cụ của chính sách tiền tệ. 
Mức cung ứng tiền MS tỷ lệ thuận với số nhân tiền tệ. Khi tỷ lệ dự trữ 
bắt buộc hay giảm sẽ làm cho số nhân tiền giảm hay tăng từ đó tác động làm 
giảm hay tăng lượng cung ứng tiền MS. 
Chẳng hạn, khi nền kinh tế đang ở tình trạng quá nóng (mức tăng 
trưởng quá cao so với mức bình thường lạm phát cao …). Để giảm bớt tình 
trạng này NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, điều chỉnh giảm mức 
cung tiền. Chẳng hạn, NHNN dùng công cụ quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc. 
Lúc này NHNN sẽ quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng 
thương mại ở mức cao. Số nhân tiền tệ sẽ giảm xuống và mức cung tiền 
giảm đường LM dịch chuyển sang trái làm cho lãi suất tăng  tiêu dùng và 
đầu tư giảm  tổng cầu giảm  sản lượng giảm và giá cả giảm tức là tình 
trạng quá nóng của nền kinh tế đã được hạn chế. 
Tuy nhiên, trên thực tế thì công cụ này có nhiều hạn chế, đôi khi 
không đạt được hiệu quả như mong muốn bởi vì: Số nhân tiền tệ không chỉ 
phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc mà còn phụ thuộc vào hành vi của công 
chúng (giữ tiền hay gửi tiền) và hành vi của các Ngân hàng thương mại (dự 
trữ dư thừa). Chính vì thế mà hiệu quả của công cụ này rất hạn chế, nhiều 
lúc NHNN rất khó kiểm soát được số nhân tiền. Do đó công cụ quy định tỷ 
lệ dự trữ bắt buộc được sử dụng rất ít và dần được thay thế bằng các công 
cụ khác có hiệu quả hơn. 
b. Lãi suất chiết khấu – tái chiết khấu: 
 Là lãi suất NHTW quy định khi họ cho các Ngân hàng thương mại 
vay tiền để đảm bảo có đầy đủ hoặc tăng thêm dự trữ của các Ngân hàng 
thương mại. Khi lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thị trường và điều kiện 
cho vay thuận bởi sẽ là tín hiệu khuyến khích các Ngân hàng thương mại 
vay tiền để tăng dự trữ và mở rộng cho vay dẫn đến mức cung tiền sẽ tăng 
lên. 
Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất quy định của NHTW khi họ thực 
hiện cho các Ngân hàng thương mại vay tiền qua hình thức chiết khấu lại các 
thương phiếu của Ngân hàng thương mại đã chiết khấu cho khách hàng của 
họ. 
Vậy khi lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu thay đổi sẽ tác động đến 
dự trữ (của các Ngân hàng thương mại ) và quy mô cho vay của các Ngân 
hàng thương mại, từ đó tác động đến lượng cung ứng tiền MS và tác động 
đến các biến số kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Đây chính là cơ sở cho việc 
điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ lãi suất chiết khấu và tái chiết 
khấu cuả NHTW. 
Ví dụ: Khi nền kinh tế ở mức tăng trưởng chậm tình trạng thiếu phát 
triển … (nền kinh tế nguội lạnh) để kích thích sự tăng trưởng của nền kinh 
tế, NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng bằng việc điều chỉnh tăng 
cung tiền qua công cụ lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu. NHTW sẽ quy 
định mức lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu thấp hơn mức lãi suất huy 
động vốn của các Ngân hàng thương mại. Khi đó các Ngân hàng thương mại 
sẽ tích cực vay tiền của NHTW để mở rộng cho vay. Mức cung tiền MS tăng 
lên  đường LM dịch phải làm lãi suất giảm  đầu tư, tiêu dùng tăng  
tổng cầu tăng  thu nhập quốc dân tăng  giá tăng (thiểu phát được khắc 
phục) 
Công cụ này cũng khá quan trọng khi công cụ thị trường mở cửa phát 
triển. 
d. Hoạt động thị trường mở: 
Thị trường mở cửa là thị trường tiền tệ của NHTW được sử dụng để 
mua bán trái phiếu kho bạc của Nhà nước. 
Muốn tăng hay giảm mức cung tiền tệ, NHTW sẽ mua trái phiếu ở thị 
trường mở hay bán chúng. Kết quả là họ đã đưa thêm vào hay rút ra thị 
trường một lượng tiền cơ sở bằng cách tăng dự trữ hay giảm của các NHTM, 
dẫn đến khả năng cho vay tăng hay giảm, tăng hay giảm mức tiền gửi nhờ số 
nhân tiền tệ. Kết quả cuối cùng là mức cung tiền tăng (hay giảm) gấp bội so 
với số tiền mua tín phiếu (hay bán ) của NHTW. 
Đây là một công cụ hết sức hữu hiệu đối với việc điều chỉnh mức 
cung tiền của NHTW. Nó đáp ứng một cách nhanh chóng, kịp thời và hoàn 
toàn mang lại tính chủ động cho NHTW khi học điều tiết nền kinh tế bằng 
cách điều chỉnh mức cung tiền. Công cụ này là công cụ rất quan trọng, nó 
được sử dụng rộng rãi và dần là công cụ chính đối với tất cả các NHTW của 
các quốc gia trên thế giới khi thực hiện điều tiết nền kinh tế thông qua mức 
cung tiền. 
e. Lãi suất: 
Là công cụ mang tính chất trực tiếp của NHTW khi họ điều tiết nền 
kinh tế. Nó được thể hiện qua việc NHTW quy định trực tiếp đối với lãi suất 
của nền kinh tế thông qua sàn lãi suất, trần lãi suất, lãi suất cơ bản và biên 
độ cho phép. Từ lãi suất này mà các Ngân hàng thương mại quy định lãi 
suất tín dụng cụ thể của mình. 
Ta đã biết, lãi suất có tác động đến tiêu dùng và đầu tư do đó nó tác 
động đến cầu. Tổng cầu thay đổi sẽ làm cho thu nhập quốc dân thay đổi và 
việc làm, lạm phát biến động. Khi NHTW quy định mức lãi suất chung (có 
thể là lãi suất cơ bản + biên độ dao động, sàn và trần lãi suất …) ở các mức 
độ khác nhau thông qua các biến động trung gian sẽ làm thay đổi các biến số 
của nền kinh tế quốc dân tuỳ theo mục tiêu của sự điều chỉnh chính sách. 
Lãi suất là kết quả quả phả ánh cân bằng cung cầu trê thị trường tiền 
tệ. Tức là, khi trên thị trường tiền tệ mà cung hay cầu tiền tệ thay đổi sẽ làm 
Cửa Ông thị trường tiền tệ cân bằng ở các mức độ khác nhau, và lãi suất cân 
bằng phản ánh các mức cân bằng đó. 
 Việc NHTW sử dụng công cụ lãi suất, tức là quy định lãi suất một 
cách trực tiếp đôi khi không phản ánh được điểm cân bằng cung cầu trên thị 
trường, điều đó có tác dụng tiêu cực hình thành thị trường ngầm, hạn chế 
việc cho vay của các Ngân hàng thương mại làm ứ đọng vốn, kìm hãm lưu 
thông tiền tệ…. 
Chính vì thế, việc thay thế công cụ trực tiếp lãi suất bằng các công cụ 
gián tiếp của chính sách tiền tệ để lãi suất được tự do biến đổi phản ánh cung 
cầu tiền tệ, vốn là điều cần thiết và đúng đắn, cần thực hiện… 
f. Tỷ giá 
Tỷ giá là một chính sách quan trọng đối với một nền kinh tế mở. Tỷ 
giá phản ánh kết quả cân bằng của thị trường ngoại tệ, nó có ảnh hưởng đến 
kim ngạch xuất nhập khẩu của một quốc gia, khả năng cạnh tranh của hàng 
hoá nước này so với nước khác. Việc điều hành chính sách tỷ giá bằng việc 
quy định tỷ giá một cách cứng nhắc hay để cho tỷ giá được tự do biến động 
phản ánh cung cầu ngoại tệ là tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia và tuỳ vào thời kỳ 
và điều kiện cụ thể. Xu hướng chung của các quốc gia là để cho tỷ giá được 
biến đổi tự do phản ánh cung cầu ngoại tệ. Nhà nước chỉ điều hành tỷ giá 
thông qua việc tác động đến cung ngoại tệ. 
* Trên đây là 6 công cụ chính của chính sách tiền tệ, để điều hành 
chính sách tiền tệ được tốt và có hiệu quả cần có sự phối hợp giữa các công 
cụ và luôn kết hợp với các công chính sách vĩ mô khác. Trong 6 công cụ trên 
thì 3 công cụ thị trường mở, tỷ giá và lãi suất là các công cụ quan trọng nhất. 
Trong phạm vi bài vi bài cứu phần thực tế của chính sách tiền tệ chỉ 
tập chung vào 2 công cụ chính sách, đó là lãi suất và nghiệp vụ thị trường 
mở. 
PHẦN II. CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ HOẠT ĐỘNG 
CỦA THỊ TRƯỜNG MỞ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 
I. ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NHNN THỜI GIAN QUA. 
1. Cơ chế điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam. 
Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam có thể chia thành các 
giai đoạn sau: 
- Giai đoạn 1986-1990 
- Giai đoạn 1991-1995 
- Giai đoạn 1996-8/2000 
- Giai đoạn 8/2000-8/2000 
- Giai đoạn 8/2000 trở đi 
Đây là bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tiến tới 
tự do lãi suất do cơ chế lãi suất trước đây chưa có mức lãi suất nào đóng vai 
trò là lãi suất chủ đạo, định hướng cho các tổ chức tín dụng ấn định mức lãi 
suất kinh doanh. Từ trước 8/2000, cơ chế điều hành lãi suất là quy định mức 
trần lãi suất, nghĩa là giới hạn các Ngân hàng thương mại không được cho 
vay với lãi suất vượt quá mức này. Biện pháp đó nhằm bảo vệ cho người vay 
không bị ép bởi các Ngân hàng. Thí dụ đầu năm 2000 NHNN quy định mức 
lãi suất cho vay tối đa hiện hành là: 0,85%/tháng đối với cho vay nội tệ khu 
vực thành thị, 1,0%/tháng đối với các tổ chức kinh tế các mức lãi suất tiền 
gửi USD tối đa đối với các tổ chức kinh tế các mức lãi suất tiền gửi USD tối 
đa hiện hành là 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn 2,5%/năm đối với 
tiền gửi có kỳ hạn đến 6 tháng và 3%/năm, đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 6 
tháng. 
Tuy nhiên chính sách trần lãi suất chỉ thích hợp trong trường hợp: 
- Nhu cầu tín dụng lớn hơn cung tín dụng 
- Ngân hàng hoạt động trong một môi trường độc quyền . 
Trong điều kiện như thế, Ngân hàng luôn cho vay với mức lãi suất tối 
đa, không quan tâm đến việc tiết kiệm chi phí hay thái độ phục vụ. Thế 
nhưng, tình hình 1999 (nhất là các tháng cuối năm 1999) điều kiện thị 
trường tín dụng đã thay đổi. Nhu cầu vay thu hẹp lại, các Ngân hàng thương 
mại đọng vốn không cho vay ra được, tính thiếu ổn định ở người vay đã xuất 
hiện nhiều hơn theo quy luật thị trường, đặc biệt là có sự cạnh tranh của các 
nước trong khu vực. Tình trạng khách hàng vay vốn giảm đi, nhưng các tổ 
chức tín dụng lại gia tăng về số lượng dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa 
các tổ chức tín dụng. Tính quyết liệt càng trở nên gay gắt hơn khi mà điều 
kiện thị trường tiền tệ còn chưa phong phú, các dịch vụ khác còn đơn sơ, lợi 
nhuận Ngân hàng hầu hết là từ hoạt động cho vay mang lại, nên việc tranh 
giành thị trường sảy ra chỉ còn bằng cách hạ lãi suất. 
- Việc cạnh tranh hạ lãi suất đưa đến hiện tượng nghịch lý, doanh số 
lớn, rủi ro cao nhưng tỷ suất lợi nhuận lại nhỏ, thay vì rủi ro cao thì lợi 
nhuận cao. 
- Việc cạnh tranh hạ lãi suất giành giật khách hàng đưa đến một sự vội 
vã trong kiểm tra các điều kiện vay vốn, thậm chí bỏ qua cả các yếu tố pháp 
nhân của doanh nghiệp (như cho các chi nhánh, các Công ty phụ thuộc vay 
khi chưa có sự đồng ý cua Công ty mẹ …) 
- Việc cạnh tranh lãi suất đưa đến tình trạng khách hàng chạy vòng 
quanh các Ngân hàng vay Ngân hàng để trả nợ Ngân hàng khác làm mất tính 
ổn định, đưa đến Ngân hàng không đủ thời gian và điều kiện để kiểm soát 
khách hàng, bởi vì khách hàng chỉ dừng lại ở một Ngân hàng với thời gian 
khá ngắn. 
- Việc cạnh tranh còn đưa đến tình trạng cho vay không còn quan tâm 
đến tính thời vụ, tính chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp… 
- Việc cạnh tranh hạ lãi suất như vậy làm Ngân hàng bị thiệt hại. Lợi 
nhuận ít không đủ lập quỹ dự phòng cho rủi ro trong hoạt động kinh tế, lợi 
nhuận ít không đủ tích luỹ để đổi mới lại hệ thống trang thiết bị để theo kịp 
các Ngân hàng Nhà nước trong khu vưCông ty nói chng và chi nhánh của họ 
đang hoạt động tại Việt Nam nói riêng. Thậm chí việc cạnh tranh đó còn làm 
cho không ít các Ngân hàng thương mại cổ phần có nguy cơ không còn khả 
năng hoạt động bởi không đủ bù đắp chi phí. 
Trước tình trạng như thế thì chính sách lãi suất điều hành bằng trần lãi 
suất xem ra không còn thích hợp lúc này không còn Ngân hàng nào áp dụng 
lãi suất tối đa để cho vay mà chỉ cố gắng tối thiểu lãi suất để giành khách 
hàng. 
Để phù hợp với thực thiễn và khức phục những bất cập của chính sách 
lãi suất điều hành bằng trần lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời thay 
đổi cơ chế điều hành chính sách lãi suất chuyển từ điều hành bằng trần lãi 
suất sang quy định lãi suất cơ bản đối với các loại tiền cho vay của các tổ 
chức tín dụng. Việc đối mới cơ chế điều hành lãi suất đã được quy định 
trong các văn bản pháp luật. 
Theo luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “Ngân hàng Nhà nước xác 
định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ” và “lãi suất cơ bản là 
lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng 
ấn định lãi suất kinh doanh ” 
Trong báo cáo của Chính phủ do thủ tưởng Phan Văn Khải trình bày 
tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá X – tháng 11/1999: 
“Ngân hàng cần sớm thay việc định lãi suất trần bằng việc áp dụng lãi 
suất cơ bản theo luật Ngân hàng đi đôi với sử dụng công cụ điều tiết lưu 
thông tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trường… giải pháp cơ bản và lâu dài là 
đổi mới cơ chế lãi suất đồng thời đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm ăn có 
lãi, trả được nợ… “ 
Kể từ ngày 5/8/2000, theo quyết định số 241/QĐ/NHNN một của 
thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành 
trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng 
Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng 
ngoại tệ. Theo đó, đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam các tổ chức 
tín dụng sẽ ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ 
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay khong 
vượt quá mức lãi suất cơ bản và biên độ do thống đốc Ngân hàng Nhà nước 
quy định cho từng thời kỳ. Trong đó, lãi suất cơ bản được Ngân hàng Nhà 
nước công bố trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với 
khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo quy 
định của thống độc Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ, còn biên độ thì 
được công bố hàng tháng trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước 
sẽ công bố điều chỉnh kịp thời. 
Cơ chế điều hành lãi suất mới bằng lãi suất cơ bản như thế được hình 
thành trên cơ sở nguyên tắc thị trường nhưng với bước đi thích hợp, thận 
trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường tiền tệ, từng bước tiến tới 
tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá hoạt động tài chính trong nước, đồng thời với 
các biện pháp phát triển thị trường tiền tệ và nâng cao năng lực tài chính và 
năng lực điều hành của các tổ chức tín dụng, xử lý lãi suất VNĐ trong mối 
quan hệ với lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối. Cụ thể 
là: 
- Đối với lãi suất cho vay bằng VNĐ: Ngân hàng Nhà nước bỏ việc 
quy định trần lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, 
chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản với tỷ lệ % biên độ trên, 
dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường của các 
Ngân hàng thương mại áp dụng đối với khách hàng vay có uy tín trong việc 
sử dụng vốn vay, trả nợ, có rủi ro thấp. Lãi suất cho vay và huy động của tổ 
chức tín dụng gắn với lãi suất cơ bản. Theo đó, lãi suất cho vay của tổ chức 
tín dụng cao nhất = lãi suất cơ bản + tỷ lệ %. Thí dụ: Tại thời điểm tháng 
8/2000: 
- Lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng 
- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,3%/tháng. 
- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay trung hạn, dài hạn là 
0,5%/tháng. 
Với lãi suất cơ bản và biên độ như trên là phù hợp với mặt bằng lãi 
suất đã và đang được hình thành trên thị trường nông thôn và thành thị hiện 
nay, không tác động làm thay đổi lãi suất thị trường và không tạo ra tâm lý 
về việc Ngân hàng Nhà nước tăng trần lãi suất. 
- Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ: 
Cho vay bằng Đô la Mỹ: Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay Ngân 
hàng thương mại đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh hoạt, 
phù hợp với thị trường quốc tế nhưng vẫn có sự kiểm soát của Nhà nước, cụ 
thể là lãi suất cho vay ngắn hạn (từ 18 năm trở lên) không vượt quá mức 
SIBOR kỳ hạn 6 tháng +2,5%/năm. 
Cho vay bằng các loại ngoại tệ khác: Do chiếm tỷ lệ nhỏ trong hoạt 
động tiền gửi và tín dụng trên thị trường nên cho phép các Ngân hàng 
thương mại tự xem xét quyết định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các 
ngoại tệ này trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng 
của từng loại ngoại tệ ở trong nước. 
- Các Ngân hàng thương mại cung cấp thông tin tham khảo cho Ngân 
hàng Nhà nước về lãi suất bao gồm: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, 
Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt 
Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng 
thương mại cổ phần Á châu, Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, Ngân 
hàng ANZ, Ngân hàng HSBC và Ngân hàng VIDPUBLIC. 
 Các mục tiêu của chính sách lãi suất đang hướng tới. 
- Trong điều kiện kinh tế thị trường tiền tệ hiện nay, cơ chế lãi suất 
mới không làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường tạo điều kiện để tổ chức tín 
dụng huy động vốn ở trong và ngoài nước ở mức cao để đảm bảo vốn cho 
tăng trưởng tín dụng có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của chủ trương trích 
cầu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại cảu 
đồng Việt Nam. 
- Tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có 
thể thoả thuận để lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất có điều chỉnh linh 
hoạt, có lợi cho các bên khuyến khích tổ chức tín dụng mở rộng huy động và 
cho vay vốn trung và dài hạn. Riêng lãi suất cho vay bằng ngoại tệ tuy đã 
tiếp cận dần với thông lệ quốc tế nhưng sẽ thấp hơn mặt bằng thị trường 
quốc tế, phù hợp với cung cầu vốn ngoại tệ thị trường trong nước hiện nay, 
có lợi cho cả doanh nghiệp và Ngân hàng thương mại, tạo điều kiện Ngân 
hàng thương mại mở rộng cho vay vốn ngoại tệ hạn chế gửi vốn ngoại tệ ở 
nước ngoài. 
- Tạo khuôn khổ linh hoạt cho các tổ chức khi áp dụng lãi suất phù 
hợp với đặc điểm của từng vùng và mức độ rủi ro theo thời hạn cho vay và 
đối tượng khách hàng vay nhưng Ngân hàng thương mại vẫn kiểm soát được 
lãi suất để tránh việc các tổ chức tín dụng tăng lãi suất cho vay quá mức, ảnh 
hưởng đến đầu tư của nền kinh tế, thúc đẩy phân bổ vốn tín dụng linh hoạt 
giữa các lĩnh vực kinh tế, khu vực thành thị và nông thôn phù hợp với sự 
phát triển không đều của thị trường tài chính nước ta hiện nay. 
- Làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VNĐ tỷ giá lãi suất ngoại tệ linh 
hoạt hơn, phản ánh được chính xác hơn cung cầu vốn, ngoại tệ, tạo cơ sở 
cho Ngân hàng Nhà nước khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị 
trường. 
Đồng thời việc triển khai cơ chế lãi suất mới, Ngân hàng Nhà nước 
theo dõi chặt chẽ sự diễn biến của kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ khác 
đảm bảo cho sự vận hành cơ chế lãi suất mới phù hợp với mục tiêu đề ra. 
2. Kết quả của việc điều hành chính sách tiền tệ thông qua chính 
sách lãi suất, hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp. 
Trong thế giới 10 năm qua, việc sử dụng hệ thống công cụ điều tiết 
trực tiếp (hạn mức tín dụng, trần lãi suất, tỷ giá) nói chung và của chính sách 
lãi suất nói riêng, mặc dù những hạn chế của nó đã được biết trước, là phù 
hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam khi những điều kiện sử dụng công cụ 
gián tiếp chưa được hình thành. 
Thực tế, cơ chế điều chỉnh trực tiếp đã đem lại sự thành công đáng kể 
cho chính sách tiền tệ thập kỷ 90 khi nhìn vào các chỉ số phản ánh sự biến 
động của các mục tiêu vĩ mô, lạm phát, sản lượng, công ăn việc làm. chính 
sách tiền tệ đã đạt được hiệu quả tối đa của nó. tỷ lệ lạm phát dưới một chữ 
số cùng với tốc độ tăng trưởng bình quân là 8,6%/năm trong gần 10 năm. 
Điều này dường như trái với kết luận của các nhà kinh tế học hiện đại khi 
cho rằng, chính sách tiền tệ chỉ có thể ảnh hưởng đến các yếu tố thực của 
nền kinh tế như sản lượng hoặc công ăn việc làm trong thời gian ngắn từ một 
đến 10 năm. Về mặt dài hạn, các yếu tố này có xu hướng quay về mức tự 
nhiên của nó, do đó mọi sự thay đổi của khối lượng tiền cung ứng không gây 
nên những ảnh hưởng đến sản lượng và thất nghiệp ngoại trừ sự biến động 
về giá cả. 
Thực chất hiệu quả bền vững của chính sách tiền tệ trong thế giới qua 
không chỉ là kết quả của riêng chính sách tiền tệ, mà còn là kết quả của riêng 
chính sách tiền tệ, mà còn là kết quả của việc sử dụng các giải pháp của cách 
mạnh mẽ có khả năng mở rộng liên tục mức sản lượng tiềm năng, trong đó 
phải kể đến chính sách phát triển kinh tế đa phần, chính sách khoán đến hộ 
nông dân, chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước… 
Nếu quan niệm rằng mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là ổn 
định giá trị đồng tiền đối với ý nghĩa là ổn định tỷ lệ lạm phát mức thấp thì 
trong thời gian vừa qua, mực tiêu này chưa được thực hiện một cách hoàn 
hảo, tỷ lệ lạm phát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán từ năm nay 
qua năm khác. những tác động về hiệu quả và phân phối lại của lạm phát do 
ảnh hưởng đến giá trị thực của các chỉ tiêu giá trị không chỉ này sinh từ mức 
lạm phát cao mà chủ yếu từ sự bất ổn định của tỷ lệ lạm phát. Và điều quan 
trọng hơn là bắt đầu từ năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng 
liên tục nhưng giá cả có xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 
1996,1997,1998 và sự giảm giá này diễn ra hầu hết các tháng trong năm 
1999. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng giảm mạnh từ năm 1988. Điều này 
chứng tỏ chính sách tiền tệ của Ngân hàng thương mại tỏ ra lúng túng và 
thiếu chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng để đảm bảo nó phù 
hợp với nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế. 
Lý do chủ yếu dẫn đến tình trạng này có lẽ xuất phát từ hạn chế vốn 
có của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ mà càng 
bộc lộ rõ nét. 
Thứ nhất, các công cụ trực tiếp không cho phép Ngân hàng Nhà nước 
có thể điều chỉnh linh hoạt vốn khả dụng trong điều kiện vốn thừa. Tình 
trạng dự trữ không mong mốn ở Ngân hàng thương mại bắt đầu từ 1994 và 
kéo dài cho đến nay. Lý do ban đầu có lẽ bởi việc duy trì lãi suất tiền gửi cao 
cùng với việc khống chế trần tín dụng trong nhwnhx năm 1994-1996, bởi dự 
trữ ngoại tệ tăng lên rất mạnh trong thời gian naya và tỷ lệ tiền mặt trên tiền 
gửi có xu hướng giảm xuống (năm 1995 tỷ lệ này là 1,3, năm 1996:0,8, năm 
1997: 0,5). Tuy nhiên, lý do chủ yếu của tình trạng này từ 1997 đến nay lại 
nằm ở sự giảm sút tổng cầu của nền kinh tế, phản ánh sự giảm sút nhu cầu 
tiền tệ, đặc biệt là nhu cầu về dao dịch. Thực tế này làm cho các Ngân hàng 
thương mại phải chịu áp lực rất mạnh về chi phí vốn đồng thời làm giảm 
thiểu tính hiệu quả của chính sách tiền tệ. Ngoài dự trữ bắt buộc (thay đổi rất 
chậm chạp) Ngân hàng Nhà nước không có công cụ để hấp thụ lượng vốn 
khả dụng thừa một cách chủ động. Nhưng vì nhiều lý do, nó đã không tồn 
tại. 
Thứ hai, công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc 
điều chỉnh lượng tiềng cung ứng và do đó làm giảm hiệu lực của chính sách 
tiền tệ. Điều này được thể hiện rõ rệt trong hai năm (1998-1999)khi trần lãi 
suất giảm liên tục nhưng giá cả và sản lượng không tăng mà tiếp tục giảm. 
Đương nhiên, sự giảm sút này xuất phát chủ yếu từ các yếu tố thực của nền 
kinh tế chứ không hoàn toàn xuất phát từ yếu tố tiền tệ danh nghĩa. 
Những chính sách tiền tệ đã không chủ động khi đối mặt với tình 
trạng này và do đó làm cho sự tác động của chính sách tiền tệ trở nên kém 
hiệu quả. Thực tế các quyết định điều chỉnh trần lãi suất cho vay, tỷ lệ dự trữ 
bắt buộc thường đuổi theo sự giảm giá và đi sau sự điều chỉnh sự phát triển 
của thị trường bởi nó phải căn cứ vào dấu hiệu của thị trường thay cho việc 
phải tạo nên những dấu hiệu đó. Các đợt điều chỉnh trần lao động vì thế có 
tác dụng khẳng định hơn là hướng dẫn diễn biến thực tế và dự đoán của công 
chúng. Điều này làm triệt tiêu ảnh hưởng tích cực của chính sách tiền tệ. 
Thứ ba, hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không 
lợi dụng được các kênh dẫn truyền đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng 
và qua thị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu 
và giá ngoại tệ. 
Kênh truyền dẫn gián tiếp chủ yếu lợi dụng cơ chế tác động của thị 
trường tài chính thông qua sự thay đổi giá taì sản và cơ cấu lại danh mục đầu 
tư của người đầu tư. Với các công cụ gián tiếp, đặc biệt là nghiệp vụ thị 
trường mở, NHTW có thể đa phương truyền tác động của nó đến các mục 
tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ bao gồm các kênh dẫn truyền trực tiếp 
và gián tiếp. 
Kênh truyền dẫn trực tiếp. 
MS  chi tiêu   GDP danh nghĩa   GDP thực tế  
 Lạm phát  
Chính sách tín dụng Nhập khẩu  Tài khoản vãng lai bội 
chi 
Chính sách quản lý ngoại hối Xuất khẩu  VND giảm giá 
Kênh truyền dẫn gián tiếp 
MS Thay đổi danh mục đầu 
tư 
Lãi suất ngắn hạn Lượng mua 
 Tín phiếu   giá trái phiếu   mức sinh 
lời 
 Cổ phiếu   giá trái phiếu   mức sinh 
lời 
 Cổ phiếu   giá cổ phiếu   mức sinh 
lời 
Cơ cấu lại danh mục đầu tư 
Lãi suất hoặc tỷ lệ sinh lời  
Chi tiêu cho khu vực nhạy Chi tiêu cho các đồ dùng lâu 
bền 
cảm với lãi suất 
GDP danh nghĩa  
Nền kinh tế đang đứng trước thách thức của nhu cầu mở cửa và hội 
nhập toàn diện, một chính sách tiền tệ cứng nhắc và kém hiệu quả sẽ không 
đảm bảo cho nó tránh được những ảnh hưởng mạnh mẽ từ thị trường bên 
ngoài. Hơn nữa, sau hơn mười năm đổi mới và những cải cách mạnh hơn 
trong lĩnh vực Ngân hàng, những điều kiện cho phép sử dụng cơ chế điều 
chỉnh gián tiếp đang dần hình thành , hứa hẹn một khả năng chắc chắn cho 
sự chuyển đổi cơ chế điều hành lượng tiền cung ứng. 
II. NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ Ở VIỆT NAM. 
1. Thực tiễn hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở trong thời 
gian qua 
Năm 2000 đã đánh dấu nhiều chuyển biến tích cực trong lĩnh vực tài 
chính, Ngân hàng. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai loại thị trường đặc thù 
trong tổng thể thị trường tài chính là thị trường mở và thị trường chứng 
khoán đã chính thức hoạt động thị trường chứng khoán – kênh huy động vốn 
trung và dài hạn thông qua việc phát hành và mua bán chứng khoán đã khai 
trương vào ngày 20/7/2000. Nghiệp vụ thị trường mở (NHTW ) bắt đầu vận 
hành vào 12/7/2000 ghi nhận việc chuyển điều hành chính sách tiền tệ từ 
công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 
Có thể nói hai sự kiện nổi bật nhất trong điều hành chính sách tiền tệ năm 
2000 là thực hiện nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất cơ bản được công bố 
lần đầu vào 5/8/2000 cả hai công cụ này đều bước đầu phát huy được vai trò 
của mình đối với các mục tiêu của chính sách tiền tệ. NVTTM đã có tác 
dụng nhất định tới vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng tham gia thị 
trường, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng 
phối kết hợp giữa thị trường liên Ngân hàng – thị trường mở – thị trường 
chứng khoán trong các thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay. 
NVTTM của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là hoạt động hoàn toàn 
mới cả về lý luận và nội dung hoạt động đối với Việt Nam mà điều kiện vận 
hành và phát huy hiệu quả của nó không phải là dễ dàng. Quy chế hoạt động 
của NVTTM được ban hành theo quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 
9/3/2000 là phù hợp với thông lệ quốc tế. Qua hơn nửa năm hoạt động,ban 
điều hành NVTTM đã có chỉ đạo sát sao đối với hoạt động của thị trường, 
do đó góp phần khắc phục các khó khăn bước đầu trong thời gian vận hành. 
Thành viên tham gia NVTTM là các tổ chức tín dụng và Ngân hàng Nhà 
nước, bao gồm 20 thành viên (tính đến tháng 9/2001) một số lượng thành 
viên quá ít ỏi. Trong số 20 thành viên tham gia thị trường thì chủ yếu là 4 
Ngân hàng thương mại quốc doanh và trên thực tế các Ngân hàng thương 
mại quốc doanh nắm giữ tới 70% lượng tín dụng phiếu kho bạc, tín phiếu 
Ngân hàng Nhà nước (là hai loại hàng hoá chính thức được giao dịch trên thị 
trường mở hiện nay) 
Lượng hàng hoá quá ít ỏi. Hiện nay lượng hàng hoá trên thị trường chỉ 
có khoảng 4000 tỷ đồng giá trị trái phiếu chính phủ và 400 tỷ đồng giá trị tín 
phiếu Ngân hàng Nhà nước. 
Từ khi bắt đầu giao dịch đến 31/12/2000 cứ 10 ngày Ngân hàng Nhà 
nước tiến hành 1 phiên giao dịch trên thị trường mở. Trong tháng 8/2000 do 
lượng vốn khả dụng của hệ thống Ngân hàng là dư thừa nên Ngân hàng Nhà 
nước bán ra một lượng tín phiếu là 550 tỷ đồng (khối lượng trào bán trong 
tháng được mua hết toàn bộ với mức lãi suất từ 4%-5,35%). Từ tháng 9 đến 
cuối tháng 12/2000 do có sự hạn chế của Ngân hàng Nhà nước ở cửa sổ 
chiết khấu (có thể đây là hình thức hỗ trợ cho sự vận hành nghiệp vụ thị 
trường mở ra đời) và nhu cầu tín dụng VND tăng nhanh (vay ngoại tệ chịu 
rủi ro lớn vì tỷ giá chịu sức ép cao) trong khi huy động ngoại tệ tăng dẫn đến 
khan hiếm vốn khả dụng trong hệ thống Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã 
mau vào (sử dụng giao dịch đảo chiều) giấy tờ có giá trong 14 phiên liên tục 
với doanh số 1353,5tỷ. 
Từ 1/1/2001, Ngân hàng Nhà nước thực hiện giao dịch định kỳ 7 
ngày/lần từ đầu năm 2001 đến 15/2/2001 lượng vốn khả dụng tiếp tục thiếu 
do nhu cầu tiền mặt tăng (trong đó nguyên nhân đây là thời gian cuối năm 
âm lịch), Ngân hàng Nhà nước tiếp tục mua vào giấy tờ có giá, chủ yếu là 
mua kỳ hạn do tính đến yếu tố lượng vốn khả dụng có thể tăng lên sau dịp 
tết nguyên đán. 
Từ 21/2/2001 đến 14/3/2001, lượng vốn khả dụng có biểu hiện dư 
thừa, để rút bớt phương tiện thanh toán khỏi hệ thống Ngân hàng, Ngân 
hàng Nhà nước thực hiện bán hẳn lượng giấy tờ có giá với giá trị là 470 tỷ 
VND. Từ 21/3 đến cuối tháng 4/2001, do nhu cầu vốn khả dụng tăng, Ngân 
hàng Nhà nước tổ chức các phiên giao dịch trên thị trường mở vối mục tiêu 
cung ứng thêm phương tiện thanh toán cho hệ thống (có một phiên giao dịch 
ngày 11/4 do lỗi từ phía các tổ chức tín dụng bỏ thu không hợp lệ, nên 
không tổ chức nào trúng thầu, mặc dù vẫn có nhu cầu về vốn khả dụng). 
Như vậy, có thể thấy, Ngân hàng Nhà nước đã cố gắng thực hiện việc 
điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ gián tiếp. Nghiệp vụ thị trường 
mở đã được thực hiện tương đối linh hoạt đáp ứng được phần nào đó nhu 
cầu về vốn khả dụng cũng như giải quyết được một phần lượng vốn khả 
dụng cũng như giải quyết được một phần lượng vốn khả dụng dư thừa trong 
một số thời kỳ. Các công cụ và hình thức thực hiện cũng đã được áp dụng 
tương đối thành công như đấu thầu lãi suất, đấu thầu khối lượng xét khối 
lượng thầu theo phương pháp tính lãi suất riêng (Kiểu Mỹ). Tuy nhiên, do 
còn hạn chế cả về cơ sở vật chất trình độ cán bộ, sự đơn sơ của thị trường tài 
chính, sự bất cập trong vấn đề lượng thành viên tham gia thị trường cũng 
như khối giấy tờ có giá do các thành viên nắm giữ… nên tác động can thiệp 
của Ngân hàng Nhà nước thông qua nghiệp vụ thị trường mở vẫn còn hạn 
chế. Các tổ chức tín dụng chưa tham gia thường xuyên vào các phiên giao 
dịch cách nhau 10 ngày tạo ra khoảng cách khá buồn tẻ ở từng phiên chợ, 
hàng hoá giao dịch ở thị trường mở chỉ dừng lại ở giấy tờ có giá ngắn hạn và 
tập trung vào hai loại tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và tín phiếu kho bạc. 
Đây là khó khăn lớn nhất của nghiệp vụ thị trường mở hiện nay, các phiên 
đấu thầu lãi suất có tính cạnh tranh cao nên các Ngân hàng thương mại và tổ 
chức tín dụng nhỏ không đủ điều kiện tham gia tạo ra tình trạng chưa sôi 
động của thị trường, thị trường thứ cấp của thị trường mở (mua bán lại tín 
phiếu giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng của họ) chưa phát triển, các 
thị trường liên Ngân hàng chưa hoàn thiện gây ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ 
thị trường mở. Vì vậy những tác động và hiệu quả của nghiệp vụ thị trường 
mở tới chính sách tiền tệ chưa sâu rộng và thiết thực. 
2. Khắc phục hạn chế của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở để 
nâng cao hiệu quả tác động của nghiệp vụ thị trường mở của chính sách 
tiền tệ. 
Thực ra, những tồn tại của nghiệp vụ thị trường mở trong thời gian 
qua đã được dự báo trước khi nghiệp vụ thị trường mở bắt đầu hoạt động 
vào giữa năm 2000 khi mà các cơ sở kinh tế – kỹ thuật của nó chưa chín 
muồi. Vậy làm thế nào để khắc phục được những tồn tại đó? Dưới đây là 
một vài ý kiến mang tính chất tham khảo để khắc phục tồn tại của nghiệp vụ 
thị trường mở nước ta hiện nay. 
* Nghiệp vụ thị trường mở thực chất là hoạt động của Ngân hàng Nhà 
nước trên thị trường mở để tác động tới lượng tiền cung ứng trong từng thời 
kỳ. ở giai đoạn đầu, thành viên thị trường mở là các tổ chức tín dụng là phù 
hợp, tuy nhiên, các tổ chức này hiện nay chưa thực sự cần đến thị trường mở 
để điều tiết vốn khả dụng của mình và Ngân hàng Nhà nước cũng chưa có 
biện pháp thật sự có hiệu quả để chỉ huy nghiệp vụ này. Một trong các điều 
kiện tham gia thị trường mở là các thành viên phải có giấy tờ có giá để bán 
và chủ động đưọc vốn khả dụng của mình. Nhưng các tổ chức tín dụng chưa 
đầu tư nhiều vào giấy tờ có giá ngắn hạn do nhiều nguyên nhân, và thực ra 
họ vẫn chịu sự thiếu bình đẳng trong kinh doanh. Các Ngân hàng thương 
mại quốc doanh được vay theo chỉ định, nên có nhiều lợi thế trong giao dịch 
trên thị trường mở nhờ được vay với giá rẻ để mua giấy tờ có giá có lãi suất 
lợi hơn. Các Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh, quỹ tín 
dụng ít có được ưu thế này. Điều này không kích cầu tín dụng, tạo ra sự 
phân biệt đáng kể trên thị trường. Như thế, để cho các tổ chức tín dụng ngoài 
quốc doanh tham gia nghiệp vụ thị trường mở một cách thực sự thì Ngân 
hàng Nhà nước phải taọ cho họ một sân chơi bình đẳng, tức là giảm cho vay 
theo chỉ định, phân biệt rõ tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. 
Ngoài ra cần phải tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng cho các tổ chức tín 
dụng về nghiệp vụ này. 
* Tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở: Một trong những tồn tại 
ra sự đơn điệu của nghiệp vụ thị trường mở vừa qua là sự khan hiếm hàng 
hoá. Theo quy định hiện nay, chỉ những giấy tờ có giá như tín phiếu Ngân 
hàng Nhà nước, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có 
giá ngắn hạn khác được giao dịch ở thị trường. Quy định này ngay từ đầu đã 
làm giảm khả năng và phạm vi mua bán của các loại giấy tờ có giá khác trên 
thị trường như trái phiếu trung và dài hạn…. trên thị trường mở khi mà thời 
gian đáo hạn của chúng còn dưới 1 năm. Tuy không phải là nhiều nhưng các 
loại trái phiếu hiện có có thể giao dịch ở thị trường mở không phải là ít. 
Riêng tín phiếu kho bạc (thời hạn dưới một năm) và trái phiếu kho bạc (thời 
hạn 1năm) từ 6/1995 đến 9/2000 được đấu thầu là 15.282,8 tỷ đồng, trong 
đó 11.126,7 tỷ đồng là trái phiếu kho bạc và 4.156,1 tỷ đồng là tín phiếu. 
Nếu được phép giao dịch thì loại trái phiếu kho bạc này sẽ là một hàng hoá 
tốt cho thị trường mở. Ngoài ra, các loại trái phiếu Ngân hàng, trái phiếu 
Công ty… đã phát hành như trái phiếu Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt 
Nam, trái phiếu chính quyền địa phương nếu còn thời hạn dưới 1 năm cũng 
nên được chấp nhận ở thị trường mở. Việc sử dụng tín phiếu Ngân hàng Nhà 
nước chỉ là giải pháp trong thời kỳ đầu và không thể lạm dụng loại hàng hoá 
cần cho thị trường mở là thương phiếu thì cho tới nay chưa phổ biến, tuy 
nhiên, thương phiếu sẽ hiện hữu khi chưa phổ biến. Tuy nhiên, thương phiếu 
sẽ hiện hữu khi ngân phiếu thanh toán chấm dứt phát hành và lưu thông quá 
trình hội nhập quốc tế được đẩy mạnh sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp tìm 
kiếm các phương tiện lưu thông và thanh toán phù hợp. Việc phát hành tín 
phiếu kho bạc vẫn được tiến hành thường xuyên, vấn đề là tạo ra thị trường 
thứ cấp cho loại hàng hoá này. Rõ ràng là sự khan hiếm đồng thời về hàng 
hoá giữ thị trường mở và thị trường chứng khoán đã làm cho hai thị trường 
này không thể hiện đúng bản chất vốn có của nó. Tuy nhiên, nếu như nghiệp 
vụ thị trường mở được phép sử dụng các trái phiếu kho bạc đã phát hành khi 
chúng còn thời gian đáo hạn ngắn thì luân chuyển vốn sẽ đa dạng hơn. 
* Về phương thức giao dịch: Phương thức giao dịch phù hợp nhất với 
nghiệp vụ thị trường mở là mua bán có kỳ hạn, mà Ngân hàng Nhà nước là 
người chủ động quyết định mua bán với số lượng bao nhiêu, thời gian nào, 
theo phương thức nào tuy nhiên yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng 
thời kỳ. các hợp đồng mua lại thích hợp với điều kện khó dự báo vốn khả 
dụng, có thể can thiệp linh hoạt việc cung ứng vốn khả dụng khi thời hạn 
hợp đồng chấm dứt. Hợp đồng mua lại (mua bán có kỳ hạn) đòi hỏi trình độ, 
kiến thức cao của cả Ngân hàng Nhà nước và tổ chức tín dụng, mà điều này 
chưa chín muồi ở Việt Nam. Việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở dưới 
hình thức mua hẳn sẽ làm tăng tỷ lệ cung ứng tiền Ngân hàng Nhà nước qua 
quan hệ tín dụng, làm yếu khả năng điều tiết của Ngân hàng Nhà nước, gây 
biến động lớn tới thị giá chứng khoán theo chiều hướng không tốt khi mà thị 
trường chứng khoán Việt Nam còn rất nhỏ bé và yếu ớt. Nếu như Ngân 
hàng Nhà nước mua hẳn tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc thì lượng tiền 
tệ trong lưu thông sẽ thay đổi, khả năng tiền tệ hoá thâm hụt ngân sách sẽ 
sảy ra. Vì vậy, nghiệp vụ thị trường mở có tính linh hoạt cao trong thực tế sử 
dụng, mà phương thức mua bán hẳn chỉ phù hợp với giai đoạn đầu. Theo 
quy chế nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện đấu 
thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. Việc đấu thầu khối lượng xảy ra khi 
lãi suất cố định được tính toán và chỉ đạo , còn đáu thầu lãi suất sẽ xác định 
lãi suất trúng thầu tại điểm mà khối lượng tiền cần bơm vào hay rút ra khỏi 
lưu thông đạt được. Chính các nước lãi suất này sẽ quyết định giá của giấy 
tờ có giá trên thị trường. Để khuyến khích các tổ chức tín dụng tham gia 
nghiệp vụ thị trường mở, trong giai đoạn đầu, Ngân hàng Nhà nước cần kết 
hợp cả hai hình thức đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. 
* Hoàn thiện thị trường liên ngân hàng, thị trường mở và nghiệp vụ 
thị trường mở chỉ thực sự hữu hiệu trên cơ sở thị trường liên Ngân hàng phát 
triển. Trong lịch sử, thị trường liên Ngân hàng hoạt động trước khi thị 
trường mở hoạt động. Thị trường liên Ngân hàng chính là nơi xác định nhu 
cầu và khả năng vốn khả dụng của các Ngân hàng thương mại, nơi mà 
NHTW nắm bắt được một cách nhanh nhạy nhu cầu vốn của nền kinh tế qua 
các hoạt động của Ngân hàng thương mại để quyết định sử công cụ của 
chính sách tiền tệ thích hợp. Ở Việt Nam thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng 
có vai trò khá lớn trong luân chuyển vốn và ngoại tệ, xác định và điều 
chỉnh tỷ giá hối đoái. Song hiện nay, thị trường nội tệ liên Ngân hàng gần 
như đóng băng, điều này đã làm giảm đáng kể khả năng quản lý của Ngân 
hàng Nhà nước, cũng như sự phối kết hợp giữa các thị trường chứng khoán 
– thị trường mở, thị trường tiền tệ. Vì vậy việc hoàn thiện thị trường liên 
Ngân hàng phải được xem là cơ sở cho các hoạt động khác của Ngân hàng 
Nhà nước trong bối cảnh các thị trường tài chính đã thiết lập và di vào hoạt 
động , hệ thống Ngân hàng sẽ có sự cải cách mạnh mẽ, xu thế hội nhập quốc 
tế sẽ trở thành hiện thực ở Việt Nam. Hoàn thiện thị trường liên Ngân hàng 
nên là một mối quan tâm đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian 
tới. 
Tóm lai, nghiệp vụ thị trường mở đã hoạt động trong việc thực hiện 
chính sách tiền tệ ở Việt Nam là dấu hiệu đáng mừng, song để nghiệp vụ này 
thực sự có hiệu quả thì còn rất nhiều vấn đề to lớn đặt ra cũng như phải có 
thời gian để thực hiện. Thử thách đối với nghiệp vụ mới ngày nay là rất nặng 
nề mà chỉ có quyết tâm đồng bộ kiên quyết của Ngân hàng Nhà nước và các 
tổ chức tín dụng mới có thể giải quyết được. 
KẾT LUẬN 
Chính sách tiền tệ là một chính sách vĩ mô quan trọng trong việc điều 
hành nền kinh tế. với xu thế phát triển của nền kinh tế hội nhập, nền kinh tế 
thế giới còn tồn tại nhiều biến động bất ổn định (đặc biệt là trong lĩnh vực tài 
chính tiền tệ) thì việc có được một chính sách tiền tệ hoàn chỉnh thực sự có 
hiệu quả là một vấn đề hết sức cần thiết và cũng đầy khó khăn phức tạp đòi 
hỏi các nhà hoạch định và thực thi cần nghiên cứu thật kỹ điều kiện hoàn 
cảnh của đất nước, đánh giá hiệu quả, hạn chế của các công cụ chính sách 
tiền tệ để từ đó có sự lựa chọn và phối kết hợp giữa các công cụ và các chính 
sách khác sao cho có hiệu quả cao nhất. 
Điều kiện thực tế luôn biến đổi đòi hỏi phải có công cụ thích hợp cho 
từng giai đoạn, từng thời kỳ tuỳ điều kiện nền kinh tế để các công cụ phát 
huy hết hiệu quả cả nó. 
Chính sách lãi suất đã được sử dụng từ lâu và đã đem lại nhiều tác 
động tích cực to lớn đối với mục tiêu kinh tế, tuy nhiên nó cũng tồn tại nhiều 
bất cập cần được hạn chế và đổi mới. Xu thế của chính sách lãi suất là dần tự 
do hoá lãi suất cho phù hợp với quy luật thị trường và nó cần phải thực hiện 
dần dần từng bước. Không nên nóng vội mà thả nổi lãi suất theo sự biến 
động của thị trường. Chính sách lãi suất vẫn còn đóng vai trò rất quan trọng 
khi mà công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ còn chưa hoàn thiện. 
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ, 
nó mới được đưa vào sử dụng ở nước ta nhưng nó cũng đã thể hiện tính linh 
hoạt và ưu biệt vốn có của nó. Tuy nhiên nghiệp vụ thị trường mở còn rất 
nhiều bất cập cần nhanh chóng được khắc phục và hoàn thiện để phát huy ưu 
biệt của nó, dần đưa nghiệp vụ thị trường mở trở thành công cụ chính của 
chính sách tiền tệ. 
Để có một chính sách tiền tệ mềm dẻo, phải biến đổi linh hoạt và phù 
hợp với điều kiện cơ chế cần phải hoàn thiện nhiều cơ chế điều hành và có 
giải pháp hợp lý. Đây là vấn đề quan trong, cần thiết đòi hỏi không chỉ cả 
công sức của các nhà hoạch định chính sách mà cần có cả thời gian nữa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ IX 
2. Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính – frederic S.Mishkin 
3. Kinh tế vĩ mô - N. Gregory Mankiw 
4. Giáo trình kinh tế vĩ mô ĐHKTQD 
5. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 
6. Tạp chí Ngân hàng các số: 1+2/2000 
 Số : 8/2000 
 Số: 2/2001 
 Số: 6/2001 
 Số: 9/2001 
7. Tạp chí tài các số từ tháng 1-9/2001 
8. Thời báo Ngân hàng các số tháng 8+9+10/2001 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận Văn CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.pdf